[Funland] Ung thư phổi - Điều trị đích

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 239: TIN VUI CHO NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN DUNG HỢP GEN ROS1 ĐANG RƠI VÀO CẢNH HẾT BÀI.




Vào hôm 27/2, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã cấp Chỉ Định Liệu Pháp Đột Phá cho Thuốc đích Zidesamtinib của Tập đoàn dược phẩm Nuvalent. Thuốc đích Zidesamtinib được dùng cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính ROS1 trước đó đã trải qua điều trị ít nhất 2 loại thuốc đích ROS1.


Đột biến dung hợp gen ROS1 là một đột biến hiếm, nó xảy ra ở xấp xỉ 3% trong ung thư phổi không tế bào nhỏ. Tại thời điểm phát hiện bệnh, có tới 40% bệnh nhân ROS1 bị di căn não. Hiện nay chưa có tiêu chuẩn điều trị dành cho những bệnh nhân ROS1 đã trải qua điều trị bởi 2 hoặc nhiều hơn 2 loại Thuốc đích. Thuốc đích Zidesamtinib được ra đời với mục tiêu sẽ trở thành tiêu chuẩn ở phân nhóm bệnh nhân có tiên lượng xấu này.


Phê duyệt của FDA dựa theo dữ liệu ở phase 1/2 của Nghiên cứu ARROS-1.

->Như mình đã viết ở bài cũ. Năm 2024 được dự đoán sẽ là một năm bùng nổ về các loại Thuốc mới sẽ được phê duyệt!

Chúng ta cùng chờ xem!









FDA-approved-medication-1280x640.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 240: TIN VUI CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN CHÈN GEN EGFR EXON20.



Vào hôm 1/3/2024, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã chính thức phê duyệt phác đồ gộp Thuốc Amivantamab+ Hoá trị ( Carboplatin+ Pemetrexed) làm điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20.


Việc phê duyệt này dựa theo thành công của Nghiên cứu PAPILLON ( Mình đã viết ở bài cũ). Nghiên cứu PAPILLON chỉ ra Phác đồ gộp Amivantamab+ Hoá trị cho thời gian sống không bệnh tiến triển dài GẦN GẤP ĐÔI so với Phác đồ hoá trị đơn độc, cụ thể là 11.4 tháng so với 6.7 tháng.


=>> Khi xưa, đột biến chèn gen EGFR EXON20 là một câu đố khó xử lý hơn rất nhiều so với các đột biến gen cổ điển EXON19, L858R. Giờ đây, với sự ra đời của các thuốc mới và các phác đồ mới, đột biến chèn gen EGFR EXON20 sở hữu một tiên lượng sống còn tốt gần ngang ngửa khi so với các đột biến gen EGFR cổ điển. Từng bước từng bước một, các câu đố sẽ được bóc tách và giải quyết triệt để!!!







iStock-670645300-scaled.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 241: BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI SẼ CÓ ĐẦU RA SỐNG CÒN TỐT HƠN KHI ĐƯỢC TRUYỀN MIỄN DỊCH VÀO THỜI ĐIỂM SỚM TRONG NGÀY.


Ở bài cũ, chúng ta đã từng bàn đến việc chọn thời điểm truyền Thuốc miễn dịch trong ngày cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới sống còn của bệnh nhân ung thư. Hôm nay, chúng ta cùng trở lại chủ đề này, với mục tiêu tập trung riêng vào ung thư phổi.


Vào hôm 4/3/2024, Chuyên gia Tsuyoshi Hirata cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về việc chọn thời điểm truyền Thuốc miễn dịch trong ngày cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sống còn ở bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến triển cục bộ.


Nghiên cứu được thực hiện trên 82 bệnh nhân. Trung vị tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu là 69 ( IQR: 62-74). Có 67 bệnh nhân là nam giới ( chiếm 82%). Có 78 bệnh nhân ( chiếm 95%) có tiền sử hút thuốc. Trung vị số lần truyền Thuốc miễn dịch Durvalumab của mỗi bệnh nhân là 16 ( IQR: 8-24).

Kết quả cho thấy:

=>> Phân nhóm bệnh nhân sở hữu ít nhất 20% số lần truyền Thuốc miễn dịch Durvalumab SAU 15.00 giờ chiều có thời gian sống không bệnh tiến triển NGẮN HƠN đáng kể khi so với Phân nhóm bệnh nhân khác. Cụ thể là 7.4 tháng so với dữ liệu thậm chí còn chưa hoàn thiện ở nhóm khác.

=>> Phân nhóm bệnh nhân sở hữu ít nhất 20% số lần truyền Thuốc miễn dịch Durvalumab SAU 15.00 giờ chiều có thời gian sống còn toàn bộ NGẮN HƠN khi so với Phân nhóm bệnh nhân khác, dù rằng sự khác biệt này là chưa đủ ý nghĩa thống kê. Cụ thể là 22.4 tháng so với dữ liệu chưa hoàn thiện ở nhóm khác.

=>> Phân tích đa biến theo phương pháp từng bước loại trừ dần Stepwise Backward và phân tích theo phương pháp ghép cặp điểm xu hướng PSM cũng cho thấy những bệnh nhân sở hữu ít nhất 20% số lần truyền Thuốc miễn dịch Durvalumab SAU 15.00 giờ chiều sở hữu thời gian sống không bệnh tiến triển KÉM HƠN khi so với phân nhóm khác.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Thời điểm truyền Thuốc miễn dịch Durvalumab trong ngày cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả sống còn của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển cục bộ. Các nghiên cứu TIỀN CỨU cần được tiến hành để xác định mối liên hệ giữa thời điểm truyền miễn dịch trong ngày với hiệu quả sống còn của bệnh nhân”.





newseventsimage_1677775486009_mainnews2012_x1.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 242: NÊN DÙNG THUỐC MIỄN DỊCH HAY MIỄN DỊCH GỘP HOÁ TRỊ ĐỐI VỚI NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI TRÊN 75 TUỔI???


Phác đồ Miễn dịch gộp Hoá trị hiện là tiêu chuẩn chăm sóc cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ âm tính đột biến gen. Dù vậy, đối với phân nhóm bệnh nhân cao tuổi, mà cụ thể là từ 75 tuổi trở lên thì hiện có ít dữ liệu về lợi ích của Phác đồ gộp này.


Vào hôm 7/3/2024 Chuyên gia Yoko Tsukita cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về việc nên dùng Thuốc miễn dịch hay miễn dịch gộp hoá trị khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ từ 75 tuổi trở lên.


Nghiên cứu được thực hiện tại 58 Trung tâm y tế trên toàn Nhật Bản. Tổng số 1245 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu. Bệnh nhân trong nghiên cứu là những người từ 75 tuổi trở lên, được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn 3B, 3C, 4, đã trải qua phẫu thuật hoặc tái phát sau xạ trị và đều chưa trải qua một liệu pháp điều trị toàn thân nào.


Trung vị tuổi của bệnh nhân là 78 (75-95), với 967 ( chiếm 78%) bệnh nhân là nam giới. Tình trạng bộc lộ miễn dịch PDL1 của bệnh nhân trong nghiên cứu cụ thể là:

->PDL1 ít hơn 1%: 268 bệnh nhân ( chiếm 22%).
->PDL1 từ 1% đến 49%: 387 bệnh nhân ( chiếm 31%).
->PDL1 trên 50%: 410 bệnh nhân ( chiếm 33%).
->PDL1 ko rõ ở 180 bệnh nhân ( chiếm 14%).


Kết quả cho thấy:

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 20 tháng ở phân nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác đồ Miễn dịch gộp Hoá trị ( 354 bệnh nhân, chiếm 28%).

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 19.8 tháng ở phân nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác đồ Miễn dịch đơn độc ( 425 bệnh nhân, chiếm 34%).

=>> Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 12.8 tháng ở phân nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác đồ Hoá trị bộ đôi platinum ( 311 bệnh nhân, chiếm 25%).

=>>Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 9.5 tháng ở phân nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác đồ Hoá trị đơn chất ( 155 bệnh nhân, chiếm 12%).

=>> Phân tích theo phương pháp ghép cặp điểm xu hướng PSM cho thấy KO CÓ KHÁC BIỆT về thời gian sống còn toàn bộ cũng như thời gian sống không bệnh tiến triển ở những bệnh nhân điều trị bằng phác đồ gộp Miễn dịch+ Hoá trị và phác đồ Miễn dịch đơn độc.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Phác đồ Miễn dịch gộp Hoá trị KO cải thiện sống còn toàn bộ và làm tăng tỷ lệ mắc tác dụng phụ khi so với Phác đồ Miễn dịch đơn độc trên phân nhóm bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên. Dựa theo những kết quả này, chúng tôi khuyến cáo điều trị bằng phác đồ Miễn dịch đơn độc đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ lớn tuổi và dương tính bộc lộ miễn dịch PDL1 ”.







GettyImages-516336068.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 243: NHẮC NHỞ NHỮNG BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐÍCH: CẨN THẬN VỚI THUỐC DẠ DÀY-NÓ CÓ THỂ GÂY HẠI ĐẾN SỐNG CÒN CỦA BẠN!!!



1
.Thuốc ức chế bơm proton là một trong những loại thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trong thực hành lâm sàng. Thuốc ức chế bơm proton được dùng để điều trị các bệnh như trào ngược dạ dày thực quản, loét dạ dày tá tràng, ợ nóng, tăng tiết acid dịch vị, trào ngược acid… Hiện nay trên thị trường có các loại thuốc ức chế bơm proton điển hình như:
-Omeprazol
-Lansoprazol
-Pantoprazol
-Dexlansoprazole
-Esomeprazol



Bệnh nhân ung thư phổi trong quá trình điều trị thi thoảng sẽ gặp những vấn đề về dạ dày và được chỉ định dùng Thuốc ức chế bơm proton. Các nghiên cứu trước đây đã từng chỉ ra sự tương tác giữa thuốc ức chế bơm proton với Thuốc đích ức chế protein kinase. Sự tương tác này khiến hiệu quả của Thuốc đích bị giảm. Vậy sự tương tác này liệu có ảnh hưởng tới sống còn của bệnh nhân không???



2. Vào cuối tháng 2/2024, Chuyên gia Constance Bordet cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về ảnh hưởng CÓ HẠI của Thuốc ức chế bơm proton tới sống còn của bệnh nhân ung thư phổi đang điều trị bằng thuốc đích ức chế protein kinase.


Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu chăm sóc y tế quốc gia Pháp trong 10 năm kể từ ngày 1/1/2011 cho tới ngày 31/12/2021. Tổng cộng 34048 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu. Bệnh nhân trong nghiên cứu dùng các loại Thuốc đích Erlotinib, Gefitinib, Afatinib và Osimertinib. Cụ thể là:

->Có 26133 bệnh nhân dùng thuốc đích Erlotinib ( chiếm 76.8%).
->Có 3142 bệnh nhân dùng thuốc đích Gefitinib ( chiếm 9.2%).
->Có 1417 bệnh nhân dùng thuôc đích Afatinib ( chiếm 4.2%).
->Có 3356 bệnh nhân dùng thuốc đích Osimertinib ( chiếm 9.9%).

Kết quả cho thấy:

=>> Những bệnh nhân đồng thời phơi nhiễm tương tác Thuốc đích với Thuốc ức chế bơm proton trong khoảng thời gian lớn hơn hoặc bằng 20% thời gian điều trị Thuốc đích sẽ có nguy cơ tử vong TĂNG so với những bệnh nhân khác với tỷ số nguy hại HR là 1.6 ( 95%CI, 1.57-1.64). Khi khoảng thời gian phơi nhiễm tương tác thay đổi từ lớn hơn hoặc bằng 10% cho tới lớn hơn hoặc bằng 80% thời gian điều trị Thuốc đích thì tỷ số nguy hại HR tăng từ 1.46 cho đến 2.19.

3. Nhóm nghiên cứu kết luận:

=>> Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguy cơ tử vong TĂNG đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng kết hợp Thuốc đích với Thuốc ức chế bơm proton. Đối với những bệnh nhân đang dùng Thuốc đích, bác sĩ điều trị cần CÂN NHẮC LỢI-HẠI khi kê thuốc ức chế bơm proton. Liều lượng khi kê thuốc ức chế bơm proton cũng cần được tính toán cẩn thận. Nếu ko thực sự cần thiết thì NÊN NGỪNG thuốc ức chế bơm proton.




BÀI HỌC RÚT RA:

=>>
Tuy nghiên cứu chỉ được thực hiện cụ thể trên 4 loại thuốc đích dành cho gen EGFR là Erlotinib, Gefitinib, Afatinib và Osimertinib NHƯNG Thuốc đích ức chế protein kinase mà nghiên cứu đề cập lại gần như là tất cả các loại thuốc đích mà bệnh nhân ung thư phổi Việt Nam đang sử dụng. Thuốc ức chế protein kinase là những loại thuốc đích rất quen thuộc như Alectinib, Brigatinib, Capmatinib, Ceritinib, Crizotinib, Dabrafenib, Dacomitinib, Entrectinib, Lorlatinib, Mobocertinib, Selpercatinib, Sotorasib, Tepotinib, Trametinib…

Bởi vậy, nếu bạn là một bệnh nhân ung thư phổi và đang điều trị bằng thuốc đích. Hãy THẬT SỰ CẨN THẬN khi sử dụng Thuốc ức chế bơm proton để điều trị các vấn đề về dạ dày, tá tràng…

=>> Tốt nhất, KO ĐƯỢC TỰ TIỆN mua thuốc sử dụng mà ko có sự đồng ý và theo dõi của bác sĩ điều trị.






2-burping.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 244: THỜI GIAN SỐNG CÒN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI EGFR SẼ GIẢM MỘT NỬA NẾU SỞ HỮU CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG XẤU.



1.
Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib đã trở thành tiêu chuẩn chăm sóc BƯỚC ĐẦU cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển dương tính đột biến gen EGFR EXON 19 hoặc L858R. Tiêu chuẩn chăm sóc này được thiết lập nhờ thành công của nghiên cứu FLAURA. Dù vậy, như bất cứ nghiên cứu nào khác, FLAURA sở hữu một thiết kế riêng đồng thời nó cũng yêu cầu những bệnh nhân tham gia phải thoả mãn một số điều kiện nhất định. Việc này dẫn đến một chân lý đơn giản-> Có chọn lọc đầu vào thì cũng sẽ có chọn lọc đầu ra!!!



Câu chuyện ở trong thế giới thực thường KHÁC với câu chuyện ở trong nghiên cứu. Bệnh nhân khi đến với Viện sẽ sở hữu 3 vạn 9 nghìn bệnh cảnh-mỗi người một khác. Có người thì đáp ứng tiêu chí của FLAURA nhưng cũng có người thì KO đáp ứng tiêu chí của FLAURA. Tiên lượng sống còn cho những người đáp ứng tiêu chí FLAURA thì đã quá rõ rồi, vậy những người ko đáp ứng tiêu chí FLAURA thì đầu ra sống còn của họ sẽ thế nào khi mà họ cũng được điều trị bởi cùng một phác đồ giống với nhóm thoả mãn ???



2. Vào hôm 4/3/2024, Chuyên gia J. Connor Wells cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về đầu ra sống còn của những bệnh nhân KO đáp ứng tiêu chí FLAURA khi điều trị bước đầu bằng Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib. Nghiên cứu được thực hiện kể từ tháng 1/2020 cho đến tháng 10/2021, tổng số 311 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính đột biến gen EGFR đã được đưa vào nghiên cứu. Toàn bộ 311 bệnh nhân đều được điều trị BƯỚC ĐẦU bằng Thuốc đích thế hệ 3 Osimertinib. Tại trung vị thời gian theo dõi 26.5 tháng, trung vị thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân trong nghiên cứu là 27.4 tháng. Lấy tiêu chí tuyển bệnh nhân của nghiên cứu FLAURA làm điều kiện. Bệnh nhân trong nghiên cứu khi đó sẽ được chia làm 2 phân nhóm:

-> Nhóm KO thoả mãn tiêu chí FLAURA: Có 137 bệnh nhân ( chiếm 44%). Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của nhóm này CHỈ LÀ 15.8 tháng!!!
-> Nhóm thoả mãn tiêu chí FLAURA : Có 174 bệnh nhân ( chiếm 56%). Trung vị thời gian sống còn toàn bộ của nhóm này đạt 34.2 tháng.


Con số 15.8 tháng so với 34.2 tháng cho thấy nhóm bệnh nhân KO thoả mãn tiêu chí FLAURA có thời gian sống còn toàn bộ ÍT HƠN 18 THÁNG so với nhóm bệnh nhân thoả mãn tiêu chí FLAURA!!! Tức thời gian sống còn CHỈ BẰNG MỘT NỬA!!!



3
. Lý do nhóm bệnh nhân KO thoả mãn tiêu chí FLAURA là bởi họ sở hữu một trong các yếu tố sau:

->Chỉ số toàn trạng ECOG lớn hơn hoặc bằng 2. Chỉ số ECOG được dùng để đánh giá lâm sàng và hoạt động thể chất của bệnh nhân. Chỉ số ECOG được chia theo thang điểm 0,1,2,3,4,5. Trong đó, 0 là bệnh nhân hoàn toàn ko có triệu chứng gì, 1 là có triệu chứng nhưng vẫn đi lại được dễ dàng, 2 là có triệu chứng và nằm giường ít hơn 50% thời gian trong ngày, 3 là có triệu chứng và nằm giường lớn hơn 50% thời gian nhưng không liệt giường, 4 là liệt giường và 5 là tử vong.
->Có triệu chứng gây ra bởi di căn não hoặc chèn ép tuỷ sống.
->Thiếu máu.
->Giảm tiểu cầu.
->Độ thanh thải Creatinine thấp.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Trong nghiên cứu trên cộng đồng này, gần một nửa số bệnh nhân KO đáp ứng tiêu chí mà nghiên cứu FLAURA đề ra. Thời gian sống còn toàn bộ của nhóm bệnh nhân này NGẮN HƠN 18 THÁNG so với nhóm bệnh nhân thoả mãn. Cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để cải thiện sống còn ở nhóm bệnh nhân này”.


BÀI HỌC RÚT RA:

Bất kỳ nghiên cứu nào trên đời này được thiết kế ra cũng chỉ để hướng tới một nhóm bệnh nhân riêng biệt. Nhìn nhận sự chủ quan và đánh đồng của nghiên cứu ở mức độ nào, để rồi từ đó áp dụng nghiên cứu cho nhóm đối tượng phù hợp là công việc mà người có chuyên môn cần thực hiện.
->Nếu đi theo nghiên cứu đó, bệnh nhân được tiên lượng tốt, mọi chuyện mỹ mãn.
->Nếu đi theo nghiên cứu đó, bệnh nhân được tiên lượng kém, vậy nên xử trí thế nào trong trường hợp này? Có thể áp dụng những cách khác bù đắp vô sự thiệt thòi đó ko?
Khái niệm BỆNH CẢNH là vô cùng quan trọng. Mỗi người mỗi khác- KO AI GIỐNG AI!






khach-quan-la-gi.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 245: THÊM MỘT THUỐC ĐÍCH ALK NỮA SẮP ĐƯỢC TUNG RA THỊ TRƯỜNG TOÀN CẦU. BỆNH NHÂN NGÀY CÀNG CÓ NHIỀU LỰA CHỌN.



1
.Vào hôm 13/3/2024, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã chấp nhận hồ sơ đăng ký thuốc mới Ensartinib của Tập đoàn dược phẩm Betta Pharmaceuticals đến từ Trung Quốc. Thông thường 10 tháng sẽ là khoảng thời gian từ lúc FDA nhận hồ sơ đăng ký thuốc mới cho tới khi phê duyệt hoàn toàn. Dự kiến cuối năm 2024, Thuốc đích ALK Ensartinib sẽ chính thức được phê duyệt.


Hồ sơ đăng ký Ensartinib gửi tới FDA là ở trong điều trị BƯỚC ĐẦU dành cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính ALK.


Thuốc Ensartinib là một loại Thuốc đích ALK thế hệ 2. Nó đã chứng minh được hiệu quả thông qua nghiên cứu EXALT3. Nghiên cứu EXALT3 là một nghiên cứu có quy mô toàn cầu diễn ra ở 120 Trung Tâm Y Tế trải dài trên 21 quốc gia. Nghiên cứu EXALT3 được thiết kế để so sánh đối đầu giữa Thuốc đích Ensartinib với thuốc đích thế hệ 1 Crizotinib. Kết quả:

=>> Thuốc đích Ensartinib có trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển DÀI GẤP ĐÔI khi so với Crizotinib. Cụ thể là 25.8 tháng so với 12.7 tháng.

=>> Thuốc đích Ensartinib cũng sở hữu khả năng lên não ấn tượng, với tỷ lệ đáp ứng nội sọ cao GẤP BA khi so với Crizotinib. Cụ thể là 64% so với 21%.


2. Hiện Thuốc đích Ensartinib cũng đang được nghiên cứu trong vai trò BỔ TRỢ sau mổ đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 2-3B dương tính ALK.










100pei.com_2020-11-19_13-29-44.jpg
 

lollipop8x

Đi bộ
Biển số
OF-307781
Ngày cấp bằng
14/2/14
Số km
7
Động cơ
300,233 Mã lực
Các cụ cho e hỏi. Con bé nhà e bị U nguyên bào thần kinh Giai đoạn 4 di căn xương và tuỷ xương. Đã hoá trị 14 đợt nhưng khi làm hoá mô miễn dịch thì vẫn dương tính ở phần xương đùi (chụp xạ hình xương và Pet-CT thì không lên).
Bh nhà e cũng hết cách rùi vì sau đợt này có thể phải dừng điều trị không được vào ghép vì vẫn còn dương tính như kia. Nhà e đang định dùng thêm thuốc nam của bác Thành Mắt. Các cụ có thể mách nước cho e có nên không ạ :(
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
Các cụ cho e hỏi. Con bé nhà e bị U nguyên bào thần kinh Giai đoạn 4 di căn xương và tuỷ xương. Đã hoá trị 14 đợt nhưng khi làm hoá mô miễn dịch thì vẫn dương tính ở phần xương đùi (chụp xạ hình xương và Pet-CT thì không lên).
Bh nhà e cũng hết cách rùi vì sau đợt này có thể phải dừng điều trị không được vào ghép vì vẫn còn dương tính như kia. Nhà e đang định dùng thêm thuốc nam của bác Thành Mắt. Các cụ có thể mách nước cho e có nên không ạ :(
KHÔNG dùng rau thuốc thành mắt Cụ nhé! Theo đến cùng Viện, bác sĩ điều trị và tây y cụ ạ!
Nếu Viện bảo ko còn phương án nào khả thi nữa thì khi ấy đối diện vs sự thật và làm cho mọi chuyện nhẹ nhõm hơn chứ quyết KHÔNG để bọn lang băm nó lợi dụng tâm lý chết đuối tìm cọc cụ ạ- Tiền mất, bệnh ko đỡ mà lại đau đớn thêm!
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 246: ĐI TÌM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ TỐI ƯU CHO ĐỘT BIẾN HIẾM.


Vào hôm 16/3/2024, Chuyên gia Maxime Borgeaud cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về hiệu quả của 3 Thế hệ thuốc đích khi dùng làm điều trị cho những đột biến hiếm trong ung thư phổi không tế bào nhỏ EGFR.

Nghiên cứu được thực hiện trên dữ liệu của 1836 bệnh nhân được lấy từ 38 nghiên cứu khác nhau. Bệnh nhân trong nghiên cứu chủ yếu được điều trị bằng đích thế hệ 1 hoặc thế hệ 2 ( chiếm 92.6%).

1.Kết quả cho thấy:

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến hiếm G719X, S768I, E709X, L747X, E709-T710delinsD có tỷ lệ đáp ứng trong phạm vi từ 47.8% cho tới 72.3% khi dùng Thuốc đích thế hệ 2. Con số này thường cao hơn khi so với dùng Thuốc đích thế hệ 1 hoặc thế hệ 3.

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến hiếm L861Q có tỷ lệ đáp ứng 75% khi dùng Thuốc đích thế hệ 3.

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến phức hợp ( tức là bệnh nhân đó có liền lúc 2 đột biến và ít nhất 1 trong 2 đột biến đó là đột biến hiếm ) trong đó có đột biến hiếm G719X, E709X, S768I sẽ có tỷ lệ đáp ứng trên 50% khi dùng Thuốc đích thế hệ 2 hoặc thế hệ 3.



2. Hiện nay, việc coi một đột biến thuộc dạng hiếm hay dạng phổ biến ( cổ điển) thường được quyết định bởi tỷ lệ mà nó xuất hiện trong lâm sàng. Nếu đột biến đó hay xuất hiện- vậy nó là đột biến cổ điển. Nếu đột biến đó ít xuất hiện- vậy nó là đột biến hiếm. Sự phân loại này có 1 nhược điểm rất lớn là thay vì tập trung vào BẢN CHẤT của đột biến thì lại đi tập trung vào sự chủ quan xuất hiện ít nhiều. Từ đó dẫn đến một sự bối rối cho các bác sĩ điều trị khi tìm phương án điều trị cho những đột biến không điển hình- ít gặp ( nên nhớ hiện thế giới đã định danh được HƠN 70 LOẠI ĐỘT BIẾN GEN EGFR KHÁC NHAU nhưng thuốc hiện có chỉ được phê duyệt chính thức cho một ít trong số đó). Vào tháng 9/2021, một nhóm Chuyên gia tại Viện ung thư số 1 thế giới MD Anderson đã đề xuất một cách tiếp cận khác trong việc phân loại đột biến gen EGFR. Thay vì phân loại theo tiêu chí xuất hiện ít nhiều, nhóm nghiên cứu đề xuất phân loại đột biến gen EGFR theo cấu trúc phân tử của đột biến. Qua đó nhóm nghiên cứu phân loại đột biến gen EGFR ra thành 4 nhóm :
+Nhóm giống cổ điển.
+Nhóm giống T790M.
+Nhóm chèn vòng EXON20.
+Nhóm nén vòng xoắn alpha và vòng P ( PACC ).
Nếu lấy tiêu chí phân loại đột biến gen EGFR do nhóm chuyên gia tại Viện MD Anderson đề xuất thì kết quả cho thấy:

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến thuộc nhóm giống cổ điển khi dùng Thuốc đích thế hệ 1,2,3 sẽ cho tỷ lệ đáp ứng lần lượt là 35.4%, 51.9% và 67.9%.

=>> Bệnh nhân sở hữu đột biến thuộc nhóm PACC khi dùng Thuốc đích thế hệ 1,2,3 sẽ cho tỷ lệ đáp ứng lần lượt là 37.2%, 59.6% và 46.3%.



Nhóm nghiên cứu kết luận:” Qua nghiên cứu này, chúng tôi ủng hộ việc sử dụng Thuốc đích thế hệ 2 cho các đột biến G719X, S768I, E709X và L747X cũng như các đột biến hiếm phức hợp. Các đột biến hiếm khác như L861Q có thể sử dụng Thuốc đích thế hệ 3. Đối với những đột biến thuộc nhóm PACC, tỷ lệ đáp ứng cao hơn thường được thấy khi sử dụng Thuốc đích thế hệ 2. Trong tương lai, khi độ nhạy của các kỹ thuật xét nghiệm gen được cải thiện cũng như việc áp dụng kỹ thuật xét nghiệm gen NGS trên toàn cầu được tăng lên, kết quả tìm thấy các đột biến EGFR không điển hình sẽ tăng lên tương ứng. Chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn nữa cho phân nhóm bệnh nhân này”.






egfr.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 247: TIN VUI CHO NHỮNG BỆNH NHÂN ĐANG DÙNG PHÁC ĐỒ HOÁ TRỊ GỘP ĐÍCH. DỮ LIỆU TỪ PHÂN TÍCH SỚM CHO THẤY PHÁC ĐỒ GỘP CÓ XU HƯỚNG CẢI THIỆN THỜI GIAN SỐNG CÒN TOÀN BỘ!!!



1
.Phác đồ gộp Hoá trị+ Đích thế hệ 3 Osimertinib đã được mình bàn rất nhiều lần trên nhóm.

->Chúng ta bàn về việc phác đồ gộp này đã nhận được phê duyệt chính thức từ Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA.
->Chúng ta bàn về việc phân nhóm bệnh nhân dương tính ĐỘT BIẾN GEN L858R và phân nhóm bệnh nhân DI CĂN NÃO thực sự là 2 ứng cử viên nên ưu tiên cho phác đồ gộp.

Phác đồ gộp Hoá trị+ Đích cho thời gian sống không bệnh tiến triển vượt trội khi so với phác đồ Đích đơn độc. Vậy lợi ích về thời gian sống không bệnh tiến triển liệu có đi kèm với lợi ích sống còn toàn bộ??? Đáp án cho câu hỏi này đang dần hé mở những ánh sáng đầu tiên!


2. Hội nghị Ung thư phổi Châu Âu 2024 năm nay được tổ chức trong 4 ngày, kể từ ngày 20/3 cho tới ngày 23/3/2024 tại Thủ đô Praha Cộng Hoà Séc.
Tại ngày thứ 2 của Hội Nghị, Chuyên gia Natalia Valdiviezo đã cập nhật dữ liệu mới nhất của nghiên cứu FLAURA2.
Kết quả cho thấy:

=>> Thời điểm hiện tại, khi dữ liệu hoàn thiện ở mức 41%, một phân tích tạm thời cho thấy xu hướng CÓ CẢI THIỆN sống còn toàn bộ ở nhánh phác đồ gộp Hoá trị+ Thuốc đích th3 Osimertinib, với tỷ số nguy hại HR là 0.75 ( 95% CI 0.57-0.97). Dù chưa đạt được ý nghĩa thống kê tại phân tích đánh giá tạm thời lần này, nhưng dữ liệu sống còn toàn bộ sẽ tiếp tục được đánh giá như một tiêu chí quan trọng trong lần cập nhật cuối cùng.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 1 năm ở nhánh phác đồ gộp Hoá trị+ đích Osimertinib và nhánh đích Osimertinib đơn độc lần lượt là 92% và 89%.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 2 năm ở nhánh phác đồ gộp Hoá trị+ đích Osimertinib và nhánh đích Osimertinib đơn độc lần lượt là 80% và 72%.

=>> Tỷ lệ bệnh nhân đạt mốc sống còn 3 năm ở nhánh phác đồ gộp Hoá trị+ đích Osimertinib và nhánh đích Osimertinib đơn độc lần lượt là 64% và 50%.

Chúng ta cùng chờ xem!









wp6895712-prague-4k-hd-wallpapers.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 248: TIN VUI CHO NHỮNG BỆNH NHÂN ÂM TÍNH ĐỘT BIẾN GEN BỊ DI CĂN NÃO-ÁP DỤNG LIỆU PHÁP ĐIỆN TRƯỜNG CÓ THỂ GIÚP TĂNG GẤP ĐÔI THỜI GIAN KIỂM SOÁT DI CĂN NÃO!!!



1
.Cách đây 1 năm chúng ta đã từng bàn về vai trò của Liệu pháp điện trường trong điều trị ung thư phổi thông qua nghiên cứu LUNAR. Nghiên cứu LUNAR tuy cho ra kết quả tích cực, nhưng nhiều chuyên gia khi phản biện đã chỉ ra lỗi trong thiết kế của nghiên cứu. Cho đến thời điểm hiện tại, LUNAR chưa mang lại thay đổi nào trong thực hành lâm sàng cả.

Dù vậy, Liệu pháp điện trường có vẻ như đã tìm được cho mình một phân nhóm bệnh nhân phù hợp!!!


2. Vào hôm 27/3/2024 Công ty Novocure đã cập nhật kết quả phase3 của Nghiên cứu METIS. Nghiên cứu METIS được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Liệu pháp điện trường TTFields và Chăm Sóc Hỗ Trợ so với Chăm Sóc Hỗ Trợ đơn độc trong điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não ( số lượng u di căn não tối thiểu là 1 ổ và tối đa là 10 ổ ) SAU KHI đã trải qua xạ phẫu.

Chăm Sóc Hỗ Trợ là bao gồm những việc như dùng thuốc chống động kinh, thuốc chống đông máu, thuốc giảm đau, thuốc chống nôn…

Nghiên cứu METIS KO TUYỂN bệnh nhân dương tính đột biến gen đang có sẵn Thuốc Đích. Bệnh nhân trong nghiên cứu đến từ những nước Mỹ, Áo, Bulgaria, Canada, Trung Quốc, Croatia, Pháp, Đức, Hồng Kong, Hungary, Israel, Ý, Ba Lan, Serbia và Tây Ban Nha. Tổng số 298 bệnh nhân đã được tuyển vô nghiên cứu. Trung vị thời gian điều trị bằng Liệu pháp điện trường TTFields là 4 tháng. Kết quả cho thấy:

=>> Nhóm bệnh nhân được điều trị bằng Liệu pháp điện trường TTFields và Chăm Sóc Hỗ Trợ có thời gian tiến triển nội sọ DÀI GẤP ĐÔI so với nhóm bệnh nhân được Chăm Sóc Hỗ Trợ đơn độc, cụ thể là 21.9 tháng so với 11.3 tháng. Liệu pháp điện trường TTFields cho dung nạp tốt khi chất lượng cuộc sống và nhận thức thần kinh của bệnh nhân được đảm bảo. Điện trường được cung cấp bởi thiết bị có tên NovoTTF-200M. Bệnh nhân sẽ phải đeo thiết bị này liên tục bên mình trong thời gian điều trị.

Nghiên cứu METIS dự kiến sẽ được hoàn thành vào cuối năm 2024!


QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:

=>>
Liệu pháp điện trường TTFields khi áp dụng cho di căn não sẽ giống như xạ toàn não mà ko có độc tố vậy. Thật thú vị!

=>> Xạ phẫu được lặp lại cũng ko gây hại nhiều đến nhận thức thần kinh của bệnh nhân. Tôi nghĩ bệnh nhân sẽ phải quyết định xem họ thích phương pháp Xạ phẫu nhiều lần-khi cần phải sử dụng HAY họ sẽ chọn Liệu pháp điện trường với điều kiện phải đeo thiết bị NovoTTF-200M liên tục bên mình??? Tôi sẽ đợi xem dữ liệu toàn bộ của nghiên cứu trước khi kết luận vai trò thực sự của Liệu pháp điện trường trong di căn não.





metis_body_02.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 249: BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN CUỐI SỐNG KHOẺ MẠNH Ở NĂM THỨ 18!!!



Tầm 6,7 năm trước mình đã nhắc đến Dann Wonser!
Dann Wonser là một bệnh nhân ung thư phổi nổi tiếng người Mỹ. Cho đến tận ngày hôm nay, Dann Wonser đã ở trên hành trình chiến đấu ung thư được 18 năm! Ông vẫn khoẻ mạnh, vẫn tập thể thao và vẫn đóng góp cho cộng đồng ung thư một cách đều đặn.

--------------

HÀNH TRÌNH CỦA DANN WONSER



Vào tháng 7/2006, Tôi gặp một tai nạn và bị gãy xương sườn. Khi nhập viện điều trị, trải qua các xét nghiệm và chụp chiếu, các bác sĩ tình cờ phát hiện ra có rất nhiều đốm nhỏ li ti trong phổi của tôi. Một loạt các thủ thuật chuyên sâu được thực hiện- kết luận tôi mắc ung thư phổi giai đoạn 3 ở tuổi 49!!! Vào năm 2006 lựa chọn điều trị khi ấy chỉ có hoá trị, xạ trị và phẫu thuật.


Tôi đã trải qua phẫu thuật và hoá trị. Việc này giúp tôi đạt được NED trong thời gian 5 năm. ( NED là viết tắt của cụm từ no evidence of disease- KO có bằng chứng của bệnh).

Vào năm 2011, trong 1 lần tái khám, bác sĩ kết luận ung thư của tôi tái phát, rất nhiều đốm nhỏ xuất hiện lại trong phổi và bệnh lúc này đã chuyển sang giai đoạn 4. Thời điểm năm 2011, Thuốc đích đã có sẵn nhưng kết quả xét nghiệm gen trả về tôi âm tính với 2 đột biến gen có thể điều trị. Bác sĩ ung thư của tôi thừa nhận Ông ấy KO PHẢI CHUYÊN GIA VỀ UNG THƯ PHỔI, Ông ấy khuyên tôi nên đi tìm một bác sĩ khác- một người thực sự là chuyên gia về bệnh của tôi. Vì vậy, song song với việc đi tìm một chuyên gia có thể cậy nhờ, tôi cũng bắt đầu lên kế hoạch cho đám tang của mình- lần thứ 2 trong 5 năm! Lúc đó tôi nghĩ mình chỉ còn vài tháng để sống!!


Bắt đầu hành trình mới với một bác sĩ mới, Tôi trải qua hoá trị và được xét nghiệm lại đột biến gen. Lần này họ xét nghiệm cho tôi trên một phổ gen rộng hơn, tổng cộng là 34 đột biến. Kết quả trả về tôi DƯƠNG TÍNH với đột biến gen EGFR EXON19.


Tôi tiếp tục hoàn thành lộ trình hoá trị của mình. Kết thúc đợt hoá trị tấn công, tôi chuyển sang duy trì bằng Thuốc Avastin. Trải qua 7 tháng duy trì Avastin, bên cạnh huyết áp tăng vọt, thận của tôi có vấn đề khi được chẩn đoán mắc Protein niệu. Tôi đã dừng truyền Avastin và ko điều trị thêm bất cứ gì khác trong 11 tháng tiếp theo.


Dựa vào kết quả dương tính đột biến gen EGFR EXON19, Bác sĩ kê cho tôi Thuốc đích Tarceva. Ung thư giờ đã di căn sang xương nên tôi đã phải xạ trị để giảm đau. Tarceva thực sự là một viên thuốc tuyệt vời, nó đã đưa tôi trở về cuộc sống gần như trước kia. Trước khi dùng Tarceva, tôi thậm chí còn phải dùng xe lăn để đi lại. Từ khi dùng nó, tôi đã có thể quay lại phòng gym để tập thể dục!!!


Trải qua 13 tháng dùng Tarceva, Bác sĩ kết luận tôi bị kháng thuốc và ung thư đang tiến triển trở lại. Với trường hợp của tôi- Ông ấy không có phương án nào khác ngoài xạ trị và hoá trị. May mắn một lần nữa lại mỉm cười, Y Học đã phát triển bắt kịp đúng với thời điểm mà tôi cần nó nhất. Tôi được thông báo về một thử nghiệm lâm sàng đang tuyển bệnh nhân cho một thuốc mới có tên là AZD9291 (Tagrisso). Ba ngày trước khi thử nghiệm dừng tuyển, tôi đã sắp xếp được cuộc gặp đầu tiên và đăng ký thành công…


----------

Hành trình 18 năm ko thể tóm tắt bằng vài dòng, nhưng có thể liệt kê sơ lược về các phác đồ điều trị mà Dann đã trải qua như sau:
->Phẫu thuật cắt thuỳ trên phổi trái.
->Hoá trị.
->Xạ trị.
->Trải qua 3 loại Thuốc đích.
->Thuốc miễn dịch.
->Tham gia 3 thử nghiệm lâm sàng.

Hiện nay ( 3/2024), Dann đang tham gia 1 thử nghiệm lâm sàng để giải quyết bài toán kháng thuốc. Trải qua 18 năm điều trị ung thư, “ kháng thuốc “ ko phải điều gì quá xa lạ với Dann, Dann đã NHIỀU LẦN trị kháng thành công và lần này chắc chắn cũng ko phải ngoại lệ!!!

Chúng ta cùng cầu chúc cho Dann và cầu chúc cho chính mình!

(Ảnh Dann chụp vào đầu năm 2024).







Dann+Baldy+Jan2024.jpg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 250: UNG THƯ PHỔI Ở NHỮNG NGƯỜI CHƯA BAO GIỜ HÚT THUỐC.



Ung thư phổi được coi là sát thủ hàng đầu khi nó chiếm tới gần 20% tổng số ca tử vong do ung thư trên toàn cầu. Phần lớn các trường hợp được chẩn đoán mắc ung thư phổi là trên nhóm người có tiền sử hút thuốc lá. Dù vậy, vào năm 2023, hơn 20000 ca tử vong do ung thư phổi đã được ghi nhận ở những người chưa bao giờ hút thuốc!

Vào đầu năm 2024, Chuyên gia Alexander Gusev cùng các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu về các đặc điểm nổi bật ở nhóm đối tượng bệnh nhân ung thư phổi chưa bao giờ hút thuốc.

=>> Trong bảng xếp hạng các nguyên nhân hàng đầu gây tử vong bởi ung thư:
+ Tại Mỹ, Ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc đứng thứ 8.
+ Trên phạm vi toàn cầu, ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc leo lên hạng 5!!!

=>> Tỷ lệ mắc ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc ngày càng tăng.

=>> Ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc có tình trạng mô học và đặc điểm dịch tễ học khác với ung thư phổi ở những người có tiền sử hút thuốc. Về tình trạng mô học, ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc chủ yếu là dạng biểu mô tuyến. Về đặc điểm dịch tễ học, ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc chủ yếu xảy ra ở phụ nữ và những người gốc Á.

=>> Ung thư phổi ở những người chưa bao giờ hút thuốc thường có đột biến gen, gánh nặng đột biến khối u TMB thấp, và tỷ lệ dương tính với bộc lộ miễn dịch PDL1 thấp.

=>> Những người chưa bao giờ hút thuốc mắc ung thư phổi có thể do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân thường được biết đến nhất là do đột biến somatic. Bên cạnh đó, các nguyên nhân khác cũng rất phổ biến như:
+Khí radon: Khí radon vô hình, ko mùi và ko vị. Nó xuất hiện ngoài trời và thường tập trung ở các vùng có mỏ uranium tự nhiên. Khí radon gây ra khoảng 21000 ca tử vong mỗi năm, trong đó có 2900 ca tử vong ở những người chưa bao giờ hút thuốc. Theo ước tính, cứ mỗi 15 ngôi nhà ở Mỹ thì có 1 ngôi nhà có lượng khí radon cao!!!
+Khói thuốc thụ động: Hít phải khói thuốc thụ động từ người bên cạnh đang hút thuốc.
+ Ô nhiễm không khí: Sống và làm việc trong bầu không khí ô nhiễm.


Trong kỷ nguyên bùng nổ của các liệu pháp điều trị ung thư, Ung thư phổi trên nhóm đối tượng chưa bao giờ hút thuốc nên được nhìn nhận và nghiên cứu như một phân nhóm riêng biệt nhằm tối ưu hoá lợi ích mà các liệu pháp điều trị có thể mang lại.






1111111.png
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 251: PHẢN BIỆN VỀ VIỆC GỘP HOÁ TRỊ+ĐÍCH KHI ĐIỀU TRỊ CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI DI CĂN NÃO EGFR.



1
. Phác đồ gộp Hoá trị+ Đích thế hệ 3 Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA2 đã được mình bàn rất nhiều lần trên nhóm.
->Chúng ta bàn về việc phác đồ gộp này đã nhận được phê duyệt chính thức từ Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA.
->Chúng ta bàn về việc phân nhóm bệnh nhân dương tính ĐỘT BIẾN GEN L858R và phân nhóm bệnh nhân DI CĂN NÃO thực sự là 2 ứng cử viên nên ưu tiên cho phác đồ gộp.


Cái gì tồn tại thì hợp lý, cái gì hợp lý thì tồn tại. Mọi việc trên đời đều có mặt trái và mặt phải. Hai mặt trái phải này ko triệt tiêu nhau, ngược lại-chúng bổ sung cho nhau. Như mình đã từng nói rất nhiều lần trên nhóm, tất cả các nghiên cứu đều chỉ là 1 góc nhìn của nhóm chuyên gia thực hiện. Để rút ra được bài học tiệm cận gần chân lý nhất, chúng ta cần phải nhìn vấn đề từ cả góc độ ủng hộ lẫn góc độ phản biện. Chỉ khi vấn đề được mổ xẻ dưới nhiều góc độ, chân lý khi ấy mới được sản sinh.

Việc ủng hộ dùng phác đồ gộp cho di căn não chúng ta đã bàn rồi. Hôm nay, chúng ta phản biện lại góc nhìn đó!!!



2. Vào hôm 3/4/2024, Chuyên gia Yao Yu cùng các đồng nghiệp tại Trung tâm ung thư Memorial Sloan Kettering ở New York, Mỹ đã công bố báo cáo PHẢN BIỆN về việc áp dụng phác đồ gộp Hoá Trị+ Đích khi điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi di căn não dương tính đột biến gen EGFR.


Theo Nghiên cứu FLAURA2, việc gộp Hoá trị + Đích Osimertinib đã cải thiện đáng kể thời gian sống không bệnh tiến triển và lợi ích của việc thêm Hoá trị vô với Đích được nhận thấy rõ ràng nhất trên phân nhóm bệnh nhân được chẩn đoán mắc di căn não tại thời điểm phát hiện bệnh ( HR 0.47 ) so với phân nhóm bệnh nhân KO mắc di căn não ( HR 0.75). Cho đến thời điểm hiện tại, dữ liệu chưa được hoàn thiện và sống còn toàn bộ chưa đạt được cải thiện có ý nghĩa về mặt thống kê ( HR 0.90, P=0.52).


Điều đáng chú ý là tỷ lệ mắc tác dụng phụ nặng từ cấp độ 3 cho tới cấp độ 5 ( tác dụng phụ được chia làm 5 cấp độ 1,2,3,4,5. Trong đó 1 là nhẹ nhất và 5 là tử vong ) của phác đồ gộp Hoá trị+ Đích CAO HƠN RẤT NHIỀU so với phác đồ dùng Đích đơn độc, cụ thể là 64% so với 29%. Tỷ lệ tử vong gây ra bởi tác dụng phụ ở phác đồ gộp cũng cao gấp đôi khi so với phác đồ đơn độc, cụ thể là 7% so với 3%.


Với hồ sơ độc tính như vậy kèm thêm dữ liệu sống còn toàn bộ hiện chưa có, Chúng tôi THỰC SỰ QUAN NGẠI về quan điểm của nhóm tác giả nghiên cứu FLAURA2 khi họ cho rằng:” Phác đồ gộp Hoá trị+ Đích Osimertinib nên là tiêu chuẩn chăm sóc mới và là chiến lược hợp lý để tránh tác dụng phụ trên hệ thần kinh gây ra bởi xạ trị trên nhóm bệnh nhân di căn não”.




3. Bệnh nhân ung thư phổi di căn não sẽ có sự khác biệt đáng kể về kích cỡ u di căn cũng như số lượng u di căn. Có bệnh nhân u di căn nhỏ- số lượng ít, có bệnh nhân u di căn lớn- số lượng nhiều, thậm chí có cả những bệnh nhân vi di căn màng não mềm!!

Hầu hết những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ EGFR mắc di căn não tại thời điểm chẩn đoán mà có tình trạng bệnh ở mức giới hạn đều có thể được điều trị hiệu quả chỉ bằng một mình Thuốc đích có kèm thêm xạ não hoặc KO cần xạ não ( xạ phẫu ). Thực tế này cũng được ghi nhận trong chính nghiên cứu FLAURA2. Trong nghiên cứu FLAURA2, có tổng cộng 222 bệnh nhân được chẩn đoán mắc di căn não dựa trên hình ảnh phim chụp. Nếu định nghĩa bệnh có thể đo lường được là khi đường kính của khối u phải đạt trên 10mm thì chỉ có 78 bệnh nhân ( chiếm 35%) được xếp vào diện bệnh có thể đo lường.

Khi dùng Thuốc đích Osimertinib đơn độc, không có gì bất ngờ:
->Phân nhóm bệnh nhân có thể đo lường bệnh có thời gian sống không bệnh tiến triển nội sọ thấp hơn NHIỀU khi so với phân nhóm bệnh nhân KO thể đo lường bệnh, cụ thể là 17.3 tháng so với 27.6 tháng!
-> Phân nhóm bệnh nhân có thể đo lường bệnh cũng có tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn di căn não thấp hơn NHIỀU khi so với phân nhóm bệnh nhân KO thể đo lường bệnh, cụ thể là 16% so với 43%!


Với khả năng lên não tốt của các loại Thuốc đích thế hệ mới, việc TRÌ HOÃN XẠ NÃO đang ngày càng trở nên phổ biến. Ở nghiên cứu FLAURA2, cũng có một số ít bệnh nhân đã xạ não trước khi được tuyển vô nghiên cứu. Chúng tôi và các nhóm chuyên gia khác cũng đã từng báo cáo đầu ra sống còn rất thuận lợi với cách tiếp cận này ( Trì hoãn xạ não hoặc xạ não thay vì gộp hoá trị+đích). Trong cùng bối cảnh điều trị bước đầu giống như nghiên cứu FLAURA2, cũng đã có những nghiên cứu khác chỉ ra có 33% bệnh nhân khi được điều trị đơn độc bằng Thuốc đích Osimertinib đã đạt được mốc 2 năm sống không bệnh tiến triển nội sọ và chỉ có ít hơn 5% bệnh nhân cuối cùng phải cần đến xạ trị toàn não.


Theo kinh nghiệm của chúng tôi và những nhóm chuyên gia khác, vẫn có thể áp dụng thường xuyên chiến lược để bệnh nhân dùng ĐƠN ĐỘC Thuốc đích Osimertinib kể cả sau khi họ đã trải qua xạ phẫu. Chiến lược này giúp trì hoãn độc tính của phác đồ gộp hoặc các phác đồ điều trị bước sau trong khi lợi ích vẫn được duy trì nhờ việc dùng Osimertinib đơn độc.




4. Độc tính mà xạ não gây ra phụ thuộc rất nhiều vào mức độ di căn, vị trí di căn cũng như kỹ thuật mà liệu pháp xạ trị áp dụng. Tiêu chuẩn chăm sóc đối với bệnh nhân di căn não chưa lan rộng là xạ phẫu. Trong nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên phase3, xạ phẫu đều cho thấy tác dụng phụ mà nó gây ra trên hệ thần kinh ít hơn rất nhiều so với xạ toàn não. Tỷ lệ bệnh nhân mắc tác dụng phụ từ cấp độ 3 trở lên khi xạ phẫu chỉ là 2%.

Ngày nay, các tình huống phải dùng đến xạ toàn não ngày càng hiếm gặp, chưa kể việc áp dụng kỹ thuật xạ trị tránh vùng hồi hải mã và việc sử dụng thuốc Memantine đã giúp giảm thiểu đáng kể tác dụng phụ trên hệ thần kinh do xạ não gây ra. Hơn nữa, Hoá trị cũng có tác động bất lợi đến hệ thần kinh. Vì vậy, khi không có dữ liệu chi tiết về nhận thức thần kinh trong nghiên cứu FLAURA2, sẽ RẤT KHÓ có thể biết được việc gộp thêm Hoá trị vô với Đích Osimertinib có mang lại kết quả nhận thức thần kinh tốt hơn hay xấu đi khi so với việc dùng đơn độc Đích Osimertinib???








memorial-sloan-kettering-cancer-center-westchester-2-815x1200.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 252: TIN VUI CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI TẾ BÀO NHỎ. KẺ THAY ĐỔI CUỘC CHƠI ĐÃ XUẤT HIỆN!!!



Cách đây chưa đầy 24 tiếng, tức vào ngày 5/4/2024, Tập đoàn dược phẩm Astrazeneca đã ra thông cáo báo chí về kết quả phase3 của nghiên cứu ADRIATIC.

Nghiên cứu ADRIATIC được thiết kế để đánh giá hiệu quả của Thuốc miễn dịch Durvalumab HOẶC Thuốc miễn dịch Durvalumab+ Thuốc miễn dịch Tremelimumab khi điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú có bệnh không tiến triển SAU khi đã trải qua hoá xạ đồng thời.


Bệnh nhân trong nghiên cứu sẽ được truyền Durvalumab ( Hoặc Durvalumab+ Tremelimumab) mỗi 4 tuần một trong 4 chu kỳ rồi sau đó được truyền duy trì Durvalumab trong thời gian tối đa là 2 năm. Nghiên cứu được thực hiện trên toàn cầu tại 164 Trung Tâm Y Tế ở 19 quốc gia trải dài trên khắp các vùng lãnh thổ Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Âu và Châu Á!

Kết quả cho thấy:
->Thuốc miễn dịch Durvalumab cho CẢI THIỆN ĐÁNG KỂ về thời gian sống không bệnh tiến triển thời gian sống còn toàn bộ khi dùng làm điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú có bệnh không tiến triển SAU khi đã trải qua hoá xạ đồng thời.
->Phác đồ gộp Thuốc miễn dịch Durvalumab+ Thuốc miễn dịch Tremelimumab dữ liệu hiện chưa hoàn thiện. Hiệu quả của phác đồ gộp này hiện đang được tiếp tục phân tích.

Dữ liệu của nghiên cứu sẽ được Tập đoàn Astrazeneca chia sẻ tới các Cơ quan quản lý y tế trên toàn cầu và công bố trong một Hội Nghị gần nhất!

QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:
=>>
Thật tuyệt vời! Kẻ thay đổi cuộc chơi trong ung thư phổi tế bào nhỏ đã xuất hiện- cột mốc mới trong điều trị đã được thiết lập. Xin chúc mừng cộng đồng ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú!
=>> Tiêu chuẩn chăm sóc dành cho bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú vẫn giữ nguyên trong NHIỀU THẬP KỶ. Với kết quả của Nghiên cứu ADRIATIC, Thuốc miễn dịch Durvalumab đã trở thành liệu pháp điều trị toàn thân đầu tiên mang đến cải thiện sống còn trên nhóm bệnh nhân này. Một tiến bộ đột phá!









astra.jpeg
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 253: TIẾN BỘ ĐỘT PHÁ TRONG LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ MIỄN DỊCH. TÌM RA DẤU ẤN SINH HỌC MỚI ĐỂ PHÂN LOẠI BỆNH NHÂN!



1
.Trong thế giới của Liệu pháp đích, bệnh nhân chỉ được kê Thuốc đích khi kết quả xét nghiệm gen trả về dương tính. Cùng là một đột biến, có những bệnh nhân hợp thuốc đến chục năm vẫn chưa kháng, nhưng có những bệnh nhân dùng chỉ độ 4,5 tháng là đã sinh sự! Đi sâu hơn vào tầng dưới cấp độ phân tử của mỗi đột biến, các nhà khoa học thấy rằng mỗi một đột biến lại chia ra thành rất nhiều biến thể phân tử khác nữa-và tỷ lệ đáp ứng với Thuốc đích của mỗi biến thể phân tử này lại cao thấp khác nhau…Điều này phần nào lý giải cho việc cùng là một đột biến gen- được điều trị cùng một loại thuốc mà có người hợp lâu dài, có người hợp ngắn!


Trong thế giới của Liệu pháp miễn dịch, các nhà khoa học cũng có mối quan tâm tương tự! Điều gì sẽ khiến một bệnh nhân hợp hay ko hợp với thuốc miễn dịch??Trong hành trình tìm câu trả lời cho câu hỏi này, bộc lộ miễn dịch PDL1 là dấu ấn sinh học đầu tiên được tìm ra.
->Nếu bệnh nhân dương tính với PDL1, tiên lượng bệnh nhân hợp với Thuốc miễn dịch. Chỉ số PDL1 càng cao thì khả năng hợp vs Thuốc miễn dịch càng cao.
->Nếu bệnh nhân âm tính với PDL1, tiên lượng bệnh nhân ko hợp với Thuốc miễn dịch.

Dù vậy, trong thực tế vẫn có những ca sở hữu chỉ số PDL1 RẤT CAO nhưng khi điều trị bằng Thuốc miễn dịch thì thời gian hợp thuốc lại rất ngắn! Điều gì đã gây ra việc này? Phải chăng còn tồn tại những dấu ấn sinh học khác có tính chất ảnh hưởng quyết định tới thời gian hợp thuốc của bệnh nhân?



2
. OncoHost là một công ty công nghệ sinh học của Israel, có trụ sở chính đặt tại Haifa, Israel và North Carolina, Mỹ. Nhiều năm qua, OncoHost theo đuổi nghiên cứu về Dấu Ấn Sinh Học trong ung thư phổi. Thành quả của những nghiên cứu này là một xét nghiệm máu mang tên xét nghiệm PROphet.

Xét nghiệm PROphet sẽ được thực hiện TRƯỚC điều trị nhằm giúp các bác sĩ có thêm thông tin để lên phác đồ. Xét nghiệm PROphet sẽ kiểm tra gần 7000 protein có trong huyết tương của bệnh nhân và đưa ra tiên lượng về lợi ích ít nhiều nếu bệnh nhân nhận Thuốc miễn dịch ( ức chế PD1/PDL1) làm phác đồ điều trị. Nói cách khác, Xét nghiệm PROphet sẽ giúp các bác sĩ PHÂN LOẠI bệnh nhân- xem xem bệnh nhân nào có khả năng đáp ứng tốt và ko tốt tới Thuốc miễn dịch để rồi từ đó lên kế hoạch điều trị TỐI ƯU tới từng người bệnh.

Hội nghị của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ 2024 năm nay được tổ chức trong 6 ngày, kể từ 5/4 cho đến ngày 10/4, tại San Diego, California, Mỹ. Vào ngày thứ 3 của Hội Nghị, tức ngày 7/4/2024, Đại diện công ty OncoHost đã trình bày trước toàn thể Hội Nghị dữ liệu mới nhất của Xét nghiệm PROphet. Xét nghiệm PROphet hướng đến 3 mục tiêu chính:
+ Tiên lượng đáp ứng của bệnh nhân khi dùng Thuốc miễn dịch.
+ Tiên lượng việc bệnh nhân mắc tác dụng phụ nghiêm trọng khi dùng Thuốc miễn dịch.
+ Tiên lượng việc kháng thuốc của bệnh nhân khi dùng Thuốc miễn dịch.

Kết quả cho thấy:
-> Với những bệnh nhân có bộc lộ miễn dịch PDL1 từ 50% trở lên.
+Nếu kết quả xét nghiệm PROphet dương tính: Phân nhóm bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch và Phân nhóm bệnh nhân dùng phác đồ gộp Thuốc miễn dịch+Hoá trị có trung vị thời gian sống còn toàn bộ lần lượt là 32.1 tháng và 27.2 tháng.
+Nếu kết quả xét nghiệm PROphet âm tính: Phân nhóm bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch và Phân nhóm bệnh nhân dùng phác đồ gộp Thuốc miễn dịch+Hoá trị có trung vị thời gian sống còn toàn bộ lần lượt là 11.1 tháng ( thời gian sống giảm còn 1/3!!! ) và chưa hoàn thiện!!
Bởi vậy, cùng với bộc lộ miễn dịch PDL1, Xét nghiệm PROphet sẽ là một vũ khí cực kỳ hữu hiệu trong việc tiên lượng đáp ứng của bệnh nhân với thuốc miễn dịch.

-> Xét nghiệm PROphet cũng xác định nhiều protein dự báo bệnh nhân sẽ mắc tác dụng phụ nghiêm trọng nếu điều trị cho họ bằng Thuốc miễn dịch.

-> Xét nghiệm PROphet cũng xác định nhiều protein dự báo đến các cơ chế kháng thuốc của bệnh nhân khi điều trị bằng Thuốc miễn dịch.


Việc bổ sung thêm Xét nghiệm PROphet bên cạnh bộc lộ miễn dịch PDL1 sẽ giúp các bác sĩ phân loại bệnh nhân một cách triệt để nhằm tối ưu hoá lợi ích của Thuốc miễn dịch tới từng người bệnh!





đuon.jpeg
 

Gừng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-147748
Ngày cấp bằng
1/7/12
Số km
7,936
Động cơ
365,515 Mã lực
BÀI SỐ 253: TIẾN BỘ ĐỘT PHÁ TRONG LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ MIỄN DỊCH. TÌM RA DẤU ẤN SINH HỌC MỚI ĐỂ PHÂN LOẠI BỆNH NHÂN!



1
.Trong thế giới của Liệu pháp đích, bệnh nhân chỉ được kê Thuốc đích khi kết quả xét nghiệm gen trả về dương tính. Cùng là một đột biến, có những bệnh nhân hợp thuốc đến chục năm vẫn chưa kháng, nhưng có những bệnh nhân dùng chỉ độ 4,5 tháng là đã sinh sự! Đi sâu hơn vào tầng dưới cấp độ phân tử của mỗi đột biến, các nhà khoa học thấy rằng mỗi một đột biến lại chia ra thành rất nhiều biến thể phân tử khác nữa-và tỷ lệ đáp ứng với Thuốc đích của mỗi biến thể phân tử này lại cao thấp khác nhau…Điều này phần nào lý giải cho việc cùng là một đột biến gen- được điều trị cùng một loại thuốc mà có người hợp lâu dài, có người hợp ngắn!


Trong thế giới của Liệu pháp miễn dịch, các nhà khoa học cũng có mối quan tâm tương tự! Điều gì sẽ khiến một bệnh nhân hợp hay ko hợp với thuốc miễn dịch??Trong hành trình tìm câu trả lời cho câu hỏi này, bộc lộ miễn dịch PDL1 là dấu ấn sinh học đầu tiên được tìm ra.
->Nếu bệnh nhân dương tính với PDL1, tiên lượng bệnh nhân hợp với Thuốc miễn dịch. Chỉ số PDL1 càng cao thì khả năng hợp vs Thuốc miễn dịch càng cao.
->Nếu bệnh nhân âm tính với PDL1, tiên lượng bệnh nhân ko hợp với Thuốc miễn dịch.

Dù vậy, trong thực tế vẫn có những ca sở hữu chỉ số PDL1 RẤT CAO nhưng khi điều trị bằng Thuốc miễn dịch thì thời gian hợp thuốc lại rất ngắn! Điều gì đã gây ra việc này? Phải chăng còn tồn tại những dấu ấn sinh học khác có tính chất ảnh hưởng quyết định tới thời gian hợp thuốc của bệnh nhân?



2
. OncoHost là một công ty công nghệ sinh học của Israel, có trụ sở chính đặt tại Haifa, Israel và North Carolina, Mỹ. Nhiều năm qua, OncoHost theo đuổi nghiên cứu về Dấu Ấn Sinh Học trong ung thư phổi. Thành quả của những nghiên cứu này là một xét nghiệm máu mang tên xét nghiệm PROphet.

Xét nghiệm PROphet sẽ được thực hiện TRƯỚC điều trị nhằm giúp các bác sĩ có thêm thông tin để lên phác đồ. Xét nghiệm PROphet sẽ kiểm tra gần 7000 protein có trong huyết tương của bệnh nhân và đưa ra tiên lượng về lợi ích ít nhiều nếu bệnh nhân nhận Thuốc miễn dịch ( ức chế PD1/PDL1) làm phác đồ điều trị. Nói cách khác, Xét nghiệm PROphet sẽ giúp các bác sĩ PHÂN LOẠI bệnh nhân- xem xem bệnh nhân nào có khả năng đáp ứng tốt và ko tốt tới Thuốc miễn dịch để rồi từ đó lên kế hoạch điều trị TỐI ƯU tới từng người bệnh.

Hội nghị của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Hoa Kỳ 2024 năm nay được tổ chức trong 6 ngày, kể từ 5/4 cho đến ngày 10/4, tại San Diego, California, Mỹ. Vào ngày thứ 3 của Hội Nghị, tức ngày 7/4/2024, Đại diện công ty OncoHost đã trình bày trước toàn thể Hội Nghị dữ liệu mới nhất của Xét nghiệm PROphet. Xét nghiệm PROphet hướng đến 3 mục tiêu chính:
+ Tiên lượng đáp ứng của bệnh nhân khi dùng Thuốc miễn dịch.
+ Tiên lượng việc bệnh nhân mắc tác dụng phụ nghiêm trọng khi dùng Thuốc miễn dịch.
+ Tiên lượng việc kháng thuốc của bệnh nhân khi dùng Thuốc miễn dịch.

Kết quả cho thấy:
-> Với những bệnh nhân có bộc lộ miễn dịch PDL1 từ 50% trở lên.
+Nếu kết quả xét nghiệm PROphet dương tính: Phân nhóm bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch và Phân nhóm bệnh nhân dùng phác đồ gộp Thuốc miễn dịch+Hoá trị có trung vị thời gian sống còn toàn bộ lần lượt là 32.1 tháng và 27.2 tháng.
+Nếu kết quả xét nghiệm PROphet âm tính: Phân nhóm bệnh nhân dùng đơn độc Thuốc miễn dịch và Phân nhóm bệnh nhân dùng phác đồ gộp Thuốc miễn dịch+Hoá trị có trung vị thời gian sống còn toàn bộ lần lượt là 11.1 tháng ( thời gian sống giảm còn 1/3!!! ) và chưa hoàn thiện!!
Bởi vậy, cùng với bộc lộ miễn dịch PDL1, Xét nghiệm PROphet sẽ là một vũ khí cực kỳ hữu hiệu trong việc tiên lượng đáp ứng của bệnh nhân với thuốc miễn dịch.

-> Xét nghiệm PROphet cũng xác định nhiều protein dự báo bệnh nhân sẽ mắc tác dụng phụ nghiêm trọng nếu điều trị cho họ bằng Thuốc miễn dịch.

-> Xét nghiệm PROphet cũng xác định nhiều protein dự báo đến các cơ chế kháng thuốc của bệnh nhân khi điều trị bằng Thuốc miễn dịch.


Việc bổ sung thêm Xét nghiệm PROphet bên cạnh bộc lộ miễn dịch PDL1 sẽ giúp các bác sĩ phân loại bệnh nhân một cách triệt để nhằm tối ưu hoá lợi ích của Thuốc miễn dịch tới từng người bệnh!





đuon.jpeg
e đánh dấu phát
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 254: THÊM TIN VUI CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ DƯƠNG TÍNH ĐỘT BIẾN CHÈN GEN EGFR EXON20.



1
.Vào ngày 7/4/2024, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã cấp Chỉ Định Liệu Pháp Đột Phá dành cho Thuốc đích Sunvozertinib trong điều trị BƯỚC ĐẦU đối với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20.

Việc phê duyệt này dựa theo thành công của Nghiên cứu WU-KONG1. Kết quả của nghiên cứu WU-KONG1 cho thấy:
Tại trung vị thời gian theo dõi 10.8 tháng, Thuốc đích Sunvozertinib cho tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 78.6% và trung vị thời gian sống không bệnh tiến triển đạt 12.4 tháng.


2. Thành công này đã MỞ RỘNG vai trò của Thuốc đích Sunvozertinib trong việc giải bài toán khó nhằn đột biến chèn gen EGFR EXON20. Chúng ta cùng điểm lại 2 cột mốc quan trọng:

-> Cách đây 2 năm, vào tháng 1/2022, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA đã cấp Chỉ Định Liệu Pháp Đột Phá dành cho Thuốc đích Sunvozertinib khi điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20 có bệnh tiên triển trong hoặc sau hoá trị platinum.

-> Vào ngày 23/8/2023 Cục quản lý dược phẩm quốc gia Trung Quốc đã chính thức phê duyệt Thuốc đích Sunvozertinib khi điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển cục bộ hoặc di căn dương tính đột biến chèn gen EGFR EXON20 có bệnh tiên triển trong hoặc sau hoá trị platinum.







1693275595353155.png
 

xemay12345678

Xe buýt
Biển số
OF-359543
Ngày cấp bằng
23/3/15
Số km
965
Động cơ
266,314 Mã lực
BÀI SỐ 255: CẬP NHẬT KẾT QUẢ MỚI NHẤT CỦA NGHIÊN CỨU DÙNG BỔ TRỢ THUỐC ĐÍCH ALECTINIB SAU MỔ ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN SỚM DƯƠNG TÍNH ALK. TIÊU CHUẨN CHĂM SÓC MỚI ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯỢC THIẾT LẬP!




1
.Cách đây 7 tháng, chúng ta đã từng bàn về việc Tập đoàn dược phẩm ROCHE thiết kế ra Nghiên cứu ALINA để đánh giá hiệu quả của Thuốc đích Alectinib khi dùng làm bổ trợ sau mổ cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm dương tính ALK ( Giai đoạn từ 1B với kích thước u >=4cm cho đến giai đoạn 3A).

Nghiên cứu ALINA là một nghiên cứu toàn cầu trải dài trên 170 trung tâm và 30 quốc gia. Tổng cộng 257 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu.

Tại thời điểm đó, kết quả chỉ dừng lại ở việc cho thấy Alectinib cải thiện thời gian sống thêm không bệnh so với hoá trị platinum khi dùng làm thuốc bổ trợ sau mổ trong thời gian 2 năm, còn cụ thể cải thiện ít nhiều thế nào thì chưa được công bố!


2. Vào hôm 10/4/2024, Chuyên gia Yi-Long Wu cùng các đồng nghiệp đã cập nhật kết quả mới nhất của Nghiên cứu ALINA trên tạp chí y học số 1 thế giới NEJM. Bệnh nhân trong nghiên cứu sẽ được chia làm 2 nhánh:
->Nhánh 1: Được điều trị bổ trợ sau mổ bởi Thuốc đích Alectinib trong 2 năm ( 130 bệnh nhân).
->Nhánh 2: Được điều trị bổ trợ sau mổ bởi Hoá trị Platinum 4 chu kỳ, mỗi chu kỳ 21 ngày.

Kết quả cho thấy:
->Ở phân nhóm bệnh nhân giai đoạn 2 hoặc giai đoạn 3A, tỷ lệ bệnh nhân vẫn sống và đạt tình trạng không bệnh tại mốc 2 năm ở nhánh 1 là 93.8% còn nhánh 2 là 63% ( HR 0.24; 95%CI 0.13-0.45; p<0.001). Khi phân tích dữ liệu theo dự định điều trị ITT, tỷ lệ ở nhánh 1 và nhánh 2 tương ứng đạt 93.6% và 63.7% ( HR 0.24; 95%CI 0.13-0.43; p<0.001).

->Ở phân nhóm bệnh nhân giai đoạn 1B, tỷ lệ bệnh nhân đạt tình trạng không bệnh tại mốc 2 năm ở nhánh 1 là 92.3% và nhánh 2 là 71.6%. Còn tại mốc 3 năm, tỷ lệ ở nhánh 1 và nhánh 2 lần lượt là 92.3% ( giữ nguyên) và 61.4%.

->Thuốc đích Alectinib cũng cho cải thiện đáng kể thời gian sống thêm không bệnh nội sọ khi so với Hoá trị, cụ thể tỷ số nguy hại HR là 0.22.

->Dữ liệu sống còn toàn bộ hiện chưa hoàn thiện và sẽ được cập nhật trong thời gian tới.


Nhóm nghiên cứu kết luận:” Đối với những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 1B, 2, 3A đã phẫu thuật và dương tính ALK, việc dùng Thuốc đích Alectinib làm biện pháp bổ trợ sau mổ sẽ CẢI THIỆN ĐÁNG KỂ thời gian sống thêm không bệnh khi so với Hoá trị platinum”.

QUAN ĐIỂM CỦA CHUYÊN GIA:

=>>
Đây là thời điểm tiêu chuẩn chăm sóc mới đã được thiết lập. Xin chúc mừng cộng đồng ALK giai đoạn sớm!

=>> Việc Alectinib trở thành tiêu chuẩn chăm sóc bổ trợ cho giai đoạn sớm là điều không còn phải bàn cãi. Dù vậy, cách thiết kế của nghiên cứu đã đưa chúng ta vào một trạng thái LẤP LỬNG! Chúng ta sẽ kê bổ trợ đích Alectinib mà bỏ qua KO kê hoá trị bổ trợ HAY chúng ta vẫn kê hoá trị bổ trợ rồi tiếp theo đó là kê Alectinib???

=>> Quyết định bỏ hoá trị bổ trợ hay vẫn giữ hoá trị bổ trợ là một quyết định thực sự khó khăn. Theo dữ liệu của Nghiên cứu ALINA, mọi việc có vẻ vẫn ổn nếu BỎ QUA hoá trị bổ trợ- ít nhất là điều này đúng với giai đoạn 1B. NHƯNG vs các giai đoạn muộn hơn là 2 và 3A, việc có bỏ hoá trị bổ trợ hay không vẫn là một câu hỏi không dễ trả lời!







ale.jpeg
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top