[Funland] Ung thư phổi - Điều trị đích

Dan du an

Xe ba gác
Biển số
OF-94944
Ngày cấp bằng
11/5/11
Số km
20,152
Động cơ
400,605 Mã lực
Ông già em đã ổn định K phổi dù phát hiện giai đoạn muộn các cụ ạ. Truyền miễn dịch tháng 2 lọ chi phí tầm 70 triệu. Truyền đến 16 đợt thì khỏi nhưng lại bị tác dụng phụ của thuốc gây xơ phổi.
 

MrFank

Xe điện
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-598332
Ngày cấp bằng
9/11/18
Số km
2,331
Động cơ
215,916 Mã lực
Nơi ở
99 Bạch Mai, Hà Nội
Ông già em đã ổn định K phổi dù phát hiện giai đoạn muộn các cụ ạ. Truyền miễn dịch tháng 2 lọ chi phí tầm 70 triệu. Truyền đến 16 đợt thì khỏi nhưng lại bị tác dụng phụ của thuốc gây xơ phổi.
Vậy chúc mừng gia đình cụ, nhà e thì ko dc may mắn và điều kiện như thế, cụ nhà e ngoài 80, phát hiện lúc GĐ 4, thể trạng yếu nên ko hóa, xạ dc, xét nghiệm Đích cũng ko dc
 

Dan du an

Xe ba gác
Biển số
OF-94944
Ngày cấp bằng
11/5/11
Số km
20,152
Động cơ
400,605 Mã lực
Vậy chúc mừng gia đình cụ, nhà e thì ko dc may mắn và điều kiện như thế, cụ nhà e ngoài 80, phát hiện lúc GĐ 4, thể trạng yếu nên ko hóa, xạ dc, xét nghiệm Đích cũng ko dc
Dạ cụ nhà em mới 75 thôi và vẫn khoẻ. Cám ơn cụ, tuy nhiên đợt này nằm bẹp vì xơ phổi xong dính Covid phải thở máy dài, giờ chưa hồi phục được, vẫn gần như liệt
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 210: CÙNG CHUYÊN GIA BẬC THẦY BÀN VỀ XÉT NGHIỆM ĐỘT BIẾN GEN.


Với nhiều người trên hành trình này lâu năm, chắc hẳn đã nghe nhiều đến khái niệm ÂM TÍNH GIẢ trong xét nghiệm đột biến gen. Trong bài viết này, cùng cái nhìn của một Chuyên gia bậc thầy, chúng ta sẽ bàn cả đến khái niệm DƯƠNG TÍNH GIẢ ( kết quả xét nghiệm trả về dương tính, nhưng thực ra bệnh nhân KO HỀ CÓ gen đó!!! ) cũng như có một cái nhìn tổng quan sơ lược về xét nghiệm đột biến gen.


---------------


HỎI
: Ông có thể chia sẻ một chút về sinh thiết lỏng và vai trò của nó trong điều trị ung thư phổi hiện nay không?


TRẢ LỜI: Việt xét nghiệm đột biến gen có thể gặp khó khăn nếu lượng mô lấy ra từ thủ thuật sinh thiết là KO ĐỦ. Chưa kể đến việc sinh thiết là một thủ thuật xâm lấn, nó tiềm ẩn rủi ro cũng như KO thể thực hiện nhiều lần. Khi gặp khó với sinh thiết mô, sinh thiết lỏng ( lấy máu để xét nghiệm gen) sẽ được tính đến. Chúng ta đều biết rằng sinh thiết lỏng có những hạn chế, ví dụ như KO PHẢI TẤT CẢ CÁC KHỐI U UNG THƯ ĐỀU THẢI DNA VÔ MÁU, điều này dẫn đến kết quả âm tính giả là tương đối phổ biến. Khoảng 20% đến 30% trường hợp sẽ xảy ra việc đột biến gen bị bỏ sót. Bởi vậy, xét nghiệm gen chỉ nhằm cố gắng phản ánh tốt nhất bản chất thực sự của ung thư chứ nó ko hề mang tính KHẲNG ĐỊNH.


HỎI: Xin Ông cho biết một số thông tin cơ bản về những sai sót xảy ra khi thực hiện xét nghiệm gen bằng sinh thiết lỏng.

TRẢ LỜI: Theo thời gian, chúng ta càng hiểu rõ hơn về việc tại sao đôi khi xét nghiệm gen bằng sinh thiết lỏng và sinh thiết mô lại cho ra kết quả khác nhau.

+ Nguyên nhân phổ biến nhất được biết cho đến nay là KHÔNG có DNA khối u ở trong DNA huyết tương- Khối u có độ bong tróc DNA thấp đã dẫn đến kết quả âm tính giả.

+ Một nguyên nhân cũng thường được biết đến nữa là bởi chính bản thân kỹ thuật mà xét nghiệm gen đã sử dụng. Khi Kỹ thuật không được xây dựng ĐỦ TỐT, các biến thể phân tử phức tạp trong cùng một đột biến sẽ không thể tìm thấy. Ví dụ, khuếch đại gen RẤT KHÓ có thể tìm thấy trong huyết tương và thường bị bỏ sót nếu xét nghiệm gen bằng mẫu máu ( trừ khi hàm lượng khối u trong máu phải cao).


Bên cạnh âm tính giả thì kết quả DƯƠNG TÍNH GIẢ ngày càng phổ biến. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến dương tính giả.

+ Nguyên nhân thường được nhắc đến nhiều nhất là bởi bản chất KHÔNG ĐỒNG NHẤT của khối u. Khối u có nhiều hơn một khuôn mặt được chỉ ra trong kết quả xét nghiệm gen.

+ Một nguyên nhân khác cũng rất hay được nhắc đến đó là tạo máu vô tính, các đột biến bạch cầu thải vô huyết tương và được tìm thấy trong sinh thiết lỏng-chúng dường như là đột biến khối u nhưng thực chất chúng chỉ là những ĐỘT BIẾN LÀNH TÍNH đang lưu hành trong máu mà thôi.


Các kết quả âm tính giả và dương tính giả ĐỀU CÓ THỂ XẢY RA khi xét nghiệm đột biến gen và các Bác sĩ phải nhận thức rõ được điều này!!!



HỎI
: Tỷ lệ xảy ra âm tính giả cũng như dương tính giả có cao không?

TRẢ LỜI:

+ Nếu bạn hỏi 1 câu hỏi đơn giản với 1 kỹ thuật xét nghiệm gen đơn giản thì bạn sẽ chỉ nhận được 1 câu trả lời đơn giản =>> Nếu bạn chỉ xét nghiệm duy nhất gen EGFR thì kết quả dương tính giả là CỰC HIẾM, còn tỷ lệ âm tính giả xảy ra khoảng 30% bởi vì độ nhạy của kỹ thuật xét nghiệm này trong ung thư phổi đạt 70%.

+ Câu trả lời sẽ khác nếu bạn hỏi 1 câu hỏi phức tạp với 1 kỹ thuật xét nghiệm gen phức tạp=>> Nếu bạn xét nghiệm gen bằng kỹ thuật NGS thì trong thực tế, việc tìm thấy các đột biến trong huyết tương KHÔNG CÓ NGUỒN GỐC từ khối u là khá phổ biến. Việc này phổ biến đến mức nào? Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, hầu hết sinh thiết lỏng đều tìm thấy các đột biến ở mức độ thấp mà KHÔNG có nguồn gốc từ khối u. Điều mà các Bác sĩ cần làm là loại nhiễu thật tốt để xem xem bất kỳ đột biến nào được phát hiện liệu có nguồn gốc từ khối u hay không.



HỎI
: Vậy Trung Tâm Xét Nghiệm có thể thực hiện bất kỳ điều gì nhằm xác nhận tính chính xác của kết quả xét nghiệm gen có được từ sinh thiết lỏng không?

TRẢ LỜI: Tôi ủng hộ việc so sánh các kỹ thuật xét nghiệm gen với nhau. Những điều tôi nói từ đầu đến giờ đều là những bài học được đút rút ra từ việc so sánh nhiều kỹ thuật xét nghiệm gen ở trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tôi nghĩ các Trung Tâm cần phải làm tốt việc XÁC THỰC kết quả được trả về từ xét nghiệm.


Đơn cử như để loại nhiễu các đột biến bạch cầu ở trong huyết tương mà tôi đã nhắc đến ở trên thì KHÔNG CÓ CÁCH NÀO KHÁC ngoài cách giải trình tự kết đôi bạch cầu. Theo thời gian, các kỹ thuật xét nghiệm gen đang ngày càng giải trình tự bạch cầu CÙNG LÚC với huyết tương nhằm loại bỏ khả năng bị nhầm lẫn đột biến bạch cầu với đột biến khối u.


HỎI: Ông có thể nói qua về ý nghĩa của Nghiên cứu mới đây được công bố bởi Chuyên gia Stetson cùng các đồng nghiệp?

TRẢ LỜI: Bằng cách sử dụng huyết tương của bệnh nhân, Chuyên gia Stetson cùng các đồng nghiệp đã so sánh 3 loại xét nghiệm NGS khác nhau nhằm đánh giá độ tin cậy cũng như sự phù hợp của mỗi loại xét nghiệm. Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các xét nghiệm thường hoà hợp với nhau khi các biến thể phân tử được phát hiện ở tần suất trên 1%. Đối với những biến thể phân tử có tần suất dưới 1%, có một số xét nghiệm sẽ tìm ra, trong khi một số khác thì không! Ngoài ra ở khu vực tần suất thấp này, kết quả dương tính giả cũng như âm tính giả là có thể xảy ra. Bài học rút ra là CHÚNG TA CẦN HOÀI NGHI về các biến thể phân tử nếu chúng được tìm thấy ở tần suất thấp-điều này nhiều khi bị gây ra bởi lỗi của kỹ thuật xét nghiệm, do đó đã ảnh hưởng đến độ chính xác.



Nhóm Chuyên gia Stetson cũng chỉ ra có nhiều lý do dẫn đến việc trả về các kết quả khác nhau của các kỹ thuật xét nghiệm. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất được chỉ ra là do Bộ thuật toán Tin Sinh Học được sử dụng. Xét nghiệm giải trình tự bao gồm cả việc giải trình tự và cách diễn giải trình tự. Các xét nghiệm hoàn toàn có thể cải thiện hiệu suất thông qua việc kiểm tra kĩ càng Thuật Toán tin sinh học và tối ưu hoá chúng.








360_F_245415047_z4dFo2r4WZ5yqitIGgCZ2rJtP3hwJXK8.jpeg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 211: UNG THƯ PHỔI QUA GÓC NHÌN CỦA BÁC SĨ PHẪU THUẬT.


Nếu bạn hút thuốc từ khi bắt đầu sinh ra, vào thời điểm 25 tuổi bạn đã hút thuốc được tổng cộng 25 năm. Thời gian đó đủ để cho bạn nhận bản án ung thư phổi ở tuổi 25 hoặc 30. Tôi không hề ngạc nhiên với những gì tôi đang thấy bây giờ: ung thư phổi ở tuổi 20 hoặc 30!!!



Tôi là một bác sĩ phẫu thuật có thâm niên hành nghề ở thành phố New Delhi được 30 năm. Tôi đã thực hiện phẫu thuật phổi cho cả vạn người bệnh. Trong thời gian 30 năm đó, tôi đã thấy sự thay đổi trong màu sắc của 2 lá phổi ở người. Năm 1988, thời điểm tôi bắt đầu hành nghề tại Viện Khoa Học Y Khoa Ấn Độ AIIMS, hầu hết những lá phổi mà tôi quan sát thấy đều là màu hồng. Chỉ ở những người có tiền sử hút thuốc, tôi mới thấy có những đốm đen hoặc chất lắng đọng màu đen trong phổi.



Còn ngày nay, bất kể tuổi tác của bệnh nhân, tôi hiếm khi thấy một lá phổi màu hồng. Tôi không nhớ lần cuối cùng mình nhìn thấy một lá phổi màu hồng trong lúc phẫu thuật là khi nào. Nếu bệnh nhân là người trưởng thành, phổi của họ sẽ có đốm đen. Nếu bệnh nhân là thanh thiếu niên-những người thỉnh thoảng được tôi phẫu thuật, phổi của họ sẽ có chất lắng đọng màu đen-đó là biểu hiện của độc tố đang tích tụ. Dấu hiệu lâm sàng của những độc tố đó đang thể hiện ngày một rõ rệt qua những việc như trẻ em mắc hen suyễn, viêm phổi hay thậm chí là nhiễm trùng. Còn ở người lớn thì số ca mắc COPD đang gia tăng một cách trầm trọng. Tất cả đã dẫn đến 4 thay đổi đáng sợ trong ung thư phổi:

1.SỐ CA MẮC UNG THƯ PHỔI ĐANG NGÀY CÀNG TĂNG.

2.BỆNH NHÂN NGÀY CÀNG TRẺ HOÁ.


Bệnh nhân mắc ung thư phổi hiện nay đa số đều ở tuổi 50 hoặc 60 nhưng sẽ sớm thôi, chúng ta sẽ càng thấy nhiều hơn việc bệnh nhân mắc ung thư phổi ở tuổi 40, thậm chí 30. Xin tiết lộ, 10% số bệnh nhân ung thư phổi của tôi hiện nay đều đang ở độ tuổi 30. Gần đây tôi còn gặp một bệnh nhân ung thư phổi đang ở độ tuổi 28!!!

3.NHIỀU PHỤ NỮ MẮC UNG THƯ PHỔI HƠN.

Ngày xưa rất ít phụ nữ mắc ung thư phổi, ung thư phổi dường như là thế giới riêng của đàn ông. Ngày nay gần 40% bệnh nhân mắc ung thư phổi là phụ nữ. Hầu hết trong số họ đều là những người KO hút thuốc và sống trong một gia đình KO hút thuốc.

4.SỐ BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI HÚT THUỐC VÀ KHÔNG HÚT THUỐC BẮNG NHAU.


Điều này thực sự kinh khủng. Vào năm 1988, tỷ lệ bệnh nhân ung thư phổi hút thuốc so với ko hút thuốc là 9:1. Tức là có đến 90% bệnh nhân mắc ung thư phổi là những người hút thuốc so với chỉ 10% bệnh nhân mắc ung thư phổi là ko hút thuốc. Còn dữ liệu gần đây, theo quan sát của riêng tôi, tỷ lệ đó là 1:1!!!



Chúng ta đều biết rằng có một lượng lớn hoá chất ở trong khói thuốc và trong không khí ô nhiễm. Các hoá chất này đã được nghiên cứu và được công nhận rộng rãi là nguyên nhân gây ra ung thư. Vậy nếu như hoá chất là một phần của khói thuốc và không khí ô nhiễm thì liệu có cần phải sở hữu một bộ não thiên tài cỡ Einstein để nhận ra rằng không khí ô nhiễm là nguyên nhân gây nên ung thư phổi không? Cách đây 10 năm, Tổ chức Y Tế thế giới WHO đã công nhận không khí ô nhiễm là chất gây ung thư thuộc nhóm 1-đầu bảng!!!


Bạn đã bao giờ hình dung ra việc một đứa trẻ sơ sinh phải hút tới tận 25 điếu thuốc chưa? Thật khó tin phải không? Điều đó đang diễn ra hằng ngày hằng giờ tại New Delhi. Luôn được xếp trong top những thành phố ô nhiễm nhất thế giới, một đứa trẻ mới sinh tại New Delhi sẽ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm tương đương với việc hút 25 điếu thuốc kể từ những giây đầu tiên của cuộc đời!!!


Arvind Kumar
-Cựu Chủ tịch Hiệp Hội phẫu thuật Ấn Độ-





Ảnh màn hình 2023-12-17 lúc 16.15.12.png
 

MrFank

Xe điện
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-598332
Ngày cấp bằng
9/11/18
Số km
2,331
Động cơ
215,916 Mã lực
Nơi ở
99 Bạch Mai, Hà Nội
Dạ cụ nhà em mới 75 thôi và vẫn khoẻ. Cám ơn cụ, tuy nhiên đợt này nằm bẹp vì xơ phổi xong dính Covid phải thở máy dài, giờ chưa hồi phục được, vẫn gần như liệt
Bố e cái đợt ốm cũng dính Covid vì cả khoa bao nhiêu người bị, bệnh này cứ ho suốt ngày, thở khó khăn khổ lắm, thôi cụ nhà e như thế cũng là giải thoát, chứ nhìn đau lòng lắm
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 212: BÀN VỀ NGUYÊN NHÂN KHÁNG THUỐC ĐÍCH EGFR DO CHUYỂN DẠNG SANG TẾ BÀO NHỎ.



1
.Một bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ trong quá trình điều trị hoàn toàn có thể chuyển dạng sang tế bào nhỏ. Sự chuyển đổi này được biết đến nhiều nhất ở những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR. Tuy vậy, theo thời gian, hiện tượng chuyển đổi từ không tế bào nhỏ sang tế bào nhỏ ngày càng xuất hiện nhiều hơn ở những bệnh nhân không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen ALK, RET và KRAS. Tại Châu Âu, Bệnh nhân dương tính đột biến gen EGFR chỉ chiếm từ 10 đến 15%. Trong khi ở Châu Á, bệnh nhân dương tính đột biến gen EGFR chiếm tỷ lệ rất cao- lên tới 50%!



Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR bị kháng Thuốc đích có nhiều nguyên nhân. Trong đó nguyên nhân chuyển dạng sang tế bào nhỏ chiếm từ 3% đến 14%. Việc xuất hiện đột biến TP53 và đột biến RB1 tại thời điểm chẩn đoán bệnh sẽ làm TĂNG NGUY CƠ bệnh nhân bị chuyển từ không tế bào nhỏ sang tế bào nhỏ trong quá trình điều trị.




2. Vào hôm 16/12/2023 Chuyên gia C. Allison Stewart cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về việc chuyển dạng sang tế bào nhỏ của những bệnh nhân ung thư phổi KO tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR. Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu trong 9 năm, kể từ tháng 3/2014 cho đến tháng 6/2023 tại Viện ung thư số 1 thế giới MD Anderson. Tổng cộng có 34 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR chuyển dạng sang tế bào nhỏ đã được đưa vô nghiên cứu. Trung vị tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu là 58 (32-77) với 68% bệnh nhân là nữ, 82% bệnh nhân chưa bao giờ hút thuốc. Tại thời điểm chẩn đoán, có 27 bệnh nhân ( chiếm 79%) mắc giai đoạn 4 và 14 bệnh nhân bị di căn não ( chiếm 42%). Trung vị của thời gian chuyển từ không tế bào nhỏ sang tế bào nhỏ là 24.2 tháng. Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều đã được điều trị bằng thuốc đích và TRƯỚC KHI chuyển dạng sang tế bào nhỏ thì trung vị của số phác đồ mà bệnh nhân đã trải qua là 2, trong đó có 9 bệnh nhân ( chiếm 26.5%) đã trải qua 3 hoặc 4 phác đồ.



Sau khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ, 100% bệnh nhân được điều trị bằng Hoá trị trong đó có 25 bệnh nhân ( chiếm 74%) điều trị song song Hoá trị và Thuốc đích ( chủ yếu là Thuốc đích th3 Osimertinib). Có 19 bệnh nhân ( chiếm 56%) được điều trị bằng Thuốc miễn dịch như là một phần của phác đồ SAU khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu là 38.3 tháng KỂ TỪ thời điểm phát hiện bệnh và là 12.4 tháng KỂ TỪ thời điểm chuyển dạng sang tế bào nhỏ. Điều đặc biệt là việc tiếp tục dùng thuốc đích SAU khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ KO LÀM THAY ĐỔI sống còn toàn bộ của bệnh nhân.



3. Có tới 26 bệnh nhân ( chiếm 76%) trong nghiên cứu sở hữu đột biến gen EXON19. Có 31 bệnh nhân được xét nghiệm gen bằng kỹ thuật NGS trước hoặc sau khi chuyển dạng tế bào nhỏ. Trong đó có 20 bệnh nhân được xét nghiệm gen so sánh đối chiếu trước và sau khi chuyển dạng tế bào nhỏ đều bằng mẫu mô hoặc trước và sau khi chuyển dạng tế bào nhỏ đều bằng mẫu máu. Ngoài EGFR, các đồng đột biến được phát hiện ở bệnh nhân TRƯỚC khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ là đột biến TP53( chiếm 88.5%), RB1( chiếm 34.6%), PIK3CA ( chiếm 23.1%), CCNE1 ( chiếm 15.4%), MET ( chiếm 11.5%), BRAF ( chiếm 7.7%) và MYC ( chiếm 7.7%). Ở những bệnh nhân được xét nghiệm gen so sánh đối chiếu trước và sau khi chuyển dạng tế bào nhỏ, việc đột biến gen PIK3CA xuất hiện nhiều hơn SAU khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ mang ý nghĩa thống kê còn các đột biến gen khác tuy xuất hiện nhiều nhưng ko mang ý nghĩa thống kê.



Nhóm nghiên cứu kết luận:

+ Dữ liệu của chúng tôi phù hợp với những dữ liệu trước đây đã được báo cáo về tế bào nhỏ. Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ sở hữu đột biến gen EGFR chuyển dạng sang tế bào nhỏ có tiên lượng xấu, thời gian sống còn toàn bộ chỉ đạt 1 năm SAU thời điểm chuyển dạng tế bào nhỏ- Điều này không khác gì những bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư phổi tế bào nhỏ ngay từ đầu.


+ Bệnh nhân SAU khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ cũng KO cho đáp ứng với thuốc miễn dịch. KHÔNG một bệnh nhân nào trong nghiên cứu của chúng tôi đạt được đáp ứng khi dùng thuốc miễn dịch. Điều này không có gì ngạc nhiên khi ung thư phổi tế bào nhỏ với bản chất là các khối u ” lạnh ”, chúng gây ra khó khăn cho thuốc miễn dịch trong việc phát hiện và tiêu diệt.


+ Việc dùng tiếp thuốc đích SAU khi chuyển dạng sang tế bào nhỏ cũng KO làm thay đổi sống còn toàn bộ của bệnh nhân.


+Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ sở hữu đột biến gen EXON19 CÓ NGUY CƠ CAO HƠN các bệnh nhân khác trong việc chuyển dạng sang tế bào nhỏ.


+ Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra một chiến lược tiềm năng trong việc điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ thông qua việc nhắm vô bề mặt tế bào ung thư như DLL3, B7-H3 và PTK7. Ba mục tiêu này hiện nay đều đã được nghiên cứu:

-> DLL3 với nghiên cứu NCT03319940
-> B7-H3 với nghiên cứu NCT05280470
-> PTK7 với nghiên cứu NCT04189614.

Chúng ta cùng chờ xem!











MD-Anderson.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 213: HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ SỞ HỮU NHIỀU HƠN MỘT ĐỘT BIẾN GEN EGFR.



1
.Do hạn chế về kỹ thuật và chi phí, phổ gen được xét nghiệm ở Việt Nam là rất ít. Điều này dẫn đến việc bức tranh gen thực sự của bệnh nhân nhiều khi không được bật lên đầy đủ. Có những bệnh nhân ngoài sở hữu đột biến gen mà kết quả xét nghiệm trả về thì họ còn sở hữu CÁC ĐỘT BIẾN GEN KHÁC NỮA, chỉ là những đột biến gen này nằm ngoài phạm vi tìm kiếm của xét nghiệm.

Hôm nay chúng ta cùng bàn đến một hướng tiếp cận đến nhóm đối tượng này.



2. Vào tháng 12/2023, Chuyên gia Linlin Zhang cùng các đồng nghiệp đã cập nhật kết quả phase2 của nghiên cứu ALTER-L004. Nghiên cứu ALTER-L004 được thiết kể để đánh giá độ hiệu quả và an toàn của phác đồ gộp Thuốc Anlotinib+ Thuốc Icotinib trong điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển dương tính đột biến gen EGFR có hoặc không có đồng đột biến ( đồng đột biến tức là ngoài đột biến gen EGFR EXON19, L858R thì bệnh nhân còn sỡ hữu đột biến gen khác nữa. Những đột biến gen khác này có thể kể đến như TP53, RB1, SDHA, PIK3CA, PIK3CG, BRCA2, PTEN…).



Trong thời gian 2 năm, kể từ tháng 12/2018 cho đến tháng 11/2020, có tổng cộng 60 bệnh nhân đã được tuyển vô nghiên cứu. Trong đó có 31 bệnh nhân ( chiếm 52%) sở hữu đồng đột biến và 29 bệnh nhân ( chiếm 48%) sở hữu đồng đột biến gây bệnh ( đồng đột biến gây bệnh là đột biến gây hại đến sống còn của bệnh nhân).


=>> Về mặt hiệu quả:

Tại mốc trung vị thời gian theo dõi 26.9 tháng, trung vị của thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 15.1 tháng, trung vị của thời gian duy trì đáp ứng đạt 13.5 tháng và trung vị của thời gian sống còn toàn bộ đạt 30.0 tháng. Đáng chú ý, ở phân nhóm bệnh nhân sở hữu đồng đột biến gen gây bệnh có trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 15.6 tháng và dữ liệu thời gian sống còn toàn bộ hiện vẫn đang được hoàn thiện.


=>> Về mặt tác dụng phụ:

Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều gặp tác dụng phụ liên quan đến phác đồ điều trị, tác dụng phụ cấp độ 3 trở lên được quan sát thấy ở 26 bệnh nhân ( chiếm 43.7%) trong đó có 1 bệnh nhân ( chiếm 1.7%) gặp tác dụng phụ nghiêm trọng. Có 23 bệnh nhân ( chiếm 38.3%) phải gián đoạn điều trị, 15 bệnh nhân phải giảm liều ( chiếm 25%) và 5 bệnh nhân ( chiếm 8.3%) bị ngừng điều trị. Các tác dụng phụ phổ biến nhất được quan sát thấy là tăng Cholesterol ( chiếm 52%), tăng Triglyceride ( chiếm 65%), tăng huyết áp ( chiếm 57%) và tiêu chảy ( chiếm 50%)…


Nhóm nghiên cứu kết luận :” Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ EGFR sở hữu thêm đồng đột biến gen gây bệnh có tiên lượng sống còn rất nghèo nàn. Qua nghiên cứu của chúng tôi, để cải thiện sống còn, nhóm đối tượng này sẽ phù hợp với phác đồ gộp Anlotinib+ Icotinib. Nghiên cứu hiện đang được chúng tôi tiếp tục tiến hành ở phase3 “.





41241_2020_89_Fig2_HTML.png
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 214: THỜI GIAN KHÁNG THUỐC LÊN ĐẾN 2 NĂM TRONG TIÊU CHUẨN CHĂM SÓC MỚI DÀNH CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ EGFR.


1
.Cách đây 3 tháng, chúng ta đã từng bàn đến Nghiên cứu MARIPOSA. Hôm nay chúng ta cùng trở lại chủ đề này với dữ liệu cập nhật mới nhất.


Nghiên cứu MARIPOSA được thiết kế để so sánh đối đầu giữa Phác đồ gộp Amivantamab+ Lazertinib với Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib Khi dùng làm điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến gen EGFR.


2. Vào hôm 21/12/2023, Tập đoàn dược phẩm Johnson & Johnson đã nộp đơn lên FDA nhằm tìm kiếm sự phê duyệt chính thức cho Phác đồ gộp Amivantamab+ Lazertinib thành tiêu chuẩn chăm sóc bước đầu.


Theo dữ liệu từ Nghiên cứu MARIPOSA, Phác đồ gộp Amivantamab+ Lazertinib giúp giảm nguy cơ tiến triển bệnh hoặc tử vong lên đến 30% so với phác đồ dùng đơn độc Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib. Cụ thể:


=>> Tại trung vị của thời gian theo dõi 22 tháng thì trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của phác đồ gộp Amivantamab+ Lazertinib đạt 23.7 tháng, trong khi trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển của Osimertinib đạt 16.6 tháng.


=>> Tỷ lệ bệnh nhân khi dùng phác đồ gộp Amivantamab + Lazertinib có thời gian sống không bệnh tiến triển đạt mốc 12 và 24 tháng lần lượt là 73% và 48%. Trong khi đó, con số này ở phác đồ đơn độc Osimertinib lần lượt là 65% và 34%!


QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:


Việc đưa ra quyết định điều trị bước đầu dành cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR ngày càng phức tạp.

=>> Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib cho thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 18 tháng với những tác dụng phụ nhẹ nhàng trong suốt quá trình điều trị.

=>> Phác đồ gộp Hoá trị+ đích Osimertinib cho thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 28 tháng với những tác dụng phụ nặng nề trong suốt qua trình điều trị.

=>> Phác đồ gộp Amivantamab+ Lazertinib cho thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 24 tháng với những tác dụng phụ chủ yếu ở 3 tháng đầu trong quá trình điều trị.

Tôi nghĩ trước khi ra quyết định điều trị cần tham khảo quan điểm của bệnh nhân nhằm cân bằng với lợi ích thời gian sống không bệnh tiến triển cũng như vấn đề độc tố!!!











product-jpeg.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 215: TIN VUI NGÀY CUỐI NĂM DÀNH CHO NHỮNG BỆNH NHÂN ĐANG RƠI VÀO CẢNH HẾT PHÁC ĐỒ HOẶC GẦN HẾT PHÁC ĐỒ.

PHÁC ĐỒ ĐẦU TIÊN SẮP ĐƯỢC PHÊ DUYỆT DÙNG ĐỂ TRỊ KHÁNG CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ EGFR TRƯỚC ĐÓ ĐÃ TRẢI QUA NHIỀU PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ.



1
.Có 2 cách để kéo dài thời gian sống của bệnh nhân ung thư.

=>> Cách 1: Tăng thời gian hợp thuốc ở mỗi phác đồ điều trị.
=>> Cách 2: Tăng SỐ phác đồ mà bệnh nhân có thể điều trị.

Hôm nay chúng ta sẽ bàn đến cách 2!


2. Vào hôm 22/12/2023, Tập đoàn dược phẩm Daiichi Sankyo thông báo rằng FDA đã nhận đơn xin cấp phép thuốc Patritumab deruxtecan của Tập Đoàn và đưa Hồ sơ đăng ký thuốc vào diện được đánh giá ưu tiên.


Thuốc Patritumab deruxtecan đã được mình nhắc đến 2 lần trên nhóm.


Nghiên cứu HERTHENA-LUNG01 được thiết kế để đánh giá độ hiệu quả và an toàn của Thuốc Patritumab deruxtecan khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển dương tính với đột biến gen EGFR, trước đó đã bị KHÁNG thuốc đích và hoá trị Platinum. Kết quả cho thấy, Thuốc Patritumab deruxtecan có hiệu quả thuyết phục khi TRỊ KHÁNG cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR, trước đó đã trải qua NHIỀU phác đồ điều trị. Ngoài ra, Thuốc Patritumab deruxtecan còn cho đáp ứng đối với NHIỀU CƠ CHẾ KHÁNG ĐÍCH KHÁC NHAU, thậm chí Patritumab deruxtecan còn cho đáp ứng trên cả những bệnh nhân KO ĐỊNH DANH ĐƯỢC CƠ CHẾ KHÁNG.



Ken Takeshita-Trưởng bộ phận nghiên cứu và phát triển toàn cầu của Tập Đoàn phát biểu:” Việc ưu tiên xét duyệt của FDA đối với Thuốc Patritumab deruxtecan đã phản ánh sức mạnh dữ liệu của Nghiên cứu HERTHENA-Lung01. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết trong việc cung cấp các phác đồ MỚI cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR TRƯỚC ĐÓ đã trải qua ít nhất là 2 phác đồ điều trị”.


=>> Đây là một tin KHÔNG THỂ VUI HƠN đối với cộng đồng ung thư phổi khi mà những bệnh nhân đã kháng cả đích cả hoá trị là những bệnh nhân thuộc nhóm đối tượng có tiên lượng rất xấu- Họ gần như đã rơi vào cảnh hết bài. Theo dự đoán của các chuyên gia, từ cột mốc đánh giá ưu tiên cho tới khi Thuốc Patritumab deruxtecan được phê duyệt hoàn toàn và có mặt trên thị trường sẽ mất khoảng 6 tháng, tức sang hè năm 2024!!!






esy-056670160.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 216: CỨU BỆNH NHÂN CẬN TỬ.


Vào hôm 27/12/2023 Chuyên gia Charley Jang cùng các đồng nghiệp tại Trung tâm y tế NYU Langone Health ở New York, Mỹ đã báo cáo 1 ca bệnh nhân cận tử được hồi sinh ngoạn mục nhờ Thuốc đích.


1.CA LÂM SÀNG


Một phụ nữ 44 tuổi với tiền sử hút 5 bao thuốc mỗi năm nhập Viện trong tình trạng ho, khó thở, sụt cân. Kết quả Chụp CT ngực cho thấy ở rốn phổi phải có một khối u gây tắc nghẽn phế quản trung gian và phế quản thuỳ giữa kèm theo xẹp hoàn toàn thuỳ giữa phổi phải. Tinh trạng bệnh nhân xấu đi rất nhanh, oxy máu tụt trầm trọng buộc các bác sĩ phải đặt nội khí quản khẩn cấp. Tình trạng càng phức tạp hơn khi bệnh nhân bị NGỪNG TIM do hậu quả của tràn dịch màng ngoài tim ác tính.



Kết quả sinh thiết hạch thượng đòn xác nhận bệnh nhân bị ung thư phổi biểu mô tuyến giai đoạn cuối, có bộc lộ miễn dịch PDL1 100% và dương tính đột biến gen BRAF V600E. Trước đó bệnh nhân đã trải qua xạ trị giảm nhẹ trong 5 ngày.


Nhận thấy bệnh nhân hiện đang trong tình trạng nguy kịch, phải thở máy và tiên lượng tử vong gần, các bs hội chẩn để lên phương án điều trị.

=>> Bệnh nhân sở hữu bộc lộ miễn dịch PDL1 rất cao, lên tới 100%, nhưng Thuốc miễn dịch thường cho tỷ lệ đáp ứng thấp đối với những bệnh nhân ko hút thuốc hoặc hút ít. Bệnh nhân có tiền sử hút 5 bao thuốc mỗi năm thuộc nhóm đối tượng hút ít.

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến gen BRAF V600E. Thuốc đích dùng để trị gen này là bộ đôi Trametinib+ Dabrafenib. Theo dữ liệu báo cáo trong Y văn thì Bộ đôi Trametinib+ Dabrafenib cho tỷ lệ đáp ứng cao ở cả bệnh nhân CHƯA từng điều trị ( tỷ lệ đáp ứng 63.9% ) lẫn bệnh nhân ĐÃ từng điều trị ( tỷ lệ đáp ứng 68.4%).


Các bs quyết định chọn Thuốc đích làm phương án điều trị cho bệnh nhân!


->Thuốc Trametinib được đóng gói dưới dạng viên nén sẽ được nghiền nát rồi hoà cùng 10ml nước để bơm vào dạ dày thông qua một ống thông mũi-dạ dày.

->Thuốc Dabrafenib được đóng gói dưới dạng viên nang cũng được gỡ bỏ lớp vỏ nhộng rồi hoà cùng 10ml nước để bơm vào dạ dày thông qua một ống thông mũi-dạ dày.


Việc nghiền nát viên nén và gỡ bỏ lớp vỏ nhộng của viên nang là ĐI NGƯỢC LẠI với khuyến cáo của Hãng dược phát minh. Thêm nữa, hiện có RẤT ÍT dữ liệu được báo cáo về dược lực học cũng như dược động học của thuốc khi bị nghiền nát hay gỡ lớp vỏ nhộng. Tuy vậy, dựa vô tình trạng nguy kịch của bệnh nhân, các bs quyết định chọn phương án hành động!!



2. KẾT QUẢ

Bệnh nhân hồi phục NGOẠN MỤC. Sau 20 ngày kể từ ngày đầu tiên dùng Thuốc đích, bệnh nhân cai được máy thở. Kết quả chụp lồng ngực xác nhận sự co ngót đáng kể của khối u, qua đó giúp tái thông phế quản chính phải. Sau 33 ngày dùng thuốc qua ống thông mũi dạ dày, bệnh nhân được rút ống và có thể tự uống thuốc bằng đường miệng. Bệnh nhân được xuất Viện và trở về cuộc sống sinh hoạt bình thường. Sau 6 tháng, bệnh tiến triển nhưng thể chất và tình trạng hoạt động đi lại của bệnh nhân vẫn RẤT TỐT. Các bs tiếp tục lên phác đồ điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.







ai-generated-8201027_640.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 217: THỜI GIAN SỐNG CÒN GIẢM TỚI 4 LẦN KHI XUẤT HIỆN THÊM ĐỒNG ĐỘT BIẾN.



1
.Khi bắt đầu uống viên đích đầu tiên, không ai rõ bản thân mình sẽ đi cùng người bạn đồng hành này trong bao lâu. Người thì dùng cả chục năm vẫn ổn định, người thì dùng chỉ 3 tháng đã sinh sự. Đứng trước sự khác biệt này, chúng ta hay dùng từ “ cơ địa”, “phúc phận” để giải thích. Dù vậy, theo sự tiến bộ của khoa học, ko có bất cứ thứ gì là ngẫu nhiên!!!


Cùng là một đột biến gen, có những biến thể phân tử hợp thuốc lâu hơn các biến thể phân tử khác rất nhiều, hoặc ngoài việc sở hữu đột biến gen được chỉ định dùng thuốc đích, bệnh nhân còn sở hữu những gen khác nữa, và những gen này thì tuỳ từng trường hợp mà nó có gây hại đến sống còn của bệnh nhân hay không. Hôm nay, chúng ta cùng bàn đến một trường hợp như vậy!



2.Nghiên cứu NCT01336634 được Chuyên gia Harry J.M. Groen cùng các đồng nghiệp thiết kế để theo dõi thời gian sống còn của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen BRAF V600E khi điều trị bằng Thuốc đích Trametinib+ Dabrafenib. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia làm 2 nhánh:

->Nhánh 1 bao gồm 57 bệnh nhân trước đó ĐÃ từng điều trị.
->Nhánh 2 bao gồm 36 bệnh nhân trước đó CHƯA từng điều trị.

Tại thời điểm cutoff dữ liệu, kết quả cho thấy:

=>> Ở nhánh 1: Tại trung vị thời gian theo dõi 16.6 tháng, tỷ lệ đáp ứng toàn bộ là 68.4%, trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển là 10.2 tháng, trung vị sống còn toàn bộ là 18.2 tháng. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 4 năm và 5 năm lần lượt là 26% và 19%.

=>> Ở nhánh 2: Tại trung vị thời gian theo dõi 16.3 tháng, tỷ lệ đáp ứng toàn bộ là 63.9%, trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển là 10.8 tháng, trung vị sống còn toàn bộ là 17.3 tháng. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 4 năm và 5 năm lần lượt là 34% và 22%.


Nghiên cứu bắt đầu được thực hiện vào ngày 16/12/2013. Cho đến thời điểm cuối cập nhật dữ liệu là 24/2/2021 vẫn có 17 bệnh nhân ( chiếm 18%) trong nghiên cứu còn sống. Tức là có 18% bệnh nhân trong nghiên cứu đạt mốc sống còn hơn 7 năm!!!

Thuốc đích Trametinib+Dabrafenib cho dung nạp tốt với tác dụng phụ điển hình nhất mà bệnh nhân gặp phải là sốt ( tỷ lệ mắc 56%).



3.Điều đặc biệt chú ý là thời gian sống còn bị GIẢM TỚI 4 LẦN ở những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính BRAF V600E sở hữu đồng đột biến PIK3CA. Cụ thể:

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân sở hữu bộ đôi đột biến gen BRAF V600E+ PIK3CA chỉ là 5.4 tháng so với 22.7 tháng của bệnh nhân sở hữu đơn độc BRAF V600E.



Nhóm nghiên cứu kết luận :” Bộ đôi Thuốc đích Trametinib+ Dabrafenib mang lại lợi ích lâm sàng đáng kể cũng như lợi ích sống còn LÂU DÀI cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen BRAF V600E BẤT KỂ bệnh nhân trước đó đã trải qua điều trị hay chưa. Việc sở hữu đồng đột biến THỂ ảnh hưởng tới sống còn của bệnh nhân, cần có những nghiên cứu sâu hơn để khẳng định kết quả này”.











genesDNAGel_600.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 218: TỔNG KẾT CÁC LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ ĐƯỢC FDA PHÊ DUYỆT TRONG NĂM 2023- ĐỨNG ĐẦU LÀ UNG THƯ!!!



1
.Trong năm 2023, có đến 55 loại thuốc mới đã được FDA Phê duyệt. Tính trong khoảng thời gian 30 năm trở lại đây thì năm 2018 và năm 2023 hiện là 2 năm nắm giữ kỷ lục về số thuốc được phê duyệt. Trong năm 2023, Ung Thư là lĩnh vực nhận được nhiều phê duyệt nhất với 13 liệu pháp được phê duyệt ( chiếm 24%), đứng thứ hai là lĩnh vực Thần Kinh với 9 liệu pháp được phê duyệt ( chiếm 16%) và đứng thứ ba là lĩnh vực Các Bệnh Truyền Nhiễm và Huyết Học với 5 liệu pháp được phê duyệt ( chiếm 9%).


2. Cụ thể trong lĩnh vực ung thư phổi mà nhóm chúng ta đang quan tâm có những cái tên đáng chú ý sau:

=>> Thuốc miễn dịch Retifanlimab của Tập đoàn dược phẩm Incyte Corporation và Thuốc miễn dịch Toripalimab của Tập đoàn dược phẩm Coherus BioSciences. Việc xuất hiện của 2 loại thuốc miễn dịch mới này đã nâng Tổng số thuốc miễn dịch ức chế PD1/PDL1 đang có hiện nay lên con số 9!


=>> Thuốc đích Repotrectinib của Tập đoàn dược phẩm Bristol Myers Squibb. Thuốc Repotrectinib là THUỐC ĐÍCH ROS1 THẾ HỆ 2 DUY NHẤT được phê duyệt cho đến nay. Việc có mặt của Repotrectinib là vô cùng giá trị khi nhu cầu giải quyết bài toán kháng thuốc cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ROS1 là rất lớn và hiện chưa được đáp ứng.


3.Năm 2024 được dự đoán sẽ là một năm bùng nổ về các liệu pháp gen và tế bào được phê duyệt. Có cực kỳ nhiều nghiên cứu vs những kết quả cực kỳ hứa hẹn đang được diễn ra.

Chúng ta cùng chờ xem!





fda_food_and_drug_administration_large-1.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 219: BÀN VỀ THUỐC ĐÍCH THẾ HỆ 3 FURMONERTINIB CỦA TRUNG QUỐC. KẺ THAY ĐỔI CUỘC CHƠI TRONG CUỘC CHIẾN UNG THƯ PHỔI.



Trung Quốc đang dần trở thành một siêu cường đe doạ ngôi bá chủ toàn cầu của Mỹ. Theo dự đoán, vào năm 2050 Trung Quốc sẽ chính thức vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế số 1 thế giới. Thành tựu của Trung Quốc thì nhiều vô số kể. Trung Quốc đã phóng được vệ tinh lên vùng tối của Mặt Trăng, đã làm được tàu siêu tốc đầu tiên trên thế giới đạt vận tốc 600km/h, số robot công nghiệp của Trung Quốc nhiều hơn TỔNG số robot công nghiệp của cả Mỹ, Nhật Bản, Đức và Hàn Quốc cộng lại… Trong những công nghệ nền tảng của thế kỷ 21 như Trí tuệ nhân tạo AI, chất bán dẫn, mạng không dây 5G, khoa học thông tin lượng tử, công nghệ sinh học và năng lượng xanh… Trung Quốc cạnh tranh nghẹt thở ngôi vị số 1 với Mỹ. Riêng trong lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo AI, Trung Quốc hiện đang đứng đầu thế giới.


Bài viết này ko bàn đến những yếu tố gây tranh cãi của Trung Quốc như d.â.n c.h.ủ, n.hân q.uyền hay t.h.ể c.hế. Bài viết này bàn đến Thuốc đích ung thư phổi do chính Trung Quốc phát minh-Thuốc đích Furmonertinib.

Cái tên Furmonertinib đã được mình nhắc đến lần đầu tiên cách đây 1 năm và lần thứ hai cách đây 4 tháng. Hôm nay, chúng ta cùng xem một siêu cường thể hiện sức mạnh của nó qua Y Học như thế nào???


--------------

CHỦ ĐỀ 1: THUỐC ĐÍCH TH3 FURMONERTINIB TỐT VƯỢT TRỘI SO VỚI THUỐC ĐÍCH TH1 GEFITINIB.


1
.Nghiên cứu FURLONG được thiết kế để so sánh đối đầu giữa Thuốc đích th3 Furmonertinib và Thuốc đích th1 Gefitinib khi điều trị bước đầu cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR exon19 hoặc L858R. Tổng số 358 bệnh nhân trên 55 bệnh viện toàn Trung Quốc đã được tuyển vô nghiên cứu. Bệnh nhân trong nghiên cứu được chia làm 2 nhánh:

->Nhánh 1 gồm 178 bệnh nhân được điều trị bằng Thuốc đích th3 Furmonertinib liều 80mg/ngày. Nhánh này có 35% bệnh nhân đã di căn não tại thời điểm phát hiện bệnh.

->Nhánh 2 gồm 180 bệnh nhân được điều trị bằng Thuốc đích th1 Gefitinib liều 250mg/ngày. Nhánh này có 32% bệnh nhân đã di căn não tại thời điểm phát hiện bệnh.


Tại trung vị thời gian theo dõi 21 tháng, nhánh điều trị bằng Furmonertinib cho trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển DÀI GẤP ĐÔI nhánh điều trị bằng Gefitinib, cụ thể là 20.8 tháng so với 11.1 tháng. Thuốc đích th3 Furmonertinib cũng sở hữu khả năng dung nạp TỐT HƠN Thuốc đích th1 Gefitinib khi tỷ lệ bệnh nhân gặp phải tác dụng phụ từ cấp độ 3 trở lên khi dùng Furmonertinib là 11%, còn khi dùng Gefitinib là 18%!!!


2.Thuốc đích th3 mà bệnh nhân Việt Nam hiện nay đang dùng là Osimertinib. Chúng ta thử làm một phép so sánh:

->Trong nghiên cứu FLAURA, Thuốc đích th3 Osimertinib sở hữu thời gian sống không bệnh tiến triển DÀI GẤP ĐÔI khi đối đầu với Thuốc đích th1. Cụ thể là 18.9 tháng so với 10.2 tháng.


->Trong nghiên cứu FURLONG chúng ta vừa đề cập ở trên, Thuốc đích Furmonertinib sở hữu thời gian sống không bệnh tiến triển CŨNG DÀI GẤP ĐÔI khi đối đầu với Thuốc đích th1. Cụ thể là 20.8 tháng so với 11.1 tháng.


Hiện nay CHƯA CÓ nghiên cứu đối đầu trực diện giữa Osimertinib và Furmonertinib để xem xem thuốc nào thực sự tốt hơn. Dù vậy, với những dữ liệu hiện có, chúng ta có thể ngoại suy rằng Thuốc đích Osimertinib và Thuốc đích Furmonertinib TỐT NGANG NHAU TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỘT BIẾN GEN EGFR EXON19, L858R.


Thuốc đích Tagrisso- Osimertinib chính hãng ở Việt Nam RẤT ĐẮT. Chi phí dùng là hơn 40tr/ tháng. Còn Thuốc đích Furmonertinib phát minh về vn theo dạng xách tay giá hiện giờ là hơn 11tr/tháng. Đây THỰC SỰ là vấn đề mà những bệnh nhân đang dùng Tagrisso nên CÂN NHẮC. Cùng là thuốc phát minh, cùng tốt như nhau mà giá Furmonertinib RẺ HƠN Tagrisso tới 4 LẦN!!!


-----------------


CHỦ ĐỀ 2: THUỐC ĐÍCH FURMONERTINIB- KẺ THAY ĐỔI CUỘC CHƠI TRONG ĐỘT BIẾN CHÈN GEN EXON20.



Ngoài việc hiệu quả đối với các đột biến gen EGFR cổ điển như EXON19, L858R, T790M thì Thuốc đích Furmonertinib còn cho hiệu quả XUẤT SẮC đối với đột biến chèn gen EXON20. Cụ thể:

-> Với bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị: Thuốc đích Furmonertinib cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 78.6% ở liều 240mg và thời gian duy trì đáp ứng đạt 15.2 tháng.

-> Với bệnh nhân trước đó ĐÃ trải qua điều trị: Thuốc đích Furmonertinib cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 46.2% ở liều 240mg và thời gian duy trì đáp ứng đạt 13.1 tháng. Khi hạ liều xuống 160mg thì tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 38.5% và thời gian duy trì đáp ứng đạt 9.7 tháng.

-> Thuốc đích Furmonertinib cũng sở hữu khả năng dung nạp tốt. Tác dụng phụ chủ yếu xảy ra khi dùng liều 240mg là đi ngoài, nhưng ở mức độ thấp.


=>> TIN VUI: Vào hôm 30/10/2023, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm FDA của Mỹ đã cấp Chỉ Định Liệu Pháp Đột Phá dành cho Thuốc đích Furmonertinib trong điều trị bước đầu đối với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20.


--------------


CHỦ ĐỀ 3: THUỐC ĐÍCH FURMONERTINIB CŨNG ĐANG THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU CHO ĐỘT BIẾN GEN HER2!!!



Lần cập nhật dữ liệu đầu tiên của nghiên cứu này ước tính sẽ được công bố vào cuối năm 2025.

=>> Chúng ta cùng chờ xem Furmonertinib sẽ mang đến những thay đổi tiếp theo nào trong cuộc chiến ung thư phổi!!!






Ảnh màn hình 2024-01-07 lúc 20.38.46.png
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 220: TIN KHỦNG KHIẾP ĐẦU NĂM. THUỐC ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 4 BLU-945 THẤT BẠI.


Vào sáng ngày 8/1/2024, Tập đoàn dược phẩm Blueprint Medicines ra thông cáo báo chí về việc DỪNG PHÁT TRIỂN Thuốc đích thế hệ 4 EGFR BLU-945 và Thuốc đích BLU-451.


->Thuốc đích EGFR thế hệ 4 BLU-945 đã được mình nhắc đến cách đây 1 năm. Đây thực sự là một cú sốc vì những dữ liệu thử nghiệm trên người được công bố trước đó đều cho thấy BLU-945 có hiệu quả tốt trong việc trị kháng Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib.


-> Thuốc đích BLU-451 được nghiên cứu để điều trị đột biến chèn gen EXON20. Với sự xuất hiện của 2 gã khổng lồ Furmonertinib và Sunvozertinib đến từ Trung Quốc trong việc điều trị đột biến chèn gen EXON20, Tập đoàn Blueprint Medicines đã chính thức DỪNG PHÁT TRIỂN BLU-451. Thuốc đích Furmonertinib và Sunvozertinib là những ông Kẹ thực sự trong bài toán chèn gen EXON20. Sự có mặt của 2 ông Kẹ này chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc Mobocertinib của Tập đoàn Takeda bị thu hồi và giờ là BLU-451 bị dừng phát triển!!!


QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:


=>>
Một cú sốc với cộng đồng ung thư phổi. Tôi bị bất ngờ với kết quả này. Dữ liệu lần gần nhất vẫn cho thấy BLU-945 là một Thuốc đích thế hệ 4 có hiệu quả. Có lẽ khi nghiên cứu được mở rộng trên một tập dữ liệu đủ lớn, BLU-945 đã KO còn tạo ra được kết quả như kỳ vọng.


=>> Một thiệt hại ko nhỏ đối với Tập đoàn Blueprint Medicines. Cuộc đua tìm ra thuốc mới là vậy, sẽ có đến 90% nghiên cứu là thất bại. Dù vậy, Tập đoàn Blueprint Medicines còn có một Thuốc đích EGFR thế hệ 4 nữa đang được phát triển là BLU-525. Chúng ta cùng chờ xem!




banpu.......jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 221: BÀN TIẾP VỀ THUỐC ĐÍCH THẾ HỆ 2 CHO ĐỘT BIẾN DUNG HỢP GEN ROS1. THUỐC ĐÍCH REPOTRECTINIB.


Cách đây 2 tháng, Chúng ta đã từng bàn về việc Thuốc đích Repotrectinib được FDA phê duyệt dành cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn di căn hoặc tiến triển cục bộ dương tính với đột biến dung hợp gen ROS1.

Hôm nay, chúng ta cùng trở lại chủ đề này.

Vào hôm 11/1, Chuyên gia Ki Hyeong Lee cùng các đồng nghiệp đã công bố bài báo tổng hợp về Thuốc đích ROS1 thế hệ 2 Repotrectinib trên tạp chí Y học số 1 thế giới NEJM.

=>> Đối với phân nhóm 71 bệnh nhân CHƯA trải qua điều trị thuốc đích, có 56 bệnh nhân cho đáp ứng khi điều trị bằng Repotrectinib. Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 79%. Trung vị của thời gian duy trì đáp ứng đạt 34.1 tháng. Trung vị của thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 35.7 tháng ( 3 năm mới kháng thuốc-một con số kỷ lục !!! )


=>> Đối với phân nhóm 56 bệnh nhân ĐÃ trải qua điều trị thuôc đích nhưng CHƯA hoá trị, có 21 bệnh nhân cho đáp ứng khi điều trị bằng Repotrectinib. Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 38%. Trung vị của thời gian duy trì đáp ứng đạt 14.8 tháng. Trung vị của thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 9.0 tháng.


=>> Nguyên nhân kháng thuốc phổ biến nhất xảy ra đối với bệnh nhân ROS1 khi điều trị bằng Thuốc đích thế hệ 1 là do đột biến gen G2032R. Trong số 17 bệnh nhân dương tính G2032R, có 10 bệnh nhân cho đáp ứng khi điều trị bằng Repotrectinib. Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 59%.


=>> Liều dùng Repotrectinib là 160mg/ngày trong 14 ngày đầu, rồi từ ngày thứ 15 trở đi dùng liều 160mg uống 2 lần hằng ngày. Tác dụng phụ phổ biến nhất xảy ra khi dùng Repotrectinib là chóng mặt ( tỷ lệ bệnh nhân mắc 58%), rối loạn vị giác ( tỷ lệ bệnh nhân mắc 50%), dị cảm ( tỷ lệ bệnh nhân mắc 30%). Có 3% bệnh nhân phải ngừng điều trị vì tác dụng phụ khi dùng Repotrectinib.


Nhóm nghiên cứu kết luận :” Thuốc đích Repotrectinib cho ĐÁP ỨNG LÂU DÀI trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính ROS1 BẤT KỂ trước đó bệnh nhân đã trải qua điều trị thuốc đích hay chưa. Tác dụng phụ khi dùng Repotrectinib xảy ra ở mức độ THẤP và xử lý tốt khi điều trị lâu dài”.


QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:


=>>
Ngoài hiệu quả XUẤT SẮC đối với ROS1 thì Repotrectinib còn cho hiệu quả với dung hợp gen NTRK. Chính yếu tố này đã dẫn đến những tác dụng phụ rất điển hình như chóng mặt, giảm khả năng thăng bằng và dị cảm ở bệnh nhân dùng đích Repotrectinib. Hiện tượng tương tự cũng được bắt gặp ở những bệnh nhân dương tính ROS1 khi dùng Thuốc đích Entrectinib-một loại thuốc đích khác có hiệu quả với dung hợp gen NTRK. Các bs cần thông báo cho bệnh nhân trước khi chỉ định, kèm thêm một sự theo dõi chặt chẽ để tối ưu hoá liều dùng tới từng người bệnh.








7-Figure4-1.png
 

MrFank

Xe điện
{Kinh doanh chuyên nghiệp}
Biển số
OF-598332
Ngày cấp bằng
9/11/18
Số km
2,331
Động cơ
215,916 Mã lực
Nơi ở
99 Bạch Mai, Hà Nội
Bản thân e từng hút thuốc cỡ 10 năm và bỏ cũng hơn chục năm rồi, nếu đang hút thuốc mà bỏ thấy hệ hô hấp cải thiện rất lớn.
Vậy nên các cụ mà đang hút thuốc thì nên nghiêm túc bỏ đi nhé, e vào viện chăm bố ung thư phổi 10 ông thì 9 ông là có hút thuốc,bên K Hà Nội e còn gặp cả 1 cậu mới có 24t đã mắc K phổi, 2 tuần lại lên truyền hóa chất 1 lần, phải tạo cả đường tĩnh mạch ngoại biênở ngực để truyền
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 222: HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TRONG THẾ GIỚI THỰC CỦA THUỐC ĐÍCH VÀ THUỐC MIỄN DỊCH ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN GEN BRAF.



Vào đầu năm 2023, Chuyên gia Amanda J.W. Gibson cùng các đồng nghiệp đã công bố một nghiên cứu trong thế giới thực về hiệu quả của Thuốc đích và Thuốc miễn dịch khi điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen BRAF. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sỡ dữ liệu của Dự án ung thư phổi Glans-Look. Trong 5 năm, kể từ năm 2018 cho đến năm 2022, Tổng số 53 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen BRAF đã được đưa vào nghiên cứu.


Trong số 53 bệnh nhân, có 35 bệnh nhân dương tính đột biến gen BRAF-V600E, 9 bệnh nhân dương tính đột biến gen BRAF-G469A, 7 bệnh nhân dương tính đột biến gen BRAF-G469V và 2 bệnh nhân dương tính đột biến gen BRAF-D594G.


Hiệu quả điều trị cho thấy:


=>> Phác đồ chứa Thuốc miễn dịch cho thấy có hiệu quả trong điều trị bước đầu đối với cả đột biến gen BRAF-V600E lẫn đột biến gen BRAF-KO phải V600E. Cụ thể, tỷ lệ đáp ứng khách quan và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đối với phân nhóm BRAF-V600E là 38% và 10.5 tháng, còn tỷ lệ đáp ứng khách quan và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đối với phân nhóm BRAF-KO phải V600E là 43% và 10.8 tháng.


=>> Phác đồ Thuốc đích cũng cho thấy hiệu quả trong điều trị bước đầu đối với đột biến gen BRAF-V600E. Cụ thể, tỷ lệ đáp ứng khách quan và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển là 33% và 15.2 tháng.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Trong thế giới thực, Cả Thuốc miễn dịch và Thuốc đích đều cho hiệu quả đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen BRAF. Cần những nghiên cứu sâu hơn nữa để phân loại bệnh nhân nhằm chỉ định phác đồ điều trị tối ưu tới mỗi người bệnh”.






ooooooo.png
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 223: BÁO CÁO HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ ĐỘT BIẾN GEN HER2 BẰNG THUỐC ĐÍCH FURMONERTINIB.


Trong bài số 283 chúng ta đã bàn về sức mạnh của Thuốc đích Furmonertinib đến từ Trung Quốc.

-> Thuốc đích Furmonertinib có hiệu quả tốt tương đương Thuốc Tagrisso trong việc điều trị các đột biến gen cổ điển EGFR EXON19, EXON21, T790M.

-> Thuốc đích Furmonertinib là Ông Kẹ- Kẻ thay đổi cuộc chơi trong điều trị đột biến chèn gen EXON20 EGFR.

-> Thuốc đích Furmonertinib đang thiết kế Nghiên cứu cho đột biến gen HER2.

Hôm nay chúng ta sẽ bàn đến hiệu quả của Furmonertinib trong bài toán HER2.

CA LÂM SÀNG:

Một phụ nữ 49 tuổi chưa bao giờ hút thuốc nhập Viện trong tình trạng ho và tức ngực. Các bs tiến hành chụp CT và sinh thiết. Kết quả ngày 29/12/2020 cho thấy bệnh nhân mắc ung thư phổi giai đoạn 4, loại biểu mô tuyến. Bệnh nhân được xét nghiệm gen và cho ra dương tính đột biến chèn gen EXON21 HER2. Bệnh nhân cũng được xét nghiệm bộc lộ miễn dịch PDL1 và có PDL1 ở mức thấp, chỉ 3%!

ĐIỀU TRỊ:

1
.Bệnh nhân trải qua 6 chu kỳ Hoá trị Carboplatin + Pemetrexed+ Bevacizumab nhưng ko đáp ứng, bệnh vẫn tiếp tục tiến triển trong giai đoạn từ tháng 3/2021 cho đến tháng 6/2021.

=>> Tháng 7/2021, bệnh nhân được đổi qua điều trị bước 2 bằng phác đồ Nedaplatin+ Abraxane+ Bevacizumab trong 3 chu kỳ. Kết quả bệnh đáp ứng một phần với sự co ngót của khối u nguyên phát ở phổi và các nốt di căn trong giai đoạn từ tháng 7/2021 cho đến tháng 9/2021. Do tình trạng thể chất kém, bệnh nhân DỪNG hoá trị và không điều trị duy trì kể từ tháng 10/2021.


=>> Đến tháng 4/2022, trải qua 6 tháng ko điều trị gì, bệnh quay đầu tiến triển với nhiều nốt di căn phổi xuất hiện. Bệnh nhân trở lại điều trị tiếp tục bằng phác đồ Gemcitabine+ Anlotinib+ Camrelizumab ( Thuốc Camrelizumab là Thuốc miễn dịch do Trung Quốc phát minh, mình đã viết về việc này cách đây 1 năm). Trải qua 2 chu kỳ, kết quả bệnh nhân KO đáp ứng khi các nốt di căn tăng kích cỡ kèm thêm xuất hiện một ổ tổn thương di căn não vào tháng 6/2022.


=>> Bệnh nhân được xạ não đồng thời đổi sang điều trị bằng phác đồ Cisplatin+ Abraxane+ Bevacizumab trong 2 chu kỳ. Khi kết thúc xạ trị, triệu chứng ho khan của bệnh nhân tăng trầm trọng, đi kèm với mức độ ung thư di căn nặng hơn vào tháng 8/2022.


Mặc dù Thuốc Enhertu đã được FDA phê duyệt trong điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen HER2 nhưng DO VẤN ĐỀ KINH TẾ, bệnh nhân KO thể tiếp cận được Enhertu. Sau khi hội chẩn và xin ý kiến từ gia đình người bệnh, các Bác sĩ quyết định điều trị cho bệnh nhân bằng Thuốc đích Furmonertinib liều 80mg/ngày.


2. Vào tháng 9/2022, sau 1 tháng điều trị bằng Furmonertinib liều 80mg/ngày, triệu chứng ho của bệnh nhân HOÀN TOÀN BIẾN MẤT. Khối u nguyên phát, các nốt di căn phổi và cả u não ĐỀU GIẢM KÍCH THƯỚC RÕ RỆT. Đến tháng 1/2023, các nốt di căn phổi được quan sát thấy tăng kích cỡ nhẹ. Các Bác sĩ quyết định tăng liều dùng Furmonertinib cho bệnh nhân lên 160mg/ngày. Chỉ sau 1 tháng tăng liều, vào tháng 2/2023, các nốt di căn phổi một lần nữa GIẢM KÍCH THƯỚC RÕ RỆT.


Sau 8 tháng dùng Furmonertinib, bệnh ko tiến triển và bệnh nhân vẫn trong trạng thái ổn định ở cả phổi và não.

=>> Đặc biệt, bệnh nhân dung nạp Furmonertinib rất tốt và ko có tác dụng phụ đáng chú ý nào xảy ra.









1000_F_601257186_LOfYSfO7L1JXlOvIHxCdfWoqBLr8V5gr.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
973
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 224: SƠ LƯỢC VỀ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ BỔ TRỢ CHO UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM.



Bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn sớm được chỉ định phẫu thuật với mục tiêu hướng đến là triệt căn-chữa khỏi. Để tăng hiệu quả điều trị thì TRƯỚC hoặc SAU mổ thường sẽ có phác đồ điều trị đi kèm.

Hôm nay chúng ta sẽ cùng điểm qua một số phác đồ nổi bật đi kèm mổ!


1.THUỐC ĐÍCH EGFR THẾ HỆ 3 OSIMERTINIB.

Vào hôm 18/12/2020, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt Thuốc đích Osimertinib làm điều trị bổ trợ SAU mổ đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 1B cho đến giai đoạn 3A dương tính đột biến gen EXON19 hoặc L858R.

Việc thông qua này dựa trên thành công của Nghiên cứu ADAURA. Nghiên cứu ADAURA chỉ ra rằng, Đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 1B cho đến giai đoạn 3A dương tính đột biến gen EXON19 hoặc L858R mà dùng Thuốc đích Osimertinib SAU mổ sẽ có lợi ích về sống còn toàn bộ. Bệnh nhân được chỉ định dùng bổ trợ Thuốc đích Osimertinib trong thời gian 3 năm. Liều dùng của Osimertinib là 80mg/ngày.


2. THUỐC ĐÍCH ALK THẾ HỆ 2 ALECTINIB.

Vào hôm 1/9/2023, Tập đoàn ROCHE đã cập nhật kết quả phase3 của nghiên cứu ALINA đồng thời gửi dữ liệu của nghiên cứu đến các cơ quan quản lý như FDA của Mỹ và EMA của Châu Âu.

Nghiên cứu ALINA chỉ ra đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 1B (>=4cm) cho đến giai đoạn 3A dương tính đột biến gen ALK mà dùng Thuốc đích Alectinib SAU mổ sẽ giúp GIẢM nguy cơ tái phát hoặc t.ử vong lên đến 76%. Bệnh nhân được chỉ định dùng bổ trợ Thuốc đích Alectinib trong thời gian 2 năm. Liều dùng của Alectinib là 8viên/ngày chia làm 2 lần, mỗi lần 4viên.

3. THUỐC MIỄN DỊCH ATEZOLIZUMAB.

Vào hôm 15/10/2021, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt Thuốc miễn dịch Atezolizumab làm điều trị bổ trợ SAU mổ và Hoá trị Platinum đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ từ giai đoạn 2 cho đến giai đoạn 3A sở hữu bộc lộ miễn dịch PDL1 >=1%.

Việc thông qua này dựa trên thành công của Nghiên cứu IMpower010 ( bệnh nhân trong nghiên cứu ko rõ tình trạng EGFR, ALK ). Nghiên cứu IMpower010 chỉ ra rằng, Đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ từ giai đoạn 2 cho đến giai đoạn 3A mà sở hữu bộc lộ miễn dịch PDL1 >=1% thì khi dùng bổ trợ thuốc miễn dịch Atezolizumab SAU mổ và hoá trị platinum sẽ giúp GIẢM rủi ro tái phát bệnh hoặc t.ử vong lên tới 34%. Bệnh nhân được chỉ định dùng bổ trợ Thuốc miễn dịch Atezolizumab trong thời gian 1 năm SAU khi phẫu thuật và hoá trị Platinum. Lịch truyền của Atezolizumab rất linh hoạt, bệnh nhân có thể chọn truyền 2 tuần 1 lần với liều 840mg hoặc 3 tuần 1 lần với liều 1200mg hoặc 4 tuần 1 lần với liều 1680mg.


4. THUỐC MIỄN DỊCH NIVOLUMAB.

Vào hôm 4/3/2022, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt Thuốc miễn dịch Nivolumab gộp với Hoá trị bộ đôi platinum làm điều trị tân bổ trợ TRƯỚC mổ đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IB ( >=4cm), giai đoạn 2 và giai đoạn 3A.


Việc thông qua này dựa trên thành công của Nghiên cứu CHECKMATE-816 ( bệnh nhân trong nghiên cứu âm tính với đột biến gen EGFR, ALK). Nghiên cứu CHECKMATE-816 chỉ ra rằng, Đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IB (>=4cm), giai đoạn 2 và giai đoạn 3A BẤT KỂ tình trạng bộc lộ miễn dịch PDL1 ra sao khi điều trị tân bổ trợ TRƯỚC mổ bằng phác đồ Nivolumab+ Hoá trị sẽ có trung vị sống thêm không sự kiện vượt trội so với phác đồ Hoá trị đơn độc, cụ thể là 31.6 tháng so với 20.8 tháng. Bệnh nhân được chỉ định dùng tân bổ trợ Thuốc miễn dịch Nivolumab+ Hoá trị bộ đôi platinum 3 tuần 1 lần lên tới 3 chu kỳ. Liều dùng khuyến cáo của Nivolumab là 360mg trong mỗi lần truyền.


5. THUỐC MIỄN DỊCH PEMBROLIZUMAB.


Vào hôm 16/10/2023, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt Thuốc miễn dịch Pembrolizumab gộp với Hoá trị platinum làm điều trị tân bổ trợ TRƯỚC mổ và dùng đơn độc thuốc miễn dịch SAU mổ đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 2, giai đoạn 3A hoặc giai đoạn 3B(N2).


Việc thông qua này dựa trên thành công của Nghiên cứu KEYNOTE-671 ( 68% bệnh nhân trong Nghiên cứu KO rõ tình trạng EGFR và 70% bệnh nhân KO rõ tình trạng ALK). Nghiên cứu KEYNOTE-671 chỉ ra rằng, Đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 2, giai đoạn 3A hoặc giai đoạn 3B(N2) khi điều trị tân bổ trợ TRƯỚC mổ bằng phác đồ Pembrolizumab+ Hoá trị Platinum 4 chu kỳ mỗi 3 tuần một rồi SAU mổ điều trị bằng Pembrolizumab 13 chu kỳ mỗi 3 tuần một sẽ giúp cải thiện thời gian sống còn toàn bộ với HR 0.72 ( 0.56-0.93). Đây là Nghiên cứu ĐẦU TIÊN chứng tỏ được lợi ích sống còn toàn bộ của Thuốc miễn dịch trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm.


BÀI HỌC RÚT RA:

=>>
Trong cùng một bối cảnh điều trị, các Nghiên cứu chồng chéo và đan xen lẫn nhau. Đi sâu vào từng thiết kế của mỗi nghiên cứu sẽ có những điểm đáng ngờ-ko chắc chắn. Công việc xử lý mớ dữ liệu hỗn độn này sẽ là của người có chuyên môn nhằm tìm ra phác đồ điều trị tối ưu tới TỪNG người bệnh!








internet-in-DNA.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top