[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Mỹ cũng không được lợi

Điều đó để nói rằng việc chính sách Trung Đông của Trung Quốc bộc lộ những hạn chế hiện nay không có nghĩa là ảnh hưởng của Mỹ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Việc coi cuộc cạnh tranh nước lớn ở Trung Đông là trò chơi “được mất ngang nhau” là sai lầm. Phải thừa nhận rằng Chính quyền Tổng thống Biden đã chứng minh Mỹ là nước duy nhất có thể và sẵn sàng triển khai sức mạnh quân sự ấn tượng đến Trung Đông: hai nhóm tác chiến tàu sân bay, một tàu ngầm mang tên lửa dẫn đường, một nhóm sẵn sàng đổ bộ với Đơn vị Viễn chinh Thủy quân lục chiến, các phi đội chiến đấu của Không quân và các đơn vị phòng không của Lục quân đã được điều động tới khu vực. Ngoài ra, 2.000 lính Mỹ đã nhận lệnh “sẵn sàng triển khai trong 24 giờ” kể từ khi cuộc chiến tranh bắt đầu.

1710478835113.png


Tuy nhiên, vì Mỹ vẫn là cường quốc toàn cầu duy nhất chịu hậu quả trong cuộc xung đột hiện nay nên nước này cũng được coi là bên chịu trách nhiệm về kết quả này. Tổng thống Biden thường nói rằng thế giới đang ở “điểm uốn”, nhưng mọi người giờ đây đang theo dõi xem liệu Washington có thể tìm ra được cách thức không những ngăn chặn leo thang khu vực mà còn đi đầu trong tiến trình hòa bình khu vực mới hay không. Cho đến nay, tỷ lệ cược không có lợi cho Mỹ.

Bắc Kinh có thể đang tính toán rằng việc tham gia cuộc xung đột hiện tại cuối cùng sẽ thất bại. Do đó, để Mỹ làm chủ cuộc khủng hoảng khu vực này sẽ là hành động tốt nhất. Trong những trường hợp này, cách tiếp cận không can thiệp của Trung Quốc có thể thu được lợi ích. Nhưng sự tức giận trong thế giới Arập đối với người Mỹ vì Washington ủng hộ Israel không có nghĩa là các nhà cầm quyền khu vực sẽ hăng hái xích lại gần hơn với Trung Quốc.




Việc Bắc Kinh miễn cưỡng can dự vào cuộc khủng hoảng này chỉ chứng tỏ rằng ngoài quan hệ kinh doanh, họ không muốn thay thế Mỹ trở thành “sen đầm” của Trung Đông. Điều này có thể tiến triển theo thời gian: Trong một vài năm đã có những đồn đoán cho rằng Hải quân Trung Quốc đang tìm cách tiếp cận các cảng biển Vùng Vịnh, hoặc ở UAE hay gần đây nhất là ở Oman. Tuy nhiên, hiện nay, cuộc chiến Israel-Hamas đã đem lại sự đánh giá thực tế hết sức cần thiết đối với những tham vọng của Trung Quốc ở Trung Đông.

Ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và vấn đề Đài Loan

Trung Quốc đã tích cực giảm leo thang cuộc khủng hoảng Gaza. Việc này được thúc đẩy bởi lo ngại sâu sắc rằng leo thang sẽ gây ra một cuộc chiến tranh khu vực rộng lớn hơn, từ đó gây tổn hại nghiêm trọng đến những lợi ích kinh tế đáng kể của Trung Quốc ở Trung Đông. Trung Quốc cũng có thể được cho là đang theo dõi xem liệu sự can dự của Mỹ vào cuộc khủng hoảng Gaza có làm suy yếu sự tập trung của Washington vào việc kiềm chế Trung Quốc ở châu Á hay không.

1710478722189.png


Trung Đông đã trở thành điểm nút quan trọng cho BRI của Trung Quốc. Theo Giáo sư Wu Bing Bing, Giám đốc Viện văn hóa Arập và Hồi giáo thuộc Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc giờ đây coi Trung Đông là một phần thuộc vùng ngoại vi rộng lớn hơn của mình. Kể từ khi BRI được triển khai cách đây một thập kỷ, các khoản đầu tư và dự án của Trung Quốc vào khu vực Trung Đông-Bắc Phi (MENA) từ năm 2005 đến 2022 tăng lên 273 tỷ USD. Năm 2021, MENA chiếm 28,5% đầu tư nước ngoài của Trung Quốc. Thương mại giữa Trung Quốc và Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) đạt 330 tỷ USD vào năm 2021, đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của GCC.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Tác động đến quyết định của Bắc Kinh đối với Đài Loan

Lợi ích chung của Trung Quốc và Mỹ trong việc ngăn chặn khủng hoảng Gaza leo thang thành một cuộc chiến tranh khu vực rộng lớn hơn đem lại cho Trung Quốc cơ hội hẹp để cải thiện bầu không khí trong quan hệ Trung-Mỹ. Trung Quốc sẽ phải đảm bảo với Washington rằng nước này sẽ nỗ lực ngăn cản Iran can thiệp vào cuộc xung đột Gaza. Trung Quốc có lẽ đã sẵn sàng đưa ra đảm bảo đằng sau những cánh cửa đóng kín, mà không công khai.

Trung Quốc sẽ theo dõi chặt chẽ xem cuộc khủng hoảng Gaza sẽ tác động ra sao đến sự chú ý của Mỹ đối với Đài Loan và các tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Việc liệu những cam kết quốc phòng của Mỹ với Israel có làm chậm lại nỗ lực hiện nay của Washington nhằm cải thiện khả năng của Đài Loan trong việc đẩy lùi và chống lại một cuộc tấn công của Trung Quốc hay không sẽ ảnh hưởng đến tính toán của Trung Quốc về sự cần thiết phải tấn công Đài Loan.

Nếu những nỗ lực này chậm lại hoặc trì hoãn, Bắc Kinh sẽ thấy ít cần thiết và cấp bách hơn để thực hiện một cuộc tấn công tốn kém vào Đài Loan. Tuy nhiên, Bắc Kinh sẽ tiếp tục tiến hành các vụ xâm nhập vào Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan vì Bắc Kinh coi chúng là cần thiết để ngăn cản Đài Loan tiến tới độc lập. Bất kỳ sự giảm bớt chú ý nào của Mỹ đối với Đài Loan sẽ được Trung Quốc sử dụng để thúc đẩy người Đài Loan ủng hộ quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc.

Phép thử đối với tham vọng ngoại giao của Trung Quốc ở Trung Đông

Cuộc xung đột ở Gaza được coi là bài kiểm tra quan trọng đối với những tham vọng ngoại giao của Trung Quốc ở Trung Đông. Sự giảm bớt căng thẳng bất ngờ giữa Iran và Saudi Arabia, được Trung Quốc tạo thuận lợi, và nỗ lực hiện nay của Mỹ nhằm làm trung gian giữa Israel và Saudi Arabia được coi là nhân tố then chốt duy trì sự ổn định khu vực. Gần đây, các nước ở Trung Đông và quốc tế, mặc dù bề ngoài bày tỏ ủng hộ người Palestine, nhưng đang định vị chiến lược của bản thân để giành được nhiều lợi ích nhất từ cuộc cạnh tranh Trung-Mỹ, khiến tương lai của Palestine rơi vào tình trạng lãng quên không xác định.

Cuộc tấn công phối hợp trên bộ, trên biển và trên không của Hamas – lực lượng chiến binh Hồi giáo kiểm soát Dải Gaza - nhằm vào Israel ngày 7/10 trong 30 giờ đã làm tan biến khái niệm cho rằng một cấu trúc an ninh mới trong khu vực có thể được thiết lập mà không phải giải quyết vấn đề Palestine. Về mặt này, chính sách Trung Đông hiện nay của Trung Quốc đang bị kẹt giữa việc tìm cách cân bằng giá trị đạo đức do hàng trăm dân thường bị sát hại với duy trì lợi ích chiến lược của mình.

Hành động cân bằng của Trung Quốc

Trong lịch sử, Trung Quốc luôn ủng hộ Nhà nước Palestine, nhưng kể từ năm 1979, nước này đã phát triển lập trường quan hệ cân bằng hơn với Israel, đỉnh điểm là tham gia tích cực vào các vấn đề Trung Đông năm 2013 với việc phát động BRI. Với sự can dự ngày càng lớn của BRI và nhu cầu rất lớn của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên năng lượng trong khu vực, Trung Quốc phải đối mặt với thách thức là cân bằng sự ủng hộ đối với các quốc gia Arập đồng thời duy trì quan hệ hữu nghị với Israel. Trong bối cảnh cuộc nội chiến Syria và một cuộc đối đầu có thể xảy ra giữa Iran và Mỹ làm bùng lên ngọn lửa chiến tranh, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã và đang khẳng định rằng vấn đề Palestine chắc chắn không được gạt sang bên lề.

Gần đây, với việc Trung Quốc thúc đẩy vai trò lớn hơn cho Trung Đông trong Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) và mở rộng Nhóm BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), Bắc Kinh tiếp tục ủng hộ giải pháp hai nhà nước. Tuy nhiên, bùng phát bạo lực ở Gaza đã thúc đẩy Trung Quốc từ bên trung gian hòa bình chuyển sang có lập trường thận trọng trước đây. Mặc dù có cơ hội để Bắc Kinh đóng vai trò trung gian hòa giải và thúc đẩy một thỏa thuận ngừng bắn, nhưng có vẻ như Trung Quốc có thể quay trở lại đường hướng chính sách đối ngoại “mơ hồ cân bằng”, phòng ngừa rủi ro cho cả hai bên. Trong khi đó, Ai Cập đang vận động để đóng vai trò trong tiến trình hòa bình này, Thổ Nhĩ Kỳ cũng sẵn sàng lấp vào chỗ trống, với việc Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ tái khẳng định cam kết thúc đẩy một giải pháp hòa bình trong khu vực.

Ít không gian hơn để đóng vai trò trung gian hòa bình

Một ví dụ về hành động cân bằng đang diễn ra của Trung Quốc liên quan đến lời kêu gọi kiềm chế kể từ khi cuộc xung đột nổ ra. Những hình ảnh khủng khiếp về việc Hamas giết hại dân thường Israel gần Dải Gaza đã khiến toàn cầu lên án. Bất chấp mối quan hệ thân thiện của Trung Quốc với Israel, Bắc Kinh vẫn chưa lên án Hamas mạnh mẽ như Mỹ và châu Âu, khiến Đại sứ quán Israel tại Trung Quốc kêu gọi nước này có lập trường mạnh mẽ hơn. Một số phương tiện truyền thông đưa tin rằng sau đó Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố mạnh mẽ hơn sau các cuộc gặp của Lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện Mỹ Chuck Schumer ở Bắc Kinh.

Cuộc khủng hoảng dai dẳng là trở ngại lớn đối với kế hoạch can dự của Trung Quốc với khu vực. Tháng 6/2023, Chủ tịch Tập Cận Bình đã gặp Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas, nhưng chuyến thăm cấp nhà nước theo kế hoạch của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu tới Bắc Kinh không diễn ra.

Mặc dù vẫn chưa rõ liệu kế hoạch hòa bình của Trung Quốc có tạo được sức hút hay không, nhưng cách tiếp cận ngoại giao của Trung Quốc ngày càng bị ảnh hưởng bởi những áp lực bên ngoài, chẳng hạn như kỳ vọng về một sự lên án mạnh mẽ hơn đối với Hamas. Cách thức tiến hành của Trung Quốc có thể sẽ trở nên rõ ràng hơn sau cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Joe Biden, với ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Iran được coi là một con bài mặc cả tiềm năng.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
PLA tiến hành hoạt động không quân tầm xa trên Tây Thái Bình Dương

Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tiến hành một chiến dịch tầm xa trên Tây Thái Bình Dương với máy bay chiến đấu và nhiệm vụ đặc biệt.

1710497775921.png


Theo dữ liệu từ Bộ Quốc phòng Nhật Bản (MoD), hoạt động này được tiến hành trong ba ngày từ 9 đến 10 tháng 3 và vào ngày 12 tháng 3, có khả năng là một nỗ lực nhằm đánh giá việc tăng cường phòng không và các đơn vị quân sự của Nhật Bản trên các đảo cực nam của nước này, theo hướng Đài Loan. Các hoạt động trên không cũng có khả năng là một phần của cuộc diễn tập chống tiếp cận/từ chối trên không (A2/AD).

Theo dữ liệu của Bộ Quốc phòng, một máy bay tác chiến chống tàu ngầm (ASW) Y-8Q của Tập đoàn Công nghiệp Máy bay Thiểm Tây (SAIC) của PLA đã hoạt động cách Đài Loan khoảng 230 hải lý về phía tây và cách Miyako-jima khoảng 115 hải lý về phía nam "suốt từ sáng đến chiều". Dữ liệu của Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho biết thêm vào ngày hôm sau, chiếc Y-8Q (số 61) đã tiến hành một cuộc tuần tra lớn hơn từ “sáng đến chiều” trên cùng một khu vực.

1710497821514.png

Y-8Q
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Chiến lược hạt nhân của Trung Quốc từ năm 1964

Chiến lược quân sự của Trung Quốc, nhấn mạnh vào các chiến dịch thông thường, rất năng động, thay đổi 9 lần kể từ năm 1949. Ngược lại, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc, dựa trên việc đạt được khả năng răn đe thông qua chắc chắn trả đũa, hầu như không thay đổi kể từ khi Trung Quốc cho nổ thiết bị hạt nhân đầu tiên vào tháng 10 năm 1964.

1710554123525.png

Trung Quốc thử thiết bị hạt nhân đầu tiên vào tháng 10 năm 1964

Trung Quốc cũng không tìm cách thay đổi chiến lược hạt nhân của mình mặc dù vào nhiều thời điểm, nước này dễ bị tổn thương trước một cuộc xâm lược hoặc tấn công hạt nhân của Mỹ hoặc Liên Xô. Ngoài ra, không có mối quan hệ rõ ràng nào giữa chiến lược hạt nhân và chiến lược quân sự thông thường của Trung Quốc. Mặc dù chiến lược hạt nhân của Trung Quốc nhất quán với nguyên tắc chung là “phòng thủ chủ động”, việc lập kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân được tách biệt với kế hoạch sử dụng các lực lượng thông thường. Chiến lược đã công bố và học thuyết tác chiến của Trung Quốc xác định chỉ sử dụng vũ khí hạt nhân để đáp trả một cuộc tấn công hạt nhân chứ không phải trong các cuộc xung đột thông thường. Tại sao chiến lược hạt nhân của Trung Quốc là không đổi trong khi chiến lược thông thường của nước này lại thay đổi, thường là rất đa dạng? Tại sao các chiến lược hạt nhân và chiến lược quân sự truyền thống của Trung Quốc không được kết hợp chặt chẽ hơn?

Thứ nhất, không giống như chiến lược quân sự thông thường, các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng không bao giờ ủy quyền về chiến lược hạt nhân cho các sĩ quan quân đội cấp cao. Chiến lược hạt nhân được coi là vấn đề thuộc chính sách quốc gia tối cao mà chỉ những lãnh đạo cao nhất của đảng mới có thể xác định, chứ không phải lãnh đạo QGPNDTQ nói chung, bao gồm cả Lực lương Pháo binh số 2 hay Bộ Tổng tham mưu (GSD). Các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng chưa bao giờ ủy thác chiến lược hạt nhân của Trung Quốc cho các quan chức quân sự cấp cao, bao gồm cả các quyết định liên quan đến cơ cấu lực lượng và tình hình lực lượng.

1710554276588.png

Tên lửa hạt nhân DF-3

Ngay cả sau khi Lực lượng Pháo binh số 2 bắt đầu phát triển thành một nhánh tác chiến vào cuối những năm 1970, nó vẫn chủ yếu hoạt động với tư cách là trông coi lực lượng hạt nhân của Trung Quốc dưới sự giám sát chặt chẽ của Quân ủy Trung ương, cơ quan ra quyết định về các vấn đề quân sự của đảng. Thứ hai, do các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng chưa bao giờ giao phó chiến lược hạt nhân cho các quan chức quân sự cấp cao nên quan điểm của các lãnh đạo đảng cấp cao của Trung Quốc về vũ khí hạt nhân, đặc biệt là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình, đã có ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ đến chiến lược hạt nhân của Trung Quốc, thậm chí cho đến tận ngày nay. Quan điểm của họ, dựa trên tính hữu dụng hạn chế của vũ khí hạt nhân, ủng hộ việc duy trì chiến lược chắc chắn trả đũa và không tích hợp chiến lược hạt nhân với chiến lược quân sự thông thường hoặc theo đuổi chiến tranh hạt nhân hạn chế.

Các nguồn mới cho phép xem xét lại các lập luận hiện có về việc Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân do John Lewis và Xue Litai đưa ra trong cuốn sách mang tính bước ngoặt năm 1988 của họ, Trung Quốc chế tạo bom - China Builds the Bomb. Thứ nhất, Trung Quốc nghiêm túc xem xét việc theo đuổi bom sớm hơn tuyên bố của Lewis và Xue. Lewis và Xue nhấn mạnh vai trò của Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1954-55 và việc Mỹ chuyển sang trả đũa ồ ạt trong quyết định chế tạo bom của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1955. Tuy nhiên, sự đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc về việc sở hữu vũ khí hạt nhân đã được hình thành trước đó, vào mùa xuân năm 1952, trực tiếp để đáp trả các mối đe dọa hạt nhân của Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên. Hơn nữa, quyết định chính trị phát triển bom năm 1955 không phản ánh phản ứng trước các mối đe dọa ngày càng gia tăng từ bên ngoài mà thay vào đó là quan điểm cho rằng, sau khi phát hiện ra uranium ở Quảng Tây năm 1954, Trung Quốc giờ đây có thể khởi động một dự án như vậy.

1710554363219.png

Tên lửa hạt nhân DF-2

Thứ hai, cách giải thích của Lewis và Xue về chiến lược hạt nhân của Trung Quốc dựa trên thuyết quyết định công nghệ (technological determinism). Họ lập luận rằng chiến lược hạt nhân của Trung Quốc được định hình một cách chủ yếu bởi các công nghệ sẵn có của Trung Quốc và khả năng mà Trung Quốc có thể phát triển. Như Lewis và Xue viết, “Trung Quốc không có học thuyết hạt nhân rõ ràng nào có thể định hình các chính sách mua sắm và triển khai vũ khí hạt nhân thời kỳ đầu của nước này”. Hơn nữa, “các mệnh lệnh công nghệ bắt đầu thúc đẩy các quyết định chính sách thực tế của quân đội”. Tương tự, Lewis và một đồng tác giả khác, Hua Di, kết luận rằng “công nghệ, chứ không phải chiến lược, quyết định tốc độ và hướng đi chính của chương trình tên lửa đạn đạo ít nhất cho đến cuối những năm 1970”.

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không phát triển chiến lược hạt nhân hoặc cơ cấu lực lượng dựa trên những gì có thể về mặt kỹ thuật. Thay vào đó, quan điểm của họ về lợi ích của vũ khí hạt nhân đã định hình các thông số của chiến lược chắc chắn trả đũa mà họ theo đuổi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi vai trò của vũ khí hạt nhân chỉ giới hạn trong việc ngăn chặn sự cưỡng ép hạt nhân và ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân vào Trung Quốc. Những mục tiêu như vậy chỉ cần một lực lượng nhỏ có khả năng phát động phản công vì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không hình dung ra việc tham gia chiến tranh hạt nhân hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn các mối đe dọa thông thường.

1710554745508.png

Bom hạt nhân của TQ

Những lựa chọn được đưa ra trong những năm đầu của chương trình hạt nhân của Trung Quốc phản ánh những mục tiêu này, chẳng hạn như tập trung vào tên lửa thay vì bom trọng lực, áp dụng chính sách không sử dụng trước và giao cho Lực lượng Pháo binh số 2 nhiệm vụ duy nhất là tiến hành phản công hạt nhân. Những quyết định ban đầu này, dựa trên quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về chiến lược hạt nhân, tiếp tục định hình các thông số trong đó Lực lượng Pháo binh số 2 bắt đầu phát triển học thuyết tác chiến để thực hiện một cuộc phản công vào những năm 1970. Nói rộng hơn, bằng chứng mạnh mẽ nhất chống lại tuyên bố rằng công nghệ đã quyết định chiến lược hạt nhân của Trung Quốc là tính nhất quán của nó trong 50 năm qua, khi sự sẵn có của công nghệ đã thay đổi đáng kể.

Phần đầu tiên mô tả chiến lược hạt nhân của Trung Quốc hầu như không thay đổi kể từ năm 1964, tập trung vào việc ngăn chặn sự ép buộc hoặc tấn công hạt nhân với lực lượng nhỏ nhất có thể. Phần tiếp theo xem xét niềm tin của các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc về lợi ích của vũ khí hạt nhân, niềm tin này không chỉ ảnh hưởng đến chiến lược đã được thông qua mà còn ảnh hưởng đến quyết định tách chiến lược hạt nhân khỏi chiến lược thông thường. Phần thứ ba xem xét sự phát triển của lực lượng hạt nhân và chiến lược của Trung Quốc, từ quyết định ban đầu theo đuổi bom cho đến việc phát triển học thuyết tác chiến cho lực lượng tên lửa của Trung Quốc, nhằm nêu bật vai trò của các nhà lãnh đạo cấp cao trong các quyết định này. Phần cuối thảo luận về mối quan hệ giữa chiến lược hạt nhân của Trung Quốc và các đường lối chiến lược được thảo luận ở phần khác trong cuốn sách này.

Chiến lược hạt nhân của Trung Quốc

Kể từ khi thử nghiệm thiết bị nguyên tử đầu tiên vào tháng 10 năm 1964, Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược trả đũa hạt nhân. Trung Quốc tìm cách ngăn chặn các quốc gia khác sử dụng vũ khí hạt nhân để ép buộc hoặc tấn công Trung Quốc bằng cách phát triển khả năng tấn công thứ hai an toàn. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc dựa trên tuyên bố của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và các ấn phẩm học thuyết nội bộ. Năm 2006, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc đã được trình bày công khai trong sách trắng quốc phòng.

QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO VỀ CHIẾN LƯỢC HẠT NHÂN

Qua nhiều thế hệ, các nhà lãnh đạo đảng cao nhất của Trung Quốc đã chấp nhận quan điểm răn đe thông qua các biện pháp trả đũa chắc chắn. Đây là niềm tin rằng một số lượng nhỏ vũ khí có khả năng sống sót sẽ đủ để gây ra thiệt hại không thể chấp nhận được trong một cuộc tấn công trả đũa và do đó ngăn chặn cuộc tấn công hoặc cưỡng bức hạt nhân. Những ý tưởng này được Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đưa ra một cách mạnh mẽ nhất vào những năm 1960 và Đặng Tiểu Bình vào cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau này cũng áp dụng chiến lược hạt nhân tương tự.

1710554790778.png

Bom hạt nhân của TQ

Việc nhấn mạnh vào việc xây dựng một kho vũ khí nhỏ nhưng có khả năng sống sót bắt đầu từ Mao Trạch Đông. Những ý tưởng của ông về quy mô lực lượng hạt nhân của Trung Quốc cùng với một khái niệm đơn giản về những biện pháp ngăn chặn đã tồn tại trong nhiều thập kỷ. Năm 1960, Mao Trạch Đông gợi ý rằng một số vũ khí là đủ để răn đe, nói rằng “đất nước chúng tôi trong tương lai có thể sản xuất một vài quả bom nguyên tử, nhưng chúng tôi hoàn toàn không có ý định sử dụng chúng. Dù chúng tôi không có ý định sử dụng chúng nhưng tại sao lại sản xuất ra chúng? Chúng tôi sẽ sử dụng chúng như một vũ khí phòng thủ”. Năm 1961, Chu Ân Lai đồng tình, nói rằng “chỉ khi [chúng ta] có tên lửa và vũ khí hạt nhân, chúng ta mới có thể ngăn chặn [người khác] sử dụng chúng; nếu chúng ta không có tên lửa và vũ khí hạt nhân, bọn đế quốc sẽ sử dụng tên lửa và vũ khí hạt nhân [để tấn công chúng ta]”. Vài tháng sau vụ nổ hạt nhân thành công đầu tiên của Trung Quốc, Mao Trạch Đông nhận xét trong một cuộc phỏng vấn với Edgar Snow: “Chúng tôi không mong muốn có quá nhiều bom nguyên tử. Chúng tôi sẽ làm gì với nhiều bom như vậy? Có một ít cũng được”.

1710555013680.png

Tên lửa DF-11

Quan điểm răn đe này chỉ yêu cầu khả năng trả đũa của Trung Quốc sau khi bị tấn công chứ không phải ngang bằng về hạt nhân với đối thủ. Với cam kết không sử dụng trước của Trung Quốc ban hành năm 1964, sự trả đũa chắc chắn đòi hỏi các lực lượng của Trung Quốc phải có khả năng sống sót sau cuộc tấn công đầu tiên và sau đó tiến hành một cuộc phản công trả đũa. Như Nguyên soái Nie Rongzhen đã mô tả trong hồi ký của mình, Trung Quốc cần phát triển vũ khí hạt nhân “để có phương tiện phản công tối thiểu [you qima de huanji shouduan] khi đất nước chúng ta hứng chịu một cuộc tấn công bất ngờ của đế quốc bằng vũ khí hạt nhân”. Như Đặng Tiểu Bình đã nói với Bộ trưởng Ngoại giao Chile năm 1978, “Chúng tôi cũng muốn chế tạo một số vũ khí hạt nhân, nhưng chúng tôi không chuẩn bị chế tạo nhiều. Khi chúng tôi có sức mạnh [liliang] để phản công [huanji], chúng tôi sẽ không tiếp tục phát triển chúng”. Đặng Tiểu Bình đã đưa ra tuyên bố đầy đủ nhất về quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc về răn đe hạt nhân trong cuộc gặp với Thủ tướng Canada năm 1983:

Chúng tôi có một số vũ khí hạt nhân. Pháp cũng có một ít. Bản thân những vũ khí này chỉ hữu ích cho việc [gây] áp lực. Chúng tôi đã nói nhiều lần rằng đó chính là mục đích của số ít vũ khí hạt nhân của chúng tôi! Chỉ để chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có những gì họ có. Nếu họ muốn tiêu diệt chúng tôi thì chính họ cũng sẽ phải hứng chịu sự trả thù nào đó. Chúng tôi luôn nói rằng chúng tôi muốn buộc các siêu cường không dám sử dụng vũ khí hạt nhân. Trước đây, việc này nhằm đối phó với Liên Xô, buộc họ không được sử dụng vũ khí một cách liều lĩnh. Dù sao thì chỉ có một ít vũ khí cũng là một loại sức mạnh răn đe [zhiyue liliang].

Nhận xét của Đặng Tiều Bình gợi ý rằng khả năng gây ra “một số biện pháp trả đũa” là đủ để răn đe đối thủ, thậm chí là một siêu cường.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ thảo luận công khai chi tiết về các yêu cầu tác chiến đối với lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Ví dụ, vào năm 1970, Chu Ân Lai tuyên bố tại một cuộc họp lập kế hoạch của Ủy ban Khoa học và Công nghệ Quốc phòng (NDSTC) rằng Trung Quốc không có ý định sử dụng vũ khí hạt nhân để đe dọa các nước khác và do đó không cần nhiều vũ khí. Tuy nhiên, Chu Ân Lai tuyên bố rằng Trung Quốc “phải xây dựng một số lượng nhất định với chất lượng nhất định và sự đa dạng nhất định”. Năm 1978, khi Trung Quốc đang phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) đầu tiên, Dongfeng-5 (DF-5), Đặng Tiểu Bình đã vạch ra những yêu cầu chung cho việc phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Theo ông, “Vũ khí chiến lược của chúng ta cần được cập nhật [gengxin] và hướng dẫn [cho sự phát triển của chúng] tuy ít nhưng có hiệu quả [shao er jing]. Ít có nghĩa là số lượng và khả năng sẽ tăng lên theo từng thế hệ”.

1710555158316.png

Tên lửa Dongfeng-5 (DF-5)

Trong số hai thế hệ lãnh đạo đầu tiên của Trung Quốc, Tướng Zhang Aiping (Trương Ái Bình) đã đưa ra mô tả chi tiết nhất về quan điểm của Trung Quốc về các yêu cầu răn đe. Ông đóng vai trò dẫn đầu trong chương trình vũ khí chiến lược của Trung Quốc, cả vào đầu những năm 1960 và từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980. Năm 1980, Trương Ái Bình nói: “Về vũ khí chiến lược… nhiệm vụ của chúng tôi là đảm bảo một sức mạnh nhất định để phản công. Tất nhiên, đây không phải là so sánh về số lượng với kẻ thù và cũng không tập trung vào độ chính xác trên hết. Thay vào đó, điểm mấu chốt là có vũ khí hạt nhân hoàn chỉnh và có thể được sử dụng trong tác chiến”. Hơn nữa, chúng ta phải nghĩ cách tăng cường khả năng sống sót của những vũ khí này và rút ngắn thời gian chuẩn bị để khi kẻ thù tiến hành một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ, những tên lửa mà chúng ta có sẽ được bảo quản và sử dụng để thực hiện một cuộc phản công, 'giành quyền kiểm soát bằng cách tấn công sau đó' [houfa zhiren]. Điều này đòi hỏi vũ khí phải đáng tin cậy và thời gian chuẩn bị ngắn hơn. Sau khi hai vấn đề này được giải quyết, chúng ta có thể xem xét lại độ chính xác”.

1710555195747.png

Tên lửa Dongfeng-5 (DF-5)

Trương Ái Bình đưa ra nhận xét này chỉ vài tháng sau khi Trung Quốc thử nghiệm thành công tên lửa DF-5 và khi nước này đang ở giai đoạn cuối của quá trình phát triển tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) đầu tiên, Julang-1 (JL-1). Nếu bài phát biểu của ông được coi là bản phác thảo cho các kế hoạch phát triển lực lượng hạt nhân trong tương lai của Trung Quốc vào những năm 1980, khi Trung Quốc phải đối mặt với mối đe dọa hạt nhân và thông thường áp đảo từ Liên Xô, thì độ tin cậy và khả năng sống sót là điều tối quan trọng. Phù hợp với quan điểm của Đặng Tiểu Bình, việc có khả năng trả đũa, thậm chí chỉ với một số vũ khí, được coi là đủ để ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân chống lại Trung Quốc.

Các nguồn có sẵn thiếu các thảo luận về quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc về lý do tại sao chỉ một số lượng nhỏ đầu đạn hạt nhân là đủ để gây ra thiệt hại không thể chấp nhận được và ngăn chặn các đối thủ tiềm năng tấn công Trung Quốc. Tuy nhiên, sự nhất quán trong việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc tập trung vào một lực lượng trả đũa nhỏ ngụ ý rằng họ coi ngưỡng thiệt hại như vậy là thấp. Vào năm 1967, Mao Trạch Đông được cho là đã nói với Andre Malraux, “Khi tôi có sáu quả bom nguyên tử, không ai có thể ném bom các thành phố của tôi... Người Mỹ sẽ không bao giờ sử dụng bom nguyên tử để chống lại tôi”. Đặng Tiểu Bình mở rộng quan điểm này vào năm 1981, lưu ý rằng “Trong tương lai, có thể sẽ không xảy ra chiến tranh hạt nhân. Chúng ta có [vũ khí hạt nhân] vì họ cũng có chúng. Chúng ta sẽ có nhiều hơn nếu họ có nhiều hơn. Có lẽ mọi người sẽ không dám sử dụng chúng”.

1710555257783.png

Tên lửa Dongfeng-5 (DF-5)

Trong thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình, niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về khả năng răn đe vẫn không thay đổi. Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi quan điểm của Giang Trạch Dân rất giống với quan điểm của những người tiền nhiệm. Sau Chiến tranh vùng Vịnh 1990-91, Giang Trạch Dân lưu ý rằng Trung Quốc sẽ duy trì “khả năng răn đe cần thiết [weishe nengli],” nhưng sẽ tập trung chi tiêu quốc phòng cho các lực lượng thông thường, chứ không phải hạt nhân, một lần nữa ngụ ý ưu tiên cho một lực lượng nhỏ. Theo một cuốn sách đáng tin cậy về tư tưởng quân sự của Giang Trạch Dân, ông có cùng quan điểm về nguồn gốc của sự răn đe: “Trung Quốc đã phát triển vũ khí hạt nhân chiến lược, không phải để tấn công mà để phòng thủ... đó là một loại công cụ răn đe tuyệt vời” đối với các quốc gia có vũ khí hạt nhân và khiến họ không dám hành động bừa bãi”. Năm 2002, ông nhấn mạnh khái niệm “răn đe chiến lược” (zhanlue weishe) rộng và đa diện hơn của Trung Quốc. Ông nói rằng “vũ khí hạt nhân là năng lực cốt lõi”.

1710555282479.png

Tên lửa Dongfeng-5 (DF-5)

Có rất ít tuyên bố công khai của Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình về các câu hỏi về chiến lược hạt nhân. Tuy nhiên, báo cáo về những tuyên bố này chỉ ra rằng chúng nhất quán với quan điểm của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm, tập trung vào vai trò răn đe của vũ khí hạt nhân. Nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Lực lượng Pháo binh số 2 vào năm 2006, ông Hồ Cẩm Đào tuyên bố rằng lực lượng này “đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc ngăn chặn chiến tranh và khủng hoảng, bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì hòa bình thế giới”. Tương tự như vậy, trong bài phát biểu tại Đại hội Đảng lần thứ 8 của Lực lượng Pháo binh lần thứ 2 vào cuối năm 2012, ông Tập Cận Bình đã lặp lại ý kiến của ông Giang Trạch Dân khi tuyên bố rằng Lực lượng Pháo binh số 2 là “lực lượng nòng cốt [hexiti liliang] trong khả năng răn đe chiến lược của Trung Quốc”. Các bài viết của các thành viên cấp cao thuộc Lực lượng Pháo binh số 2 về chiến lược hạt nhân đề cập đến quan điểm của ông Hồ Cẩm Đào và ông Tập Cận Bình theo những cách nhất quán với quan điểm của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

HỌC THUYẾT TÁC CHIẾN CHO LỰC LƯỢNG HẠT NHÂN CỦA TRUNG QUỐC

Học thuyết tác chiến của lực lượng Pháo binh số 2 chứng minh rằng Trung Quốc đã theo đuổi một chiến lược hạt nhân nhất quán dựa trên sự trả đũa chắc chắn. Khi Lực lượng Pháo binh số 2 được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1966, chỉ vài tuần trước khi Mao Trạch Đông kêu gọi “bắn phá trụ sở” và phát động Cách mạng Văn hóa, tổ chức này đã phải đối mặt với nhiều thách thức khi tìm cách trở thành một đơn vị tác chiến cho các tên lửa trang bị vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Trong giai đoạn này, Trung Quốc tiếp tục phát triển các cơ sở cho các tên lửa hiện có của mình là DF-2 và DF-3, nhưng không đạt được nhiều thành tựu khác. Vào cuối Cách mạng Văn hóa, Lực lượng Pháo binh số 2 đã có sự lãnh đạo mới và sự hướng dẫn rõ ràng từ Đặng Tiểu Bình, điều này đã đẩy nhanh quá trình phát triển của nó, bao gồm cả học thuyết tác chiến.

1710732050891.png

Tên lửa DF-2 (Đông Phong -2)

Những tuyên bố được đưa ra trong vài năm đầu tiên sau khi thành lập Lực lượng Pháo binh số 2 phản ánh việc áp dụng chiến lược trả đũa chắc chắn. Mặc dù Lực lượng Pháo binh số 2 không bắt đầu soạn thảo học thuyết tác chiến của mình cho đến cuối những năm 1970, nhưng nhiệm vụ ban đầu của lực lượng này là phát triển một lực lượng trả đũa. Vào tháng 7 năm 1967, Quân ủy Trung ương Trung Quốc ban hành quy định tạm thời cho Lực lượng Pháo binh số 2, nêu rõ nhiệm vụ của lực lượng này là “xây dựng lực lượng phản công hạt nhân để thực hiện phòng thủ chủ động”. Đây vẫn là nhiệm vụ của lực lượng hạt nhân Trung Quốc ngày nay. Khi đồng minh cũ của Đặng Tiểu Bình là Li Shuiqing được bổ nhiệm làm Tư lệnh Lực lượng Pháo binh số 2 vào năm 1977, ông nhấn mạnh rằng các nguyên tắc tác chiến của Lực lượng Pháo binh số 2 phải “để binh sĩ biết cách tiến hành các hoạt động phản công [fanji zuozhan],” một lần nữa tập trung vào sứ mệnh đặc biệt này. Trong cuộc họp về hoạt động năm 1978, Li Shuiqing một lần nữa nhấn mạnh việc phát triển Lực lượng Pháo binh số 2 thành một “lực lượng phản công hạt nhân”.

1710732172123.png

Tên lửa DF-2 (Đông Phong -2)

Cuộc họp thảo luận cách thực hiện “tư tưởng chỉ đạo, đường lối và nguyên tắc cũng như các nhiệm vụ chính [renwu] của phản công chiến lược”. Tháng 12 năm 1979, Lực lượng Pháo binh số 2 triệu tập cuộc họp nghiên cứu “việc triển khai tác chiến” (zuozhan yunyong). Báo cáo cuối cùng của cuộc họp nhấn mạnh “các nguyên tắc và hướng dẫn cho các hoạt động phản công của Lực lượng Pháo binh số 2”. Chương trình huấn luyện năm 1980 lưu ý rằng các sĩ quan chỉ huy (zhihui ganbu) trong Lực lượng Pháo binh số 2 nên tập trung vào “huấn luyện chỉ huy cho các hoạt động phòng thủ và phản công”.

Cách tiếp cận chiến lược hạt nhân của Trung Quốc được trình bày chi tiết trong tài liệu Khoa học chiến lược quân sự năm 1987, văn bản toàn diện đầu tiên của QGPNDTQ về chiến lược quân sự xuất bản sau năm 1949. Phản ánh quan điểm của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình, cuốn sách mô tả mục đích chính của vũ khí hạt nhân như ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân chống lại Trung Quốc. Nhiệm vụ của Lực lượng Pháo binh số 2 là sở hữu “một loại khả năng răn đe và trả đũa” để chống lại “độc quyền hạt nhân, cưỡng bức hạt nhân và các mối đe dọa hạt nhân”. “Phản công hạt nhân” (he fanji) là chiến dịch duy nhất được mô tả trong cuốn sách sử dụng vũ khí hạt nhân: “Nếu kẻ thù sử dụng vũ khí hạt nhân trước, chúng ta phải kiên quyết thực hiện phản công và tiến hành trả đũa hạt nhân”. Tài liệu Khoa học Chiến lược Quân sự năm 1987 cũng xác định “tư tưởng chỉ đạo cơ bản” (jiben zhidao sixiang) về việc “phát huy tác dụng răn đe và trả đũa” của vũ khí hạt nhân. Bốn nguyên tắc là kiểm soát tập trung (jizhong zhihui), chỉ tấn công sau khi kẻ thù đã tấn công (houfa zhiren), phòng thủ chặt chẽ (yanmi fanghu) và phản công có trọng điểm (zhongdian fanji).

1710732225783.png

Tên lửa DF-3 (Đông Phong -3)

Năm 1996, Lực lượng Pháo binh số 2 xuất bản tài liệu đầu tiên về chiến lược, Khoa học về Chiến lược Pháo binh số 2. Mặc dù văn bản phác thảo chiến lược của Trung Quốc cho Lực lượng Pháo binh số 2 với tư cách là một nhánh độc lập của QGPNDTQ, nhưng nó gần giống với chiến lược hạt nhân của Trung Quốc tại thời điểm xuất bản. Cuốn sách mô tả chiến lược phục vụ của Lực lượng Pháo binh số 2 là “nhấn mạnh vào khả năng răn đe, phản công hiệu quả” (zhongzai weishe, youxiao fanji). Lặp lại tài liệu Khoa học về Chiến lược Quân sự năm 1987, mục đích của vũ khí hạt nhân là ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân chống lại Trung Quốc và ngăn chặn một cuộc chiến tranh thông thường leo thang thành chiến tranh hạt nhân. Văn bản mô tả ba hành động chính. Thứ nhất, phòng thủ chiến lược đề cập đến việc đảm bảo khả năng sống sót của lực lượng. Thứ hai, răn đe chiến lược mô tả cách ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân hoặc sự leo thang hạt nhân của một cuộc chiến tranh thông thường. Và thứ ba, phản công chiến lược vạch ra cách Trung Quốc sẽ trả đũa nếu bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Điều quan trọng là cuốn sách duy trì sự khác biệt rõ ràng giữa việc sử dụng vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Khoa học về chiến lược Pháo binh số 2 chỉ ra rằng Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng vũ khí hạt nhân sau khi bị tấn công trước bằng vũ khí hạt nhân. Nó không xác định việc sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên trong một cuộc xung đột thông thường lớn như một hình thức “bảo vệ trước nguy cơ bị xâm lược”.

1710732246565.png

Tên lửa DF-3 (Đông Phong -3)

Các ấn phẩm tiếp theo về chiến lược quân sự và học thuyết tác chiến của Trung Quốc tiếp tục mô tả chiến dịch phản công hạt nhân (hefanji zhanyi) là chiến dịch hạt nhân duy nhất của Lực lượng Pháo binh số 2. Nhiều mô tả khác nhau về chiến dịch này có trong ấn bản năm 2000 và 2006 của tài liệu Khoa học Chiến dịch của Đại học Quốc phòng (NDU), Hướng dẫn Nghiên cứu Học thuyết Chiến dịch năm 2002, và ấn bản năm 2001 và 2013 của Khoa học Chiến lược Quân sự, cùng nhiều ấn bản khác. Các văn bản lưu hành hạn chế của Lực lượng Pháo binh số 2 - chẳng hạn như các văn bản học thuyết về phương pháp chiến dịch và chiến thuật từ giữa những năm 1990, cùng với ấn bản năm 2004 của tài liệu Khoa học về các Chiến dịch Pháo binh số 2 - cũng mô tả chiến dịch phản công hạt nhân là chiến dịch hạt nhân duy nhất của Lực lượng Pháo binh số 2.


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

CHIẾN LƯỢC TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC

Đến đầu những năm 2000, những tuyên bố chính thức của chính phủ Trung Quốc về chiến lược hạt nhân cũng trở nên rõ ràng hơn. Nỗ lực đầu tiên nhằm đưa ra chiến lược hạt nhân được thực hiện vào năm 2000, trong sách trắng quốc phòng thứ hai của Trung Quốc, nhưng rốt cuộc nó chỉ là sự trình bày lại các chính sách trước đây. Lời giải thích chính thức đầy đủ nhất xuất hiện trong sách trắng quốc phòng năm 2006, lần đầu tiên công khai nêu rõ chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Nó tuyên bố rằng Trung Quốc theo đuổi “chiến lược hạt nhân mang tính phòng vệ” (ziweifangyu he zhanlue), đây là công thức chính thức của chính phủ.

1710732359431.png

Tên lửa DF-31 (Đông phong - 31)

Hai nguyên tắc của chiến lược này là “phản công để tự vệ” (ziweifanji) và “hạn chế phát triển” (youxian fazhan) vũ khí hạt nhân. Sách trắng năm 2006 lưu ý rằng Trung Quốc đang tìm cách sở hữu “một lực lượng hạt nhân tinh gọn và hiệu quả” (jingganyouxiao he liliang) như một “lực lượng răn đe chiến lược” (zhanlue weishe zuoyong). Các sách trắng tiếp theo đã lặp lại công thức này, cùng với chính sách không sử dụng trước của Trung Quốc. Ví dụ, sách trắng năm 2008 nêu rõ các điều kiện để Trung Quốc sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong thời bình, lực lượng hạt nhân của Trung Quốc không nhằm vào bất kỳ nước nào. Tuy nhiên, khi Trung Quốc phải đối mặt với các mối đe dọa hạt nhân, nước này sẽ đặt lực lượng của mình trong tình trạng báo động. Nếu Trung Quốc bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân, nước này sẽ “kiên quyết phản công kẻ thù” bằng vũ khí hạt nhân.

Quan điểm của lãnh đạo về công dụng của vũ khí hạt nhân

Kể từ năm 1949, các nhà lãnh đạo đảng cao nhất của Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng mục đích chính của vũ khí hạt nhân là ngăn chặn sự ép buộc hạt nhân và ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc chưa bao giờ coi chúng là công cụ để chiến đấu hoặc giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Bom nguyên tử cũng được coi là mang lại những lợi ích khác, chẳng hạn như thể hiện vị thế của Trung Quốc như một cường quốc trong cộng đồng quốc tế và là nguồn tự hào dân tộc của người dân Trung Quốc. Tuy nhiên, những chức năng sau này ít quan trọng hơn trong việc hiểu tính nhất quán của chiến lược hạt nhân của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ. Như tài liệu Khoa học về Chiến lược Pháo binh số 2 năm 1996 đã nêu rõ ràng, chiến lược của Lực lượng Pháo binh số 2 “dựa trên và thậm chí được xác định bởi tư tưởng chiến lược hạt nhân của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình”. Những quan điểm này được mô tả dưới đây.

NGĂN CHẶN TẤN CÔNG HẠT NHÂN

Quan điểm của các nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc về răn đe thông qua trả đũa chắc chắn được thảo luận ở phần trước phản ánh quan điểm của họ rằng chức năng quan trọng nhất của vũ khí hạt nhân là ngăn chặn các cuộc tấn công hạt nhân chống lại Trung Quốc. Bất chấp lời chê bai nổi tiếng của Mao Trạch Đông về vũ khí hạt nhân là “hổ giấy”, ông đánh giá cao những vũ khí đó vì đã ngăn cản Mỹ và sau này là Liên Xô sử dụng chúng để chống lại Trung Quốc. Mao Trạch Đông nhận thức sâu sắc về khả năng dễ bị tổn thương của Trung Quốc trước các cuộc tấn công hạt nhân và sự cần thiết phải có giải pháp cho vấn đề này. Năm 1950, trong Chiến tranh Triều Tiên, ông nhận xét rằng “nếu Mỹ tấn công bằng bom nguyên tử thì chúng tôi không có và chỉ có thể cho phép họ tấn công. Đây là điều chúng tôi không thể giải quyết được”.

1710732561617.png

Tên lửa DF-31 (Đông phong - 31)

Hai mươi năm sau, vào năm 1970, ông ghi nhận vai trò răn đe của vũ khí hạt nhân trong cuộc cạnh tranh siêu cường Mỹ - Liên Xô. Khi gặp phái đoàn Bắc Việt Nam, ông nói rằng “mặc dù khả năng các nước lớn tiến hành một cuộc chiến tranh thế giới vẫn còn, nhưng không phải ai cũng dám khơi mào một cuộc chiến như vậy chỉ vì họ có vũ khí hạt nhân”. Mao Trạch Đông rõ ràng chấp nhận quan điểm răn đe lẫn nhau, điều này được phản ánh trong tuyên bố mà Trung Quốc đưa ra sau vụ thử nghiệm thiết bị hạt nhân đầu tiên vào tháng 10 năm 1964.

Chu Ân Lai cũng có quan điểm tương tự. Năm 1955, Chu Ân Lai mô tả sau Chiến tranh Thế giới lần thứ I, việc sở hữu vũ khí hóa học, một loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác, đã tạo ra tình trạng dễ bị tổn thương lẫn nhau và do đó có tính răn đe. Dựa trên điều này, ông kết luận vào năm 1955 rằng “hiện nay cũng có thể cấm sử dụng vũ khí nguyên tử”, vì việc cùng sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ ngăn cản các quốc gia sử dụng chúng. Sau này, vào năm 1961, ông thẳng thừng hơn khi lập luận: “Nếu chúng ta không có tên lửa thì đế quốc có thể dùng tên lửa [chống lại chúng ta]”. Nhận xét của Chu Ân Lai phản ánh sự tập trung của QGPNDTQ vào những năm 1950 vào việc chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh thông thường sau khi Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân như một phần của cuộc tấn công chống lại Trung Quốc.

1710732679068.png

Tên lửa DF-5 (Đông Phong 5)

Thế hệ lãnh đạo thứ hai của Trung Quốc, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, cũng nhấn mạnh vai trò răn đe của vũ khí hạt nhân. Trong cuộc gặp năm 1975 với thủ tướng Guyana, Đặng Tiểu Bình đã ám chỉ đến chức năng răn đe của những loại vũ khí này, nói rằng “Pháp cũng đã chế tạo một số [vũ khí hạt nhân]. Chúng tôi hiểu [tại sao] Pháp đã chế tạo chúng. Nước Anh cũng đã làm được một số, nhưng không nhiều. Lý do của chúng tôi để xây dựng một số ít là chúng tôi sẽ có chúng nếu những nước khác [tamen] có chúng. Vũ khí hạt nhân chỉ có chức năng này thôi”. Mặc dù chỉ có ngụ ý nhưng ông ấy đang đề cập đến vai trò răn đe của vũ khí hạt nhân. Cuối năm đó, ông cũng nói với các quan chức của Ngành công nghiệp máy móc thứ bảy (Hàng không vũ trụ), cơ quan chịu trách nhiệm phát triển tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, “Chúng ta phải có một số lực lượng răn đe [weishe liliang] nếu họ cũng có nó. Chúng ta không thể làm quá nhiều, nhưng có nó thì có ích”.

Cuối cùng, các thế hệ lãnh đạo khác của Trung Quốc nhấn mạnh vai trò răn đe của vũ khí hạt nhân. Ví dụ, Giang Trạch Dân đã tuyên bố rằng “miễn là thế giới còn có vũ khí hạt nhân và có khả năng răn đe hạt nhân, chúng ta phải duy trì và phát triển lực lượng phản công hạt nhân”. Ở chỗ khác, Giang Trạch Dân tuyên bố rằng “các cuộc phản công then chốt phản ánh việc sử dụng sự tập trung lực lượng trong chiến tranh hạt nhân. Sức mạnh hạt nhân [liliang] của đất nước chúng ta bị hạn chế, chỉ bằng cách tập trung hỏa lực hạt nhân và thực hiện các cuộc phản công trọng điểm chống lại các mục tiêu hạn chế thì nước này mới có thể đạt được mục tiêu chiến lược của mình một cách hiệu quả”.

1710732730971.png

Tên lửa DF-5B (Đông Phong 5B)

Mặc dù có rất ít tài liệu nguồn cơ bản về cách tiếp cận các vấn đề quân sự của Hồ Cẩm Đào được xuất bản, nhưng các bài báo có thẩm quyền của các học giả quân sự cấp cao vẫn tiếp tục nhấn mạnh quan điểm này về vũ khí hạt nhân kể từ khi Hồ Cẩm Đào trở thành tổng bí thư ĐCSTQ vào năm 2002. Theo Zhang Qihua, cựu Chủ nhiệm cục trang bị của Lực lượng Pháo binh số 2, “Chỉ thị quan trọng của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào là tiếp tục và phát triển tư tưởng của ba thế hệ lãnh đạo cốt lõi về phát triển khả năng răn đe chiến lược của nước ta”. Những cuốn sách có thẩm quyền về chiến lược của Trung Quốc được xuất bản sau khi Tập Cận Bình trở thành tổng bí thư ĐCSTQ và chủ tịch Quân ủy Trung ương cũng chỉ ra rằng vũ khí hạt nhân chủ yếu nhằm mục đích ngăn chặn các cuộc tấn công hạt nhân.


.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

NGĂN NGỪA CƯỠNG BỨC HẠT NHÂN

Các lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ, đặc biệt là thế hệ thứ nhất, nhấn mạnh vai trò khác của vũ khí hạt nhân: chống lại và ngăn chặn sự cưỡng bức hạt nhân, khi một quốc gia có vũ khí hạt nhân đe dọa một quốc gia không có vũ khí hạt nhân. Trớ trêu thay, một lý do khiến Mao Trạch Đông có thể chê bai bom nguyên tử là “hổ giấy” lại là công cụ - cụ thể là để khuyến khích công chúng Trung Quốc không bị đe dọa bởi những vũ khí hủy diệt như vậy mà đối thủ của Trung Quốc sở hữu.

1711097768913.png

Tên lửa mang đầu đạn hạt nhân DF-2 của Trung Quốc

Sự cần thiết phải ngăn chặn cưỡng bức hạt nhân là một chủ đề xuyên suốt các tài liệu tham khảo hạn chế của Mao Trạch Đông về vũ khí hạt nhân. Chẳng hạn, trong cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Quốc phòng năm 1954, Mao Trạch Đông đã lưu ý: “Các đế quốc [tức là Mỹ] đánh giá rằng chúng ta chỉ có một vài thứ và sau đó họ đến bắt nạt chúng ta. Họ nói, 'bạn có bao nhiêu quả bom nguyên tử?'” Khi gặp các nghị sĩ Pháp năm 1964 trước vụ thử hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc, ông lập luận: “Với hàng loạt vũ khí hạt nhân ở Mỹ và Liên Xô, họ thường rung lắc chúng trên tay để đe dọa những nước khác”. Tương tự như vậy, Nguyên soái Nie Rongzhen, một trong những nhân vật chủ chốt trong chương trình vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, nhận xét rằng “khi người dân Trung Quốc có loại vũ khí này, hành vi cưỡng bức hạt nhân của [Mỹ] đối với người dân trên thế giới sẽ bị ngăn chặn hoàn toàn”.

Sự tập trung của Mao Trạch Đông vào việc chống lại sự cưỡng bức phản ánh quyết định ban đầu theo đuổi vũ khí hạt nhân. Trong bài phát biểu nổi tiếng năm 1956 “Về mười mối quan hệ vĩ đại”, Mao Trạch Đông lưu ý rằng “chúng ta không chỉ muốn có thêm máy bay và pháo hạng nặng mà còn cả bom nguyên tử. Trong thế giới ngày nay, nếu không muốn bị bắt nạt thì chúng ta không thể thiếu thứ này”. Trong cuộc họp của Quân ủy Trung ương năm 1958, ông đã liên kết chúng với khả năng chống lại các quốc gia mạnh hơn, lưu ý rằng “[chúng tôi] cũng muốn quả bom nguyên tử đó. Nghe nói việc có loại vũ khí lớn như vậy, nếu bạn không có thì người khác sẽ không đếm xỉa đến bạn. Được thôi, chúng ta nên chế tạo một vài quả”.

1711097981540.png

Tên lửa mang đầu đạn hạt nhân DF-3 của Trung Quốc

Mặc dù mối quan ngại của Trung Quốc về việc chống lại sự cưỡng bức hạt nhân có lẽ được thể hiện rõ nhất trong thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh, các thế hệ lãnh đạo khác của Trung Quốc cũng nhấn mạnh chức năng này của vũ khí hạt nhân. Ví dụ, vào năm 1975, Đặng Tiểu Bình nói với một phái đoàn du khách nước ngoài rằng Trung Quốc “không hề ủng hộ việc phổ biến vũ khí hạt nhân, nhưng chúng tôi thậm chí còn phản đối mạnh mẽ hơn sự độc quyền hạt nhân”. Tương tự, Giang Trạch Dân nhận xét rằng bằng cách sở hữu bom vào những năm 1960, Trung Quốc “đã phá vỡ thế độc quyền hạt nhân và cưỡng bức hạt nhân của Mỹ-Liên Xô, khiến nước ta trở thành một trong số ít quốc gia có vũ khí hạt nhân trên thế giới”.

TRÁNH CHIẾN ĐẤU BẰNG VŨ KHÍ HẠT NHÂN

Các nhà lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ đồng ý rằng vũ khí hạt nhân không có bất kỳ tiện ích chiến tranh có ý nghĩa nào. Tất nhiên, Mao Trạch Đông nhấn mạnh rằng chỉ có con người chứ không phải vũ khí mới giúp các quốc gia giành chiến thắng trong chiến tranh. Chẳng hạn, sau các cuộc tấn công ở Hiroshima và Nagasaki, ông kết luận rằng vũ khí hạt nhân không thể giải quyết được chiến tranh nói chung hoặc buộc Nhật Bản phải đầu hàng nói riêng. Đối với Mao Trạch Đông, “chỉ có bom nguyên tử và không có sự đấu tranh của nhân dân thì bom nguyên tử là vô nghĩa”. Quả thực, các bài viết của Mao Trạch Đông về các vấn đề quân sự có rất nhiều tài liệu đề cập đến tính ưu việt của con người so với vũ khí trên chiến trường, một quan điểm là trọng tâm của vấn đề chiến lược chính mà ĐCSTQ đã khai thác trước và sau năm 1949: đánh bại kẻ thù có vũ khí và trang bị vượt trội.

Các nhà lãnh đạo thời kỳ đầu của Trung Quốc cũng coi vũ khí hạt nhân là công cụ không hiệu quả, khó sử dụng trên chiến trường. Ví dụ, khi Nguyên soái Diệp Kiếm Anh thảo luận về sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân chiến thuật trong một bài phát biểu năm 1961, ông lưu ý “việc sử dụng vũ khí nguyên tử phải tuân theo một số điều kiện nhất định. Chúng không thể được sử dụng để tấn công bất cứ lúc nào hoặc vào bất kỳ mục tiêu nào theo ý muốn”. Diệp Kiếm Anh còn quan sát thêm rằng sự phát triển của địa hình, khí hậu và chiến trường đều ảnh hưởng đến việc liệu chúng có thể được sử dụng hay không.

1711098144503.png

Tên lửa mang đầu đạn hạt nhân DF-2 của Trung Quốc

Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai coi vũ khí thông thường chứ không phải vũ khí hạt nhân là nguồn gốc của chiến thắng trong chiến tranh. Trong cuộc họp của Ủy ban Công nghiệp Quốc phòng (NDIC) vào tháng 8 năm 1961, Chu Ân Lai nhấn mạnh sự cần thiết phải sở hữu vũ khí hạt nhân để ngăn chặn một cuộc tấn công “đế quốc” bằng vũ khí hạt nhân.

Nhưng “để đấu tranh trực diện, [chúng ta] vẫn phải dựa vào vũ khí thông thường và phải nắm bắt sự phát triển của vũ khí thông thường”. Tháng sau, trong một cuộc trò chuyện dài với Thống chế Anh Bernard Montgomery, Mao Trạch Đông nói rằng vũ khí hạt nhân “sẽ không được sử dụng. Nếu sản xuất nhiều hơn thì chiến tranh hạt nhân sẽ không xảy ra”. Thay vào đó, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của vũ khí thông thường, nhận xét rằng “nếu muốn chiến đấu, bạn vẫn cần sử dụng vũ khí thông thường để chiến đấu”. Vào tháng 1 năm 1965, trong một cuộc họp mở rộng của Thường vụ Bộ Chính trị, ông lưu ý rằng “chúng ta sẽ chỉ sử dụng vũ khí thông thường để chiến đấu với chúng”, ám chỉ “bọn đế quốc” và “những kẻ theo chủ nghĩa xét lại”.

Đặng Tiểu Bình chia sẻ quan điểm của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh. Vào giữa những năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã kết luận rằng Mỹ và Liên Xô khó có thể tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân, bất chấp sự phát triển của các học thuyết chiến tranh hạt nhân ở cả hai nước. Khi gặp Bộ trưởng Quốc phòng Mexico năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã nhận xét rằng “các cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ chủ yếu là chiến tranh với vũ khí thông thường chứ không phải chiến tranh nguyên tử. Nguyên nhân là sức công phá của vũ khí hạt nhân quá lớn, kẻ thù sẽ không dễ dàng sử dụng”. Theo quan điểm của Đặng Tiểu Bình, chiến tranh diễn ra để kiểm soát lãnh thổ và khai thác tài nguyên chứ không phải để phá hủy hoàn toàn cơ sở hạ tầng của quốc gia khác. Do đó, Đặng Tiểu Bình kết luận, “chúng tôi sẽ chủ yếu phát triển vũ khí thông thường”.

1711098208212.png

Tên lửa mang đầu đạn hạt nhân DF-2 của Trung Quốc

Năm 1981, trong cuộc gặp với Thủ tướng Đan Mạch, Đặng Tiểu Bình đã cảnh báo không được “phớt lờ chiến tranh thông thường. Bởi vì với vũ khí hạt nhân, nếu bạn có, tôi sẽ có. Nếu bạn có nhiều hơn, tôi sẽ có nhiều hơn và có lẽ sẽ không ai dám sử dụng. Chiến tranh thông thường là có thể xảy ra”. Cuối cùng, trong khuôn khổ cuộc họp Quân ủy Trung ương Trung Quốc năm 1985 về sự chuyển đổi chiến lược của Trung Quốc trong hiện đại hóa lực lượng, Đặng Tiểu Bình lại bày tỏ quan điểm của mình rằng chiến tranh hạt nhân khó có thể xảy ra: bởi vì “Mỹ và Liên Xô ngày nay đều có rất nhiều bom nguyên tử, nên nếu chiến tranh nổ ra bên ào sẽ sử dụng trước nếu họ tham chiến - đây không phải là một quyết định dễ dàng”. Hơn nữa, ông lưu ý, “một cuộc chiến tranh thế giới trong tương lai sẽ không nhất thiết phải là một cuộc chiến tranh hạt nhân. Đây không chỉ là quan điểm của chúng tôi mà cả người Mỹ và Liên Xô cũng tin rằng trong tương lai rất có thể sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh thông thường”.

............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Sự phát triển chiến lược và lực lượng hạt nhân của Trung Quốc

Các nhà lãnh đạo cấp cao của ĐCSTQ, chứ không phải các quan chức quân sự cấp cao, đã chi phối việc phát triển lực lượng và chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Những nhà lãnh đạo này, đặc biệt là Chu Ân Lai, đã quyết định nên phát triển loại vũ khí nào, phát triển bao nhiêu loại, cũng như các căn cứ và chiến lược. Khi sự phát triển của Lực lượng Pháo binh số 2 với tư cách là một nhánh độc lập của QGPNDTQ tăng tốc vào cuối những năm 1970, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã tham gia trực tiếp hơn nhiều vào sự phát triển của nó nhưng với tư cách là cơ quan lãnh đạo các vấn đề quân sự của đảng.

QUYẾT ĐỊNH PHÁT TRIỂN BOM

Các nhà lãnh đạo đảng cao nhất của Trung Quốc bắt đầu cân nhắc việc phát triển vũ khí hạt nhân trong khi vẫn đang chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên. Các cuộc thảo luận quan trọng về việc phát triển vũ khí hạt nhân được tổ chức từ đầu đến giữa năm 1952. Quyết định chính trị tiếp tục chương trình hạt nhân đã không được đưa ra cho đến tháng 1 năm 1955, sau khi phát hiện ra nguồn uranium trong nước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng mong muốn có thể tập hợp một đội ngũ các nhà khoa học có trình độ để phát triển vũ khí hạt nhân.

1711098374528.png

Bom nguyên tử đầu tiên của TQ

Vào tháng 6 năm 1951, một nghiên cứu sinh người Trung Quốc ở Pháp, Yang Chengzong, nhận bằng Tiến sĩ về X quang tại Đại học Paris dưới sự hướng dẫn của Irene Joliot-Curie. Khi Yang chuẩn bị trở về Trung Quốc, Irene đã sắp xếp một cuộc gặp với chồng cô, Frederick Joliot-Curie, cũng là một nhà vật lý nổi tiếng người Pháp. Frederick yêu cầu anh ta chuyển một thông điệp cho Mao Trạch Đông: “Nếu muốn bảo vệ hòa bình và phản đối bom nguyên tử, chính bạn phải có bom nguyên tử”. Hơn nữa, “bom nguyên tử không quá khủng khiếp và nguyên lý của bom nguyên tử không phải do người Mỹ phát minh ra”. Để khuyến khích Trung Quốc, Frederick nói với Yang Chengzong rằng Trung Quốc có các nhà khoa học của riêng mình, như Qian Sanqiang, He Zehui và Wang Dezhao. Sau khi Yang Chengzong trở về Trung Quốc, ông gia nhập Viện Vật lý Hiện đại và nói với giám đốc của nó, Qian Sanqiang, về thông điệp của Joliot-Curie dành cho Mao Trạch Đông. Vào tháng 10 năm 1951, Qian Sanqiang yêu cầu một thành viên khác của viện là Ding Zan thông báo cho lãnh đạo trung ương.

1711098550750.png

TQ thử nghiệm bom nguyên tử

Không rõ Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác lần đầu tiên nhận được thông điệp của Joliot-Curie là khi nào, nhưng sau đó họ thường xuyên nhắc đến nó. Bất chấp điều đó, Trung Quốc bắt đầu khám phá việc phát triển bom vào tháng 3 năm 1952, khi Chu Ân Lai chỉ thị cho hai thư ký của mình, Lôi Anh Phúc và Ngụy Minh, đến thăm nhà khoa học nổi tiếng Trung Quốc Zhu Kezhen. Mục đích của cuộc họp là để hiểu rõ hơn về “các điều kiện tiên quyết về công nghệ để sản xuất thử nghiệm bom nguyên tử và các loại vũ khí phức tạp khác”. Zhu Kezhen nói với Lôi Anh Phúc và Ngụy Minh rằng nỗ lực như vậy sẽ tốn kém hơn nhiều so với việc phát triển vũ khí thông thường, đòi hỏi một nhóm nhân sự tài năng (bao gồm cả Hoa kiều được đào tạo kỹ thuật tiên tiến) và phụ thuộc vào nguyên liệu và thiết bị nhập khẩu. Khi Lôi Anh Phúc báo cáo lại với Chu Ân Lai, Lôi Anh Phúc nói rằng “ý kiến của Zhu Kezhen là ý kiến của chuyên gia”.

Vào tháng 5 năm 1952, Chu Ân Lai gặp các thành viên của CMC để thảo luận về kế hoạch phát triển quân sự 5 năm đầu tiên. Những người tham gia cuộc họp khác bao gồm Chu Đức, Nhiếp Vinh Trăn, Bành Đức Hoài và Su Yu. Họ thảo luận về việc phát triển vũ khí hạt nhân nhưng quyết định cần nghiên cứu thêm để xác định cách thức phát triển nó và khi nào bắt đầu. Chu Ân Lai cũng hiểu tầm quan trọng của việc xác định nguồn cung uranium trong nước mà Trung Quốc vẫn chưa phát hiện ra. Vào tháng 11 năm 1952, Chu Ân Lai đọc được một báo cáo về một mẩu quặng uranium được gửi từ Công ty Sắt An Sơn, ông ngay lập tức chia sẻ thông tin này với Mao Trạch Đông và các lãnh đạo đảng khác. Ông cũng đề nghị mời các chuyên gia Liên Xô cùng khai thác uranium và hỗ trợ phát triển Viện Vật lý Hiện đại trong Viện Khoa học Trung Quốc (CAS), nơi sẽ là trung tâm công tác lý thuyết và kỹ thuật của Trung Quốc. Hồi ức của Quách Anh Huy, một thư ký khác của Chu Ân Lai, mô tả việc phát triển vũ khí hạt nhân đã được thảo luận như thế nào tại cuộc họp tháng 5 năm 1952. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai “cả hai đều tin rằng nếu Trung Quốc không có bom nguyên tử và các loại vũ khí hiện đại khác thì những nước khác sẽ không tôn trọng Trung Quốc”.

1711098626635.png

TQ thử nghiệm bom nguyên tử

........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Sau cuộc họp tháng 5 năm 1952, các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc tiếp tục thảo luận về sự cần thiết của việc Trung Quốc có được vũ khí hạt nhân và bắt đầu tiếp cận Liên Xô để xin viện trợ. Thực hiện theo chỉ dẫn của Chu Ân Lai, Tiền Tam Cường đã yêu cầu được đến thăm các viện và cơ sở nghiên cứu vật lý nguyên tử khi một phái đoàn của CAS đến thăm Moscow vào tháng 3 năm 1953. Khi đến thăm Viện Vật lý Moscow, Tiền Tam Cường đã hỏi người đồng cấp liệu Liên Xô có thể hỗ trợ cho việc xây dựng một cyclotron và lò phản ứng thử nghiệm hay không. Tháng 11 năm 1953, Bành Đức Hoài bày tỏ mong muốn Trung Quốc có được tất cả vũ khí mà Mỹ sở hữu, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bành Đức Hoài tiếp tục tìm hiểu quá trình chế tạo vũ khí hạt nhân, gặp Tiền Tam Cường vào tháng 8 năm 1954 trước khi tới Moscow. Vào tháng 9 năm 1954, trong chuyến đi tới Moscow cùng với các lãnh đạo cấp cao khác của Trung Quốc để quan sát cuộc tập trận hạt nhân SNOWBALL, Bành Đức Hoài lại thăm dò khả năng hỗ trợ xây dựng máy gia tốc cyclotron và lò phản ứng thử nghiệm.

1711098728933.png

Ông Bành Đức Hoài

Tình hình thay đổi vào mùa thu năm 1954, khi uranium được phát hiện ở Quảng Tây. Vào tháng 2 năm 1954, Chu Ân Lai thành lập một văn phòng tại Bộ Địa chất chịu trách nhiệm phát triển tài nguyên uranium của Trung Quốc. Các cuộc khảo sát được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 10 đã mang lại các mẫu từ Shanmuchong ở Quảng Tây cho thấy Trung Quốc sẽ có đủ nguồn cung nội địa để hỗ trợ chương trình vũ khí hạt nhân. Dẫn đầu nỗ lực là Liu Jie, Thứ trưởng Bộ địa chất, người nhớ lại rằng phát hiện ở Quảng Tây được thực hiện vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9. Một ngày sau khi báo cáo phát hiện này cho Chu Ân Lai, Liu Jie được chỉ thị bay đến Bắc Kinh. Trong văn phòng của Mao ở Trung Nam Hải, Liu Jie trưng bày số quặng đã được tìm thấy. Ông mô tả Mao Trạch Đông là người “phấn khích”, nói rằng “đất nước chúng ta có nguồn tài nguyên dồi dào và chúng ta phải phát triển năng lượng nguyên tử”. Kết thúc cuộc họp, Mao Trạch Đông nói rằng “việc này phải được giải quyết tốt, nó sẽ quyết định vận mệnh của chúng ta”. Vì vậy, đến cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1954, quyết định theo đuổi việc chế tạo bom đã được đưa ra một cách không chính thức.

Sau khi phát hiện ra uranium, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tin rằng Trung Quốc hiện có thể theo đuổi việc phát triển vũ khí hạt nhân. Chính Mao Trạch Đông đã trực tiếp nêu ra câu hỏi này trong chuyến thăm Bắc Kinh của Nikita Khrushchev vào tháng 10 năm 1954 nhân kỷ niệm 5 năm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Mao Trạch Đông được cho là đã yêu cầu Khrushchev “tiết lộ cho Trung Quốc bí mật về bom nguyên tử và hỗ trợ Trung Quốc tiến hành sản xuất bom nguyên tử”. Bành Đức Hoài đã yêu cầu Lý Phú Xuân, người đang giám sát các cuộc đàm phán về hợp tác với Liên Xô, yêu cầu viện trợ lò phản ứng và máy gia tốc trong chuyến thăm của Khrushchev. Theo Bành Đức Hoài, chúng “phải được xây dựng càng sớm càng tốt”. Cuối tháng 10 năm 1954, Mao Trạch Đông nói với Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru rằng “Trung Quốc hiện không có bom nguyên tử… chúng tôi đang bắt đầu nghiên cứu [nó].”

1711098790238.png

Ông Chu Ân Lai

Ngày 14 tháng 1 năm 1955, Chu Ân Lai triệu tập một cuộc họp nhỏ với hai nhà khoa học hàng đầu là Li Siguang (đồng thời là bộ trưởng địa chất) và Qian Sanqiang, cùng với nhà hoạch định kinh tế Bo Yibo và thứ trưởng địa chất Liu Jie. Họ đã xem xét các yêu cầu kỹ thuật để phát triển vũ khí hạt nhân để chuẩn bị cho cuộc họp của Ban Bí thư Trung ương. Ví dụ, tại cuộc họp, Chu Ân Lai đã xem xét các mối đe dọa hạt nhân mà Trung Quốc phải đối mặt trong Chiến tranh Triều Tiên là lý do chính để sở hữu bom. Để nhấn mạnh sự cần thiết của việc Trung Quốc phải có vũ khí hạt nhân, Chu Ân Lai đã trích dẫn thông điệp năm 1951 của Joliot-Curie gửi Mao Trạch Đông: “Nếu muốn phản đối bom nguyên tử, bạn cần phải sở hữu bom nguyên tử”. Với việc phát hiện ra uranium, Chu Ân Lai kết luận rằng “tình hình bây giờ đã thay đổi. Đã đến lúc phải xem xét việc phát triển của năng lượng nguyên tử”.

Ngày hôm sau, 15 tháng 1, một cuộc họp mở rộng của Ban Bí thư Trung ương được triệu tập để thảo luận xem có nên phát triển năng lượng hạt nhân và theo đuổi bom hay không. Ban Bí thư là cơ quan ra quyết định lãnh đạo cao nhất của đảng, gần tương đương với Thường vụ Bộ Chính trị ngày nay. Vào thời điểm đó, không có sĩ quan quân đội tại ngũ nào là thành viên của ban bí thư. Những người tham gia cuộc họp khác bao gồm Bành Đức Hoài, Bành Chân, Đặng Tiểu Bình, Lý Phúc Xuân, Bạc Nhất Bác và Lưu Kiệt. Trong số khoảng mười người tham gia, chỉ có một người, Bành Đức Hoài, là sĩ quan quân đội cấp cao. Nói cách khác, không chỉ Bành Đức Hoài ủng hộ việc phát triển bom, các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng cũng đã cùng nhau đưa ra quyết định theo đuổi nó. Những người tham gia đã theo dõi màn trình diễn máy đếm Geiger do Trung Quốc sản xuất từ Viện Vật lý Hiện đại với một mảnh uranium từ Quảng Tây. Qian Sanqiang, người đứng đầu viện, cho biết nghiên cứu về năng lượng nguyên tử của Trung Quốc đã “bắt đầu lại từ đầu”, nhưng giờ đây, “sau vài năm nỗ lực, một nền tảng đã được thiết lập”, bao gồm cả việc thành lập một nhóm chuyên gia để làm việc cho dự án. Cuộc họp kết thúc với “quyết định chiến lược” phát triển vũ khí hạt nhân.

1711098917368.png

Bãi thử hạt nhân của TQ do Mỹ chụp năm 1964, 4 ngày sau khi TQ thử bom nguyên tử

Ngay sau cuộc họp tháng 1 năm 1955, các bước đã được thực hiện nhằm thành lập các tổ chức cần thiết để phát triển vũ khí hạt nhân. Các lãnh đạo cấp cao của đảng, đặc biệt là Chu Ân Lai, chứ không phải các quan chức quân sự cấp cao, đưa ra mọi quyết định quan trọng. Chu Ân Lai đóng vai trò chủ đạo trong việc giám sát việc phát triển vũ khí chiến lược của Trung Quốc từ năm 1955 cho đến khi ông qua đời. Cơ quan điều phối đầu tiên cho chương trình hạt nhân của Trung Quốc được thành lập vào tháng 7 năm 1955, bao gồm Phó Thủ tướng Chen Yun, Nguyên soái Nhiếp Vinh Trăn và nhà hoạch định kinh tế Bạc Nhất Ba. Họ được giao nhiệm vụ giám sát mọi công việc nhằm thành lập ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc và báo cáo với Chu Ân Lai, với Bạc Nhất Ba xử lý các công việc hàng ngày. Đầu năm 1955, Trung Quốc ký một số thỏa thuận với Liên Xô trong lĩnh vực khai thác uranium và năng lượng hạt nhân, trở thành trọng tâm của nhóm điều phối Chen-Nie-Bo. Vào tháng 12 năm 1955, Quốc vụ viện công bố kế hoạch 12 năm phát triển ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc, sau đó được đưa vào như một nhiệm vụ trong kế hoạch 12 năm năm 1956 về phát triển khoa học và công nghệ ở Trung Quốc. Vào tháng 11 năm 1956, một bộ quản lý sự phát triển của ngành công nghiệp hạt nhân Trung Quốc được thành lập và thay thế nhóm Chen-Nie-Bo.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

QUYẾT ĐỊNH TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN VŨ KHÍ CHIẾN LƯỢC

Năm 1961, các lãnh đạo đảng cao nhất của Trung Quốc phải đối mặt với một quyết định quan trọng về việc phát triển bom. Vào năm 1959 và 1960, Liên Xô chấm dứt mọi hỗ trợ cho chương trình hạt nhân của Trung Quốc. Mặc dù vai trò của sự hỗ trợ hạt nhân của Liên Xô trong chương trình vũ khí chiến lược của Trung Quốc có lẽ đã bị cường điệu hóa, việc rút các cố vấn đã khiến Trung Quốc không có trang thiết bị cần thiết để tiếp tục các phần cụ thể của dự án, cũng như không có sổ tay và tài liệu kỹ thuật cho các thiết bị đã được chuyển giao. Các chính sách kinh tế tai hại của Đại nhảy vọt cũng gây ra nạn đói tàn khốc và sự sụp đổ của nền kinh tế Trung Quốc vào đúng thời điểm cần phải đưa ra quyết định quan trọng về cách phân bổ nguồn lực cho vũ khí chiến lược. Như đã thảo luận ở chương 4, vào tháng 1 năm 1961, giới lãnh đạo cao nhất của đảng bắt đầu tập trung vào việc phục hồi nền kinh tế thông qua chính sách “điều chỉnh, củng cố, bổ sung, cải tiến”.

1711099043853.png

Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev và lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông trong chuyến thăm Trung Quốc năm 1958 (trái). Với chú thích “Chúng tôi sử dụng kỹ năng của đất nước Liên Xô để tạo ra ngành công nghiệp nặng”, tấm áp phích Trung Quốc năm 1953 này nhấn mạnh sự hợp tác Trung-Xô

Trong điều kiện này, NDIC đã tổ chức hội nghị làm việc tại khu nghỉ dưỡng của các nhà lãnh đạo ở Bắc Đới Hà từ ngày 18 tháng 7 đến ngày 12 tháng 8. Hội nghị làm việc đề cập đến nhiều chủ đề, chẳng hạn như giảm số lượng công nhân trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng (phù hợp với nỗ lực giảm tỷ lệ đô thị hóa dân số nói chung). Vào ngày 27 tháng 7, trọng tâm chuyển sang giá trị của vũ khí thông thường thay vì vũ khí “hiện đại” và một cuộc tranh luận đã nổ ra về việc nên “lên ngựa” (shangma) hay “xuống ngựa” (xiama) - nghĩa là có nên tiếp tục với chương trình hạt nhân hay không. Những người chịu trách nhiệm lập kế hoạch kinh tế phản đối việc tiếp tục chương trình, trong khi hầu hết các quan chức quân sự cấp cao, bao gồm Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long, và Trần Nghị, lại lập luận về việc tiếp tục chương trình. Chu Ân Lai kêu gọi tiếp tục sản xuất vũ khí thông thường, điều mà ông coi là cơ sở để phát triển những loại vũ khí “hiện đại”. Nhận xét của Chu Ân Lai dường như cho thấy rằng ông ưu tiên sản xuất vũ khí thông thường hơn là phát triển vũ khí chiến lược.

Cuộc thảo luận về việc có nên tạm dừng chương trình hạt nhân hay không vẫn tiếp tục diễn ra tại Bộ Chính trị vào tháng 8 và tháng 9 năm 1961. Đa số ủng hộ việc tiếp tục. Nhiếp Vinh Trăn thậm chí còn viết một báo cáo cho Mao Trạch Đông vào cuối tháng 8 để tranh luận về việc tiếp tục chương trình. Tuy nhiên, Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch ĐCSTQ, đã chỉ thị rằng “điều kiện cơ bản của ngành công nghiệp hạt nhân” phải được xem xét trước khi quyết định. Mao Trạch Đông, Trần Nghị và Nhiếp Vinh Trăn đồng ý. Sau đó, Nhiếp Vinh Trăn đề nghị Zhang Aiping dẫn đầu cuộc điều tra. Zhang Aiping từng là phó tổng tham mưu trưởng và phó giám đốc NDSTC, cùng các chức vụ khác liên quan đến phát triển vũ khí.

1711099105479.png


Mao Chủ tịch tại Hội nghị lần thứ 20 của các Đ...C...S và Công nhân Thế giới năm 1957 (trái). Một tấm áp phích tuyên truyền của Liên Xô có chú thích “Những người bạn mãi mãi” bằng cả tiếng Nga và tiếng Trung

Để tiến hành cuộc điều tra của mình, Zhang Aiping đã hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học chủ chốt, bao gồm Liu Xiyao, Liu Jie và Zhu Guanya. Ông đã nghiên cứu tất cả các khía cạnh của chương trình và cơ sở vật chất tại Bộ Chế tạo Máy số 2, nơi hiện chịu trách nhiệm về vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Vào tháng 11 năm 1961, Zhang Aiping đệ trình báo cáo của mình lên Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và Quân ủy Trung ương. Zhang Aiping kết luận rằng Trung Quốc có thể thử nghiệm thiết bị đầu tiên vào năm 1964. Tuy nhiên, “năm tới là năm quan trọng, nếu được tổ chức tốt và nắm bắt chắc chắn”. Cần phải cải thiện sự phối hợp giữa các đơn vị tham gia vào chương trình hạt nhân để đạt được mục tiêu này. Chương trình bao gồm 50 tổ chức với hơn 3 nghìn người. Zhang Aiping nhấn mạnh rằng thành công cần có “sự hỗ trợ mạnh mẽ” của các ban ngành trung ương, văn phòng khu vực, tỉnh và thành phố. Đặng Tiểu Bình đã chuyển báo cáo cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Bành Chân. Cả Chu Ân Lai và Bành Chân đều tỏ ra đồng tình với báo cáo của Zhang, trong khi các thành viên của Quân ủy Trung ương bày tỏ sự tán thành. Điều này được cho là đã chấm dứt cuộc tranh luận về việc có nên tạm dừng chương trình hay không.

1711099171280.png

Chủ tịch Mao tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 (trái). Tổng thống Nixon thăm Trung Quốc năm 1972, nhưng Mỹ không chính thức công nhận Trung Quốc cho đến năm 1979 dưới thời Tổng thống Carter

Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu khuyến nghị của Zhang Aiping có được thực hiện hay không. Thư ký của Nhiếp Vinh Trăn gợi ý rằng Mao Trạch Đông có thể đã không ban phước lành cuối cùng để tiếp tục chương trình cho đến tháng 6 năm 1962. Sau khi nhận được báo cáo vào tháng đó về việc chuẩn bị chiến tranh cho một cuộc tấn công của Quốc dân đảng, Mao Trạch Đông nói “việc nghiên cứu và phát triển vũ khí phức tạp nên tiếp tục, chúng ta nên tiếp tục không thể thư giãn hoặc dừng lại [xiama]. Cho dù các nhà lãnh đạo khác của đảng đang chờ đợi quyết định cuối cùng của Mao Trạch Đông hay liệu những nỗ lực phục hồi nền kinh tế sau Đại nhảy vọt đã làm chậm tiến độ của chương trình hạt nhân trong năm trước hay không, chương trình này đã nhận được sự chú ý mới từ ban lãnh đạo tại hội nghị Bắc Đới Hà vào tháng 8 năm 1962. Nếu Trung Quốc có vũ khí hạt nhân, Ngoại trưởng Trần Nghị đã nói tại cuộc họp, “Tôi sẽ dễ dàng làm Bộ trưởng Ngoại giao hơn nhiều!” Sau đó, Bộ Chế tạo Máy thứ hai (phụ trách ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc) đã chuẩn bị một báo cáo cho Mao Trạch Đông và ban lãnh đạo, trong đó xem xét những tiến bộ đạt được cho đến nay và kết luận rằng Trung Quốc sẽ có thể tiến hành vụ thử hạt nhân đầu tiên vào năm 1964 hoặc muộn nhất là vào nửa đầu năm 1965. Bản báo cáo này được gọi là “kế hoạch hai năm”. Kế hoạch được hoàn thiện vào tháng 10 năm 1962 để lần đầu tiên thử nghiệm một thiết bị từ một cái tháp và sau đó tiến hành thử nghiệm thả từ trên không.

1711099229789.png

Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố thử thành công bom hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc năm 1964 (trái). Đám mây hình nấm từ vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc (giữa). Tướng Zhang Aiping báo cáo vụ thử bom nguyên tử đầu tiên thành công với Thủ tướng Ân Lai năm 1964

Tuy nhiên, để có thể thử bom trong vòng hai năm, cần có sự phối hợp của nhiều bộ phận ngoài Bộ Chế tạo máy thứ hai. Để đạt được mục tiêu này, Bộ Chính trị quyết định thành lập cơ quan điều phối đặc biệt. Khi Bộ Chính trị thảo luận về chương trình hạt nhân vào đầu tháng 10, Lưu Thiếu Kỳ tuyên bố rằng “sự hợp tác của tất cả các bên là rất quan trọng, trung ương nên thành lập một ủy ban để tăng cường lãnh đạo trong lĩnh vực này”. Với tư cách là người đứng đầu Văn phòng Công nghiệp Quốc phòng (NDIO), Luo Ruiqing được yêu cầu đề xuất danh sách những nhân vật cho một cơ quan như vậy và ông đã đệ trình vào ngày 30 tháng 10 năm 1962. Đầu tháng 11, Mao Trạch Đông chấp thuận, kêu gọi họ “nỗ lực hết sức để phối hợp và hoàn thành công việc này”.

.........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Bộ Chính trị đã thành lập Ban Đặc biệt Trung ương (zhongyang zhuanmen weiyuanhui), một cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ, vào ngày 17 tháng 11 năm 1962. Phản ánh vai trò của các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng, Chu Ân Lai làm chủ tịch ủy ban mới, cùng với 7 phó thủ tướng và 7 thành viên cấp bộ trưởng. Mặc dù hầu hết các thành viên đều đến từ bộ máy nhà nước, các thành viên quân sự bao gồm Hạ Long (với tư cách là giám đốc NDIC), Nhiếp Vinh Trăn (với tư cách là giám đốc NDSTC), Zhang Aiping (với tư cách là phó giám đốc NDSTC) và Luo Ruiqing (với tư cách là giám đốc NDIO).

1711270785851.png

Tướng Hạ Long

Vào tháng 3 năm 1965, phạm vi trách nhiệm của Ủy ban Đặc biệt Trung ương (CSC) được mở rộng để bao gồm việc phát triển chương trình tên lửa đạn đạo của Trung Quốc và nhiều thành viên hơn đã được bổ sung. Ủy ban Đặc biệt này đóng vai trò quan trọng trong cuộc thử nghiệm thiết bị nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc vào tháng 10 năm 1964, cùng với các quyết định quan trọng về loại lực lượng hạt nhân nào sẽ phát triển và cách thức phát triển chúng. Một số cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Đặc biệt vào tháng 11 và tháng 12 năm 1962 đã xem xét lại kế hoạch hai năm của Bộ Chế tạo máy thứ hai và cách đạt được việc thử nghiệm vào đầu năm 1965.

CUỘC THỬ NGHIỆM HẠT NHÂN ĐẦU TIÊN CỦA TRUNG QUỐC

Với tư cách là chủ tịch Ủy ban Đặc biệt Trung ương, Chu Ân Lai trực tiếp giám sát việc chuẩn bị cho vụ thử hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc. Vào tháng 4 năm 1964, Ủy ban này thành lập bộ chỉ huy (zhihui bu) do Zhang Aiping đứng đầu. Từ thời điểm này trở đi, nhiệm vụ chính của Zhang Aiping là quản lý việc chuẩn bị cho cuộc thử nghiệm thiết bị đầu tiên của Trung Quốc, báo cáo trực tiếp cho Chu Ân Lai. Vào tháng 8 năm 1964, Zhang Aiping cùng với Liu Xiyao, Thứ trưởng Bộ Chế tạo máy thứ hai, đã giám sát việc thử nghiệm trước (yuyan) tất cả các thành phần sẽ được sử dụng trong thử nghiệm thực tế. Chu Ân Lai yêu cầu Zhang Aiping báo cáo trực tiếp kết quả của cuộc kiểm tra này cho ông ta bằng đường dây điện thoại đặc biệt được thiết lập để liên kết địa điểm kiểm tra với văn phòng của Chu Ân Lai.

1711270836546.png

Zhang Aiping

Sau thành công của những cuộc thử nghiệm này, Chu Ân Lai đã triệu tập cuộc họp lần thứ chín của Ủy ban Đặc biệt Trung ương. Vào ngày 16 và 17 tháng 9, ủy ban đã tranh luận về thời gian của cuộc kiểm tra thực tế. Một nhóm ủng hộ việc thử nghiệm sớm hơn, vào tháng 10 năm 1964, trong khi một nhóm khác ủng hộ việc thử nghiệm muộn hơn, vào mùa xuân năm 1965. Sau đó, ông báo cáo các phương án này với Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông, những người sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Mao Trạch Đông ủng hộ việc thử nghiệm sớm hơn, nói rằng “vì nó sẽ khiến mọi người sợ hãi nên hãy làm điều đó sớm hơn”. Mặc dù kế hoạch ban đầu yêu cầu thử nghiệm vào đầu tháng 10, nhưng thời gian đã được thay đổi thành giữa tháng 10 để không trùng với sự hiện diện của các quan chức nước ngoài sẽ đến thăm nhân dịp Quốc khánh Trung Quốc.

Bí mật liên quan đến cuộc thử nghiệm cho thấy một dấu hiệu khác về sự kiểm soát của đảng đối với chương trình hạt nhân của Trung Quốc. Chu Ân Lai chỉ thị rằng thời gian thử nghiệm chỉ có các thành viên Thường vụ Bộ Chính trị, hai Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Bành Chấn: tổng cộng có 8 người. Chu Ân Lai cũng nghĩ ra các mật mã để sử dụng cho cuộc thử nghiệm. Quả bom sẽ được gọi là “Miss Qiu” (qiu xiaojie), tháp thử nghiệm là “bàn trang điểm” (shuzhuangtai), và ngòi nổ là “bím tóc” (shubianzi). Để giữ bí mật, Zhang Aiping đã liên lạc với Chu Ân Lai thông qua trợ lý của Zhang Aiping là Li Xuge. Khi một báo cáo thời tiết cập nhật có nguy cơ làm gián đoạn cuộc thử nghiệm, Zhang Aiping cử Li Xuge đến Bắc Kinh để thông báo cho Chu Ân Lai và đề xuất trì hoãn cuộc thử nghiệm cho đến khi thời tiết tốt trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 10. Chu Ân Lai đồng ý và sau đó gửi báo cáo cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, Hạ Long, Nhiếp Vinh Trăn và La Thụy Khanh để xem xét; họ đã chấp thuận những thay đổi. Khi cuộc thử nghiệm diễn ra, Zhang Aiping đã báo cáo kết quả trực tiếp cho Chu Ân Lai bằng đường dây điện thoại trực tiếp được thiết lập tại cơ sở thử nghiệm của Trung Quốc ở Lop Nor.

1711270934950.png

Cơ sở thử nghiệm Lop Nor

Sau cuộc thử nghiệm thành công thiết bị nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng tiếp tục chi phối việc phát triển vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Ngay sau cuộc thử nghiệm đầu tiên, Chu Ân Lai thông báo với Zhang Aiping và Liu Xiyao rằng “trung ương” đã quyết định kế hoạch sau đây để phát triển vũ khí chiến lược của Trung Quốc: tiến hành một cuộc thử nghiệm thả dù từ trên không vào năm 1965, thử nghiệm một tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào năm 1966 và thử bom hydro vào năm 1967.

XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH HẠT NHÂN CỦA TRUNG QUỐC

Cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vũ khí hạt nhân giúp phân biệt giữa chính sách hạt nhân và chiến lược hạt nhân. Chính sách hạt nhân của Trung Quốc (he zhengce) đề cập đến quan điểm chính sách quốc gia được áp dụng sau vụ thử nghiệm thành công vào tháng 10 năm 1964. Những chính sách này đã thiết lập các thông số cho chiến lược hạt nhân và vị thế lực lượng của Trung Quốc, trong đó nêu bật vai trò của các nhà lãnh đạo cấp cao trong việc xác định chiến lược hạt nhân. Chiến lược hạt nhân của Trung Quốc (he zhanlue) đề cập đến các câu hỏi về tác chiến cụ thể hơn và không thể vi phạm các nguyên lý chính của chính sách, chẳng hạn như không sử dụng vũ khí hạt nhân trước. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của ĐCSTQ, đặc biệt là Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, đã xác định chính sách hạt nhân của Trung Quốc và chính sách này vẫn còn ảnh hưởng cho đến ngày nay.

1711270972727.png

Cơ sở thử nghiệm Lop Nor

Một tuyên bố được đưa ra sau khi Trung Quốc thử nghiệm thành công thiết bị hạt nhân đầu tiên đã giới thiệu chính sách hạt nhân của Trung Quốc. Phản ánh vai trò chi phối của các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng, tài liệu này có tựa đề “Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”. Kể từ năm 1949, việc sử dụng các tuyên bố của chính phủ (zhengfu shengming) để công bố các quyết định chính sách là tương đối hiếm, nhấn mạnh tính xác thực của nội dung của nó. Cụm từ chính là: “Chính phủ Trung Quốc long trọng tuyên bố rằng Trung Quốc vào bất kỳ lúc nào và trong bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ không phải là quốc gia đầu tiên sử dụng vũ khí hạt nhân”. Tuyên bố chỉ ra rằng Trung Quốc đã phát triển vũ khí hạt nhân cho mục đích phòng thủ (“Việc Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân là để phòng thủ và bảo vệ người dân Trung Quốc khỏi các mối đe dọa phát động chiến tranh hạt nhân của Mỹ”) và rằng Trung Quốc sẽ không tấn công các quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân bằng vũ khí hạt nhân và sẽ theo đuổi việc giải trừ vũ khí hoàn toàn.

Chính sách hạt nhân của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến sự phát triển chiến lược hạt nhân của Trung Quốc theo nhiều cách. Đầu tiên, trong hệ thống phân cấp của khoa học quân sự Trung Quốc, chiến lược quân sự được xác định là phục vụ các mục tiêu chính trị quốc gia lớn hơn. Trong lĩnh vực hạt nhân, chính sách hạt nhân của Trung Quốc vạch ra các mục tiêu chính trị này và xác định các mục đích thiết yếu của vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Hơn nữa, việc thay đổi các mục tiêu chính trị này nằm ngoài tầm nhìn của các nhà lãnh đạo quân sự và là vấn đề dành riêng cho các lãnh đạo cấp cao của đảng. Thứ hai, đảng đã đưa ra những hướng dẫn rõ ràng cho chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, cam kết không sử dụng trước xác định rằng các lực lượng hạt nhân của Trung Quốc sẽ áp dụng vị thế trả đũa (vì Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân trước) và sẽ cần tạo ra một lực lượng có khả năng sống sót sau một cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên để có thể trả đũa.

1711271009421.png

Cơ sở thử nghiệm Lop Nor

Chính sách hạt nhân của Trung Quốc không chỉ phản ánh sự thống trị của các nhà lãnh đạo cao nhất của đảng trong cách tiếp cận vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Hơn nữa, nó cũng hạn chế chiến lược hạt nhân và sự phát triển lực lượng sau này của Trung Quốc. Thứ ba, chính sách này giải thích sự chú trọng lớn vào khả năng sống sót trong quá trình phát triển lực lượng của Trung Quốc, đầu tiên được phản ánh qua quyết định đặt phần lớn lực lượng hạt nhân của Trung Quốc trong các đường hầm và hầm chứa, sau đó là mong muốn bổ sung các bộ phận di động, với hệ thống tên lửa cơ động trên đường và tàu ngầm có khả năng phóng tên lửa đạn đạo.

Các nhà lãnh đạo đảng cao nhất của Trung Quốc đã xây dựng chính sách hạt nhân của Trung Quốc. Ngày 11 tháng 10 năm 1964, Chu Ân Lai bắt đầu soạn thảo tuyên bố sẽ được đưa ra sau cuộc thử nghiệm đầu tiên của Trung Quốc. Để thảo luận về nội dung tuyên bố, ông đã tập hợp các quan chức từ Bộ Ngoại giao, Ủy ban Đặc biệt Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu QGPNDTQ. Vào ngày 13 tháng 10, Chu Ân Lai giám sát việc soạn thảo tuyên bố. Giúp đỡ ông có Wu Lengxi (biên tập viên Nhân dân Nhật báo), Qiao Guanhua (thứ trưởng bộ ngoại giao) và Yao Qin (phó giám đốc ban tuyên truyền). Chu Ân Lai đã mô tả những gì ông muốn trình bày trong tuyên bố và bản thảo đã được hoàn thành vào cuối ngày hôm đó. Vào ngày 14 tháng 10, Chu Ân Lai đã đệ trình bản dự thảo lên các lãnh đạo cấp cao của đảng để họ phê duyệt, bao gồm Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân và Hạ Long.

1711271102048.png

Tên lửa hạt nhân DF-1 - tên lửa hạt nhân đầu tiên của TQ

Tác động của chính sách hạt nhân của Trung Quốc có lẽ được thấy rõ nhất trong tài liệu Nghệ thuật Chiến lược Pháo binh số 2 năm 1996. Nhìn chung, văn bản đề cập đến “không sử dụng trước” 18 lần và “chính sách hạt nhân” của Trung Quốc 26 lần. Các thuật ngữ này được sử dụng để thiết lập các thông số cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân của Lực lượng Pháo binh số 2. Chẳng hạn, văn bản nêu rõ rằng “chính sách không sử dụng vũ khí hạt nhân của đất nước chúng tôi trước tiên xác định rằng Lực lượng Pháo binh số 2 phải áp dụng nguyên tắc ‘giành quyền kiểm soát bằng cách tấn công sau đó’ [houfa zhireri].” Hơn nữa, “chỉ sau khi một quốc gia hạt nhân của kẻ thù tấn công chúng ta, Lực lượng Pháo binh số 2 mới có thể kiên quyết tiến hành một cuộc phản công hạt nhân theo lệnh của Quân ủy Trung ương”. Tương tự như vậy, văn bản lưu ý rằng “Lực lượng Pháo binh số 2 sẽ tuân thủ nghiêm ngặt chính sách hạt nhân của đất nước là không sử dụng trước để phát triển và triển khai lực lượng tên lửa hạt nhân”. Nói tóm lại, chính sách hạt nhân của Trung Quốc ảnh hưởng và hạn chế các yếu tố then chốt của chiến lược: khi nào Trung Quốc sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân và nước này sẽ sử dụng nó như thế nào.


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

CƠ CẤU LỰC LƯỢNGVÀ VIỆC PHÁT TRIỂN

Trước và sau cuộc thử nghiệm thiết bị nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc vào năm 1964, các nhà lãnh đạo cấp cao của đảng đóng vai trò then chốt trong việc xác định loại vũ khí hạt nhân nào mà Trung Quốc nên phát triển và cách thức họ phát triển chúng. Chiến lược và vị thế lực lượng của Trung Quốc không bị công nghệ quyết định. Thay vào đó, mục tiêu sở hữu một lực lượng trả đũa có khả năng ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân đã dẫn dắt sự phát triển của lực lượng hạt nhân Trung Quốc.

1711271341507.png

Tên lửa hạt nhân DF-2 của TQ

Ngay cả trước khi Uỷ ban Đặc biệt Trung ương được thành lập, các lãnh đạo cấp cao của đảng đã đưa ra hướng dẫn cấp cao nhất về vấn đề cơ cấu lực lượng. Ví dụ, vào tháng 7 năm 1962, người đứng đầu Học viện số 5 của Bộ Quốc phòng (chịu trách nhiệm thiết kế và phát triển tên lửa), Wang Binzhang, đã gửi một báo cáo lên Ban Chấp hành Trung ương về khuôn khổ phát triển tên lửa, bao gồm cả tên lửa tầm trung, sẽ là tên lửa DF-3. Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đã phê chuẩn báo cáo của Wang Binzhang, trong đó tập trung vào các bài học rút ra từ vụ thử nghiệm thất bại của DF-2 vào tháng 3 năm 1962 và các bài học khác từ chương trình DF-2 để phát triển DF-3.

Khi Ủy ban Đặc biệt Trung ương được thành lập, nó cho phép các lãnh đạo cấp cao của đảng tiếp tục giám sát việc phát triển các hệ thống vũ khí này. Ví dụ, sau khi thiết kế đầu tiên cho một thiết bị hạt nhân được phát triển vào tháng 3 năm 1963, Chu Ân Lai đã báo hiệu tầm quan trọng của việc tập trung vào việc vũ khí hóa chứ không chỉ là thử nghiệm ban đầu một thiết bị nguyên tử. Cụ thể, ông cho rằng Trung Quốc “không chỉ phải cho nổ thiết bị hạt nhân mà còn phải giải quyết vấn đề sản xuất vũ khí”. Bản thân một vụ thử hạt nhân sẽ có rất ít tác dụng răn đe. Thay vào đó, Trung Quốc sẽ cần một loại vũ khí hạt nhân có thể được phóng đi và do đó có thể sử dụng được.

1711271391556.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Vào tháng 12 năm 1963 và tháng 1 năm 1964, các lãnh đạo đảng dưới thời Chu Ân Lai đã đưa ra một loạt quyết định quan trọng về việc phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Động lực tăng gấp đôi. Đầu tiên, vào tháng 11 năm 1963, các nhà khoa học đã thử nghiệm thành công tổ hợp thuốc nổ và ngòi nổ - những thành phần quan trọng trong một thiết bị nguyên tử. Sau thử nghiệm này, bước cuối cùng là sản xuất lõi uranium. Như vậy, Trung Quốc đã có “bước đột phá” quan trọng, làm tăng thêm niềm tin vào một cuộc thử nghiệm thành công. Thứ hai, vào tháng 8 năm 1963, Mỹ, Anh và Liên Xô đã ký một hiệp ước cấm thử nghiệm có giới hạn, cấm thử nghiệm trên bầu khí quyển, ngoài vũ trụ và dưới nước. Trung Quốc coi đây là một phần trong nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc sở hữu vũ khí hạt nhân, đặc biệt vì nước này đã lên kế hoạch cho vụ thử nghiệm đầu tiên bên trên mặt đất.

Tại cuộc họp lần thứ bảy vào tháng 12 năm 1963, Ủy ban Đặc biệt Trung ương đã quyết định loại vũ khí hạt nhân nào Trung Quốc sẽ phát triển. Như Chu Ân Lai đã chỉ đạo: “Hướng nghiên cứu vũ khí hạt nhân nên ưu tiên đầu đạn tên lửa, còn bom thả từ trên không chỉ là thứ yếu”. Trung Quốc có lẽ đã chọn con đường khó khăn hơn vì nước này chỉ đạt được một số tiến bộ trong việc phát triển tên lửa tầm trung DF-2. Tuy nhiên, như học giả và nhà khoa học Trung Quốc Sun Xiangli đã nhận xét, khả năng sống sót kém và tầm hoạt động hạn chế của máy bay “khiến [chúng] gặp khó khăn trong việc đóng vai trò răn đe chiến lược”. Về lâu dài, tên lửa sẽ mang lại khả năng răn đe trả đũa mạnh mẽ hơn máy bay ném bom. Cuối tháng đó, Qian Xuesen đã đệ trình một báo cáo lên NDSTC về lộ trình phát triển công nghệ tên lửa. Khi Nhiếp Vinh Trăn phê duyệt báo cáo vào tháng 1 năm 1964, ông nhấn mạnh sự cần thiết của Trung Quốc phải có kế hoạch dài hạn để phát triển tên lửa.

1711271456059.png

Qian Xuesen

Ngày 29 tháng 1 năm 1964, Chu Ân Lai nhân danh Ủy ban Đặc biệt Trung ương chuẩn bị một báo cáo cho Mao Trạch Đông, đề nghị Trung Quốc phải đẩy nhanh phát triển vũ khí hạt nhân. Chu Ân Lai muốn rút ngắn hơn nữa thời gian giữa quá trình phát triển và thực sự trang bị cho lực lượng vũ khí tác chiến và có thể triển khai những vũ khí đầu tiên của Trung Quốc trong khung thời gian của Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1966-70). Sau đó, Chu Ân Lai gợi ý rằng, sau vụ thử hạt nhân thành công, Trung Quốc nên ngay lập tức bắt đầu nghiên cứu đầu đạn và đẩy nhanh quá trình phát triển tên lửa DF-2 để lực lượng này có thể trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân càng sớm càng tốt.

Mao Trạch Đông và các lãnh đạo cấp cao khác của đảng đã chấp thuận báo cáo của Chu Ân Lai. Sau đó, Chu Ân Lai kêu gọi các bộ phận liên quan xác định kế hoạch phát triển cụ thể. Trong năm tới, mỗi bộ phận đều vạch ra cách họ có thể đạt được mục tiêu này. Vào tháng 7 năm 1964, ngay cả trước khi vụ thử hạt nhân thành công, Chu Ân Lai đã cử thư ký quân sự của mình, Chu Gia Định, tới Bộ Chế tạo Máy thứ hai với chỉ thị đẩy nhanh quá trình thu nhỏ, vốn cần thiết cho hệ thống phóng tên lửa. Bộ Chế tạo máy thứ hai cho biết trước tiên họ sẽ tập trung vào nghiên cứu cần thiết để thử nghiệm tên lửa mang đầu đạn hạt nhân bằng bom phân hạch và sau đó hướng tới tiến hành thử nghiệm bom hydro vào năm 1968, vốn sẽ đóng vai trò là nền tảng cho đầu đạn hạt nhân của tên lửa chiến lược của Trung Quốc. Ủy ban Đặc biệt Trung ương đã phê duyệt kế hoạch của Bộ thứ hai vào tháng 2 năm 1965.

1711271531614.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Cũng tại cuộc họp đó vào tháng 2 năm 1965, Ủy ban Đặc biệt Trung ương đã đưa ra hai quyết định quan trọng khác. Ủy ban này quyết định tăng tầm bắn của DF-2 thêm 20% và đặt năm 1975 là thời hạn cuối cùng để Trung Quốc phát triển Tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM). Bằng cách này, các nhà lãnh đạo cấp cao của đ..ảng đã đưa ra hướng dẫn cấp cao cho việc phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. ICBM là thành phần thiết yếu của khả năng trả đũa và rõ ràng là mục tiêu mong muốn.

Vào tháng 3 năm 1965, Bộ Chế tạo Máy số 7 đã đệ trình kế hoạch phát triển tên lửa cho Ủy ban Đặc biệt Trung ương. Kế hoạch này được biết đến với cái tên “bốn quả bom trong tám năm” vì nó vạch ra các tiêu chuẩn để phát triển một loạt tên lửa nhiên liệu lỏng có tầm bắn khác nhau từ năm 1965 đến 1972: DF-2 (tầm trung), DF-3 (tầm trung cao), DF-4 (tầm xa) và DF-5 (liên lục địa). Cuộc thảo luận ban đầu về kế hoạch này bắt đầu vào năm 1963, trước báo cáo năm 1964 của Chu Ân Lai, như một phần trong quá trình đánh giá sự thất bại của vụ phóng thử nghiệm DF-2 đầu tiên vào ngày 19 tháng 3 năm 1962. Với yêu cầu của Ủy ban Đặc biệt Trung ương là Trung Quốc phải phát triển ICBM vào năm 1975, câu hỏi chính của năm 1964 là làm thế nào để đạt được mục tiêu này và cụ thể là liệu Trung Quốc nên phát triển tên lửa tầm xa trước hay chuyển thẳng sang phát triển ICBM.

Để quyết định vấn đề này, Bộ Chế tạo máy số 7 đã triệu tập cuộc họp từ ngày 18 tháng 2 đến ngày 7 tháng 3 với sự tham gia của hơn hai nghìn nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý và chuyên gia sản xuất. Chu Ân Lai đã cử một đội tham gia, đứng đầu là Zhao Erlu, một trong những phó giám đốc văn phòng Ủy ban Đặc biệt Trung ương. Trong số các vấn đề khác, cuộc tranh luận xoay quanh việc có nên phát triển tên lửa tầm xa thử nghiệm như một phần trong nỗ lực phát triển ICBM hay không, hay liệu có nên thiết kế một loại tên lửa tầm xa sau đó sẽ được triển khai cùng với ICBM hay không. Cuối cùng, những người tham gia quyết định chế tạo một loại tên lửa tầm xa, DF-4, có thiết kế hai giai đoạn, sử dụng DF-3 làm giai đoạn đầu tiên. Làm như vậy không chỉ mang lại cho Trung Quốc kinh nghiệm thiết kế tên lửa hai tầng và cho phép phát triển tên lửa tầm xa nhanh hơn mà còn có thể bao quát các mục tiêu giữa tên lửa tầm trung của Trung Quốc và ICBM. Mặc dù công nghệ chắc chắn là một yếu tố, nhưng nó không quyết định những lựa chọn về chiến lược hạt nhân và vị thế lực lượng của Trung Quốc. Sở hữu ICBM là mục tiêu mong muốn cuối cùng và câu hỏi duy nhất là làm thế nào để đạt được nó, trực tiếp hoặc bằng cách làm chủ các công nghệ liên quan thông qua thiết kế và phát triển DF-4. Ngay từ năm 1961, Chu Ân Lai đã vạch ra kế hoạch phát triển tên lửa theo từng giai đoạn, từ tầm ngắn đến tầm xa.

1711271589608.png

Tên lửa hạt nhân DF-4 của TQ

Vào ngày 20 tháng 3 năm 1965, Ủy ban Đặc biệt Trung ương đã phê duyệt kế hoạch phát triển “bốn tên lửa trong 8 năm”. Nó khẳng định lịch trình phát triển DF-2 với tầm bắn mở rộng và kế hoạch phát triển DF-3 đã được ấn định vào năm 1964. Ngoài DF-2, kế hoạch phát triển còn vạch ra các cột mốc quan trọng cho các tên lửa khác mà Trung Quốc dự định chế tạo. Kế hoạch yêu cầu tiến hành chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của DF-4 vào năm 1969 và chứng nhận tên lửa (dingxing) vào năm 1971, đồng thời DF-5 tiến hành chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào năm 1971 và được chứng nhận vào năm 1973. Tất nhiên, những mục tiêu này cực kỳ lạc quan. DF-4 mãi đến năm 1980 mới được hoàn thiện, trong khi cuộc thử nghiệm toàn diện đầu tiên của DF-5 diễn ra chậm 9 năm so với kế hoạch.

............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

VIỆC THÀNH LẬP LỰC LƯỢNG PHÁO BINH SỐ 2

Một ví dụ khác về sự thống trị của các lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ trong chiến lược hạt nhân là quyết định thành lập Lực lượng Pháo binh số 2 như một nhánh độc lập trực thuộc Quân ủy Trung ương để kiểm soát vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Nửa đêm ngày 30 tháng 5 năm 1965, Chu Ân Lai triệu Trương Ái Bình họp khẩn. Chu Ân Lai tuyên bố rằng Ủy ban Trung ương và Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập một cơ quan lãnh đạo (lingdao jiguari) cho lực lượng tên lửa Trung Quốc (daodan budui). Thời điểm đã đến, khi Trung Quốc đang chuẩn bị thử nghiệm đầu đạn hạt nhân gắn với tên lửa lần đầu tiên. Chu Ân Lai yêu cầu Trương Ái Bình thành lập đơn vị mới. Điều đáng chú ý trong yêu cầu của Chu Ân Lai là ông thậm chí còn không phải là thành viên Quân ủy Trung ương. Thay vào đó, ông hành động với tư cách là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị và chủ tịch Ủy ban Đặc biệt Trung ương, có thẩm quyền cuối cùng đối với các chương trình vũ khí chiến lược của Trung Quốc.

1711329078847.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Trương Ái Bình đã hành động nhanh chóng để thực hiện yêu cầu của Chu Ân Lai. Vào ngày 2 tháng 6, Trương Ái Bình đã thành lập một nhóm bao gồm chỉ huy quân đoàn pháo binh của Quân ủy Trung ương, phó giám đốc NDSTC và các Cục trưởng Cục tác chiến và hoạt động quân sự của Bộ Tổng Tham mưu. Vào ngày 15 tháng 6, Trương Ái Bình đã đệ trình báo cáo sơ bộ lên Chu Ân Lai và La Thụy Khanh, lúc đó là tổng tham mưu trưởng. Dựa trên báo cáo của Trương Ái Bình, vào tháng 7 năm 1965, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị rằng Quân đoàn Pháo binh trực thuộc Quân ủy Trung ương sẽ được tổ chức lại để tập trung vào tên lửa cũng như pháo binh thông thường và sau đó được chia thành hai đơn vị khác nhau lần lượt tập trung vào tên lửa và pháo binh thông thường. Dựa trên những chỉ thị này, lực lượng pháo binh trực thuộc Quân ủy Trung ương bắt đầu thành lập các văn phòng mới tại 3 tổng cục của mình để tập trung vào tên lửa.

Vào tháng 3 năm 1966, vì những lý do không liên quan đến việc thành lập Lực lượng pháo binh số 2, Quân ủy Trung ương đã quyết định giải tán lực lượng công an của QGPNDTQ (gong an budui). Vào thời điểm đó, việc tái tổ chức quân đoàn pháo binh để bao gồm các đơn vị tên lửa không được tiến hành nhanh chóng như các nhà lãnh đạo Trung Quốc mong đợi. Trương Ái Bình quyết định rằng điều này mang đến một cơ hội, theo đó sự lãnh đạo của lực lượng công an có thể được kết hợp với các bộ phận của quân đoàn pháo binh giám sát tên lửa. Tổ chức mới sẽ được đặt tại các văn phòng của lực lượng công an cũ. Tư lệnh quân đoàn pháo binh, We Kehua, với sự tham vấn của Trương Ái Bình, đã đệ trình báo cáo lên Bộ Tổng Tham mưu đề xuất thay đổi. Trương Ái Bình đã phê duyệt báo cáo với tư cách là phó tổng tham mưu trưởng và sau đó đệ trình lên Quân ủy Trung ương, cơ quan này đã phê duyệt ngay sau đó.

1711329108648.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Trong báo cáo của mình, Trương Ái Bình muốn sử dụng hai cái tên khác nhau cho lực lượng tên lửa của Trung Quốc. Trong nội bộ, tên gọi sẽ là lực lượng pháo binh tên lửa (huojian pao- bingbudui). Bên ngoài, nó sẽ được gọi là Pháo binh số 2 (di'erpaobing). Tuy nhiên, Chu Ân Lai gợi ý rằng chỉ nên sử dụng cái tên “Pháo binh số 2”. Chu Ân Lai cho rằng cái tên này “đã phân biệt nó với Lực lượng Không quân Chiến lược của Mỹ và khác với Quân đoàn Tên lửa Chiến lược của Liên Xô. Cái tên này gần giống với lực lượng tên lửa và cũng sẽ được giữ bí mật ”. Ngày 6/6/1966, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Lực lượng Pháo binh số 2 trên cơ sở các đơn vị thuộc lực lượng công an và pháo binh. Ngày 1/7/1966, Lực lượng Pháo binh số 2 chính thức được thành lập. Mặc dù Trương Ái Bình đóng một vai trò quan trọng trong cách thức thành lập tổ chức, nhưng ông làm vậy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc, những người đã xem xét và chấp thuận các đề xuất của ông. Mặc dù Quân ủy Trung ương sẽ đóng vai trò lớn hơn nhiều trong việc quản lý sự phát triển của Lực lượng Pháo binh số 2 vào cuối những năm 1970, nhưng nó không đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập dù là một đơn vị quân đội dưới quyền chỉ huy của nó.

1711329133091.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Quyết định thành lập Lực lượng Pháo binh số 2 như một chi nhánh độc lập trực thuộc Quân ủy Trung ương nhấn mạnh mong muốn tập trung chỉ huy các loại vũ khí chiến lược của Trung Quốc. Vào thời điểm đó, các đơn vị “chuyên môn” khác cũng trực thuộc Quân ủy Trung ương, bao gồm các binh chủng pháo binh và thiết giáp. Là những công nghệ tương đối mới mà QGPNDTQ có thể làm chủ nên việc phát triển chúng cũng cần có sự giám sát chặt chẽ. Theo thời gian, các binh chủng này cuối cùng đều bị hạ cấp thành các đơn vị trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và cuối cùng được hợp nhất vào các tập đoàn quân binh chủng hợp thành được thành lập vào giữa những năm 1980. Tuy nhiên, Lực lượng Pháo binh số 2 vẫn là đơn vị độc lập duy nhất trực thuộc Quân ủy Trung ương - trên thực tế, hoạt động như một quân chủng. Năm 2016, lực lượng tên lửa Trung Quốc chính thức được thành lập như một quân chủng (junzhong) và đổi tên thành Lực lượng tên lửa QGPNDTQ.

Sau khi Lực lượng Pháo binh số 2 được thành lập, Quân ủy Trung ương sẽ đóng vai trò trực tiếp hơn trong sự phát triển của tổ chức này. Điều này phản ánh chuỗi chỉ huy, vì Lực lượng Pháo binh số 2 được thành lập như một đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương. Thể chế này cũng cho phép các lãnh đạo cấp cao của đảng có ảnh hưởng trực tiếp hơn tới tổ chức, một số người trong số họ thuộc Quân ủy Trung ương.

Ngày 12/7/1967, Quân ủy Trung ương ban hành quy chế tạm thời cho Lực lượng Pháo binh số 2 trong đó nêu rõ nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. Nhiệm vụ chính của Quân ủy Trung ương đối với Lực lượng Pháo binh số 2 là “xây dựng lực lượng phản công hạt nhân để thực hiện phòng thủ chủ động”. Hơn nữa, các quy định nhấn mạnh sự phụ thuộc của Lực lượng Pháo binh số 2 vào Quân ủy Trung ương: “Việc phát triển, triển khai, di chuyển và đặc biệt là hoạt động của nó đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung của Quân ủy Trung ương và phải thực hiện cực kỳ nghiêm ngặt, chính xác các mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương”. Ngày 12/9/1967, Thường vụ Quân ủy Trung ương thảo luận vấn đề nhiệm vụ của Lực lượng Pháo binh số 2. Quân ủy Trung ương lần đầu tiên vạch ra rõ ràng mục tiêu phát triển của Lực lượng Pháo binh số 2 là “nghiêm ngặt và duy nhất, nhỏ nhưng hiệu quả” (yanmi jietun, duanxiao jinggan). Cái trước đề cập đến chất lượng và tổ chức của lực lượng, trong khi cái sau mô tả những khả năng mà Trung Quốc mong muốn đạt được.

1711329157740.png

Tên lửa hạt nhân DF-3 của TQ

Sự hỗn loạn của Cách mạng Văn hóa cũng nhấn chìm Lực lượng Pháo binh số 2. Mặc dù được thành lập vào tháng 7 năm 1966, gần một năm sau, tức năm 1967, người chỉ huy và chính ủy mới được bổ nhiệm, nhưng mệnh lệnh không được phổ biến và người chỉ huy được chỉ định, Xiang Shouzhi, cũng không được thông báo. Một tháng sau, Xiang Shouzhi trở thành nạn nhân của chính trị bè phái và bị đàn áp, khiến Lực lượng Pháo binh số 2 không có người chỉ huy cho đến năm 1968. Trong thời kỳ này, tổ chức này tập trung chủ yếu vào việc xây dựng một số căn cứ tên lửa và cơ sở hạ tầng liên quan, chứ không phải học thuyết tác chiến. Việc cân nhắc chi tiết đầu tiên của Lực lượng Pháo binh số 2 về một chiến dịch phản công hạt nhân diễn ra vào tháng 10 năm 1975, khi ban lãnh đạo mới của Lực lượng Pháo binh số 2 tổ chức một cuộc họp để kiểm tra việc triển khai tác chiến, đánh dấu lần đầu tiên tư tưởng chỉ đạo tác chiến và các nguyên tắc sử dụng cho Lực lượng Pháo binh số 2 được đưa ra thảo luận (gần một thập kỷ sau khi nó được thành lập). Điểm mấu chốt là chúng tương thích với “phòng thủ chủ động” để binh sĩ biết cách tiến hành “các hoạt động phản công” (fanji zuozhan).

.................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Tháng 10 năm 1978, Lực lượng Pháo binh số 2 tổ chức cuộc họp tác chiến bàn việc phát triển lực lượng. Hoa Quốc Phong, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh và các thành viên khác của Ban Chấp hành Trung ương và Quân ủy Trung ương đã gặp gỡ những người tham gia để bình luận về các cuộc thảo luận. Trong cuộc họp, Tư lệnh Li Shuiqing mô tả sự cần thiết phải phát triển Lực lượng Pháo binh số 2 thành một “lực lượng phản công hạt nhân tinh gọn và hiệu quả”. Bài phát biểu của Li Shuiqing một lần nữa nhấn mạnh sự nhấn mạnh vào chiến dịch phản công và lần đầu tiên nêu lên khái niệm “tinh gọn và hiệu quả” mà sau này được áp dụng làm nguyên tắc chỉ đạo chung cho việc phát triển lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Cuộc họp cũng đã đưa ra văn bản về nguyên tắc chung trong hoạt động của Lực lượng Pháo binh số 2. Năm 1980, các chiến dịch phản công hạt nhân được đưa vào chương trình huấn luyện của QGPNDTQ.

1711329316887.png


Tháng 9 năm 1980, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã thiết lập các nguyên tắc hoạt động cơ bản cho Lực lượng Pháo binh số 2. Điều này xảy ra trong cuộc họp “801” về chiến lược được mô tả ở chương 5. Ban lãnh đạo Lực lượng Pháo binh số 2 được mời tham gia, cùng với He Jinheng, lúc đó là phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng, phát biểu về cách sử dụng Lực lượng Pháo binh số 2 trong một cuộc chiến trong tương lai. Với mức độ tập trung hóa và bí mật cao xung quanh vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, bài phát biểu của He Jinheng đánh dấu lần đầu tiên các sĩ quan cấp cao khác trong QGPNDTQ được nghe giới thiệu về cách sử dụng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Quân ủy Trung ương chỉ thị rằng hai nguyên tắc nên làm cơ sở cho các hoạt động của Pháo binh số 2 theo cách phù hợp với khái niệm phòng thủ chủ động và chính sách không sử dụng trước - “phòng thủ chặt chẽ” (yanmifanghu) và “phản công điểm then chốt”. Tại cuộc họp, Yang Dezhi, lúc đó là tổng tham mưu trưởng và là thành viên của Quân ủy Trung ương, đã tuyên bố rằng “Lực lượng pháo binh số 2 phải được phòng thủ chặt chẽ và theo lệnh của Quân ủy Trung ương, thực hiện các cuộc phản công trọng điểm”.

Sau cuộc họp “801”, ban lãnh đạo Lực lượng Pháo binh số 2 đã nhanh chóng hành động để hiểu rõ ý nghĩa của những nguyên tắc này. Vào tháng 10 năm 1980, Li Shuiqing triệu tập cuộc họp lần thứ ba để nghiên cứu cách triển khai tác chiến của lực lượng Pháo binh số 2. Những người tham gia nhấn mạnh khả năng sống sót ngày càng tăng, phản ứng nhanh và khả năng tác chiến tích hợp. Vào tháng 7 năm 1981, ban lãnh đạo Lực lượng Pháo binh số 2 đã tổ chức cuộc họp lần thứ tư về công tác tác chiến, trong đó thảo luận về tư tưởng chỉ đạo tác chiến. Sau đó, Lực lượng Pháo binh số 2 chính thức áp dụng “phòng thủ chặt chẽ, phản công trọng điểm” làm nguyên tắc hoạt động của mình, dựa trên phương châm chiến lược phòng thủ chủ động và “tinh thần” của cuộc họp “801”. Những nguyên tắc này vẫn là nền tảng cho các chiến dịch hạt nhân của Trung Quốc cho đến ngày nay.

1711329359099.png


Vào tháng 8 năm 1983, cuộc tập trận cấp chiến dịch đầu tiên của Pháo binh số 2 đã hệ thống hóa các học thuyết tác chiến này và nhiệm vụ phản công hạt nhân của nó. Trước đây, một số đơn vị được chọn đã tiến hành các cuộc tập trận xuất kích, nhưng đây là lần đầu tiên Lực lượng Pháo binh số 2 với tư cách là một nhánh độc lập tiến hành một cuộc tập trận cấp chiến dịch. Kế hoạch cho cuộc tập trận bắt đầu vào tháng 2 năm 1983, với sự chấp thuận của Quân ủy Trung ương. Kịch bản dựa trên việc phòng thủ trước một cuộc tấn công hạt nhân và tiến hành một cuộc phản công hạt nhân sau khi bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân trong cuộc xâm lược của một “thế lực quân xanh” đang phấn đấu giành “quyền bá chủ toàn cầu”. Theo He Jinheng, khi đó là chỉ huy Lực lượng pháo binh số 2, cuộc tập trận được thực hiện “để hiểu sâu hơn về các nguyên tắc hoạt động của 'phòng thủ chặt chẽ' và 'phản công điểm then chốt'". và phối hợp các hoạt động bảo vệ và phản công khi bắt đầu chiến tranh. Cuộc tập trận được tổ chức ở phía đông bắc và có sự tham gia của hai căn cứ (jidi) và hai lực lượng phóng (zhidui). Ban lãnh đạo QGPNDTQ, bao gồm các thành viên Quân ủy Trung ương như Dương Thượng Côn và Dương Đắc Chí, tham dự các vụ bắn đạn thật nằm trong cuộc tập trận. Một sự kiện huấn luyện nhóm về các phương thức tác chiến được tổ chức cùng với cuộc tập trận đã tạo ra một tài liệu dự thảo về các phương thức tác chiến sau đó được sửa đổi thành cuốn Khoa học về Chiến dịch Lực lượng Pháo binh số 2 đầu tiên, được xuất bản năm 1985.

1711329595977.png


Trong thời kỳ này, chỉ có một nguyên tắc cốt lõi về phát triển Lực lượng Pháo binh số 2 là không phải do Quân ủy Trung ương trực tiếp trao cho Lực lượng Pháo binh số 2. Đó là khái niệm phát triển lực lượng “tinh gọn và hiệu quả” (jinggan youxiao). Như đã đề cập trước đó, Li Shuiqing lần đầu tiên nêu ra công thức này trong cuộc họp tác chiến năm 1978. He Jinheng đã phát triển thêm ý tưởng này trong một bài báo năm 1984 trên tạp chí nội bộ Nghệ thuật Quân sự (Military Arts). Sau một số cuộc tranh luận, thường vụ đảng ủy của Lực lượng Pháo binh số 2 đã thông qua “tinh gọn và hiệu quả” làm mục tiêu phát triển tổng thể vào ngày 19 tháng 12 năm 1984. Tuy nhiên, cụm từ này đã được thông qua vì nó phản ánh quan điểm của các lãnh đạo đảng cao nhất Trung Quốc về sứ mệnh của Quân ủy Trung ương, đặc biệt là chỉ thị năm 1967 về phát triển một lực lượng “nhỏ nhưng hiệu quả” và chỉ thị năm 1978 của Đặng Tiểu Bình về phát triển một số vũ khí hạt nhân “ít nhưng có uy lực”.

.......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

DỰ THẢO ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC HẠT NHÂN

Nỗ lực của Lực lượng pháo binh số 2 nhằm soạn thảo một tài liệu về chiến lược hạt nhân của Trung Quốc vào cuối những năm 1980 đã đưa ra một ví dụ hiếm thấy về việc Quân ủy Trung ương thực thi quyền lực của mình đối với nội dung chiến lược hạt nhân và việc thiếu sự ủy quyền trong lĩnh vực chiến lược từ lãnh đạo cấp cao nhất của đảng đến sĩ quan quân đội cấp cao. Bởi vì tài liệu đã được thu hồi vào năm 1989 và chưa bao giờ được xuất bản nên văn bản gốc của tài liệu này vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, nó chứng tỏ rằng Lực lượng Pháo binh số 2 thiếu tư cách để ban hành các tài liệu hoặc tuyên bố về chiến lược hạt nhân của Trung Quốc mà không có sự chấp thuận của các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc.

1711463027257.png

Tên lửa DF-15

Vào tháng 3 năm 1985, Lực lượng Pháo binh số 2 xuất bản ấn bản đầu tiên của tài liệu Khoa học về các chiến dịch pháo binh số 2, một văn bản mang tính học thuyết về cách tiến hành một cuộc phản công hạt nhân. Trong cuộc họp để xem xét và sửa đổi bản dự thảo văn bản, những người tham gia đã kết luận rằng các chiến dịch như vậy liên quan đến các câu hỏi về chiến lược quốc gia và quân sự. Li Lijing, cựu chỉ huy căn cứ và sau đó là cố vấn cho Bộ Tư lệnh Pháo binh số 2, nhớ lại rằng “vì cơ sở hợp lý và cách giải thích chính xác về chiến lược hạt nhân của Trung Quốc chưa được hoàn thiện nên khoa học về các chiến dịch của lực lượng tên lửa chiến lược của Trung Quốc không thể được hoàn thiện”. Ví dụ, “nếu một cuộc chiến tranh hạt nhân của các cường quốc bắt đầu, không rõ Trung Quốc sẽ tấn công vào đâu và số lượng hạt nhân tương đương của đối phương sẽ bị phá hủy”.

Sau khi điều tra sâu hơn, Li Lijing phát hiện ra rằng không có bộ phận nào khác đang nghiên cứu chiến lược hạt nhân. Sau đó, Li Lijing đã gửi báo cáo cho He Jinheng và Li Xuge, Tư lệnh và phó tư lệnh của Lực lượng Pháo binh số 2, đề nghị thành lập một nhóm để nghiên cứu vấn đề. Hai vị lãnh đạo này đã chấp thuận thành lập một nhóm nghiên cứu nhỏ do Li Lijing đứng đầu và bao gồm các thành viên của phòng nghiên cứu quân sự (junshixue bu) trong trụ sở của Lực lượng Pháo binh số 2. Li Lijing đề nghị nhóm nghiên cứu và viết một tài liệu có thẩm quyền mang tên Chiến lược hạt nhân của Trung Quốc (Zhong-guo hezhanlue) trong vòng hai hoặc ba năm. Như một tài khoản lưu ý, dự án này “lấy cảm hứng từ nghiên cứu về chiến lược trong toàn quân” vào giữa những năm 1980 sau khi chuyển sang hiện đại hóa thời bình vào năm 1985. Theo một tài khoản, Li Lijing sau đó đã thảo luận về dự án với một phó tổng tham mưu trưởng tham gia vào một nhóm nhỏ chiến lược toàn quân. Sau đó, Bộ Tổng tham mưu QGPNDTQ đã giao cho Lực lượng Pháo binh số 2 và Học viện Khoa học quân sự cùng hợp tác và hoàn thành dự án.

1711463095863.png


Tốc độ của dự án được đẩy nhanh vào năm 1987. Shen Kehui, trưởng phòng nghiên cứu quân sự, nhớ lại rằng Lực lượng Pháo binh số 2, cùng với Học viện Khoa học Quân sự, Đại học Quốc phòng, COSTIND và Bộ An ninh Nhà nước, đã tổ chức một loạt hội thảo về “các vấn đề học thuật về chiến lược và chiến lược hạt nhân”. Khoảng 50 đến 60 người từ 20 đơn vị khác nhau trong và ngoài quân đội đã tham gia. Các chủ đề được đề cập bao gồm an ninh quốc gia và chiến lược hạt nhân, chiến lược chung và chiến lược hạt nhân, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc và chiến lược phát triển tên lửa của Trung Quốc. Sau những cuộc thảo luận này, nhóm nghiên cứu của Li Lijing bắt đầu soạn thảo một tài liệu có tựa đề Đề cương chiến lược hạt nhân (he zhanlue gangyao). Sau gần ba năm làm việc, nhóm đã hoàn thành bản thảo sơ bộ vào cuối năm 1988. Bản phác thảo được lưu hành như một “tài liệu mật” (jimi wenjian) trong Lực lượng Pháo binh số 2 cũng như Bô Tổng Tham mưu và một số học viện của QGPNDTQ để có phản hồi.

Tuy nhiên, các lãnh đạo cấp cao của đảng đã chỉ trích mạnh mẽ việc lưu hành dự thảo. Theo tiểu sử của Li Xuge, lúc đó là Tư lệnh Lực lượng Pháo binh số 2, “chiến lược hạt nhân phải là vấn đề của lãnh đạo cấp cao và Lực lượng Pháo binh số 2 không nên soạn thảo”. Khi Quân ủy Trung ương biết được tài liệu này, phản ứng càng mạnh mẽ hơn. Phó chủ tịch Lưu Hoa Thanh đã gặp Liu Lifeng, khi đó là chính ủy của Lực lượng Pháo binh số 2, và truyền đi một thông điệp từ Dương Thượng Côn, người vào thời điểm đó là thành viên cấp cao nhất của Quân ủy Trung ương sau Đặng Tiểu Bình và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Dương Thượng Côn “chỉ trích gay gắt” tài liệu và nói “nó nên bị hủy bỏ”. Dương Thượng Côn ra lệnh thu hồi tất cả các bản sao và cấm thảo luận về nó, vì nó “liên quan đến những bí mật cao nhất của nhà nước và sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng”.

1711463119724.png


Vấn đề với bản phác thảo chiến lược không phải ở nội dung của nó, mà đúng hơn là Lực lượng Pháo binh số 2 thiếu thẩm quyền viết một tài liệu về chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Một số nguồn tin chỉ ra rằng những tuyên bố của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là cơ sở cho chiến lược đã được thảo luận trong dự thảo. Ví dụ, theo Li Lijing, dự thảo dựa trên ý tưởng của Đặng Tiểu Bình về “sự trả đũa có giới hạn” (youxian baofu). Shen Kehui cũng nhớ lại rằng bản phác thảo được dựa trên “các bài phát biểu liên quan của các nhà lãnh đạo đảng và quốc gia cũng như chính sách hạt nhân của nước ta”. Vấn đề là Lực lượng Pháo binh số 2, với tư cách là lực lượng đảm trách triển khai các tên lửa hạt nhân của Trung Quốc, thiếu tư cách để viết về việc xây dựng chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Khi phê bình việc lưu hành tài liệu, Dương Thượng Côn nói rằng “Lực lượng Pháo binh số 2 không có thẩm quyền làm việc này, không thể được phép”.

Năm 1996, Lực lượng Pháo binh số 2 xuất bản cuốn sách giáo khoa mang tên Khoa học về chiến lược pháo binh số 2. Nó là một phần của một bộ gồm ba tập xem xét các phương pháp chiến dịch và chiến thuật cũng như chiến lược, như một phần trong nỗ lực tạo ra một “hệ thống học thuyết tác chiến” cho Lực lượng Pháo binh số 2. Tuy nhiên, ngay cả cuốn sách này cũng không phải là một tuyên bố về chiến lược hạt nhân quốc gia của Trung Quốc mà thay vào đó là chiến lược của Lực lượng Pháo binh số 2. Nó nhấn mạnh sự phụ thuộc của các hành động chiến lược của Lực lượng Pháo binh số 2 vào chiến lược tổng thể của quốc gia. Điều quan trọng là, không giống như tài liệu trước đây về chiến lược đã thảo luận ở trên, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã phê duyệt (và có thể giám sát) việc soạn thảo tập sách này như một dự án nghiên cứu quân sự trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 8.

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

VỊ THẾ LỰC LỰC

Vị thế lực lượng của Trung Quốc phù hợp với việc sử dụng vũ khí hạt nhân để thực hiện một cuộc tấn công trả đũa. Với chính sách không sử dụng trước, khả năng sống sót là động lực chính thúc đẩy vị thế lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Trung Quốc đã theo đuổi khả năng sống sót bằng nhiều cách. Thứ nhất, tận dụng diện tích khổng lồ của Trung Quốc, lực lượng hạt nhân của Trung Quốc được phân tán khắp đất nước. Khi Trung Quốc bắt đầu thành lập các đơn vị tên lửa, ngay cả trước khi Lực lượng pháo binh số 2 chính thức được thành lập, phân tán là nguyên tắc then chốt. Ví dụ, vào đầu những năm 1960, các tiểu đoàn tên lửa đầu tiên của Trung Quốc được đặt tại Tây An, Thẩm Dương, Bắc Kinh và Tế Nam. Khi kế hoạch phát triển ICBM được thảo luận vào giữa những năm 1960, Chu Ân Lai đã lên kế hoạch triển khai một số ở vùng núi phía bắc và một số khác ở rừng rậm ở phía nam. Ngày nay, Lực lượng Pháo binh số 2 có sáu căn cứ, mỗi căn cứ đặt trụ sở ở một tỉnh khác nhau. Mỗi căn cứ bao gồm các lữ đoàn phóng vận hành các hệ thống tên lửa cụ thể. ICBM của Trung Quốc, DF-5 và DF-31A, được tổ chức tương tự thành 10 lữ đoàn phóng thuộc 5 căn cứ ở 6 tỉnh.

1711682725140.png

ICBM DF-5

Thứ hai, hầu hết các căn cứ và lữ đoàn phóng đều là một phần của mạng lưới đường hầm, đôi khi được mô tả như một “vạn lý trường thành dưới lòng đất” (dixia chang Cheng). Như Trung Quốc đã học được trong Chiến tranh Triều Tiên, đường hầm là giải pháp tương đối rẻ tiền để bảo vệ các mục tiêu cố định. Với chính sách không sử dụng trước, điều cần thiết là phải sử dụng mọi phương tiện sẵn có để đảm bảo rằng lực lượng hạt nhân của Trung Quốc có thể sống sót sau cuộc tấn công đầu tiên. Trong bối cảnh căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô vào năm 1969, có nhiều báo cáo cho rằng Moscow đang xem xét một “cuộc tấn công phẫu thuật” vào lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Sau khi đọc các báo cáo về chủ đề này trên các phương tiện truyền thông phương Tây, Chu Ân Lai đã triệu tập Diệp Kiếm Anh để thảo luận về việc xây dựng các địa điểm bố tí tên lửa (zhendi). Chu Ân Lai tuyên bố rằng Trung Quốc phải đẩy nhanh việc phát triển các cơ sở này để tạo ra năng lực tác chiến. Sau khi các địa điểm này được xây dựng, Chu Ân Lai tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không sợ sự đe dọa hoặc ép buộc của người khác. Kế hoạch tiến hành một cuộc tấn công phẫu thuật sẽ chỉ là mơ tưởng. Chúng tôi đã cam kết không sử dụng vũ khí hạt nhân trước, nhưng ngay khi hứng chịu một cuộc tấn công hạt nhân, chúng tôi có quyền trả đũa và tự vệ ”.

Vào giữa những năm 1980, khi Trung Quốc đang phát triển và triển khai ICBM thực sự đầu tiên của mình, DF-5, Lực lượng Pháo binh số 2 đã bắt đầu một dự án xây dựng quy mô lớn cho các lữ đoàn phóng tên lửa. Bản thân DF-5 có kích cỡ lớn đến mức nó chỉ có thể được đặt trong các hầm chứa. Kế hoạch ban đầu yêu cầu các hầm chứa được đặt ở các khu vực miền núi và rừng rậm, nơi địa hình sẽ mang lại sự che giấu tự nhiên. Một số lữ đoàn phóng DF-5 sẽ được bố trí ở phía bắc tỉnh Hà Nam và các lữ đoàn khác ở phía nam tỉnh Hồ Nam. Đặng Tiểu Bình đã phê duyệt kế hoạch vào cuối những năm 1970 và việc xây dựng bắt đầu vào đầu những năm 1980 và mãi đến năm 1995 mới hoàn thành.

1711682811381.png

DF-31A

Thứ ba, khi Trung Quốc phát triển các loại tên lửa mới hơn, nước này nhấn mạnh đến khả năng cơ động ngày càng tăng để nâng cao khả năng sống sót. Vào tháng 8 năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã kêu gọi Lực lượng Pháo binh số 2 “sử dụng tên lửa để chống lại chiến tranh du kích” (yong daodan da youjizhan). Trên đất liền, Trung Quốc theo đuổi khả năng cơ động bằng cách tạo ra các tên lửa có thể vận chuyển dễ dàng hơn. Điều này đòi hỏi phải giảm trọng lượng của tên lửa để nó có thể được vận chuyển bằng TEL (thiết bị vận chuyển phóng thẳng đứng) và chuyển từ nhiên liệu lỏng sang nhiên liệu rắn để giảm thời gian phóng. Tên lửa cơ động sử dụng nhiên liệu rắn đầu tiên là DF-21, được phát triển vào những năm 1980 và được triển khai lần đầu tiên vào năm 1991. ICBM cơ động trên đường đầu tiên lần lượt là DF-31 và DF-31A, bắt đầu được triển khai vào năm 2006. Trên biển, Trung Quốc tìm cách phát triển tàu ngầm hạt nhânSSBN. Mặc dù Trung Quốc đã theo đuổi những tham vọng như vậy từ cuối những năm 1950 nhưng chúng vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Tàu ngầm mang tên lửa đường đạn (SSBN) đầu tiên của Trung Quốc, lớp Xia (Hạ), đã gặp phải nhiều vấn đề kỹ thuật đến mức nó chưa bao giờ tiến hành một cuộc tuần tra ngăn chặn nào. Trung Quốc đã triển khai một thiết kế mới hơn vào cuối những năm 2000, SSBN Type-094 hay SSBN lớp Jin (Tấn). Tên lửa dành cho tàu ngầm này, JL-2, vẫn đang được phát triển và chưa rõ khi nào các cuộc tuần tra răn đe sẽ bắt đầu.

CẤU TRÚC LỰC LƯỢNG

Cấu trúc lực lượng hạt nhân của Trung Quốc phù hợp với trọng tâm duy nhất là chiến dịch phản công hạt nhân trong chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Ngay từ đầu, các lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ đã quyết định thành lập một lực lượng hạt nhân đa dạng. Lực lượng này bao gồm các tên lửa đạn đạo tầm ngắn, tầm trung và xuyên lục địa có khả năng tấn công các mục tiêu ở ngoại vi Trung Quốc và xa hơn nữa. Trung Quốc đã không đạt được khả năng tấn công xuyên lục địa thực sự cho đến khi thử nghiệm thành công tên lửa DF-5 vào tháng 5 năm 1980. Vào thời điểm đó, Trung Quốc cũng đã triển khai thành công các tên lửa tầm ngắn, bao gồm DF-3 (1971) và DF-4 (1980). ). Năm 1984, Quân ủy Trung ương Trung Quốc lần đầu tiên đặt lực lượng hạt nhân của Trung Quốc vào tình trạng báo động, biểu thị việc thiết lập khả năng trả đũa thô sơ.

1711682871987.png

Tên lửa DF-4

Kể từ đó, Trung Quốc tiếp tục hiện đại hóa lực lượng của mình. Mặc dù số lượng ICBM trong kho vũ khí đã tăng đáng kể so với năm 1984, nhưng quy mô tổng thể của lực lượng này vẫn còn nhỏ khi so sánh với hai cường quốc hạt nhân lớn của thế giới là Mỹ và Liên Xô/Nga. Đến năm 1991, Trung Quốc có thể chỉ mới triển khai 4 tên lửa DF-5. Thiết kế ban đầu của tên lửa đã được sửa đổi để sản xuất phiên bản tầm xa hơn và chính xác hơn, DF-5A, được đưa vào sử dụng từ những năm 1990. Năm 2000, Bộ Quốc phòng Mỹ ước tính rằng Trung Quốc có 18 hầm chứa DF-5 và khoảng 20 tên lửa. Trong cuộc duyệt binh năm 1999 để kỷ niệm 50 năm thành lập CHND Trung Hoa, Trung Quốc đã trình làng loạt tên lửa DF-31, bắt đầu được triển khai vào năm 2006. Không giống như DF-5, sử dụng nhiên liệu lỏng và đặt trong hầm chứa, DF-31 là tên lửa di động ba tầng, sử dụng nhiên liệu rắn. Biến thể tầm xa hơn, DF-31A, có khả năng tấn công hầu hết lục địa Mỹ.

1711682928805.png

Tên lửa DF-31A

Ngày nay, quy mô tổng thể của lực lượng Trung Quốc vẫn phù hợp với chiến lược trả đũa được đảm bảo chỉ giới hạn ở việc ngăn chặn các cuộc tấn công và gây sức ép hạt nhân. Trung Quốc có khoảng 60 ICBM có khả năng tấn công Mỹ. Vì một nửa số tên lửa DF-5 hiện đã được trang bị đầu đạn đa hướng (MIRV) nên Trung Quốc có thể tấn công Mỹ với khoảng 80 đầu đạn. Trung Quốc cũng có khoảng 60 tên lửa tầm ngắn với đầu đạn đơn, bao gồm DF-21 và DF-4. DF-26 được giới thiệu tại cuộc duyệt binh năm 2015 được mô tả là có “khả năng kép” với các biến thể thông thường và hạt nhân nhưng dường như chủ yếu có vai trò thông thường, chống hạm.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,093
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Trong tương lai, quy mô của lực lượng gần như chắc chắn sẽ tăng lên. Trung Quốc có thể trang bị MIRV cho những tên lửa DF-5 còn lại của mình. Trung Quốc cũng được cho là đang phát triển một ICBM di động mới, DF-41, có khả năng mang MIRV. Trung Quốc cuối cùng có thể triển khai SSBN thế hệ thứ hai, lớp Jin, mỗi chiếc sẽ mang 12 tên lửa JL-2. Mặc dù, một phần, những sự phát triển này thể hiện mong muốn hiện đại hóa lực lượng và cho nghỉ hưu các hệ thống cũ như DF-3, DF-4 và JL-1, Trung Quốc cũng tìm cách đảm bảo khả năng trả đũa của mình khi hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ và các lực lượng phòng thủ tên lửa của Mỹ và năng lực chống tấn công thông thường của Mỹ ngày một tăng.

1711683015905.png

Tên lửa JL-2

Chiến lược hạt nhân và đường lối chiến lược

Những đường lối chiến lược được thảo luận xuyên suốt cuốn sách này nhấn mạnh đến các chiến dịch quân sự thông thường. Trong các tài liệu có sẵn trong các đường lối khác nhau, chiến lược hạt nhân và Lực lượng Pháo binh số 2 với tư cách là một lực lượng hạt nhân hiếm khi được đề cập. Tuy nhiên, việc phát triển và triển khai lực lượng hạt nhân của Trung Quốc đã nhất quán với nguyên tắc cơ bản trong tất cả các đường lối “phòng thủ chủ động”. Mặc dù khái niệm này đã được giải thích khác nhau vào nhiều thời điểm kể từ năm 1949, nhưng nó vẫn là nguyên tắc tổ chức cơ bản cho tất cả các chiến lược quân sự của Trung Quốc và cũng đóng vai trò là nguyên tắc chung cho chiến lược hạt nhân của Trung Quốc.

Sự nổi bật của các vấn đề hạt nhân trong các đường lối chiến lược trước đây rất đa dạng. Đường lối chiến lược năm 1956 dựa trên giả định rằng QGPNDTQ sẽ phải tiến hành chiến tranh “trong điều kiện hạt nhân”. Mặc dù đường lối chiến lược năm 1964 sau đó đôi khi được mô tả là chuẩn bị cho một “cuộc chiến tranh hạt nhân sớm, quy mô lớn”, nhưng nó không có hướng dẫn cụ thể về cách sử dụng lực lượng hạt nhân của Trung Quốc. Trên thực tế, việc chú trọng vào việc “dụ kẻ thù vào sâu” vào lãnh thổ Trung Quốc gợi ý rằng chúng sẽ không được sử dụng. Hơn nữa, mặc dù Trung Quốc đã cho nổ thiết bị hạt nhân đầu tiên nhưng nước này không sở hữu bất kỳ phương tiện đáng tin cậy nào để vận chuyển vũ khí hạt nhân. Mặc dù thiếu hệ thống mang đáng tin cậy, các quy định tạm thời của Quân ủy Trung ương Trung Quốc năm 1967 đối với Lực lượng Pháo binh số 2 đã liên kết các hoạt động hạt nhân trong tương lai với phòng thủ chủ động. Các quy định lưu ý rằng “Lực lượng Pháo binh số 2 là lực lượng tấn công hạt nhân quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chiến lược [renwu] của đất nước chúng ta là phòng thủ chủ động”. Cùng lúc đó, Quân ủy Trung ương Trung Quốc mô tả nhiệm vụ của Lực lượng Pháo binh số 2 là “phát triển lực lượng phản công hạt nhân để thực hiện phòng thủ chủ động”.

1711683063679.png

Tên lửa JL-2

Chỉ đến đường lối chiến lược năm 1980, chiến lược hạt nhân mới xuất hiện được thảo luận trong bối cảnh chiến lược quân sự quốc gia của Trung Quốc. Tại cuộc họp “801” được mô tả ở chương 5, Trung Quốc đã thông qua một đường lối chiến lược mới để đối phó với mối đe dọa từ Liên Xô, trong đó nhấn mạnh đến việc phòng thủ chủ động và từ bỏ việc dụ kẻ thù vào sâu như một khái niệm chiến lược. Tại cuộc họp, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã nêu “phòng thủ chặt chẽ” và “phản công trọng điểm” làm nguyên tắc hoạt động của Lực lượng Pháo binh số 2, nhằm nhất quán với thế trận trả đũa. He Jinheng, Tư lệnh Lực lượng Pháo binh số 2 từ năm 1982 đến năm 1985, nhớ lại rằng sự phát triển nguyên tắc “tinh gọn và hiệu quả” vào đầu những năm 1980 được thiết kế để thực hiện phương châm chiến lược phòng thủ chủ động. Tiểu sử của ông cũng viết rằng khái niệm phòng thủ chủ động đã định hình việc soạn thảo ấn bản năm 1985 của tài liệu Khoa học về các chiến dịch pháo binh số 2. Tương tự như vậy, cuộc tập trận đầu tiên của Lực lượng Pháo binh số 2 vào năm 1983 “đã sử dụng phương châm chiến lược phòng thủ chủ động làm hướng dẫn”.

1711683094583.png

Tên lửa JL-2

Mối quan hệ giữa đường lối chiến lược tổng thể và chiến lược hạt nhân có lẽ được thể hiện rõ ràng nhất trong đường lối chiến lược năm 1993. Ở thời điểm đó, vai trò của Lực lượng Pháo binh số 2 trong QGPNDTQ đã mở rộng sang bao gồm các tên lửa thông thường bên cạnh tên lửa hạt nhân, điều này mang lại cho Lực lượng Pháo binh số 2 một nhiệm vụ tấn công thông thường tầm xa bên cạnh nhiệm vụ răn đe hạt nhân và phản công hạt nhân. Ngay sau khi thực hiện chiến lược năm 1993, Lực lượng Pháo binh số 2 đã tổ chức họp toàn thể cán bộ cấp cao để “tuyên truyền, tìm hiểu tinh thần đại hội mở rộng của Quân ủy Trung ương”. Sau đó, giống như các quân chủng khác trong QGPNDTQ, Lực lượng Pháo binh số 2 đã tiến hành một loạt cải cách huấn luyện để thực hiện đường lối chiến lược mới. Những hồi ức khác của các sĩ quan cấp cao trong Lực lượng Pháo binh số 2 liên kết sự phát triển của tổ chức trong những năm 1990 với chiến lược năm 1993. Phản ánh mối liên hệ, Giang Trạch Dân đã viết một dòng chữ khi thị sát Lực lượng Pháo binh số 2 vào năm 1998: “Thực hiện đường lối chiến lược phòng thủ chủ động, xây dựng lực lượng tên lửa chiến lược tinh gọn và hiệu quả”.

..........
 

athanh66

Xe điện
Biển số
OF-518852
Ngày cấp bằng
29/6/17
Số km
3,068
Động cơ
211,736 Mã lực
Nơi ở
Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
Website
chaogangviet.vn
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top