[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Ứng dụng tiềm năng

Về vấn đề phát triển máy bay tiếp dầu trên không tàng hình cỡ lớn, cả Trung Quốc và Mỹ đều không có rào cản kỹ thuật quan trọng cần phải vượt qua. Tuy nhiên, Trung Quốc và Mỹ có những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với nhiệm vụ tiếp dầu trên không. So với bản thân công nghệ, điểm mấu chốt quyết định lớn nhất đối với trang bị cho máy bay tiếp dầu tàng hình của Không quân Mỹ nằm ở tưu duy cố gắng cân bằng giữa tính đa năng của máy bay với chi phí nghiên cứu phát triển ở mức thấp nhất có thể.

1709941913780.png

Máy bay tiếp dầu KC-46

Đối với lực lượng Không quân Mỹ, họ luôn có tư duy phát triển kết hợp duy trì khả năng chở người và hàng hóa của máy bay tiếp dầu trên không. Từ KC-135 đến KC-46, máy bay tiếp dầu của Quân đội Mỹ luôn có mục đích kép là chở hàng và chở dầu, nhưng họ nhấn mạnh nhiều hơn vào chức năng tiếp nhiên liệu. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Do những thế hệ máy bay tiếp dầu của Mỹ đều dược phát triển dựa trên khung gầm máy bay chở khách hàng không dân dụng.

Theo đó, các máy bay dân dụng được gia cố sàn nhằm giúp tăng tải trọng đồng thời việc lắp đặt ròng rọc để thuận tiện cho việc di chuyển hàng hóa và thêm các điểm móc để thuận tiện cho việc cố định hàng hóa là điều không khó. Hơn nữa, loại máy bay tiếp dầu phái sinh này không yêu cầu chỗ để hành lý ở khu riêng biệt và xét cho cùng thì việc chở hàng hoá và binh lính quân sự có thể được trộn lẫn và vận dụng linh hoạt với nhau. Trong khi đó, máy bay tiếp nhiên liệu A400M của Châu Âu được cải tiến từ máy bay vận tải, đơn giản hơn là tiếp nhiên liệu trên không bán thời gian cho máy bay vận tải.

Các thùng tiếp nhiên liệu được bổ sung dưới cánh trong khi đó các thùng nhiên liệu dự trữu tạm thời được bố trí trên sàn. Mặc dù phải đảm nhận cả nhiệm vụ tiếp nhiên liệu và vận tải hàng hoá mang tính lưỡng dụng có phần cưỡng ép như vậy nhưng rõ ràng có còn hơn không. Đối với A400M, nhiệm vụ chính của nó là vận tải hàng hoá quân sự, trong khi tính năng tiếp dầu chỉ là thứ yếu.

1709941985945.png

Máy bay tiếp dầu KC-135R

Lực lượng Không quân Mỹ hiện nay đang được biên chế 396 chiếc KC-135R, 59 chiếc KC-10, 23 chiếc máy bay vận tải KC-460, 52 chiếc C-5M và 222 chiếc C-17. Rõ ràng, số lượng máy bay tiếp dầu vượt xa đáng kể số lượng máy bay vận tải. Trong chiến tranh cường độ thấp, tàu tiếp dầu không quá cần thiết. Ngược lại, việc sử dụng máy bay tiếp dầu làm máy bay vận tải bán thời gian có lợi ích là tiêu thụ nhiên liệu thấp hơn và chi phí bảo dưỡng tiết kiệm hơn. Đây là lý do tại sao quân đội Mỹ đặc biệt chú trọng đến năng lực vận chuyển hàng hóa khi KC-46 được đấu thầu.

Nhưng cũng chính văn hóa sử dụng đặc thù của loại máy bay tiếp dầu này đã hạn chế Quân đội Mỹ tìm kiếm giải pháp cho thế hệ máy bay tiếp dầu mới trên nền tảng máy bay ném bom tàng hình chiến lược như B-2 hay B-21. Đặc biệt, nhu cầu về số lượng máy bay ném bom tàng hình và máy bay tiếp dầu tàng hình tương đối thấp, điều này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc chia sẻ chi phí của các máy bay tiếp dầu mới trên cùng một nền tảng. So với máy bay tiếp dầu được phát triển trên nền tảng máy bay truyền thống, mức tăng giá thành của nó chắc chắn sẽ rất cao. Điều này khá tai hại trong môi trường chính trị của Mỹ. Trong lịch sử nghiên cứu và phát triển thiết bị của Không quân Mỹ, có rất nhiều ví dụ về những dự án chi phí cực cao như vậy đã thất bại giữa chừng.

Hiện nay, việc Mỹ triển khai sáng kiến phát triển thế hệ máy bay tiếp dầu tàng hình liệu có thực sự khả thi? Đây là câu hỏi được nhiều chuyên gia phân tích quân sự quan tâm. Đối với Trung Quốc, một mặt, Trung Quốc rất cần học hỏi khái niệm tiếp nhiên liệu xuyên suốt mới do Không quân Mỹ đề xuất hiện nay. Trong đó đặc biệt coi trọng việc các máy bay tiếp dầu sẽ có thể đóng vai trò là nút ISR trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên không. Mặt khác, lực lượng Không quân Trung Quốc không cần phải phát triển máy bay tiếp dầu vừa có tính năng tàng hình đồng thời có khả năng vận chuyển hàng hóa.

1709942083340.png

Máy bay tiếp dầu không người lái của hải quân Mỹ

Tất nhiên, máy bay tiếp dầu tàng hình cỡ lớn nền tảng H-20 thiếu khả năng chở người và hàng hóa, không linh hoạt trong sử dụng và chỉ có thể thực hiện một nhiệm vụ duy nhất, điều này có vẻ rất kém kinh tế. Nhưng mọi thứ phải dựa trên yêu cầu cuiar môi trường chiến trường cường độ cao. Bên cạnh đó, công cuộc xây dựng quốc phòng của Trung Quốc tập trung vào các cuộc chiến tranh sinh tồn tự vệ, hoàn toàn khác với đường lối xây dựng sức mạnh quân sự được thúc đẩy bởi các cuộc chiến tranh lợi nhuận của Mỹ. Tất nhiên, với việc tăng cường cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ, Quân đội Mỹ cũng đang chuyển đổi để ứng phó với các cuộc chiến tranh cường độ cao để tham vọng ngày càng bỏ xa Trung Quốc trong lĩnh vực quốc phòng. Tuy nhiên, tham vọng cũng chỉ là tham vọng, thực tại không bao giờ đúng như Mỹ mong muốn./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Nhìn lại quan hệ Trung-Mỹ năm 2023

Tạp chí “Tri thức thế giới” (Trung Quốc) số 24/2023 đăng bài viết của Dương Nam – Phó nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Mỹ thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc, dưới đây là nội dung bài viết:

1709942435123.png


Ngày 16/11/2023, nguyên thủ quốc gia hai nước Trung Quốc và Mỹ đã tiến hành cuộc gặp thượng đỉnh tại San Francisco (Mỹ) để tiến hành trao đổi sâu sắc về các vấn đề song phương và các vấn đề lớn liên quan đến hòa bình và phát triển của thế giới. Cuộc gặp lần này diễn ra sau đúng 1 năm cuộc gặp của nguyên thủ hai nước diễn ra tại Bali (Indonesia) vào ngày 14/11/2022. Trong năm 2023, quan hệ Trung-Mỹ đã ở mức thấp lịch sử kể từ khi bình thường hóa, nhưng cũng cho thấy dấu hiệu có thể phục hồi.

Thời điểm suy giảm

Đầu tháng 2/2023, không lâu sau cuộc gặp giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Joe Biden ở Bali, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken thông báo ông sắp lên đường thăm Trung Quốc. Tuy nhiên, vụ khinh khí cầu nghiên cứu khoa học dân sự của Trung Quốc bị Mỹ bắn hạ đã khiến Blinken phải "hoãn" chuyến thăm của mình. Các quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ và nghị sĩ của cả hai đảng trong Quốc hội đều thổi phồng “mối đe dọa” của khinh khí cầu Trung Quốc bay trên không phận Mỹ, khiến tâm lý chống Trung Quốc ở Mỹ tiếp tục tăng cao. Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã liên tiếp đưa ra những tuyên bố nghiêm khắc trước phản ứng thái quá của Mỹ và bảo lưu quyền sử dụng các biện pháp cần thiết để giải quyết các tình huống tương tự. Sự cố khinh khí cầu đã đưa quan hệ Trung-Mỹ trở lại điểm đóng băng trong tình trạng chưa hồi phục hoàn toàn.

1709942493420.png

Sự cố khinh khí cầu TQ tại Mỹ

Trong quá trình phát triển quan hệ Trung-Mỹ kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, những tình huống bất ngờ tương tự xảy ra không phải là hiếm gặp. Tình hình căng thẳng do sự cố khinh khí cầu gây ra trong một thời gian rất ngắn có thể phá hủy bầu không khí ổn định khó có được giữa hai nước, đồng thời đẩy tâm lý đối lập giữa hai bên lên một tầm cao mới, lộ rõ toàn bộ sự nhạy cảm và mong manh của quan hệ hai nước. Theo kết quả thăm dò do công ty thăm dò và tư vấn Gallup, có trụ sở tại Washington (Mỹ), công bố khi đó cho thấy thiện cảm của người Mỹ trưởng thành đối với Trung Quốc đã giảm mạnh xuống còn 15% sau sự cố khinh khí cầu, đạt mức thấp kỷ lục. Sự tức giận và bất mãn của trong nước Trung Quốc đối với Mỹ cũng tăng mạnh.

Sau sự cố khinh khí cầu, Mỹ liên tục có những hành động làm tổn hại lợi ích và danh dự của Trung Quốc, trong đó có việc cho nhà lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn “quá cảnh” vào Mỹ, thổi phồng cái gọi là vấn đề “thực thi pháp luật xuyên biên giới”, tiếp tục đưa các công ty Trung Quốc vào danh sách thực thể, thắt chặt hơn nữa việc xuất khẩu công nghệ sang Trung Quốc... Trong những năm gần đây, Quốc hội Mỹ, vốn đang dần chuyển từ hậu trường sang mặt trận chống Trung Quốc, đã trở nên chủ động hơn trong các vấn đề liên quan đến Trung Quốc: Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hạ viện khi đó là McCarthy, thành lập Ủy ban đặc biệt về cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung; Hạ viện và Thượng viện Mỹ liên tiếp tổ chức các phiên điều trần về các chủ đề liên quan đến Trung Quốc, thậm chí Hạ viện Mỹ còn đưa ra tới 12 dự luật liên quan đến Trung Quốc vào ngày 1/3.

1709942529105.png

Sự cố khinh khí cầu TQ tại Mỹ

Ngoài Washington, nhiều bang ở Mỹ đã bắt đầu thực hiện các chính sách hoặc đạo luật mang tính phân biệt đối xử như cấm công dân Trung Quốc mua nhà, đất trên địa bàn. Trước các biện pháp gây sức ép đến từ phía Mỹ, Trung Quốc cũng có các biện pháp đáp trả như Luật chống gián điệp, Luật quan hệ đối ngoại và Danh mục công nghệ bị hạn chế và cấm xuất khẩu.

Quan hệ Trung-Mỹ đã trải qua mức thấp lịch sử kể từ khi bình thường hóa quan hệ, và mối quan ngại của cộng đồng quốc tế ngày càng gia tăng. Trong mắt nhiều người, mối quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và hai cường quốc quân sự đã rơi vào vòng luẩn quẩn, việc thiếu cơ chế trao đổi và xóa bỏ hoài nghi sẽ đẩy nhanh vòng luẩn quẩn này.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Phục hồi

Một loạt tương tác mang tính tiêu cực giữa Trung Quốc và Mỹ vào mùa Xuân năm 2023 đồng nghĩa với việc quan hệ song phương đang trượt dốc, và ngày càng nhiều người nhận ra rằng việc giảm bớt căng thẳng là điều vô cùng cấp bách. Trong bầu không khí “căng thẳng” do quan hệ hai nước xấu đi, làm thế nào để quay trở lại “Đồng thuận Bali” và khởi động lại tiến độ ổn định và cải thiện quan hệ đang thử thách trí tuệ chính trị của cả hai bên. Ngày 21/4, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen đã có bài phát biểu về quan hệ kinh tế Trung-Mỹ tại Đại học Johns Hopkins.

1709942628942.png

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen

Khác với luận điệu “tách rời” phổ biến ở Mỹ, Yellen làm rõ những lý do tích cực để tăng cường quan hệ thương mại với Trung Quốc và kêu gọi thiết lập quan hệ kinh tế mang tính xây dựng. Bà nói: “Chúng tôi tin rằng thế giới đủ rộng để chứa cả hai nước chúng ta. Trung Quốc và Mỹ có thể và nên tìm con đường cùng tồn tại và chia sẻ thịnh vượng toàn cầu”. Tuyên bố của Yellen lặp lại những nguyên tắc chủ chốt mà Trung Quốc đưa ra tại cuộc gặp thượng đỉnh tại Bali. Ngày 24/4, tại Đại lễ đường Nhân dân, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (Xi Jinping) tiếp hơn 70 đại sứ các nước tại Trung Quốc đến trình Quốc thư, trong đó có Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Nicholas Burns. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần nhắc lại trong các cuộc họp báo thường kỳ rằng Trung Quốc luôn nhìn nhận và phát triển quan hệ với Mỹ theo ba nguyên tắc là tôn trọng lẫn nhau, chung sống hòa bình và hợp tác cùng thắng.

Kể từ tháng 5/2023, tần suất trao đổi giữa các quan chức cấp cao của Trung Quốc và Mỹ đã tăng lên đáng kể. Nội dung của các cuộc tiếp xúc này bao hàm hầu hết các lĩnh vực quan trọng của quan hệ song phương như các cuộc đối thoại về các vấn đề kinh tế và thương mại giữa Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Vương Văn Đào (Wang Wentao) với Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo, Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Văn phòng công tác đối ngoại Đ..C..S Trung Quốc Vương Nghị (Wangyi) đã thảo luận với Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan tại Vienna (Áo) về các vấn đề an ninh chiến lược và quân sự; ngoài ra còn có sự phối hợp giữa các đặc phái viên của hai nước về biến đổi khí hậu.

1709942720194.png

Ông Vương Nghị và Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan

Từ tháng 6/2023 đến nay, các quan chức đương nhiệm và cựu quan chức Mỹ liên tiếp thăm Trung Quốc. Chủ tịch Tập Cận Bình đã gặp Blinken, Yellen, Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ về khí hậu John Kerry và cựu Ngoại trưởng Kissinger, Lãnh đạo đa số tại Thượng viện Chuck Schumer, Thống đốc bang California Gavin Newsom... Hai bên đã xác định rõ lập trường của mình trong các cuộc tiếp xúc và tiếp tục phát đi tín hiệu hợp tác nhằm ổn định và cải thiện quan hệ hai nước.

Giao lưu nhân dân giữa Trung Quốc và Mỹ cũng đang dần phục hồi. Tháng 3/2023, khi quan hệ Trung-Mỹ vẫn còn bị phủ bóng đen của sự cố khinh khí cầu, hàng chục giám đốc điều hành doanh nghiệp Mỹ và các học giả thuộc các trường cao đẳng-đại học… đã nhân dịp Diễn đàn cấp cao phát triển Trung Quốc đến thăm Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu… để trao đổi với đồng nghiệp phía Trung Quốc. Trong Báo cáo khảo sát môi trường kinh doanh Trung Quốc do Phòng thương mại Mỹ tại Trung Quốc công bố sau đó cho thấy 59% số người được hỏi đã thừa nhận kinh tế Trung Quốc đang trên đà phục hồi. Tháng 8/2023, Ủy ban quốc gia về quan hệ thương mại Mỹ-Trung - cơ quan từ lâu đã đóng vai trò cầu nối trong quan hệ song phương, đã tổ chức một phái đoàn đến thăm Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập. Cùng với số lượng chuyến bay giữa hai nước dần phục hồi, các hình thức đối thoại học thuật Trung-Mỹ tăng lên đáng kể.

Khởi đầu mới

Cuộc gặp thượng đỉnh ở San Francisco đã đi sâu thảo luận về con đường chung sống đúng đắn giữa Trung Quốc và Mỹ, xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của nước lớn mà Trung Quốc và Mỹ cần gánh vác, hình thành “Tầm nhìn San Francisco” hướng tới tương lai, cùng với cuộc gặp ở Bali chỉ rõ phương hướng cho sự phát triển của quan hệ song phương trong tương lai. Tuy nhiên, xét đến những thực tế khách quan như sự hợp tác tổng thể giữa hai bên bị thu hẹp, các điểm xung đột ngày càng tăng, mức độ hoài ngờ lẫn nhau vẫn còn cao, công thêm việc Mỹ sắp bước vào năm bầu cử 2024, người ta vẫn nhìn nhận một cách thận trọng quan hệ Trung-Mỹ, do đó hai bên vẫn cần tiếp tục nỗ lực để ổn định và phát triển quan hệ song phương.

1709942769244.png


Trước tiên là làm thế nào để thúc đẩy hiệu quả Tầm nhìn San Francisco. Cuộc cạnh tranh chiến lược của Mỹ với Trung Quốc đã diễn ra trong nhiều năm và hai bên có những bất đồng ở mức độ khác nhau trong hầu hết các vấn đề song phương và đa phương. Nếu không thể vượt qua những bất đồng, nêu bật lợi ích chung trong các lĩnh vực hợp tác tiềm năng, thì sẽ không thể thực hiện được tinh thần của cuộc gặp thượng đỉnh, và bản thân việc vượt qua bất đồng cũng là một thách thức vô cùng lớn.

Thứ hai là liệu hai nước có thể một lần nữa trụ vững trước những sự kiện bất ngờ có thể xảy ra hay không. Sau hơn 40 năm thử thách, Trung Quốc và Mỹ đã cùng nhau đối mặt với nhiều vấn đề, việc hiểu rõ thành ý và năng lực của đối phương chính là chìa khóa để giải quyết ổn thỏa những vấn đề này. Để duy trì quan hệ Trung-Mỹ ổn định và lành mạnh đòi hỏi phải có sự quản lý có hệ thống, toàn diện và liên tục, trong đó bao gồm cả việc cả hai bên có thể xuất từ đại cục, tôn trọng thực tế và duy trì lý trí khi gặp phải sự cố bất ngờ.

1709942811626.png


Cuối cùng, Mỹ phải tôn trọng lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trong vấn đề Đài Loan. Mỹ tiếp tục thúc đẩy chiến lược “dùng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc”, Quốc hội đang thổi phồng nhiều dự luật liên quan đến Đài Loan, giới chiến lược nước này so sánh cuộc khủng hoảng Ukraine với vấn đề eo biển Đài Loan và chủ trương đẩy nhanh việc trang bị vũ khí cho Đài Loan. Điều này khiến cho chính sách “một Trung Quốc không thay đổi” của Chính phủ Mỹ trở nên mờ nhạt và liên tục làm xói mòn sự tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ.

Quan hệ Trung-Mỹ trong năm 2023 từ mức thấp nhất dần trở lại quỹ đạo ổn định và hiện đứng ở điểm khởi đầu mới. Liệu hai nước có thể hướng tới quan hệ song phương tốt đẹp hơn thông qua các tiếp xúc thường xuyên hay không vẫn là một câu hỏi chờ được giải đáp.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Trung Quốc: Quốc gia dẫn đầu về vận tải thế giới trong tương lai?

Bài trả lời phỏng vấn của Jean-François Dufour, chuyên gia Pháp về Trung Quốc.

areion24.news (-): Do có thị trường ô tô điện lớn nhất và phát triển nhanh nhất thế giới, Trung Quốc cũng đang gia tăng sự thống trị trên thị trường pin toàn cầu. Trong khi thị trường ô tô điện được dự đoán sẽ trở thành địa bàn của một sự cạnh tranh khốc liệt, liệu các công ty Trung Quốc có khả năng thống trị lĩnh vực này trong những năm tới?

J.-F. Dufour (+): Mục tiêu của Bắc Kinh rõ ràng là thống trị thị trường ô tô điện. Thực vậy, ngay từ đầu những năm 2000, Chính quyền Bắc Kinh đã đặt cho các công ty ô tô quốc gia mục tiêu thống trị, nếu không phải thị trường toàn cầu thì ít nhất là thị trường quốc gia trong thời gian đầu. Sở dĩ các công ty Trung Quốc ngày nay bắt đầu chiếm ưu thế trên thị trường của họ, đó là nhờ các ô tô điện. Ô tô sử dụng động cơ thông thường cho đến thời điểm đó chủ yếu được sản xuất thông qua liên doanh với các công ty nước ngoài và dưới nhãn hiệu nước ngoài. Thật vậy, chúng ta không được quên rằng Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các ô tô phương tiện chạy bằng nhiệt sau một thế kỷ tụt hậu trước sự cạnh tranh của nước ngoài. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đặt mục tiêu trở thành nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực xe điện.

1710206757027.png


Hơn nữa, Trung Quốc có đủ phương tiện để đạt được tham vọng của mình. Như bạn đã đề cập, pin là thành phần trọng tâm của ô tô điện, vốn có độ phức tạp về công nghệ thấp hơn đáng kể so với ô tô động cơ nhiệt. Trên thị trường pin, Trung Quốc đã chiếm những vị trí cực kỳ quan trọng và tiếp tục tích cực phát triển chúng. CATL hiện là công ty Trung Quốc thống trị phần lớn thị trường sản xuất pin cho xe điện, tiếp đến là công ty BYD. Ngoài ra còn có các nhà sản xuất mới sắp tham gia. Mục tiêu rõ ràng là thực hiện sự phát triển tích hợp và việc phát triển lĩnh vực sản xuất pin phải tạo điều kiện cho việc phát triển xe điện của Trung Quốc.

- Lợi thế của các công ty Trung Quốc trong lĩnh vực pin cho xe điện so với đối thủ nước ngoài là gì?

+ Cho dù các công ty Trung Quốc không có công nghệ tiên tiến so với các công ty nước ngoài, họ có một lợi thế đáng kể: năng lực sản xuất lớn hơn nhiều. Mỗi tuần, người ta đều ghi nhận sự phát triển các đơn vị sản xuất pin mới.

1710206725729.png


Ngoài ra, nhờ nguồn lực công nghệ và tài chính, các công ty Trung Quốc cũng đang phát triển ở nước ngoài. Ngày 23/1/2023, một nhà máy sản xuất pin của Trung Quốc đầu tiên được khai trương ở Đức.

Cuối cùng, với quy mô lớn, các công ty này có lợi thế về giá so với đối thủ và họ có thể hưởng lợi từ hệ thống tài chính bảo trợ của Chính phủ Trung Quốc. Do đó, họ không phải chịu những ràng buộc giống như đối thủ cạnh tranh và không chịu sức ép buộc phải có lãi trong ngắn hạn.

- Liệu có tồn tại rủi ro về bảo hộ thương mại đối với pin nhập khẩu từ Trung Quốc?

+ Về vấn đề này, thật thú vị khi quan sát những gì đang xảy ra ở châu Âu. Mặc dù sẽ hợp lý nếu Liên minh châu Âu (EU) thực hiện chính sách bảo hộ, nhưng thực tế là một chính sách như vậy sẽ có hại cho các nhà sản xuất ô tô châu Âu, bởi ngày nay chúng ta không có đủ năng lực sản xuất pin. EU có nhiều kế hoạch, nhưng Trung Quốc đang đi trước. Sở dĩ các công ty Trung Quốc giờ đây được phép mở nhà máy ở châu Âu, đó là vì châu Âu nhận thức rõ rằng nếu không có họ, các nhà sản xuất châu Âu sẽ không có pin cho các phương tiện của mình.

- Trung Quốc cũng đang đầu tư vào tàu cao tốc mà họ đã phát triển với tốc độ chóng mặt, với mạng lưới hiện dài tới 38.000 km, lớn nhất thế giới. Liệu lợi thế này có cho phép cạnh tranh với các tập đoàn châu Âu như Alstom và Siemens không?

+ Đường sắt là một lĩnh vực có sự chuyển giao công nghệ nhanh nhất. Đây cũng là tín hiệu cảnh báo cho các ngành công nghiệp khác. Năm 2007, Trung Quốc sản xuất tàu cao tốc đầu tiên. Cho dù tàu cao tốc này được lấy cảm hứng rất nhiều từ công nghệ nước ngoài, điều này cho thấy Trung Quốc đã đạt được một tiến bộ công nghệ to lớn.

1710206655159.png


Hiện nay, Trung Quốc kiểm soát khoảng 50% thiết bị mạng lưới đường sắt trên thế giới. Họ cũng có tham vọng xuất khẩu, điều này được minh chứng bởi tuyến đường cao tốc Jakarta-Bandung ở Indonesia. Đây là dự án đầu tiên của Trung Quốc ở nước này và sẽ đóng vai trò như một bước khởi đầu. Điều này rõ ràng tạo ra áp lực cho các tập đoàn nước ngoài, đặc biệt là Alstom của Pháp và Siemens của Đức.

- Tháng 1/2023, Tập đoàn Máy bay Thương mại Trung Quốc (COMAC) đã giao chiếc máy bay C919 đầu tiên cho hãng hàng không China Eastern Airlines của Trung Quốc. Liệu chiếc máy bay C919 do Trung Quốc sản xuất có thể cạnh tranh được với sự độc quyền của Airbus và Boeing?

+ Sứ mệnh của C919 rõ ràng là cạnh tranh với Airbus và Boeing ở phân khúc máy bay bán chạy nhất trong lịch sử của 2 tập đoàn này: A320 và B737. Nếu COMAC chưa đủ khả năng cạnh tranh độc quyền trong ngắn hạn thì chắc chắn là trong trung hạn.

1710206539243.png


Quả thực, chương trình C919 đã bị chậm tiến độ rất nhiều so với kế hoạch. Máy bay thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 5/2017 và vẫn chưa đi vào hoạt động thương mại. Việc chứng nhận của nó mất một thời gian dài và tốc độ sản xuất vẫn ở mức cầm chừng trong những năm tới. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, tình hình có vẻ rất khác. Máy bay này sẽ phát triển và các thế hệ tiếp theo sẽ có lộ trình thực tế hơn nhiều. Nếu ban đầu máy bay Trung Quốc muốn chinh phục thị trường thế giới trong 10 năm, thì giờ đây mục tiêu của nó là khẳng định vị thế của mình trên thị trường Trung Quốc, và sau đó là trên trường quốc tế. Ngành hàng không là một trong những ngành phức tạp nhất hiện nay, nhưng Trung Quốc có tham vọng và họ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để đạt được mục tiêu của mình.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, các công ty phương Tây có nhiều khả năng hơn để chống lại sự cạnh tranh của Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh công nghệ hiện nay. Yếu tố quyết định là khả năng đi đầu về đổi mới sáng tạo và Trung Quốc vẫn chưa đủ tự tin để dẫn đầu.

- Trung Quốc cũng là nước có vai trò lớn trong vận tải hàng hải, với COSCO là chủ tàu lớn thứ tư trên thế giới. Trung Quốc còn độc quyền sản xuất container, thiết bị cần thiết cho việc vận chuyển hàng hóa và nước này đang đầu tư ồ ạt vào nhiều cảng như một phần của chiến lược Con đường tơ lụa mới. Cụ thể, Trung Quốc có ảnh hưởng như thế nào đối với vận tải hàng hải toàn cầu?

1710206840352.png


+ Ảnh hưởng của Trung Quốc trong lĩnh vực này là rất đáng kể. Việc củng cố COSCO, công ty đã được sáp nhập với đối thủ cạnh tranh chính trước đây là China Shipping, vào năm 2015, chính xác là nhằm mục đích tạo ra một gã khổng lồ vận tải hàng hải. Giờ đây, COSCO là một nhân tố quan trọng bởi nó đứng ở vị trí đầu tiên nếu xét đến tổng khối lượng hàng hóa được vận chuyển. Tuy nhiên, COSCO chỉ đứng thứ tư thế giới về container, sau các gã khổng lồ châu Âu MSC, Maersk và CMA-CGM.

Cuối cùng, cần lưu ý rằng COSCO là một nhân tố quan trọng của Bắc Kinh trong dự án Con đường tơ lụa mới, và đặc biệt có mặt ở châu Âu – Piraeus (Hy Lạp) và Hamburg (Đức).

- Tháng 12/2020, trong Sách Trắng về “Phát triển bền vững vận tải ở Trung Quốc”, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng Trung Quốc hiện đã có những công nghệ cơ bản do chính họ phát triển. Trung Quốc đang chuyển từ chỗ là nước đi sau trở thành nước dẫn đầu về công nghệ và cơ sở hạ tầng vận tải?

+ Làm chủ công nghệ vận tải thực sự là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc vì nhiều lý do. Thứ nhất, nước nào đi đầu trong cuộc chạy đua sáng tạo đều có thể tự định vị mình là nước dẫn đầu. Mặt khác, từ quan điểm địa chiến lược, việc làm chủ công nghệ cho phép đảm bảo độc lập dân tộc và hạn chế những tổn thương trước nước ngoài.

Trung Quốc đang định vị mình là quốc gia tiên phong trong việc phát triển cơ sở hạ tầng cho phương tiện chạy bằng hydro, với việc thiết lập mạng lưới các trạm hydro để hỗ trợ sự phát triển các phương tiện chạy bằng pin nhiên liệu hoặc với việc phát triển các dự án đầu máy xe lửa hoặc thuyền chạy bằng hydro. Quả thực, càng định vị mình ở vị trí đứng đầu các nước khởi xướng các dự án, Trung Quốc càng dễ dàng làm tăng giá trị của các công ty và các tiêu chuẩn của họ.

1710206875290.png


Trung Quốc công khai mong muốn đặt các dấu mốc về công nghệ. Nước này đang làm những gì cần thiết để trở thành nước dẫn đầu về công nghệ. Nhưng sẽ là sai lầm nếu khẳng định rằng Trung Quốc hiện dẫn đầu về công nghệ trong các lĩnh vực như hydro hay các lĩnh vực tương đương khác. Đây vẫn chưa phải là sự thật.

- Xét về thị phần, Trung Quốc có vị trí quốc tế như thế nào trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng vận tải?

+ Thị trường Trung Quốc đã tạo điều kiện cho sự phát triển của 4 tập đoàn xây dựng khổng lồ: Tổng Công ty Xây dựng nhà nước Trung Quốc (CSCE), Tập đoàn Xây dựng đường sắt Trung Quốc (CRCC), Tập đoàn Đường sắt Trung Quốc (CREC) và Công ty Xây dựng truyền thông Trung Quốc (CCCC). Các tập đoàn này hiện có xu hướng xuất khẩu, nhưng chủ yếu sang các thị trường có nhu cầu và tranh thủ nguồn tài trợ của Trung Quốc như châu Á, châu Phi hay Nam Mỹ. Tuy nhiên, sự hiện diện của họ vẫn còn rất ít ỏi ở các thị trường phát triển nhất như châu Âu hay Mỹ.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
5 dự báo cho năm 2024 của Trung Quôc

Quãng thời gian từ năm 2020 cho đến nay giống như thập niên mất mát của Trung Quốc: Kinh tế giảm tốc, giới trẻ vỡ mộng và thất nghiệp, còn cha mẹ họ chứng kiến giá trị bất động sản sụt giảm. Chủ tịch Tập Cận Bình (Xi Jinping) bất an, nhưng vẫn nắm quyền thống trị cao nhất. 2023 là một năm khó khăn đối với Bắc Kinh và năm tiếp theo có vẻ cũng chẳng vui vẻ hơn là mấy. Dưới đây là 5 dự đoán cho Trung Quốc trong năm 2024:

1. Khủng hoảng nhỏ liên quan đến Đài Loan

Đài Loan tổ chức bầu cử tổng thống vào ngày 13 và năm 2024 có thể bắt đầu bằng một cuộc khủng hoảng nhỏ ở eo biển. Phó Tổng thống Đài Loan đương nhiệm Lại Thanh Đức (Lai Ching-te), người phục vụ dưới thời Tổng thống Thái Anh Văn (Tsai Ing-wen) và là thành viên đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP), đang dẫn đầu trong các cuộc thăm dò. Nếu ông được bầu, Bắc Kinh sẽ tức giận vì ông là người ủng hộ Đài Loan độc lập và phản đối mạnh mẽ Đ..C..S Trung Quốc .

Mặc dù Lại Thanh Đức nói rằng ông không yêu cầu Đài Loan chính thức độc lập hay từ bỏ tên Trung Hoa Dân Quốc – “lằn ranh đỏ” đối với Bắc Kinh - nhưng ông cũng nói rằng chủ quyền của Đài Loan là “sự thật” và nhắc nhở các ứng cử viên khác rằng theo tiêu chuẩn của Bắc Kinh thì họ đều ủng hộ độc lập.

1710206995725.png

Ông Lại Thanh Đức

Chiến thắng của Lại Thanh Đức có thể thúc đẩy các động thái hung hăng của Bắc Kinh, bao gồm diễn tập hải quân và xâm nhập không phận. Những thông tin được đưa ra gần đây về bình luận của Tập Cận Bình với Tổng thống Mỹ Joe Biden về việc thống nhất Đài Loan khi họ gặp nhau hồi tháng 11 gây ra một số lo lắng ở Washington, nhưng một cuộc xâm lược vẫn rất khó xảy ra. Điều đó đầy rủi ro và khó khăn, nhất là khi Trung Quốc đang phải vật lộn với các cuộc khủng hoảng khác.

Ngay cả chiến thắng của phe đối lập Quốc Dân Đảng (KMT) vào ngày 13/1 cũng có thể gây ra một số vấn đề. KMT thân Trung Quốc hơn so với DPP, nhưng đảng này cũng không thể trao chìa khóa hòn đảo này cho Bắc Kinh. Các quan chức Trung Quốc có thể đánh giá quá cao ý nghĩa của việc KMT chiến thắng trong bầu cử khi coi đó là dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đài Loan. Mặc dù, trong một cuộc khảo sát gần đây, 17% cử tri Đài Loan cho biết Trung Quốc là mối lo ngại chính, nhưng số người chọn kinh tế là vấn đề lo ngại chính cao hơn gấp hai lần.

2. Khó khăn trong lĩnh vực bất động sản tiếp tục gia tăng

Giá nhà đất ở Trung Quốc biến động trong nhiều năm và năm 2024 có thể là năm giá nhà đất cuối cùng cũng trượt khỏi bờ vực. Cuộc khủng hoảng của các nhà phát triển bất động sản trong năm 2023 đã đủ tồi tệ, ảnh hưởng đến các công ty từng được coi là tương đối an toàn, chẳng hạn như Country Garden. Ngoài kia còn rất nhiều dự án bất động sản thất bại, nhưng điều mà Chính phủ Trung Quốc thực sự lo ngại là giá nhà đất giảm khi rốt cục có đến 70% tài sản của các hộ gia đình Trung Quốc được đầu tư vào bất động sản.

Chính phủ đã sửa dữ liệu và đe dọa các nhà bình luận, dường như nhằm ngăn không cho mọi người nói về nền kinh tế Trung Quốc đang thực sự tồi tệ như thế nào. Hiện có sự khác biệt lớn giữa chỉ số giá nhà ở chính thức và giá bất động sản giao dịch thực sự trên thị trường. Giá nhà giảm ít nhất 15% ở nhiều thành phố và giảm tới 30% ở Bắc Kinh.

Khi xu hướng này lan rộng, ngay cả những số liệu chính thức cũng có thể phải thừa nhận thực tế, điều này sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin rộng lớn hơn nhiều.

3. Những thay đổi trong giới lãnh đạo chính trị

Một vài lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đã mất chức trong năm 2023, đó là Bộ trưởng Ngoại giao Tần Cương (Qin Gang) và Bộ trưởng Quốc phòng Lý Thượng Phúc (Li Shangfu). Câu chuyện đầy đủ về cả 2 vụ cách chức này vẫn chưa rõ ràng, nhưng đời sống chính trị của giới lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ có vẻ không ổn định trong năm 2024 dù Tập Cận Bình đã bổ sung những người trung thành vào các vị trí hàng đầu.

1710207077037.png

Ông Tần Cương (Qin Gang)

Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên: ông Tập Cận Bình giỏi về chính trị đảng phái, nhưng sự thống trị của ông không tốt cho Trung Quốc, đặc biệt là trong 3 năm qua. Sự tôn thờ bắt buộc không thể giúp ông không còn cảm thấy bất an hay không còn nhận ra rằng nhiều người đổ lỗi cho ông về tình trạng của đất nước. Sự bất an đó cũng ảnh hưởng đến phần còn lại của giới lãnh đạo, những người mà cuộc sống, sự giàu có và tự do của họ phụ thuộc vào ý muốn bất chợt của Tập Cận Bình. Tất cả sự căng thẳng này có thể tạo ra chính trị kịch tính vào năm 2024.

Đối với tất cả các cuộc thảo luận về phe phái và đồng minh, đời sống chính trị của ĐCSTQ ở khía cạnh nào đó giống với động lực của tội phạm có tổ chức - khi rút dao ra, tình bạn không còn quan trọng nữa. Nếu có một động thái đáng kể nào chống lại Tập Cận Bình, thì là đến từ những người mà ông thăng chức và bảo trợ.

4. Giới trẻ vỡ mộng

Gần đây, phóng viên Dake Kang của hãng tin AP chia sẻ 2 tin nhắn mạng xã hội weibo gửi đến tài khoản của mình nói lên sự thay đổi tâm trạng của công chúng Trung Quốc trong 3 năm qua. Tháng 6/2020, một người lạ đã nhắn tin cho Dake Kang: “Biến khỏi Trung Quốc đi”. Tháng 12/2023, chính tài khoản đó nhắn: “Tôi xin lỗi”.

Nhiều người trẻ ở Trung Quốc đi theo con đường tương tự trong vài năm qua. Nền giáo dục theo chủ nghĩa dân tộc bồi đắp cho họ cảm giác tự hào và chiến thắng, cảm giác đã đến với chiến thắng rõ ràng trước COVID-19 vào mùa Hè năm 2020, khi Trung Quốc trở lại trạng thái tương đối bình thường trong khi phần còn lại của thế giới phải trú ẩn. Cảm giác đó kết hợp với sự thù địch ngày càng lớn đối với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, với các thuyết âm mưu đổ lỗi đại dịch là do Mỹ.

1710207131136.png


Nhưng sự thất vọng với chính sách Không COVID-19 của Trung Quốc trong năm 2021 và 2022, cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế, đã khiến công chúng, đặc biệt là giới trẻ, có cảm giác rất khác. Một dấu hiệu cho thấy sự thay đổi này là quan điểm của công chúng Trung Quốc đối với Mỹ đã tăng mạnh - một cách mã hóa để bày tỏ sự bất bình với đường lối của Bắc Kinh. Năm 2024, sự bi quan về tương lai vốn đã rõ ràng vào đầu thập kỷ này có khả năng trở nên tồi tệ hơn.

Chủ nghĩa dân tộc trong dân chúng giảm và viễn cảnh kinh tế tồi tệ đối với sinh viên trẻ mới tốt nghiệp dường như đang góp phần làm gia tăng tình trạng trầm cảm ở những người từ 18 đến 24 tuổi ở Trung Quốc. Sự thất vọng và tức giận của giới trẻ bùng nổ hồi tháng 12/2022, khi Trung Quốc chứng kiến các cuộc biểu tình rầm rộ nhất trong nhiều năm phản đối chính sách Không COVID-19. Điều đó khó có thể xảy ra trong năm 2024, nhưng sự hoài nghi và mong muốn trốn chạy sang các quốc gia khác - trong số những người đủ nguồn lực để làm điều đó - sẽ tiếp tục thúc đẩy cái gọi là tháo chạy trong năm 2024.

1710207242216.png


Một trong những lý do chính khiến ĐCSTQ trấn áp những người bất đồng chính kiến cách đây một thập kỷ là niềm tin rằng đảng đang mất đi những người trẻ tuổi. Phản ứng của chính phủ đối với niềm cay đắng mới này sẽ là yêu cầu thể hiện nhiều hơn nữa lòng yêu nước bắt buộc và kiểm duyệt chặt chẽ hơn nữa không gian mạng (năm 2023 sắp kết thúc với một loạt hạn chế chơi game). Có rất ít khả năng để trao cho giới trẻ Trung Quốc tương lai mà họ mong muốn.

5. Quan hệ Mỹ-Trung không sụp đổ, cũng không phục hồi

Thành công của cuộc gặp thượng đỉnh giữa Tập Cận Bình và Biden ở San Francisco hồi tháng 11, mà cả hai bên dường như đều coi là chiến thắng, đã mang lại khoảng thời gian hạ nhiệt tạm thời cho mối quan hệ đang xuống dốc trong nhiều năm. Điều đáng chú ý là việc nối lại các cuộc đàm phán quân sự cấp cao giữa Bắc Kinh và Washington. Trên phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc, những lời nói khoa trương chống Mỹ vẫn tương đối im hơi lặng tiếng - mặc dù vẫn không thay đổi.

Đừng hy vọng điều này kéo dài. Căng thẳng cấu trúc giữa hai cường quốc này căng đến mức bất kỳ một cuộc khủng hoảng mới nào chắc chắn cũng khiến Trung Quốc quay trở lại cái gọi là chế độ chiến lang, đặc biệt vì đây là cách dễ dàng để các nhà ngoại giao Trung Quốc thăng tiến sự nghiệp. Nhưng tình hình khó có thể đạt đến mức của năm 2020. Trung Quốc đã có quá nhiều vấn đề, phải tránh nguy cơ gặp quá nhiều rắc rối trong một thời gian.

Luôn có những lo ngại rằng luận điệu chống Trung Quốc ở Washington sẽ làm tê liệt mối quan hệ trong năm bầu cử. Nhưng sự thật là, tại thùng phiếu, cử tri Mỹ dường như không quan tâm đến Trung Quốc. Mối nguy hiểm thực sự có thể là những nỗ lực can thiệp bầu cử của Trung Quốc, có thể nhắm vào các chính trị gia cụ thể ở những khu vực có số lượng cử tri gốc Hoa cao - nhưng có thể đi theo đường lối ủng hộ Donald Trump.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Kiểm soát chặt chẽ hơn và thúc đẩy công nghệ cao: Những bài học chính từ sự kiện thường niên lớn nhất của Trung Quốc


Khi Trung Quốc vật lộn với một nền kinh tế đang gặp khó khăn và cuộc chiến công nghệ ngày càng gay gắt với Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo của nước này đã gửi một thông điệp tới hàng ngàn giới tinh hoa chính trị đang tập trung tại Bắc Kinh: đất nước sẽ tiếp tục con đường trở thành một cường quốc công nghệ cao dưới sự lãnh đạo của một cường quốc công nghệ cao. người đàn ông - nhà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình.

1710213965635.png


Sự tự tin đó đã được lặp lại trong suốt một tuần với các cuộc họp được chuẩn bị công phu của cơ quan lập pháp quốc gia và cơ quan cố vấn chính trị hàng đầu của Trung Quốc, kết thúc hôm thứ Hai bằng một buổi lễ tại Đại lễ đường Nhân dân rộng lớn.

Sự kiện này, được tổ chức phần lớn mà không có hạn chế của Covid, lần đầu tiên sau nhiều năm , là cơ hội hiếm có để thế giới nhìn thoáng qua hệ thống chính trị dưới thời ông Tập Cận Bình.

Siết chặt kiểm soát

Ngày bế mạc cơ quan lập pháp của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc hôm thứ Hai đã thiếu một sự kiện quan trọng – cuộc họp báo do Thủ tướng Trung Quốc chủ trì. Trong nhiều thập kỷ, truyền thống “hai phiên họp” khép lại này đã mang đến cho giới truyền thông nước ngoài và công chúng Trung Quốc một cơ hội hiếm có để có được cái nhìn sâu sắc trực tiếp về suy nghĩ của quan chức danh nghĩa số 2 của đất nước, người chịu trách nhiệm điều hành nền kinh tế.

1710214280842.png


Tuy nhiên, Bắc Kinh đã bất ngờ đưa ra thông báo rằng họ sẽ hủy bỏ sự kiện này vào tuần trước, một động thái khiến các nhà quan sát lo ngại về tính công khai ngày càng thu hẹp của chính phủ Trung Quốc.

Truyền thống lãnh đạo tập thể gần đây hơn, một mô hình nổi lên dưới thời lãnh đạo của M..ao Tr..ạch Đ..ông, một lần nữa lại bị lùi bước dưới thời Tập. Thủ tướng và Hội đồng Nhà nước của ông, có chức năng như nội các của Trung Quốc, ngày càng ít vai trò trong những năm gần đây khi Tập tăng cường vai trò của đảng để kiểm soát chính phủ và các thông điệp mà chính phủ gửi đi.

Điều đó càng được nhấn mạnh vào thứ Hai, khi các đại biểu đóng dấu cập nhật luật điều chỉnh tổ chức Hội đồng Nhà nước. Các nhà quan sát cho rằng những thay đổi này đã chính thức hóa hơn nữa vai trò của cơ quan này trong việc thực hiện các chỉ thị của Đ..C .. S Trung Quốc.

Thúc đẩy công nghệ cao

Chủ đề bao trùm của cuộc họp là nỗ lực tập trung mô hình kinh tế của Trung Quốc vào đổi mới công nghệ và biến đất nước này thành một cường quốc công nghệ cao.

Trong bài phát biểu tuần trước, Thủ tướng Lý kêu gọi tăng cường “sự tự lực và sức mạnh về khoa học và công nghệ”, nhấn mạnh nỗ lực nâng cấp chuỗi cung ứng công nghiệp và nâng cao vị thế của Trung Quốc như một nhà đổi mới công nghệ cao. Điều đó bao gồm việc tăng ngân sách hàng năm cho khoa học và công nghệ của Trung Quốc thêm 10% lên mức chưa từng có 370,8 tỷ nhân dân tệ (51,6 tỷ USD).

1710214327568.png


Cũng được nhấn mạnh là một từ thông dụng về chính sách mới “lực lượng sản xuất chất lượng mới”, một thuật ngữ do Tập đặt ra năm ngoái để chỉ các lĩnh vực công nghệ cao như phương tiện sử dụng năng lượng mới, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và sản xuất tiên tiến – biểu thị mong muốn thúc đẩy đất nước của nhà lãnh đạo dẫn đầu trong cuộc đua toàn cầu về các công nghệ quan trọng.

Việc nhấn mạnh vào khả năng tự lực về khoa học và công nghệ được đưa ra sau khi Mỹ thắt chặt kiểm soát việc xuất khẩu các công nghệ tiên tiến sang Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực AI, lĩnh vực mà Washington cho rằng có thể được sử dụng để tăng cường sức mạnh cho quân đội Trung Quốc.

Bên lề “hai phiên họp”, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị cáo buộc Mỹ “nghĩ ra nhiều chiến thuật khác nhau để đàn áp Trung Quốc” và chỉ trích các biện pháp kiểm soát thương mại và công nghệ của Washington đã đạt đến “mức độ phi lý khó hiểu”.

Khôi phục niềm tin kinh tế

Nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành tâm điểm chú ý trong năm nay khi Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản, nợ chính quyền địa phương nặng nề, giảm phát, thị trường chứng khoán lao dốc và xung đột công nghệ với Mỹ - tất cả đều gây ra sự thất vọng của công chúng và mất niềm tin của nhà đầu tư.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chủ trì sự kiện này mong muốn thể hiện niềm tin vào nền kinh tế, đưa ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng khoảng 5% vào năm 2024, nhưng không công bố bất kỳ biện pháp kích thích lớn nào nhằm tăng mức tiêu thụ đang sụt giảm.

1710214445784.png


Điều đó dường như làm thất vọng các nhà đầu tư đang theo dõi chặt chẽ cuộc họp – với chỉ số Hang Seng của Hồng Kông giảm 2,6% vào thứ Ba sau khi các mục tiêu được công bố. Chỉ số này đã giảm khoảng 1% trong tuần này và mất gần 20% trong 12 tháng qua.

Li thừa nhận trong nhận xét của mình rằng việc đạt được mục tiêu đó “sẽ không dễ dàng”, vì năm 2022 bị ảnh hưởng bởi Covid đã mang lại nền tảng tăng trưởng thấp hơn trong năm ngoái, nhưng ông cũng tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ ưu tiên nâng cấp công nghiệp trong khi tập trung vào công nghệ. sự đổi mới.

Chưa có ngoại trưởng mới

Cuộc họp thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc đã làm thất vọng một số nhà quan sát vốn đang hy vọng sẽ thấy một số cuộc bổ nhiệm nhân sự chủ chốt được thực hiện tại cuộc họp năm nay – một động thái sẽ lấp đầy các vai trò cấp cao trong Hội đồng Nhà nước bị bỏ trống trong nhiều tháng sau khi có sự thay đổi đột ngột trong hàng ngũ của Tập Cận Bình. các bộ trưởng được tuyển chọn kỹ lưỡng.

Bộ trưởng Ngoại giao Qin Gang đột ngột bị cách chức mà không có lời giải thích vào tháng 7, sau đó là việc Bộ trưởng Quốc phòng Li Shangfu bị cách chức vài tháng sau đó cũng không có lời giải thích. Cả hai người đàn ông lần đầu tiên đã biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng và đã được thay thế.

Một số nhà quan sát kỳ vọng rằng Bắc Kinh có thể bổ nhiệm một Bộ trưởng Ngoại giao mới tại kỳ họp năm nay. Vai trò mà nhiều người mong đợi chỉ là năng lực tạm thời đã được đảm nhận bởi nhà ngoại giao cấp cao và cựu Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị kể từ khi Tần bị cách chức.

Hai chức vụ cấp cao trong nội các Trung Quốc trước đây do Lý và Tần nắm giữ vẫn còn bỏ trống. Nhưng Bắc Kinh đã từ chối bổ nhiệm những vị trí đó tại sự kiện năm nay.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Tại sao Úc tránh xa căng thẳng ở Biển Đông, ngay cả khi nước này xích lại gần hơn với Philippines

1710214628037.png


Khi Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. phát biểu trước Quốc hội Úc vào tuần trước, không thể nhầm lẫn được cuộc nói chuyện về chiến đấu.

Ông nói Philippines đang ở “tiền tuyến” trong cuộc chiến vì hòa bình khu vực, chống lại “các hành động phá hoại hòa bình khu vực, làm xói mòn sự ổn định khu vực và đe dọa thành công của khu vực”.

Ông so sánh tình hình với năm 1942, nói rằng đất nước của ông sẽ “kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của chúng tôi” và sẽ “không cho phép bất kỳ thế lực nước ngoài nào cố gắng chiếm lấy dù chỉ một inch vuông lãnh thổ chủ quyền của chúng tôi”.

Không có nghi ngờ gì về mục tiêu dự định trong lời nói của ông, ngay cả khi ông không đề cập đến tên nó: tất cả đều là về Trung Quốc.

1710214756166.png


Các hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông, nơi nước này có nhiều tranh chấp lãnh thổ với Manila, ngày càng trở nên hung hăng kể từ khi Marcos đắc cử tổng thống cách đây chưa đầy hai năm và tiếp quản người tiền nhiệm thân thiện với Trung Quốc hơn là Rodrigo Duterte.

Kể từ đó, theo Manila, lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc thường xuyên quấy rối các tàu cá Philippines ở vùng biển màu mỡ gần bãi cạn Scarborough – gần đây nhất là vào ngày 22/2 – và bắn vòi rồng vào các tàu Philippines tiếp tế cho một tiền đồn quân sự ở Bãi cạn Second Thomas.

Giữa những động thái ngày càng hung hãn này, Marcos không hề giấu diếm mục đích của mình là củng cố các đồng minh chống lại Trung Quốc, và vì lý do chính đáng; đây là một cuộc thi theo phong cách David-và-Goliath. Hải quân của Manila không có người lái, thiếu ngân sách và trang bị tối thiểu, trong khi hải quân của Trung Quốc là lực lượng lớn nhất thế giới - ngay cả khi không tính lực lượng dân quân “người da xanh nhỏ bé” mà nhiều quốc gia cáo buộc Trung Quốc sử dụng để thúc đẩy các yêu sách lãnh thổ của mình.

1710214775522.png

Ảnh vệ tinh chụp hàng rào nổi ở lối vào bãi cạn Scarborough ngày 22/2/2024. Philippines cáo buộc lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc dựng rào chắn ở cửa ngư trường tranh chấp

May mắn thay cho Marcos, tham vọng bành trướng của Trung Quốc – nước này khẳng định gần như toàn bộ 1,3 triệu dặm vuông biển giàu tài nguyên là lãnh thổ có chủ quyền của mình, bất chấp phán quyết ngược lại năm 2016 của tòa án quốc tế ở La Haye – có nghĩa là ông ta có rất nhiều của những đôi tai có khả năng đồng cảm.

Đứng đầu trong số đó là Hoa Kỳ, quốc gia, kể từ khi Marcos lên nắm quyền, đã liên tục củng cố mối quan hệ vốn đã bị ảnh hưởng dưới thời Duterte bằng các thỏa thuận mở rộng khả năng tiếp cận các căn cứ quân sự của Philippines .

Bài phát biểu nảy lửa của Marcos trước các nhà lập pháp Australia cho thấy ông cũng coi Canberra là một đồng minh tiềm năng trong tranh chấp Biển Đông và ông được nhiều người kỳ vọng sẽ thúc đẩy vấn đề này tại hội nghị thượng đỉnh đặc biệt giữa Australia và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 11 tới. Cuộc họp đó cũng sẽ có sự tham dự của một số quốc gia khác có bất đồng lãnh thổ với Trung Quốc – bao gồm Việt Nam, Brunei và Malaysia.

Nhưng hầu hết các chuyên gia cho rằng Canberra có thể sẽ cảnh giác khi can thiệp vào vấn đề này đối với Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của Australia - do mối quan hệ của nước này với Bắc Kinh vẫn đang phục hồi sau các hạn chế thương mại mà Trung Quốc áp đặt đối với hàng xuất khẩu của Australia vào năm 2020 sau khi Trung Quốc áp đặt các hạn chế thương mại lên hàng xuất khẩu của Australia. Thủ tướng khi đó là Scott Morrison đã kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của Covid-19.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Collin Koh, nhà nghiên cứu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho biết Australia khó có thể ủng hộ bất kỳ ngôn ngữ cứng rắn nào tại hội nghị thượng đỉnh liên quan đến Biển Đông hoặc bất kỳ vấn đề nóng bỏng nào khác.

Ông nói rằng mặc dù Úc muốn sử dụng sự kiện này để khẳng định mình là đối tác khu vực đáng tin cậy về hợp tác chính trị, an ninh và kinh tế, nhưng nước này sẽ không muốn bị buộc phải tham gia vào cuộc cạnh tranh nhị phân giữa Trung Quốc và Mỹ.

Tại cuộc họp ASEAN hôm thứ Hai, Ngoại trưởng Úc Penny Wong tuyên bố Canberra sẽ đầu tư 41,7 triệu USD (64 triệu đô la Úc) vào các chương trình với các đối tác ASEAN trong 4 năm tới.

Một tuyên bố từ văn phòng của ông Wong cho biết số tiền này sẽ được sử dụng để “mở rộng hợp tác hàng hải của Australia với các đối tác trong khu vực và đóng góp cho an ninh và thịnh vượng của khu vực”.

Đối tác, ở một mức độ nào đó

Trong khi đó, chuyến thăm Australia của Marcos đã đạt được một số thành công đáng chú ý. Hai nước đã ký ba bản ghi nhớ, bao gồm thỏa thuận tăng cường hợp tác về an ninh hàng hải bằng cách “thúc đẩy sự tôn trọng luật pháp quốc tế” và các thỏa thuận khác về mạng, công nghệ quan trọng và luật cạnh tranh.

1710214989271.png


Thủ tướng Úc Anthony Albanese cho biết: “Sự hợp tác của chúng tôi là sự khẳng định lợi ích quốc gia và sự công nhận trách nhiệm khu vực của chúng tôi”.

Những thỏa thuận đó được xây dựng dựa trên mối quan hệ vốn đã nở rộ, với việc Manila và Canberra đã nâng tầm quan hệ song phương từ quan hệ đối tác toàn diện lên quan hệ đối tác chiến lược khi Albanese đến thăm Manila vào tháng 9 năm ngoái - đây là chuyến thăm đầu tiên của một thủ tướng Úc tới Manila. quốc gia quần đảo trong 20 năm tới.

uy nhiên, các chuyên gia cho rằng quan hệ đối tác đang phát triển được thúc đẩy bởi kinh tế và các thỏa thuận nhằm thúc đẩy trao đổi du lịch và kỹ thuật hơn là liên kết quân sự. Trong khi vào tháng 11, họ đã tiến hành các cuộc tuần tra chung đầu tiên trên biển và trên không – và đã làm như vậy ở Biển Đông – các nhà phân tích chỉ ra rằng Australia vẫn không có cam kết an ninh trực tiếp với Philippines nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển tranh chấp.


Trong khi đó, Hoa Kỳ có một hiệp ước phòng thủ chung với Philippines trong mối quan hệ bắt đầu từ sau Thế chiến thứ hai.

Tại sao Australia lại chần chừ?

Susannah Patton, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại tổ chức này, cho biết mặc dù Australia là một trong những đối tác được đánh giá cao nhất của ASEAN nhưng nước này không muốn bị coi là “quá thiên về phía trước” trong việc hỗ trợ quân đội khu vực trong khi nước này vẫn đang hàn gắn mối quan hệ với Trung Quốc, theo Viện Lowy.

“Úc không phải là một tay chơi nhỏ, nhưng cũng không phải là nước có ảnh hưởng mang tính quyết định,” Patton nói về vai trò của Canberra ở Đông Nam Á, đồng thời nói thêm rằng nước này sẽ thận trọng trước việc bị lôi kéo vào bất kỳ điểm nóng nào về an ninh hàng hải.

Các chuyên gia khác cho rằng mặc dù Úc không lớn tiếng như Mỹ trong việc chỉ trích các hành động gây hấn của Trung Quốc, nhưng Canberra vẫn đang phòng ngừa trước sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Bắc Kinh trong khu vực bằng cách tích cực củng cố các liên minh an ninh khu vực.

Ưu tiên quân sự hàng đầu của Australia vẫn là Bộ tứ, bao gồm cả Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Độ - một nhóm có khẩu hiệu là “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” và bị Bắc Kinh coi là “ khối loại trừ ” làm suy yếu lợi ích của Trung Quốc. .

Theo một hiệp ước khác, AUKUS , Mỹ và Anh đã đồng ý giúp Australia chế tạo và bảo trì các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân vào đầu những năm 2040, trong một liên minh khác khiến Bắc Kinh tức giận. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Wang Wenbin cho biết hiệp ước ba bên sẽ “chỉ làm trầm trọng thêm cuộc chạy đua vũ trang, làm suy yếu chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân quốc tế và làm tổn hại đến hòa bình và ổn định khu vực”.

Một số chuyên gia cho biết, do đây đã là một phần của hai hiệp ước an ninh khiến Bắc Kinh lo ngại, Australia có thể quyết định khôn ngoan là không chọc giận thêm đối tác thương mại của mình bằng cách nghiêng về phía Philippines quá nhiều ở Biển Đông.

Nick Bisley, trưởng khoa và giáo sư tại Đại học La Trobe ở Melbourne, cho biết quan điểm của Úc về chính sách đối ngoại vẫn “quá lo lắng về Trung Quốc” và đó là lý do tại sao Canberra rất đặc biệt trong cách diễn đạt bất kỳ cam kết quân sự nào của mình trong các khu vực tranh chấp.

Như Bisley đã nói, “Chúng tôi không thích những gì Trung Quốc làm, nhưng chúng tôi sẽ không tự đặt mình vào tình thế nguy hiểm”.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Kinh nghiệm lịch sử và những bài học mà Trung Quốc rút ra từ chiến tranh hiện đại

Giới lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc đưa ra quan điểm dựa trên yêu cầu của các cuộc chiến tranh trong tương lai, dựa trên cách giải thích về vị trí lịch sử của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế và cụ thể hơn là kinh nghiệm thời chiến của nước này. Trong những năm gần đây, nhiều nhà phân tích phương Tây đã thảo luận về tác động mà các chiến dịch của Mỹ kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đối với sự hiểu biết của Trung Quốc về chiến tranh hiện đại. Nhiều nghiên cứu trong số này nhấn mạnh đến công nghệ quân sự, cơ cấu lực lượng, khái niệm học thuyết và tổ chức. Ngoài mối quan tâm đến các khái niệm tác chiến liên quân của PLA, các nghiên cứu về quan điểm của PLA về chiến tranh các hệ thống và các khái niệm tác chiến trung tâm được triển khai hạn chế hơn nhiều và chỉ được thực hiện trong những năm gần đây. Mặc dù tạo thành một lĩnh vực nghiên cứu mới quan trọng, nhưng nhóm nghiên cứu này nhìn chung vẫn chưa đưa ra cách xử lý chuyên sâu về một số khía cạnh quan trọng trong kế hoạch chiến tranh của Trung Quốc, bao gồm động viên quốc gia, quản lý ổn định và phòng không dân sự, vì chúng liên quan đến các lĩnh vực truyền thống hơn của các hoạt động quân sự. Nếu không có cuộc thảo luận này về các ưu tiên lãnh đạo chủ chốt của Trung Quốc đối với kế hoạch quốc phòng, sự hiểu biết của chúng ta về cách Trung Quốc nhìn nhận sự cân bằng quân sự sẽ không đầy đủ và dễ bị hình dung mà bỏ qua tác động mà kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc đã gây ra đối với cách giải thích của nước này về hiện đại hóa quân đội Mỹ, cuộc cách mạng trong các vấn đề quân sự và các mệnh lệnh để chiến đấu trong các cuộc chiến tranh trong tương lai.

1710233926232.png

Quân đội TQ trong chiến tranh thế giới 2

Nghiên cứu này xem xét những kinh nghiệm lịch sử và bài học gần đây của Trung Quốc rút ra từ việc quan sát các hoạt động quân sự nước ngoài đã định hình quan điểm của nước này về cán cân quân sự như thế nào. Chúng tôi khám phá kinh nghiệm chiến tranh lịch sử của Trung Quốc và các lĩnh vực chung mà họ khác với Mỹ. Những kinh nghiệm này đóng vai trò là bộ lọc qua đó các nhà lãnh đạo và nhà nghiên cứu chính trị và quân sự Trung Quốc bối cảnh hóa những quan sát của họ và rút ra bài học rút ra từ các chiến dịch của Mỹ kể từ Chiến dịch Bão táp Sa mạc. Tài liệu này không toàn diện; chúng tôi không xem xét đầy đủ các kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc. Tương tự như vậy, chúng tôi không đề cập đến tác động của tư tưởng chiến lược có lịch sử lâu đời của Trung Quốc. Nhưng chúng tôi xem xét những sự kiện và kinh nghiệm lịch sử hiện đại tiếp tục định hình tư duy của người Trung Quốc về chiến tranh và sự chuẩn bị cần thiết để thành công.

Cùng với những kinh nghiệm trực tiếp lâu dài này, chương này cũng mô tả những bài học kinh nghiệm và quan sát của PLA từ các hoạt động quân sự nước ngoài kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Những bài học này là một phần quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa của PLA vì chúng giúp xác định các xu hướng hiện tại và tương lai trong chiến tranh, các khái niệm tác chiến của đối thủ đang nổi lên và sự phát triển công nghệ. Hơn nữa, những bài học này có ảnh hưởng đáng kể đến việc định hình nhận thức của thể chế về các loại mối đe dọa mà Trung Quốc và PLA sẽ phải đối đầu nếu họ gây chiến với một quân đội hiện đại, đáng chú ý nhất là quân đội Mỹ. Theo đó, những kinh nghiệm lịch sử được nêu trong phần đầu tiên của chương này có thể được coi là nền tảng cho nhiều bài học kinh nghiệm mà PLA đã phát triển và áp dụng trong ba thập kỷ qua.

1710233986756.png

Quân đội TQ trong chiến tranh Triều Tiên

Chúng tôi lập luận rằng để hiểu quan điểm của CHND Trung Hoa về cán cân quân sự - hoặc của bất kỳ quốc gia nào, về vấn đề đó - cần phải xem xét các nhận thức cơ bản—cả về mặt thể chế và, khi có thể, cá nhân - đã định hình tư duy lãnh đạo của nước này, không chỉ về việc các cuộc chiến tranh diễn ra như thế nào mà còn dựa trên các mục tiêu bao trùm của đối thủ và những rủi ro liên quan đến việc chiến đấu với đối thủ cụ thể đó. Cuối cùng, các chiến lược gia của Trung Quốc chỉ ra rằng các cuộc chiến tranh hiện đại là những cuộc tranh giành giữa các hệ thống đối lập với mục tiêu bao trùm là tiêu diệt hoặc làm giảm đáng kể tiềm năng chiến tranh của kẻ thù. Các hệ thống này tồn tại trong một môi trường đòi hỏi chúng phải hoạt động theo những nguyên tắc chung quy định các chức năng cần thiết để tồn tại và thành công. Nhận thức - bao gồm các giả định, kinh nghiệm và quan sát - đóng một vai trò lớn trong việc xác định cách thức cân bằng quân sự được định hình về mặt khái niệm và những yếu tố mang tính nhận định nào là trọng tâm để đánh giá nó.

Tương tự, nhận thức cũng định hình tư duy lãnh đạo về răn đe và về khả năng tồn tại của vị thế răn đe của Trung Quốc đối với không chỉ Mỹ mà còn với những nước khác có thể thách thức các yêu sách chủ quyền hoặc lãnh thổ của Trung Quốc. Ở nhiều khía cạnh, suy nghĩ của Trung Quốc về răn đe được hình thành chủ yếu bởi niềm tin của giới lãnh đạo nước này rằng PLA có thể thách thức thành công một đối thủ cụ thể. Chắc chắn, khả năng quân sự chỉ là một yếu tố trong tư thế răn đe của Trung Quốc, nhưng khi có nguy cơ xảy ra xung đột với một cường quốc khác thì đó là một yếu tố quan trọng. Kết quả là, những nhận thức tương tự định hình quan điểm của Trung Quốc về các cuộc chiến trong tương lai và nhu cầu hiện đại hóa cũng sẽ góp phần nâng cao quan điểm của lãnh đạo Trung Quốc về tính hiệu quả và đầy đủ của tư thế răn đe của nước này.

Kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc

Suy nghĩ của Trung Quốc về chiến tranh hiện đại đã được định hình bởi kinh nghiệm lịch sử của nước này. Những mối liên hệ này được thảo luận thường xuyên trong giáo dục quân sự chuyên nghiệp và tài liệu khoa học quân sự của PLA. Quan trọng nhất, phân tích của Trung Quốc về các hoạt động quân sự của Mỹ cũng bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm này. Ở nhiều khía cạnh, kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc trong thế kỷ 20 và 21 khác rất nhiều so với Mỹ trong một số lĩnh vực then chốt. Những khác biệt này rất cần thiết để hiểu cách Trung Quốc nghĩ về hệ thống của các hệ thống chiến lược và chiến dịch của mình ở nhiều cấp độ cũng như những gì các nhà lãnh đạo nước này coi là mối đe dọa an ninh có thể xảy ra nhất mà nước này sẽ phải đối mặt. Cụ thể hơn, những kinh nghiệm và ký ức quốc gia này định hình cách Trung Quốc nghĩ về sự ổn định nội bộ, các mối đe dọa ở biên giới, quan hệ quân sự - dân sự và động viên tiềm năng chiến tranh, cùng với một loạt các mối quan tâm khác. Những lo ngại này giúp xác định các hệ thống thời chiến mà các chiến lược gia Trung Quốc đã đề cập trong một thời gian dài, kể từ năm 2005.

1710234050904.png

Chiến tranh Kosovo

Như các nhà nghiên cứu quân sự Trung Quốc đã vạch ra, các hệ thống riêng lẻ có một hoặc nhiều mục đích cụ thể trong hệ thống an ninh quốc gia tổng thể hoặc hệ thống thời chiến. Mỗi bộ phận thực hiện một loạt chức năng và bao gồm các thành phần tổ chức có nhiệm vụ đáp ứng nhiều yêu cầu cụ thể. Đánh giá của Trung Quốc về các chiến dịch quân sự của Mỹ trong ba thập kỷ qua một phần được diễn giải dựa trên những kinh nghiệm này và kết luận rút ra từ những đánh giá này đã đóng một vai trò to lớn trong việc định hình một cấu trúc khái niệm rộng hơn. Trong một số trường hợp, những bài học này đã giải quyết được câu hỏi về lý thuyết hệ thống khi áp dụng vào chiến tranh, đặc biệt khi các học giả PLA xem xét các lý thuyết được phát triển bởi các đối tác phương Tây của họ. Ở những nơi khác, những bài học này chứng tỏ tầm quan trọng trong hoạt động và sự phụ thuộc lẫn nhau của cả cơ cấu quân sự và dân sự trong các chiến dịch quân sự và quản lý chiến lược trong thời chiến. Ví dụ, các bài học rút ra từ các nghiên cứu của PLA cho cả Kosovo (1999) và Iraq (2003) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc động viên quốc phòng và rút ra bài học về tầm quan trọng của phòng không dân sự, dự trữ chiến lược và quản lý tình trạng khẩn cấp quốc gia như một công cụ để ngăn chặn tình trạng bất ổn trong dân chúng và đảm bảo sự đoàn kết dân tộc. Phân tích trong các nghiên cứu này và sau này cũng đặt ra câu hỏi về các mục tiêu chiến lược của Mỹ và lợi dụng mối lo ngại lâu nay của Bắc Kinh rằng mục đích cuối cùng của phương Tây là ép buộc Trung Quốc về mặt quân sự, kiềm chế sự trỗi dậy của nước này, đe dọa sự thống nhất quốc gia, phá hủy khả năng tồn tại về kinh tế và công nghiệp của nước này, kích động tình trạng bất ổn, và cuối cùng, làm suy yếu tính hợp pháp và cầm quyền của ĐCSTQ.

1710234169243.png

Chiến tranh Iraq 2003

Phần này sẽ khám phá bảy khía cạnh trong kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc thường xuyên được nhắc đến trong các tài liệu khoa học quân sự của Trung Quốc và định hình suy nghĩ của cả các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự về những chức năng thời chiến sẽ cần thiết trong các cuộc xung đột trong tương lai. Mỗi lĩnh vực chủ đề gắn liền với một nhóm chung các kinh nghiệm lịch sử tiếp tục ảnh hưởng đến cách các nhà chiến lược Trung Quốc nghĩ về các hệ thống chiến lược và chiến dịch thời chiến của Trung Quốc. Không có danh mục hoặc chủ đề nào trong số này được coi là điểm mạnh hoặc điểm yếu. Họ cũng không nên bị coi là không thể thay đổi; tuy nhiên, hầu hết đều thể hiện những quan điểm dài hạn đã ăn sâu vào tư duy thể chế của PLA.

............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Địa lý

Địa lý đã có tác động trong việc định hình tư duy an ninh của Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực: (1) sự gần gũi của các đối thủ tiềm năng, (2) sự phức tạp trong hoạch định chiến lược và ứng phó với các mối đe dọa do diện tích lớn của Trung Quốc, (3) sự khác biệt lớn về địa hình đô thị và tự nhiên, và (4) sự xuất hiện và nổi bật của các lĩnh vực mới trong chiến tranh hiện đại. Ba yếu tố địa lý đầu tiên là những cân nhắc đã có từ lâu mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phải đấu tranh trong nhiều thế kỷ.

1710234465644.png


Theo đó, trong khi các chi tiết của cả việc lập kế hoạch và ứng phó có thể đã phát triển để đáp ứng với môi trường an ninh quốc tế, thì quy mô của Trung Quốc, các mối đe dọa hiện hữu xung quanh vùng ngoại vi và các đặc điểm địa lý đa dạng của nước này lại không như vậy. Tuy nhiên, yếu tố thứ tư là yếu tố trong đó các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc – đặc biệt là Chủ tịch Tập Cận Bình và những người tiền nhiệm gần đây nhất của ông – nhận ra rằng định hướng lấy trên bộ làm trung tâm của PLA đã lỗi thời và phải thay đổi để giải quyết vai trò của các lĩnh vực mới hơn trong bất kỳ cuộc chiến nào trong tương lai chống lại kẻ thù hiện đại. Do đó, vai trò của địa lý trong việc hình thành tư duy của PLA về hoạch định chiến lược và tác chiến có sự kết hợp giữa tính liên tục và sự thay đổi.

Sự gần gũi của các đối thủ tiềm năng

Mỹ đã không tiến hành một cuộc chiến nào trên lãnh thổ của mình kể từ Nội chiến Mỹ, và biên giới phía bắc và phía nam của nước này là không có tranh chấp và là đường biên giới không cần được bảo vệ dài nhất trên thế giới. Một nghiên cứu của Trung Quốc mô tả Mỹ có một “màn hình địa lý” do hai đại dương tạo ra, giúp nước này tránh được “các cuộc tranh cãi của châu Âu” và tập trung vào tăng trưởng kinh tế và công nghiệp của mình. Nhiều lần trong lịch sử Mỹ, “màn hình địa lý” này đã cho phép nước này rút lui về pháo đài chiến lược của lục địa châu Mỹ”. Ngược lại, lịch sử Trung Quốc có những xung đột gần như liên tục, bao gồm tranh chấp lãnh thổ ở biên giới, nội chiến, hoạt động du kích kéo dài, sự chiếm đóng của các cường quốc thực dân và sự chuẩn bị cho xung đột tiềm tàng chống lại cả hai siêu cường trong Chiến tranh Lạnh. Kể từ khi bắt đầu Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc đã phải đối mặt với xung đột trong từng hướng chiến lược hiện tại của mình. Chiến lược quân sự năm 2015 của Trung Quốc thừa nhận rõ ràng những lo ngại này trong cuộc thảo luận về “phản ứng dây chuyền” có thể xảy ra tại các điểm nóng lãnh thổ xung quanh biên giới của nước này và nêu ra yêu cầu phải luôn sẵn sàng để đảm bảo rằng Trung Quốc có thể quản lý khủng hoảng theo từng hướng chiến lược.

1710234569815.png

Xung đột biên giới Liên Xô - TQ những năm 60

Tương tự, Trung Quốc đã coi cả hai siêu cường này là mối đe dọa chính vào những thời điểm khác nhau trong quá khứ gần đây, đòi hỏi những phản ứng và thay đổi khác nhau trong quan điểm chiến lược của Trung Quốc. Mối đe dọa từ Mỹ vẫn tồn tại từ những năm 1950 cho đến những năm 1960, làm nổi bật tính dễ bị tổn thương của các tỉnh miền Đông đông dân cư của Trung Quốc. Nỗi lo sợ về khả năng triển khai sức mạnh từ biển của Mỹ đã buộc Trung Quốc phải chuyển dịch các ngành công nghiệp quốc phòng và cơ sở hạ tầng quan trọng ra khỏi bờ biển và vào các khu vực nội địa có khả năng phòng thủ cao hơn. Khi nhận thức về mối đe dọa của Trung Quốc chuyển từ Mỹ sang Liên Xô, một sự thay đổi lớn trong cơ cấu và căn cứ lực lượng PLA đã diễn ra từ phía đông nam của đất nước đến biên giới phía bắc với Liên Xô.

Trong tất cả các trường hợp này – sự cạnh tranh và tranh chấp trong khu vực hoặc các mối đe dọa từ hai siêu cường – các nhà lãnh đạo Trung Quốc buộc phải xem xét thực tế xung đột trên lãnh thổ Trung Quốc và các yêu cầu động viên nguồn lực và nhân lực cho khả năng xảy ra xung đột như vậy. Theo đó, kinh nghiệm của ĐCSTQ với trường kỳ kháng chiến và Chiến tranh Nhân dân (một chiến lược quân sự của chủ nghĩa Mao Trạch Đông trong đó lực lượng địch bị dụ vào sâu trong nội địa, nơi đường tiếp tế của chúng bị gián đoạn và chúng bị dân chúng tấn công) trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng và sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. như những ảnh hưởng hình thành lên tư duy quân sự của Trung Quốc, cả về mặt ngôn từ lẫn cách áp dụng.

1710234688921.png

Nội chiến TQ những năm 50

Từ quan điểm kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc và sự gần gũi về mặt địa lý với các đối thủ của mình, Trung Quốc phải đối mặt với khả năng rất thực tế là xảy ra chiến tranh trên hoặc gần lãnh thổ của mình trong tương lai gần. Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lo ngại rằng trong một cuộc xung đột trong tương lai, khả năng triển khai sức mạnh và tấn công chính xác tầm xa của Mỹ sẽ đe dọa các ngành công nghiệp, khả năng lãnh đạo và sinh kế kinh tế của Trung Quốc và đòi hỏi phải có nhiều sự chuẩn bị khác nhau để đảm bảo bảo vệ và duy trì hoạt động của cơ sở hạ tầng và các thể chế quan trọng.

Kích thước của Trung Quốc

Do sự gần gũi của Trung Quốc với các đối thủ chính của mình, phạm vi địa lý rộng lớn của nước này đã mang lại cả những lợi thế và bất lợi về mặt chiến lược và chiến dịch. Đôi khi, chiều sâu chiến lược của Trung Quốc đã cung cấp một mức độ an toàn nhất định cho các nhà lãnh đạo và các nguồn lực chủ chốt của nước này. Vào những năm 1930, cuộc Vạn lý trường chinh của C..S Trung Quốc vào Diên An, tỉnh Thiểm Tây đã khiến họ không còn liên lạc chặt chẽ với Quốc dân đảng (KMT) và cung cấp cho các lực lượng C..S thời gian và không gian cần thiết để động viên nguồn lực và tiến hành các hoạt động du kích cho đến khi các nhà lãnh đạo ĐCSTQ tái lập sức mạnh lực lượng của họ. Khi Đ..C..S chuyển sang các hoạt động du kích chống lại Nhật Bản, các tuyến tiếp tế của Nhật Bản bị kéo căng ra do nỗ lực duy trì quyền kiểm soát các trung tâm đô thị quan trọng và chống lại cả PLA và Quốc Dân Đảng.

1710234783273.png

Nội chiến TQ những năm 50

Các kế hoạch chiến tranh chống lại Liên Xô sau đó cũng dựa vào chiều sâu chiến lược của Trung Quốc để đánh đổi thời gian lấy không gian nhằm cho phép số lượng lớn hơn lực lượng PLA tiêu hao và đẩy lùi một cuộc tấn công của Liên Xô vào Trung Quốc. Ngày nay, mặc dù phần lớn sức mạnh kinh tế và dân số của Trung Quốc cư trú tương đối gần bờ biển Trung Quốc, nhưng sự mở rộng của hệ thống phòng thủ và phát triển công nghiệp cũng như vị trí của các ngành công nghiệp và tài sản quan trọng ở các khu vực khác của Trung Quốc sẽ gây ra cho bất kỳ đối thủ tiềm tàng nào với một thách thức phức tạp, tốn nhiều tài nguyên nếu nó cố gắng làm suy giảm tiềm năng kinh tế và công nghiệp của Trung Quốc.

Những lợi thế trong việc bảo vệ chiến lược nhờ quy mô của Trung Quốc cũng gây ra những thách thức khi đối phó với các mối đe dọa, đặc biệt trong thời đại được đặc trưng bởi sự phát triển của khả năng tấn công chính xác tầm xa. Như đã thảo luận ở phần trước, các nhà hoạch định PLA lo ngại về khả năng một đối thủ tiên tiến – rất có thể là Mỹ – có thể đồng thời tiến hành các cuộc tấn công nhằm vào lãnh thổ Trung Quốc từ bất kỳ hướng nào. Các cuộc tấn công phi đối xứng, phi tiếp xúc và phi tuyến tính – đôi khi được các tác giả PLA gọi là “Ba ‘Không’” – cho phép các đối thủ của Trung Quốc như Mỹ “tiến hành các cuộc tấn công đồng bộ nhằm vào các mục tiêu ở mọi chiều sâu, khiến . . . không có chỗ hoặc thời gian để điều chỉnh và thích ứng” và kết hợp “các cuộc tấn công vật chất và gây ‘sốc và sợ hãi’ về mặt tâm lý theo những cách được thiết kế để kiểm soát và làm tê liệt một hệ thống đối lập và dân chúng của nó. Đồng thời, những lo ngại của Trung Quốc về “phản ứng dây chuyền”, được tiến hành cách cơ hội trong một cuộc xung đột giữa các cường quốc hoặc phối hợp với Mỹ, đòi hỏi một cơ cấu chỉ huy và bố trí lực lượng có khả năng đáp ứng theo mọi hướng chiến lược – một thực tế đã được vạch ra rõ ràng trong Chiến lược quân sự của Trung Quốc năm 2015 và sau đó là trong cuộc cải cách của PLA được công bố vào cuối năm đó.

1710234915494.png

Hải quân TQ trước khi hiện đại hóa

Khi kết hợp với sự phát triển của các lực lượng trên biển và hải quân trong những thập kỷ gần đây, sự gần gũi của các mối đe dọa và khoảng cách địa lý rộng lớn của Trung Quốc đã thúc đẩy PLA phát triển khả năng thực hiện các nhiệm vụ cơ động tầm xa có thể đưa các lực lượng cần thiết từ khắp các vùng của Trung Quốc đến nơi xảy ra một cuộc khủng hoảng. Nỗ lực này, bắt đầu bằng thử nghiệm vào năm 2009, đã trở thành trọng tâm chính trong giai đoạn từ 2011 đến 2013 khi các cuộc tập trận lớn tập trung vào khả năng cơ động tầm xa và chiến đấu trong môi trường xa lạ. Các cuộc tập trận này tập trung vào tất cả các quân chủng và được các lãnh đạo PLA ưu tiên cao. Việc tạo ra các bộ tư lệnh chiến khu cũng phản ánh thực tế về vị trí địa lý của Trung Quốc. Các bộ tư lệnh này—mỗi bộ tư lệnh có một khu vực địa lý chịu trách nhiệm tương ứng với một định hướng chiến lược riêng - chịu trách nhiệm lập kế hoạch và tác chiến trong các khu vực riêng của mình và được trao quyền kiểm soát hoạt động đối với các đơn vị của các quân chúng đóng quân trong địa bàn.

Cuối cùng, vùng ngoại vi dài của Trung Quốc được bao quanh bởi các căn cứ và đồng minh của Mỹ. Cách bố trí này đã “hình thành nên một vị thế sức mạnh nhằm phong tỏa không hoàn toàn Trung Quốc dọc theo Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Tây Nam Á, Trung Á và phía bắc”. Từ góc độ của PLA, tư thế này không chỉ là chìa khóa để cung cấp cho Mỹ căn cứ và khoảng cách cần thiết để can thiệp vào thời điểm nước này lựa chọn, mà còn nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc. Tương tự như vậy, các khu vực biên giới rộng lớn và ngoại vi dài của Trung Quốc “đã trở thành những khu vực chính cho các thế lực thù địch tiến hành các hoạt động lật đổ, xâm nhập và phá hoại”, bao gồm các nhóm tội phạm xuyên quốc gia và “các thế lực thù địch nước ngoài khác nhau trong và ngoài biên giới” đang tìm cách tăng cường nỗ lực của họ nhằm “Tây hóa” và “chia cắt” Trung Quốc. Sự đa dạng của các mối đe dọa mà các nhà hoạch định PLA xung quanh vùng ngoại vi của Trung Quốc phải đối mặt đòi hỏi sự sẵn sàng liên tục, một cơ cấu chỉ huy phù hợp với nhiều hành động thù địch khác nhau trên nhiều chiến trường và các cơ chế phản ứng ở các cấp độ khác nhau, từ xung đột thông thường cấp cao đến chống các lực lượng tác chiến đặc biệt và thực thi pháp luật.


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Sự thay đổi về địa hình đô thị và tự nhiên

Địa hình tự nhiên và đô thị đa dạng của Trung Quốc tạo thành một yếu tố quan trọng khác của địa lý Trung Quốc đã định hình quan điểm của PLA về chiến tranh trong tương lai trong những năm gần đây. Khi PLA chuyển trọng tâm ra khỏi Liên Xô và hướng tới vùng biển phía đông nam vào năm 1993, họ đã bắt đầu một giai đoạn phát triển khái niệm nhằm xem xét các mô hình xung đột khác nhau mà PLA sẽ phải giải quyết trong những năm tới, chủ yếu tập trung vào các hoạt động chống lại các mối đe dọa xung đột. Mỹ và Đài Loan.

1710235210538.png


Năm 1993, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã chỉ đạo các tổ chức khoa học quân sự và học thuật của PLA nghiên cứu các cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện công nghệ cao, và một loạt nghiên cứu đã được thực hiện. Những nghiên cứu này xem xét việc áp dụng Chiến tranh Nhân dân trong điều kiện công nghệ cao, và Đại học Quốc phòng của PLA đã xuất bản “Chuỗi bốn cuộc chiến”—một loạt nghiên cứu xuất bản năm 1995 vạch ra các loại hoạt động cốt lõi mà PLA sẽ phải tự chuẩn bị để đối phó để đáp ứng yêu cầu của Định hướng Chiến lược quân sự thời đại mới. Bốn loại hình chiến tranh được thảo luận trong loạt bài này bao gồm các chiến dịch đổ bộ, đồi núi, đô thị và đường không.

Các nghiên cứu tiếp theo được AMS xuất bản năm 2001 trong “Loạt nghiên cứu về các chiến dịch chiến đấu trên đảo” nêu bật các chủ đề tương tự và được viết “để cung cấp tài liệu tham khảo học thuyết có giá trị thực tiễn cho các chỉ huy chiến dịch và đội ngũ sĩ quan tham mưu của họ tại chiến trường và các cấp khác nhau của tất cả các quân chủng. ”

Nghiên cứu của PLA về các hoạt động trong những môi trường này vẫn tiếp tục trong những năm gần đây, với sự tập trung ngày càng tăng vào các hoạt động đô thị và trên không. Trong khi các ấn phẩm cụ thể này thường hướng tới các tình huống bất ngờ ở Đài Loan, việc huấn luyện, phát triển khái niệm và triển khai tình huống dự phòng của PLA đã tập trung vào nhiều kịch bản tiềm ẩn khác nhau, bao gồm bán đảo Triều Tiên, biên giới Ấn Độ và Biển Đông. Phạm vi môi trường tác chiến tiềm năng này đã được đưa vào hoạt động huấn luyện của PLA trong thập kỷ qua, với các ví dụ đáng chú ý về huấn luyện lực lượng không quân và cơ động của PLA để chiếm các đảo nhỏ và huấn luyện Hải quân đánh bộ của Hải quân Trung Quốc (PLAN) để hoạt động trong thời tiết lạnh, khí hậu miền núi. Tất cả các ví dụ này đều chỉ ra sự hiểu biết chung trong PLA rằng các xung đột trong tương lai có thể liên quan đến một loạt các hoạt động tiềm năng trong môi trường và địa hình phức tạp như một phần của kế hoạch chiến tranh lớn hơn chống lại kẻ thù có phạm vi toàn cầu và khả năng hoạt động trong nhiều môi trường.

1710235253037.png

Quân đội TQ

Một trong những bước phát triển quan trọng nhất trong chiến lược của PLA đã được vạch ra trong Chiến lược quân sự của Trung Quốc năm 2015. Chiến lược này chỉ đạo thực hiện “phương châm chiến lược quân sự về phòng thủ chủ động trong tình hình mới, các lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ điều chỉnh điểm cơ bản cho PMS [chuẩn bị cho đấu tranh quân sự]” và PLA phải tập trung vào “chiến thắng trong các cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hóa” với sự chú trọng đặc biệt vào việc “làm nổi bật cuộc đấu tranh quân sự trên biển và PMS trên biển”. Động lực chính đằng sau sự chú trọng mới này là nhận thức rằng, trong những năm gần đây, những thách thức đối với các yêu sách trên biển của Trung Quốc đã trở nên nổi bật và hung hãn hơn, và Mỹ cùng các đồng minh đã cố gắng hạn chế việc Trung Quốc sử dụng các nguồn tài nguyên trên biển. Yếu tố then chốt của chiến lược này dựa trên nhận thức rằng Mỹ và các đồng minh của nước này đang làm trầm trọng thêm các tranh chấp trên biển theo những cách làm giảm đi các quyền và đặc quyền của Trung Quốc trong khi vẫn bảo vệ các đặc quyền của họ. Từ quan điểm của Trung Quốc, tầm quan trọng ngày càng tăng của môi trường biển của Trung Quốc là rất quan trọng để cho phép Trung Quốc tận hưởng “những lợi ích của vùng biển mở, đáy biển quốc tế và các vùng cực, chủ yếu bao gồm các dự án như sử dụng tài nguyên biển, quá cảnh và hàng không, vùng biển khơi, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học, xây dựng đảo nhân tạo và lắp đặt cáp viễn thông dưới đáy biển”.

1710235276323.png

Quân đội TQ

Những môi trường mới

Suy nghĩ của Trung Quốc về thực tế địa lý của mình cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong ba thập kỷ qua để giải quyết một loạt các lĩnh vực mới bên ngoài khu vực địa lý tự nhiên của Trung Quốc. Sự phát triển của chiến tranh thông tin hóa và phi tiếp xúc đã mở rộng tư duy của PLA về các loại hình chiến dịch và chuyên môn cần thiết cho các cuộc chiến chống lại kẻ thù hiện đại. Khi công nghệ ngày càng phát triển, các yêu cầu đảm bảo rằng PLA luôn sẵn sàng chiến đấu và kiểm soát không gian chiến đấu đa môi trường cũng đặt ra những yêu cầu tương tự. Những yêu cầu này đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực chiến tranh hệ thống, với các yêu cầu tác chiến nhằm phối hợp, tích hợp và hỗ trợ toàn diện hơn cho tất cả các lực lượng PLA tham gia vào một chiến dịch. Khái niệm “Đối đầu trên mọi lĩnh vực” đã buộc PLA phải thay đổi quan điểm chiến đấu truyền thống của mình và nhận ra rằng “trong các chiến dịch liên hợp trên chiến trường trong tương lai, thời gian và không gian của các chiến dịch sẽ được mở rộng đáng kể”, nghĩa là các chiến dịch sẽ được tiến hành “ở mọi thời điểm và trên tất cả các môi trường bao gồm mặt trên bộ, trên biển, trên không, trong vũ trụ, trong phổ điện từ [EM] và mạng”.

1710235339585.png

Quân đội TQ

Có thể thấy những thay đổi trong quan điểm tác chiến truyền thống của PLA trong tổ chức mới của PLA, nó tập trung vào tính liên kết và các chương trình hiện đại hóa của nó. Theo truyền thống, vai trò lãnh đạo và tầm nhìn chiến lược của PLA do các sĩ quan lục quân chi phối. PLAN phần lớn là một lực lượng ven biển với năng lực hạn chế và trang bị lạc hậu, trong khi Lực lượng Không quân Trung Quốc (PLAAF) vẫn lạc hậu và bị nghi ngờ về mặt chính trị. Như các ví dụ đã thảo luận trước đây về phân tích của PLA trước Chiến tranh vùng Vịnh đã chứng minh, sức mạnh trên không và trên biển không phải là những yếu tố quan trọng trong đánh giá của PLA về khả năng của Mỹ, cũng như không phải là trọng tâm trong suy nghĩ của PLA về hiện đại hóa chính họ. Chiến dịch Bão táp sa mạc ở Iraq và Lực lượng đồng minh ở Nam Tư cũ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hai môi trường này như những yếu tố cốt lõi của chiến tranh phi tiếp xúc - một khái niệm tác chiếnchú trọng vào các cuộc tấn công chính xác từ xa và không tập trung vào “chiến tranh tiếp xúc” giữa các lực lượng mặt đất đối lập. Tương tự, bản chất đa môi trường của các chiến dịch của Mỹ trong suốt những năm 1990 đã đóng vai trò là nền tảng cho chiến tranh hệ thống và các khái niệm sau này của Mỹ, chẳng hạn như “Chiến dịch Quyết định nhanh chóng”, “Tác chiến lấy mạng làm trung tâm” và “Làm Tê liệt chiến lược”. Những khái niệm này đóng một vai trò quan trọng trong việc PLA phát triển các hệ thống khái niệm tác chiến (CONOP) định hướng chiến tranh của riêng mình.

1710235377969.png

Quân đội TQ

Những nỗ lực của PLA nhằm tăng cường sự liên kết trong hàng ngũ của mình đã phát triển một phần nhờ sự thừa nhận của các lãnh đạo cấp cao rằng hệ thống cấp bậc truyền thống ưu tiên lực lượng trên bộ của PLA không còn phù hợp và cần được mở rộng. Các chiến dịch trên không và trên biển, cùng với các chiến dịch trong môi trường mạng, vũ trụ và thông tin, đã trở thành những yếu tố thiết yếu của chiến tranh và năng lực trong tương lai mà Mỹ đã sử dụng thành công trong nhiều chiến dịch. Những khái niệm như chiến tranh thông tin hóa, “Tam chiến” và phát triển năng lực vũ trụ, chống vũ trụ và mạng đều thể hiện quyết tâm của PLA trong việc mở rộng trọng tâm của mình trên toàn bộ các lĩnh vực đặc trưng của chiến tranh hiện đại. Lời kêu gọi của PLA về các lực lượng sẵn sàng cho các chiến dịch đa môi trường trong chiến lược quân sự năm 2015 và việc thành lập Lực lượng Chi viện Chiến lược (SSF) sau đó trong quá trình cải cách năm 2016 thể hiện ưu tiên thể chế được giao để đảm bảo sự sẵn sàng trên mọi môi trường của PLA.


............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Các nguồn lực

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thừa nhận rằng Trung Quốc vẫn là một quốc gia đang phát triển, bất chấp những tiến bộ đáng kể về kinh tế và công nghệ trong những thập kỷ gần đây. Các kế hoạch phát triển của Trung Quốc thường kéo dài đến giữa thế kỷ, và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều thừa nhận rằng việc động viên các nguồn lực từ khắp xã hội Trung Quốc trong thời chiến sẽ là một yêu cầu cốt lõi.

1710298159332.png

Sản xuất QP của TQ

Quan điểm này mở rộng trở lại khái niệm Chiến tranh Nhân dân và sự thừa nhận rằng, với nguồn lực tài nguyên hạn chế của Trung Quốc, nước này phải dựa nhiều vào dân số của mình để tăng cường và hỗ trợ các nhu cầu thời chiến. Chiến tranh Kosovo đã củng cố cho các nhà nghiên cứu PLA rằng việc động viên dưới mọi hình thức – giáo dục quốc phòng, phòng không dân sự, dự trữ chiến lược và chuẩn bị từ thời bình – sẽ rất quan trọng trong một cuộc chiến trong tương lai với Mỹ được thiết kế để “Tây hóa”, “chia rẽ”, và “làm suy yếu” Trung Quốc bằng cách sử dụng “Ba lợi thế” (thông tin, hỏa lực và phản ứng nhanh). Những kinh nghiệm này và nhiều nghiên cứu hơn về tầm quan trọng của việc chuẩn bị và động viên trước chiến tranh đã cho thấy những nỗ lực của Bắc Kinh trong hai thập kỷ qua nhằm phát triển NDMS của Trung Quốc và thực hiện chiến lược tích hợp dân sự-quân sự (CMF) rộng rãi với mục tiêu đảm bảo rằng công nghệ và sản xuất dân sự sẽ hỗ trợ nhu cầu của PLA. Cả hai nỗ lực đều là ưu tiên hàng đầu của các nhà lãnh đạo ĐCSTQ và PLA, trong đó Chủ tịch Tập Cận Bình đặc biệt chú ý đến các chương trình tích hợp này.

1710298370004.png

Sản xuất QP của TQ

Mối quan tâm chính liên quan đến việc bảo vệ và tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược để sử dụng trong thời chiến nằm ở nhu cầu duy trì sản xuất công nghiệp quốc phòng để sử dụng cả trong và sau chiến tranh. Bất chấp hy vọng của Trung Quốc về một “cuộc chiến tranh quyết định nhanh chóng”, việc phát triển NDMS và các cuộc thảo luận trong các ấn phẩm của PLA thừa nhận rằng “sự can thiệp mạnh mẽ của kẻ thù có thể biến một cuộc chiến tranh được quyết định nhanh chóng thành một cuộc chiến kéo dài”. Ngược lại, xung đột kéo dài làm dấy lên mối lo ngại về khả năng của PLA trong việc tiến hành và duy trì các chiến dịch phi tiếp xúc, do tỷ lệ tiêu thụ đạn dược và hệ thống vũ khí mà nước này yêu cầu cao cũng như sự tổn thất năng lực kinh tế và công nghiệp quân sự do các cuộc tấn công phi tiếp xúc gây ra mà các nhà nghiên cứu của PLA đã xác định là đặc điểm thiết yếu của hình thức chiến tranh đang lan rộng hiện nay. Nhu cầu đảm bảo quyền truy cập vào vũ khí và nền tảng bổ sung là rất quan trọng.

1710298438574.png

Sản xuất QP của TQ

Tương tự, để duy trì hoạt động sản xuất, bảo trì và sửa chữa trong thời chiến, PLA phải đảm bảo rằng các cơ sở chính của mình có nguyên liệu thô, lao động lành nghề, chuyên gia kỹ thuật và thiết bị sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thời chiến. Như các bài học kinh nghiệm của PLA đã chứng minh, các chiến dịch phi tiếp xúc của Mỹ được thiết kế để phá hủy các chức năng duy trì chiến tranh của đối thủ – bao gồm công nghiệp quốc phòng, cơ sở hạ tầng giao thông và viễn thông – ngay từ đầu cuộc xung đột.

Tương tự, việc duy trì khả năng tiếp cận các nguồn năng lượng và giao thông cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Mối lo ngại về tính dễ bị tổn thương của nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc trước các nỗ lực can thiệp của Mỹ đã được gọi là “Tình thế tiến thoái lưỡng nan Malacca” trong các bài viết trước đây của PLA, và vấn đề về việc đảm bảo khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng trong thời chiến vẫn là một vấn đề quan trọng cần cân nhắc khi lập kế hoạch thời chiến, đặc biệt là trong bối cảnh một xung đột kéo dài. Tương tự như vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã hiểu tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng giao thông được phát triển và hoạt động tốt trong tất cả các giai đoạn xung đột. Những khó khăn trong việc duy trì và thiếu hụt hậu cần hiện diện trong nhiều ví dụ lịch sử về hoạt động của PLA từ Chiến tranh Triều Tiên đến Việt Nam và tiếp tục là mối lo ngại được thừa nhận đối với các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của CHND Trung Hoa. Vì lý do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc rất nhạy cảm trong việc phát triển, bảo trì và bảo vệ cơ sở hạ tầng cũng như các nguồn lực cần thiết để duy trì các cuộc chiến tranh hiện đại. Những nỗ lực trong những năm gần đây trong các lĩnh vực phòng không dân sự, tích hợp quân sự - dân sự và các chương trình “động viên thông minh” cung cấp cái nhìn sâu sắc về nhiều chương trình đã nhận được sự ủng hộ và quan tâm ở mức độ cao đối với những mục tiêu này.

1710298512869.png

Sản xuất QP của TQ

Cuối cùng, phân tích của PLA về các chiến dịch của quân đội khác nêu bật những lo ngại này, vốn vẫn là những yếu tố then chốt trong các khái niệm tác chiến cốt lõi của Trung Quốc, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến chiến tranh hệ thống. Nhìn chung, các nghiên cứu ban đầu của PLA đã xem xét các phương pháp động viên có hiệu quả (ví dụ, Nam Tư) và những phương pháp không hiệu quả (ví dụ, Iraq) với sự hiểu biết rằng các yêu cầu động viên của Trung Quốc trong các cuộc chiến trong tương lai sẽ rất khác nhau về quy mô và phức tạp hơn đáng kể. Việc động viên hiệu quả của Serbia không bù đắp được sự chênh lệch về năng lực nguồn lực tổng thể và sức mạnh toàn diện giữa nước này và Mỹ. Tương tự như vậy, việc động viên lực lượng không hiệu quả chỉ là một trong nhiều yếu tố góp phần dẫn đến thất bại của Iraq. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu của PLA lập luận trong cả hai trường hợp rằng tầm quan trọng của việc động viên tiềm lực chiến tranh của một quốc gia – nguồn nhân lực, lực lượng dự bị và dân quân, dịch vụ, kho dự trữ chiến lược, vận tải, năng lượng, v.v. – vượt xa sự hỗ trợ cho các chiến dịch.

1710298684116.png

Sản xuất QP của TQ

Đó là điều cần thiết để đảm bảo tính toàn vẹn và hoạt động của hệ thống hệ thống thời chiến của một quốc gia. Duy trì trật tự công cộng, ứng phó với thảm họa và tình huống khẩn cấp, bảo tồn nền kinh tế và cuối cùng là bảo vệ chế độ đều là những yếu tố quan trọng để đảm bảo rằng Trung Quốc duy trì khả năng tiếp cận các nguồn lực cần thiết để chống lại kẻ thù hiện đại trong tương lai.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Kinh nghiệm chiến tranh

Kinh nghiệm chiến tranh gần đây của Trung Quốc – từ Chiến tranh Thế giới lần thứ II cho đến hiện tại, nhưng lập luận này có thể kéo dài đến tận thế kỷ 19 – bao gồm xung đột trên hoặc gần lãnh thổ quê hương của họ, thường là chống lại những đối thủ được trang bị tốt và có nhiều nguồn lực hơn đáng kể. Như đã đề cập ở các phần trước, Trung Quốc đã lên kế hoạch và dựa vào chiều sâu chiến lược cũng như khả năng động viên dân chúng của mình để chống lại các cuộc chiến tranh kéo dài thường gây tiêu hao lớn cả nguồn lực quân sự và dân sự.

1710298974197.png

PLA năm 1949

PLA không còn coi các cuộc chiến tranh tiêu hao là một lựa chọn mong muốn chứ chưa nói đến khả thi. Các khái niệm về Chiến tranh Nhân dân và phòng thủ chủ động, mà chúng tôi sẽ mô tả chi tiết sau, vẫn là những đặc điểm trọng tâm trong chiến lược quân sự của Trung Quốc, mặc dù nhiều thành phần chính của chúng đã được sửa đổi và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh hiện đại. Cùng với những nguyên tắc cơ bản của Chiến tranh Nhân dân, các bài học kinh nghiệm của PLA đã kết nối khả năng đoàn kết dân chúng thông qua Giáo dục Quốc phòng với những nỗ lực động viên rộng khắp hơn. Những người khác đã nghiên cứu tầm quan trọng của công tác chính trị trong việc duy trì độ tin cậy trong hàng ngũ thông qua việc phát triển “tinh thần chiến đấu”. Trong cả hai trường hợp này, các câu hỏi về việc đảm bảo sự ủng hộ của quần chúng và độ tin cậy của cả người dân và PLA là tối quan trọng khi quy mô động viên và mối đe dọa đối với người dân ngày càng tăng. Thật vậy, các nghiên cứu của PLA đã xem xét mức độ động viên mà các quốc gia như Iraq và Nam Tư cũ phải trải qua để chống lại Mỹ lưu ý rằng cả hai đều thực hiện độngtổng lực(tổng động viên).

1710299052017.png

PLA trong chiến tranh Triều Tiên

Kết luận trong những nghiên cứu này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Mỹ vốn coi những xung đột này là chiến tranh cục bộ. Mặc dù các nghiên cứu này của PLA không cho rằng tình hình chiến lược của Trung Quốc giống với Iraq hay Nam Tư cũ, nhưng rõ ràng là loại chiến dịch mà các tác giả quan sát thấy do Mỹ tiến hành chống lại các quốc gia này và các quốc gia khác đòi hỏi mức động viên cao hơn so với các cuộc xung đột cục bộ. Những bài học tương tự này đã làm nổi bật sự khác biệt trong tác chiến giữa Mỹ và Trung Quốc trong một số lĩnh vực, bao gồm công nghệ, huấn luyện, chiến thuật, khái niệm tác chiến, nguồn lực và tính bền vững. Làm trầm trọng thêm những khác biệt trong tác chiến này là điều mà nhiều cuộc thảo luận gần đây trên báo chí PLA đã xác định là những tác động tiêu cực của việc có một quân đội gần đây không có kinh nghiệm chiến đấu.

1710299128787.png

PLA trong xung đột với Việt Nam

Yếu tố cuối cùng trong kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc gắn liền với nhận thức của nước này rằng các cường quốc nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, có truyền thống cố gắng làm suy yếu và khuất phục Trung Quốc. Bài học quan trọng từ các chiến dịch của liên minh doMỹlãnh đạo ở Kosovo là ý tưởng bảo vệ dân chủ và nhân quyền sẽ trở thành cái cớ được quân đội phương Tây sử dụng để biện minh cho việc sử dụng vũ lực trong tương lai. Theo đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tập trung vào các phương pháp nhằm hạn chế khả năng triển khai lực lượng của Mỹ xung quanh vùng ngoại vi của Trung Quốc – nhưng họ cũng thừa nhận rằng quân đội Mỹ trong quá khứ đã chứng tỏ khả năng triển khai sức mạnh từ nhiều hướng và ở những khoảng cách xa, thường là với sự trợ giúp của nhiều đồng minh và các thỏa thuận căn cứ quốc tế. Ngoài ra, nhiều phương pháp triển khai sức mạnh của Mỹ dựa vào các công cụ thông tin và phi quân sự, chẳng hạn như phương tiện truyền thông và luật pháp quốc tế. Khái niệm “Tam chiến” được thiết kế để trực tiếp chống lại những công cụ này.

Sự ổn định

Sự ổn định, đặc biệt là nỗi sợ hãi về tình trạng mất trật tự và hỗn loạn, đã là mối quan tâm lịch sử cốt lõi của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Mối quan ngại về sự ổn định của ĐCSTQ còn có một yếu tố bổ sung – đó là người dân Trung Quốc vẫn trung thành với ĐCSTQ và không có trung tâm quyền lực nào khác. Các ví dụ từ thế kỷ trước và xa hơn cho thấy các mối đe dọa như chủ nghĩa quân phiệt và nổi loạn nội bộ có thể xuất hiện từ khoảng trống quyền lực hình thành do thiếu chính quyền trung ương mạnh mẽ như thế nào. ĐCSTQ rất chú trọng bảo vệ quyền lực và tìm cách duy trì trật tự đồng thời đảm bảo rằng vô số ví dụ về việc thay đổi lòng trung thành trong suốt lịch sử Trung Quốc không dẫn đến bất ổn trong thời bình hay thời chiến.

Các cuộc thảo luận về sự ổn định ở Trung Quốc liên quan đến ba yếu tố cốt lõi: phản kháng chủ động, phản kháng thụ động và độ tin cậy của PLA và người dân Trung Quốc ở quy mô lớn hơn. Thông thường, hoạt động phản kháng chủ động thu hút phần lớn sự chú ý của các nhà quan sát phương Tây và tập trung vào mối quan ngại của Trung Quốc về các dân tộc thiểu số ở Tây Tạng và Tân Cương, cũng như các lực lượng “ly khai” có thể cộng tác và hợp tác với các lực lượng đặc biệt hoặc tình báo phương Tây để làm suy yếu quyền lực của ĐCSTQ.

1710298890400.png

Ông Tập Cận Bình và quân đội TQ

Các bài viết của Trung Quốc, bao gồm cả những bài viết của PLA, đã công nhận mối đe dọa này là sự mở rộng các chiến dịch của Mỹ ở Nam Tư cũ, Afghanistan và Iraq. Quan điểm của Trung Quốc cho rằng dân chủ và nhân quyền đã trở thành cái cớ được phương Tây ưa thích để can thiệp, một phần được xây dựng dựa trên ý tưởng rằng việc đe dọa sự tồn vong của chế độ bằng cách kích hoạt các lực lượng “ly khai” là yếu tố then chốt trong phương thức chiến tranh mới của Mỹ. Theo đó, Trung Quốc đã dành nhiều thời gian và nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng an ninh nội bộ nhằm đối phó với những mối đe dọa này, trong cả thời bình và thời chiến. Trong những năm gần đây, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đầu tư vào việc cải thiện lực lượng công an, tạo điều kiện cho cơ quan tuyên truyền của Trung Quốc mở rộng phạm vi và quyền kiểm soát cũng như tăng cường các công cụ giám sát. Các chương trình quản lý ổn định của Trung Quốc vượt xa ba lĩnh vực trên và thể hiện mối quan ngại của các nhà lãnh đạo ĐCSTQ đối với mối đe dọa này.

1710298821977.png

Ông Tập Cận Bình và quân đội TQ

Khả năng kháng cự thụ động trong thời chiến ít được chú ý hơn nhưng lại là mối lo ngại đáng kể. Trước bộ máy giám sát và cưỡng chế rộng lớn của Trung Quốc, việc chủ động phản kháng và thách thức trực tiếp ĐCSTQ có thể bị phần lớn người dân coi là một nỗ lực đầy rủi ro. Tương tự như vậy, sự phản kháng chủ động có thể không thành hiện thực do bản chất của cuộc xung đột hoặc mức độ hành động của kẻ thù có thể thực sự tập hợp người dân Trung Quốc theo sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Dù thế nào đi nữa, việc ĐCSTQ nhấn mạnh vào việc động viên có thể làm giảm sự sẵn lòng của các bộ phận dân cư – dù là cá nhân hay doanh nghiệp – trong việc tuân thủ các yêu cầu đặt ra cho họ. Bởi vì ĐCSTQ và PLA ưu tiên động viên như một chức năng quan trọng để chuyển Trung Quốc từ thời bình sang thời chiến, việc không tuân thủ các yêu cầu động viên có thể được coi là mối đe dọa ngấm ngầm nhưng thực sự đối với sự kiểm soát của ĐCSTQ và tính hiệu quả của các nỗ lực chiến tranh của Trung Quốc. Những lo ngại này đã được thể hiện rõ ràng trong cách xử lý của PLA và các phương tiện truyền thông chính thức khác về việc tuân thủ động viên, với những lời khuyên trên báo chí chính thức yêu cầu người dân tuân thủ các chỉ thị động viên trong các cuộc tập trận và chương trình quân sự để đảm bảo rằng các quan chức doanh nghiệp và đảng địa phương đang báo cáo chính xác hàng tồn kho và kho dự trữ cho các cơ quanđộng viên toàn quốc.

1710298794426.png

Ông Tập Cận Bình và quân đội TQ

Một vấn đề về ổn định liên quan là độ tin cậy của cả PLA và người dân nói chung. Một yếu tố quan trọng trong luật động viên quốc phòng của Trung Quốc là giáo dục quốc phòng được thiết kế để đảm bảo rằng người dân Trung Quốc hiểu được vai trò của mình trong quốc phòng. Các yếu tố chính trong cuộc cải cách năm 2016 của PLA đã nhấn mạnh lại vai trò lãnh đạo quân đội của ĐCSTQ, tăng cường công tác chính trị như một phần của việc xây dựng “tinh thần chiến đấu” trong PLA và đảm bảo rằng các chỉ huy và binh sĩ PLA vẫn trung thành với sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Mục tiêu cốt lõi của các chương trình của ĐCSTQ nhằm nâng cao độ tin cậy trong cả PLA và người dân Trung Quốc là truyền bá quan điểm của người dân Trung Quốc rằng ĐCSTQ là nguồn quyền lực duy nhất; không có trung tâm quyền lực nào khác. Cuối cùng, các nhà lãnh đạo ĐCSTQ muốn biết rằng nếu chiến tranh nổ ra, binh lính và dân thường sẽ làm những gì Đ..ảng yêu cầu họ.


...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Chính trị nội bộ

Một yếu tố chính trong quan điểm lịch sử của Trung Quốc về chính trị nội bộ gắn chặt với quan điểm của nước này về sự ổn định, được hình thành bởi kinh nghiệm của nước này kể từ khi CHND Trung Hoa thành lập và đặt dưới sự lãnh đạo Đ..C..S: PLA là quân đội của Đ...ảng, và điều này đã được Tổng Bí thư Tập Cận Bình nhắc lại một cách mạnh mẽ trong nhiệm kỳ của ông.

1710320799632.png

Ông Tập Cận Bình và PLA

Tương tự, Trung Quốc không có nền chính trị cạnh tranh hoặc các tổ chức phi chính phủ hoạt động tự do ngoài tầm kiểm soát hoặc tầm nhìn của Đảng. Những thực tế chính trị này đã củng cố hai chủ đề định hình văn hóa PLA ngày nay. Chủ đề đầu tiên là sự tập trung hóa và thứ bậc trong mối quan hệ của PLA với ĐCSTQ cũng như trong định hướng nội bộ của PLA. Những chủ đề như “Hai biện pháp bảo vệ” nhắc lại với PLA và người dân Trung Quốc “vị thế hạt nhân của Tổng Bí thư Tập Cận Bình trong Ban Chấp hành Trung ương đ...ảng và trong toàn đ..ảng” đồng thời kêu gọi người dân “kiên quyết bảo vệ quyền lực và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đ...ảng”. Các chủ đề khác như “Bốn nhận thức” và “Bốn tự tin” được sử dụng trong công tác chính trị của PLA để củng cố tầm quan trọng của việc đảm bảo nhận thức về lãnh đạo và các mối quan hệ chính trị, cũng như niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng.

Khía cạnh này của văn hóa PLA đã tạo ra một môi trường trong đó các chỉ huy cấp dưới của PLA thể hiện sự chủ động hạn chế vì sợ hậu quả của sự thất bại và quy trình ra quyết định từ trên xuống thường buộc các quyết định quan trọng phải được chuyển lên cấp cao hơn. Chủ đề thứ hai có liên quan chặt chẽ và đề cập đến việc kiểm soát tập trung các quy trình và thể chế. Chẳng hạn, yếu tố thứ hai này đã dẫn tới một mức độ dự báo nhất định của PLA về sự kiểm soát của chính phủ Mỹ đối với truyền thông. Ý nghĩa chính của hai chủ đề này là nhiều phân tích của PLA cho rằng các hành động của Mỹ được chỉ đạo từ một cơ quan trung ương với mức độ cam kết và ý định tương ứng, và họ không nhận ra rằng các chiến dịch này thường xuyên được tiến hành (ví dụ: các bài báo trên báo chí) bởi các thực thể mà chính phủ Mỹ không có thẩm quyền.

Sức mạnh quốc gia

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung coi Trung Quốc là một cường quốc yếu hơn và là một quốc gia đang phát triển với ít tài nguyên hơn và có nhiều công cụ chưa hoàn thiện hơn để cạnh tranh với các siêu cường. Quan điểm này được hình thành bởi các mối quan hệ gần đây của Trung Quốc với các cường quốc mạnh hơn, dù là Nhật Bản hay các cường quốc thực dân châu Âu từ thế kỷ 19 cho đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, nội chiến với Quốc Dân Đảng được vũ trang tốt do Mỹ hỗ trợ, hay đối đầu với một trong các siêu cường trong các giai đoạn khác nhau của Chiến tranh Lạnh. Nhạy cảm với thước đo sức mạnh quốc gia tương đối, nhiều ấn phẩm của Trung Quốc đã xem xét mối liên hệ giữa sức mạnh quốc gia toàn diện (CNP), tiềm năng chiến tranh và khả năng răn đe, và sức mạnh quân sự. Trong mỗi nghiên cứu này, các tác giả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của CNP, đặc biệt là thành phần quân sự của nó, trong việc đảm bảo an ninh và ngăn chặn hành vi cưỡng bức.

1710320927747.png

Công nghiệp QP của TQ

Các phần trước trong chương này đã nêu bật các yếu tố trong quan niệm của Trung Quốc về sức mạnh quốc gia hoặc tiềm năng chiến tranh - cả hai đều bao hàm các yếu tố liên quan lẫn nhau bao gồm địa lý, tài nguyên thiên nhiên, an ninh chính trị, sức mạnh quân sự, phát triển công nghệ, ổn định nội bộ và phát triển kinh tế. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ưu tiên phát triển và đảm bảo sức mạnh quốc gia của Trung Quốc như một yếu tố then chốt trong chiến lược tổng thể thúc đẩy Giấc mộng Trung Hoa. Khả năng động viên và sử dụng những yếu tố sức mạnh này của họ là rất quan trọng đối với tham vọng của Trung Quốc với tư cách là bá chủ khu vực và cường quốc toàn cầu. Kết quả là, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra tầm quan trọng không chỉ của khả năng động viên tiềm năng chiến tranh của Trung Quốc mà còn của việc bảo vệ các thành phần then chốt cấu thành tiềm năng chiến tranh của Trung Quốc khỏi sự can thiệp hoặc tấn công của nước ngoài.

Những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc

Mặc dù PLA chưa tham chiến kể từ Chiến tranh biên giới Trung-Việt năm 1979, nhưng lực lượng này đã xem xét tỉ mỉ gần như mọi cuộc xung đột diễn ra trong thời kỳ hiện đại. Như đã đề cập trong phần giới thiệu, phân tích chuyên sâu của PLA bắt đầu bằng việc họ hiểu sai về các kết quả có thể xảy ra trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc và xem xét một cách tỉnh táo về sự thất bại và sụp đổ của quân đội Iraq trong chiến dịch đó. Chiến thắng nhanh chóng của lực lượng liên minh trước Iraq là một tiết lộ đáng kinh ngạc đối với PLA vì nó chứng minh một cách sinh động rằng nhiều giả định của PLA không còn giá trị nữa. Trong cuộc xung đột đó, liên minh đa quốc gia do Mỹ dẫn đầu đã làm giảm khoảng 50% sức mạnh của quân đội lớn thứ tư thế giới trong một chiến dịch không kích kéo dài 38 ngày và phá hủy 80% mạng lưới C2 của Iraq và 90% mạng lưới hậu cần của Iraq. Hơn nữa, toàn bộ các hoạt động không quân này đã làm giảm đáng kể tinh thần, độ tin cậy và cuối cùng là hiệu quả chiến đấu của lực lượng Iraq. Trong các hoạt động trên bộ tiếp theo, liên minh do Mỹ dẫn đầu đã tiêu diệt các lực lượng còn lại của Iraq trong chiến dịch binh chủng hợp thành trên bộ kéo dài 4 ngày, khiến PLA phải thực hiện một loạt thử nghiệm để xây dựng năng lực binh chủng hợp thành của riêng mình.

1710320984324.png

Quân đội TQ

Chiến dịch Lực lượng Đồng minh năm 1999 lại là một trải nghiệm có tính định thành cao khác, dù phần lớn là gián tiếp, đối với PLA. Bất chấp những lợi thế áp đảo của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), cuộc xung đột này đã mang lại cho PLA cái nhìn ban đầu về cách một quân đội kém hơn về công nghệ có thể chiến đấu một cách phi đối xứng chống lại kẻ thù vượt trội về công nghệ, bằng cách sử dụng các chiến thuật sáng tạo, duy trì sự an toàn và ý chí của người dân, và động viên hiệu quả các nguồn lực để chống chọi với các cuộc tấn công kéo dài và duy trì kiểm soát nội bộ. Điều này dẫn đến một loạt sáng kiến trên phạm vi rộng được thiết kế để mua sắm vũ khí hiện đại, phát triển các CONOP mới trong các lĩnh vực như phòng không và tác chiến liên hợp, đồng thời củng cố lại các chương trình nhằm giải quyết các nhu cầu động viên và phòng thủ dân sự của Trung Quốc. Lực lượng Đồng minh cũng chứng minh cho PLA thấy rằng các nỗ lực hiện đại hóa quân đội của Mỹ chỉ được tăng tốc trong 8 năm kể từ Chiến dịch Bão táp Sa mạc. Đáng kể nhất, cuộc xung đột đã dạy cho PLA rằng tác chiến phi tiếp xúc – được biểu thị bằng sức mạnh không quân và tấn công chính xác tầm xa – không chỉ có thể đạt được các mục tiêu chiến lược mở rộng của Mỹ mà còn có thể giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Thật vậy, “chiến thắng cuối cùng” có thể được hiện thực hóa bằng các phương tiện phi tiếp xúc dựa trên sự kết hợp giữa các cuộc tấn công động năng và phi động năng sử dụng nền tảng tàng hình, tình báo, giám sát và trinh sát tiên tiến (ISR), vũ khí chính xác, tấn công mạng và tác chiến điện tử (EW) .

1710321055923.png

Quân đội TQ

Cả hai cuộc chiến đều dạy cho PLA rằng các đặc điểm xác định của chiến tranh hiện đại về cơ bản đã thay đổi vì công nghệ hiện đại, được sử dụng để phục vụ vai trò của thông tin trong chiến đấu, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nghệ thuật tác chiến. Quan trọng nhất, PLA đã học được rằng họ phải đuổi kịp hoặc đối mặt với thất bại. Nhờ xem xét sâu sắc những xung đột này và những bài học sâu rộng rút ra từ nỗ lực đó, PLA đã cải tiến hơn nữa cách thức họ hiểu các đặc điểm của chiến tranh hiện đại.

............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Những bài học gần đây của PLA

Địa lý chiến tranh: “Sự mở rộng chưa từng có của chiến trường”

Khi xem xét Chiến tranh vùng Vịnh, PLA nhận ra rằng khu vực địa lý tác chiến đã mở rộng theo một cách chưa từng có - một yếu tố được hình thành dựa trên mối quan ngại lịch sử của họ liên quan đến thực tế địa lý của Trung Quốc. Các chiến dịch trong và xung quanh Iraq chứng tỏ rằng chiến trường thực tế đã phát triển lên quy mô hàng nghìn hoặc hàng chục nghìn km so với chỉ hàng chục km trong các giai đoạn trước. Các bệ vũ khí giờ đây có thể tấn công trên khoảng cách rộng và thường được triển khai từ độ cao lớn và ngầm dưới nước. Hơn nữa, các khái niệm đã được thiết lập về tiền phương và hậu phương trong không gian chiến đấu đã mất đi phần lớn sự khác biệt. Các mục tiêu ở tiền phương bị tấn công đồng thời với các mục tiêu ở hậu phương chiến lược. Theo cách nói của các chiến lược gia PLA, bản thân chiến trường đã trở thành “phi tuyến tính” – phần lớn các mục tiêu của Iraq bị lực lượng liên minh tấn công đều ở phía sau. Cuối cùng, chiến trường trở nên đa chiều khi các nền tảng trên bộ, trên biển, trên không, ngoài vũ trụ và các môi trường điện từ được sử dụng để tấn công hoặc hỗ trợ trực tiếp các cuộc tấn công trong các môi trường vật lý.

1710321183342.png

Lực lượng tên lửa của TQ

Rút kinh nghiệm từ Chiến tranh Kosovo, PLA nhận ra rằng không gian tác chiến cấp chiến dịch trực tiếp đã bị thu hẹp đáng kể, ngay cả khi không gian chiến lược trong đó chiến tranh được triển khai đã tăng lên. PLA cũng nhận ra rằng các lĩnh vực chiến trường khác nhau về cơ bản đã được kết nối nhiều hơn so với trước đây và các lĩnh vực khác nhau thậm chí còn chồng chéo lên nhau. Chiến tranh, mặc dù có khả năng bắt đầu ở môi trường trên không hoặc môi trường điện từ trong thực tế mới này, nhưng cuối cùng sẽ lan sang các môi trường khác. Cuối cùng, PLA công nhận rằng chiến trường trên không là chiến trường quan trọng nhất trong tất cả các chiến trường. Việc kiểm soát xung đột ở chiến trường này là cần thiết, nếu chưa đủ, để kiểm soát môi trường và các môi trường vật lý khác.

Cường độ tác chiến

Cả Chiến tranh vùng Vịnh và Chiến tranh Kosovo đều nhấn mạnh rằng nhịp độ tiến hành các chiến dịch quân sự đã tăng lên đáng kể. Các chiến dịch quân sự hiện nay diễn ra suốt ngày đêm, thường bắt đầu vào đầu giờ và tiếp tục chiến đấu 24 giờ cho đến khi đạt được mục tiêu. Các điều kiện ban đêm và thời tiết bất lợi không còn làm gián đoạn chiến dịch vì ứng dụng thiết bị nhìn đêm và các cảm biến quang điện khác nhau đã giảm thiểu tác động của chúng. Khả năng cơ động cũng tăng lên nhanh chóng, với khả năng vận chuyển chiến lược để di chuyển lực lượng đến chiến trường từ khoảng cách toàn cầu và khả năng chiến thuật để tiến quân nhanh chóng bằng cách dựa vào các cảm biến tầm xa và hỗ trợ bằng hỏa lực tầm xa.

1710321209770.png

Lực lượng tên lửa của TQ

Hơn nữa, những cải tiến về khả năng của vũ khí thông thường quan trọng đến mức chúng đã thay đổi căn bản cách tiến hành các hoạt động quân sự hiện đại và đòi hỏi PLA phải suy nghĩ lại về quan điểm lâu nay của mình trong chiến đấu. Việc tiến hành chiến tranh hiệu quả không còn dựa vào sự tập trung lực lượng để đạt được lợi thế về số lượng ở địa phương. Đúng hơn, nó dựa vào việc tập trung hỏa lực và nhiều lợi thế về chất lượng cũng như hiệu quả tác chiến. Số lượnglớn có thể dễ dàng bị nhắm mục tiêu và do đó liên quan đến trách nhiệm pháp lý. Kết quả là, khái niệm lâu đời của PLA về “chiến tranh hủy diệt” - đã được sửa đổi và điều chỉnh để đáp ứng thực tế của mọi thời đại tiếp theo kể từ khi thành lập PLA vào năm 1927 - không còn giá trị trong mắt nhiều chiến lược gia PLA nữa. Chiến tranh hủy diệt đã được sử dụng để đạt được các mục tiêu quân sự thông qua việc tiêu diệt dần dần một số lượng lớn nhân lực và trang thiết bị trên chiến trường và có liên quan ở mọi điểm trong phạm vi xung đột - từ chiến tranh du kích cho đến xung đột quy mô lớn được công nhận với quân đội Liên Xô trong nửa sau của Chiến tranh Lạnh.

Sức hủy diệt của vũ khí

Sức hủy diệt của thế hệ vũ khí mới nhất tăng lên khi vũ khí thông thường trở nên mạnh hơn nhiều trong khi khả năng dẫn đường chính xác đồng thời nâng cao hiệu quả và hiệu suất của chúng. Cùng với nhau, những cải tiến này làm giảm đáng kể tổng số nền tảng vũ khí cần thiết để tiêu diệt một mục tiêu cụ thể trong khi đề cao tầm quan trọng của các ngành kỹ thuật (ví dụ: đơn vị tác chiến điện tử, đơn vị không quân lục quân) và các quân chủng khác, chẳng hạn như Không quân và thậm chí cả Hải quân, trong việc tiến hành các chiến dịch tác chiến trên bộ.

1710321257748.png

Lực lượng tên lửa của TQ

Sự phát triển này cũng nêu bật tính hữu dụng của các đơn vị mặt đất tinh nhuệ trong việc đạt được các mục tiêu (ví dụ: Lục quân số 7 của Mỹ, Sư đoàn hải quân đánh bộ số 1 và số 2, Sư đoàn dù số 82 và 101 trong Chiến tranh vùng Vịnh).

Sự phụ thuộc vào thông tin

Sự phụ thuộc vào thông tin đã trở thành một đặc điểm thiết yếu của chiến tranh. Điều này thể hiện ở nhiều khía cạnh, bao gồm sự phụ thuộc vào hệ thống chỉ huy tự động để tích hợp và thống nhất chỉ huy nhằm điều phối thành công các chiến dịch trên không của 12 đối tác liên minh nhằm thực hiện 112.000 lượt xuất kích. Hệ thống định vị, dẫn đường và xác định thời gian thực cũng trở nên quan trọng đối với hiệu quả của các nền tảng vũ khí. Sự phụ thuộc vào thông tin còn thể hiện rõ hơn trong các hệ thống vũ khí thực hiện phát hiện, theo dõi, nhắm mục tiêu, phóng, dẫn đường và tấn công ở chế độ tự động hoặc bán tự động và trong EW được sử dụng cả tấn công và phòng thủ. Thông tin, thông qua mạng ISR, cung cấp thông tin theo thời gian thực và đầy đủ về chiến trường.

1710321344721.png

Tàu trinh sát - tình báo của TQ

Trong Chiến tranh Kosovo, tầm quan trọng của thông tin trong chiến tranh càng được nâng cao hơn nữa. Bản thân thông tin giờ đây được PLA coi là “nguồn tài nguyên chiến lược”. Cụ thể, nó được công nhận là đóng vai trò thậm chí còn lớn hơn trong hiệu quả của nền tảng vũ khí, tích hợp chỉ huy ở mọi cấp độ thông qua công nghệ kỹ thuật số và hệ thống thông tin quân sự xử lý, truyền tải, lập kế hoạch, tự động hóa việc ra quyết định, hướng dẫn lực lượng chiến đấu, chọn mục tiêu và tiến hành đánh giá. Chiến tranh thông tin đã trở thành một loại hình hoạt động quân sự bao gồm chiến tranh điện tử và chiến tranh mạng. Sâu sắc nhất, việc nắm bắt và duy trì ưu thế thông tin giờ đây quan trọng hơn để đạt được các mục tiêu quân sự hơn là tiêu diệt hàng loạt lực lượng địch trên chiến trường.

Chiến tranh Kosovo năm 1999 tiếp tục chứng minh tính hữu ích của vũ khí công nghệ cao trên chiến trường đồng thời chứng minh giá trị của các năng lực mới đối với PLA. PLA ghi nhận vai trò ngày càng tăng của chòm sao vệ tinh của Mỹ và sự phụ thuộc của các lực lượng vũ trang vào ISR cũng như định vị, dẫn đường và xác định thời gian. PLA cũng quan sát thấy lợi ích của việc tiếp nhiên liệu trên không trong việc hỗ trợ các hoạt động di chuyển đường dài.

.......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tiêu thụ vật chất

Mức tiêu thụ vật chất cần thiết cho chiến tranh hiện đại đã tăng theo cấp số nhân. Bản thân các nền tảng vũ khí không chỉ trở nên tốn kém hơn khi đưa vào sử dụng mà chi phí cho đạn dược công nghệ cao và nhiên liệu, v.v. của mỗi nền tảng cũng tăng lên. Ngược lại, điều này đòi hỏi mạng lưới hậu cần hiệu quả có thể tiếp tế và tái trang bị cho các đơn vị một cách nhanh chóng.

1710410802175.png


PLA nhận ra rằng tiến hành chiến tranh hiện đại sẽ cực kỳ tốn kém về nguồn lực, nếu không muốn nói là cả máu. Chỉ những quốc gia có nền kinh tế mạnh mới có thể hy vọng triển khai và duy trì các đơn vị hiện đại trên chiến trường. Những nước không có sức mạnh kinh tế như vậy có thể phải tạm dừng hoạt động ngay sau khi xung đột bắt đầu hoặc thậm chí có thể chấp nhận thất bại vì gánh nặng kinh tế.

Vai trò của công nghệ mới

Các chiến lược gia của PLA đã nhận ra rõ ràng hơn trong Chiến tranh vùng Vịnh tầm quan trọng của công nghệ tàng hình, thể hiện rõ trên các phương tiện như máy bay ném bom B-2, cũng như giá trị của các tàu tác chiến tàng hình trên mặt nước của hải quân và các vật liệu vô hình trước radar và phổ hồng ngoại. Loại thứ hai được PLA gọi là “áo giáp điện từ”.

1710410849559.png


Những chiến lược gia này cũng lưu ý tầm quan trọng ngày càng tăng của các công nghệ mới nổi trên chiến trường. Chúng bao gồm từ máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư với khả năng siêu hành trình cho đến vai trò của những “vũ khí khái niệm mới” kỳ lạ, chẳng hạn như tia laser công suất cao và vi sóng, sẽ phát huy tác dụng trong các cuộc xung đột trong tương lai. Cuối cùng, Chiến tranh Kosovo năm 1999 đã chứng minh tầm quan trọng và vai trò của lực lượng mạng, bên cạnh lực lượng tác chiến điện tử, trong việc tiến hành chiến tranh thông tin.

Bắt đầu chiến tranh

PLA nhận ra rằng việc chuẩn bị cho chiến tranh không thể diễn ra hoàn toàn bí mật được nữa. Cụ thể, công nghệ - dưới dạng phương tiện truyền thông hiện đại và trinh sát hàng không vũ trụ hiện đại - đã ngăn chặn sự gia tăng hoạt động bí mật. Tuy nhiên, bất chấp thực tế này, việc bắt đầu chiến tranh thực sự vẫn có thể xảy ra bất ngờ và gây ra cú sốc về mặt chiến thuật và tác chiến. Cả Chiến tranh vùng Vịnh và Kosovo đều chứng minh thực tế này khi cả hai liên minh dần dần tích lũy lực lượng và đặt ra thời hạn nhưng vẫn gây sốc khi bắt đầu chiến sự. Thậm chí một thập kỷ sau, cuộc xung đột Grudia năm 2008 đã gây ra một cú sốc khác, khi Nga bắt đầu xung đột với nước láng giềng phía nam Caucasus trong khi sự chú ý của thế giới đổ dồn vào Thế vận hội Mùa hè 2008 ở Bắc Kinh. Tất cả điều này bất chấp thực tế là các cuộc chiến tranh cục bộ thường trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trước khi xung đột thực sự bắt đầu, chẳng hạn như hòa giải quốc tế, tăng cường đối đầu hoặc thậm chí là gìn giữ hòa bình.

Động viên

Chiến tranh vùng Vịnh đã chứng tỏ khả năng động viên quốc phòng mạnh mẽ của Mỹ. Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ đã chuyển 400.000 quân và hơn 186 triệu tấn thiết bị và trang thiết bị tới Ả Rập Saudi, một quốc gia cách Mỹ 15.000 km. Các nhà nghiên cứu của PLA lưu ý rằng ngay cả với khả năng vận chuyển quân sự đáng kể, Mỹ vẫn phụ thuộc rất nhiều vào vận tải hàng không và đường biển quân sự và thương mại.

1710410900668.png


Khả năng tổ chức và sử dụng cuối cùng hơn 200 máy bay vận tải và chở khách từ 30 hãng hàng không dân sự khác nhau thông qua cơ chế Hạm đội Không quân Dự bị Dân sự (CRAF) đã nêu bật khả năng tăng cường nhanh chóng khả năng vận chuyển hàng không quân sự khi cần thiết. Ngoài ra, PLA lưu ý việc sử dụng 43 tàu dự bị và hơn 130 tàu dân sự để tăng cường khả năng vận tải và hoạt động trên biển hiện có của Hải quân.

PLA áp dụng những bài học rút ra từ Chiến tranh vùng Vịnh như thế nào

Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các đối tác liên minh của nước này đã thể hiện một số khả năng mới giúp thay đổi tư duy của PLA về các chương trình hiện đại hóa của chính họ và vạch ra con đường cho tương lai của họ. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu của PLA nhấn mạnh tầm quan trọng của cái mà PLA gọi là các hoạt động số hóa trong chiến tranh hiện đại. Các lực lượng được số hóa giờ đây sở hữu tầm nhìn ban đêm, cảm biến quang điện trên thiết bị tìm kiếm tên lửa và vệ tinh, cũng như ISR và các cảm biến mạng cảnh báo sớm liên kết các lực lượng trên toàn bộ chiến trường. Thứ hai, PLA cũng công nhận mối quan hệ hiệp đồng giữa hỏa lực của Mỹ và năng lực tiến công tầm xa, được minh chứng bằng pháo binh có khả năng tấn công các mục tiêu cách xa 70 km, hệ thống rốc két phóng loạt (MLRS) được Lục quân Mỹ sử dụng có thể bao phủ khu vực 60.000 km2 trong một loạt đạn duy nhất và tên lửa hành trình phóng từ trên không có thể phóng cách mục tiêu 3.000 km.

1710411043770.png


Việc nhắm mục tiêu, bắn hàng loạt và tấn công tầm xa đã được tăng cường đáng kể nhờ những lợi thế lớn của Mỹ về số hóa. Thứ ba, khả năng cơ động cho phép lực lượng Mỹ có thể bao quát khoảng cách xa trong thời gian ngắn. Khả năng này được thể hiện qua thao tác chiến thuật của Quân đoàn dù số XVIII và cuộc tiến công 200 km của Sư đoàn bộ binh 24 tới sông Euphrates trong khoảng hai ngày và cũng được thể hiện qua việc vận chuyển chiến lược của các đơn vị thuộc Lực lượng Dù 82 và Không quân Mỹ (USAF) tới Ả Rập Saudi từ lục địa Mỹ trong 48 giờ. Cuối cùng, khả năng định vị trên toàn thế giới của chùm vệ tinh Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) của Mỹ đã cho phép di chuyển trong một sa mạc không có gì đặc biệt và hướng đạn dẫn đường chính xác tới các mục tiêu ngoài tầm nhìn.

Các chiến lược gia của PLA cũng thừa nhận rằng sức mạnh không quân – được PLA gọi là “các cuộc không kích” – có thể đạt được các mục tiêu chiến lược. Dựa trên những phân tích về các cuộc xung đột trước Chiến tranh vùng Vịnh, các chiến lược gia của PLA không tin rằng một đội quân vượt trội về số lượng dựa vào các tuyến liên lạc nội bộ có thể bị đánh bại nhanh chóng trước một đối thủ hiện đại dựa vào sức mạnh không quân. Như đã nêu trước đó, những bài học về sức mạnh không quân rút ra từ Chiến tranh vùng Vịnh đã làm rõ điều ngược lại một cách đáng kinh ngạc và dẫn đến việc đánh giá lại tầm quan trọng của Không quân Trung Quốc.

1710411104857.png


Mô hình hoạt động khái niệm tác chiến hiện có của PLA cho rằng các lực lượng kém hơn về chất lượng nhưng vượt trội về số lượng có thể chiến đấu thành công trên lãnh thổ Trung Quốc trước một cuộc tấn công quy mô lớn giả định của Liên Xô phải được xem xét lại tổng thể. Điều này dẫn tới việc hình thành học thuyết quân sự mới (học thuyết thế hệ thứ tư của PLA), bắt đầu từ năm 1995 và hoàn thành vào năm 1999, từ đó đặt ra những yêu cầu mới trong huấn luyện, tổ chức và trang bị cho PLA. Học thuyết mới công nhận rằng các chiến trường đa chiều đòi hỏi các tác chiến liên hợp và phối hợp, ở cấp độ chiến dịch, sử dụng khả năng của các quân chủng và vũ khí khác nhau.

PLA thừa nhận rằng cơ cấu của quân đội Iraq không được phân bổ hợp lý và do đó “không cân bằng” – một bài học làm nảy sinh một loạt sáng kiến nhằm hiện đại hóa vũ khí và công nghệ của PLA, định hướng lại học thuyết và phát triển các khái niệm tác chiến mới. PLA nhận ra rằng họ tập trung quá nhiều vào lực lượng trên bộ và phần lớn bỏ qua các khả năng của không quân và hải quân. PLA cũng nhận ra rằng cơ cấu lực lượng của họ mất cân bằng theo cách tương tự như quân đội Iraq.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Cách PLA áp dụng những bài học rút ra từ Chiến tranh Kosovo

Chiến tranh Kosovo đã chứng minh cho PLA thấy rằng các cuộc chiến tranh có thể được giải quyết với sự tham gia hạn chế của lực lượng trên bộ - một nhận thức dẫn đến quá trình hiện đại hóa quân sự bền vững lâu dài nhằm cải tổ Không quân, Hải quân và Lực lượng pháo binh số hai (sau này trở thành Lực lượng tên lửa) Trung Quốc và đạt được năng lực ngang hàng trong và xung quanh lãnh thổ Trung Quốc. Đối với Không quân, học thuyết về các tác chiến chiến lược độc lập đã được phát triển và các khả năng mới, chẳng hạn như máy bay chiến đấu đa chức năng (Su-27), được mua từ Nga và sau đó được tái sản xuất với số lượng lớn trong nước để chế tạo máy bay J-11.

1710411196252.png

J-11 của TQ

Đối với Hải quân, một chương trình phát triển đã được bắt tay nhằm cải tiến toàn bộ hạm đội tác chiến trên mặt nước để trở thành hải quân biển xa. Điều này dẫn đến sự phát triển bản địa của các tàu khu trục, tàu frigat hiện đại và cuối cùng là tàu tuần dương và tàu sân bay để thay thế hạm đội ven bờ thời Liên Xô cũ kỹ và suy yếu. Lực lượng Pháo binh số 2, một chi nhánh của PLA chủ yếu tập trung vào việc duy trì khả năng răn đe hạt nhân hạn chế của Trung Quốc, đã bắt đầu phát triển đáng kể kho vũ khí tên lửa đạn đạo thông thường và các đơn vị thông thường và phát triển thành một lực lượng thông thường lớn.

Nhận thấy rằng hiện đại hóa là một nhiệm vụ khó khăn và có thể kéo dài hàng thập kỷ, PLA đã cố gắng giải quyết những khiếm khuyết trước mắt của mình bằng cách phát triển các chương trình cấp tốc để tiến hành xung đột phi đối xứng. Các chiến lược gia của PLA nhận ra rằng bất kỳ cuộc xung đột nào với Mỹ, được coi là “kẻ thù mạnh”, sẽ là cuộc xung đột mà Trung Quốc sẽ phải chiến đấu với lực lượng yếu hơn trong tương lai gần. Rất may cho PLA, quân đội Nam Tư trong Chiến tranh Kosovo đã soi sáng những cách thức mà các lực lượng yếu hơn có thể cản trở các cuộc tấn công của lực lượng vượt trội thông qua việc làm suy yếu nhận thức về tình hình (ví dụ: ngụy trang, mồi nhử, phân tán), phòng thủ thụ động (ví dụ: củng cố, ẩn nấp) và chiến tranh phi đối xứng (sử dụng tên lửa đất đối không một cách sáng tạo).

1710411276957.png


Áp dụng những bài học này cho chính mình và tìm cách đạt được nhiều thành công hơn Belgrade đã đạt được, PLA đã phát triển một khái niệm phòng không mới được gọi tắt là “Ba tấn công, ba phòng thủ”. Cụ thể, các chiến lược gia và kỹ thuật viên của PLA đã nỗ lực tìm cách để một lực lượng có thể phản công bằng khả năng tàng hình, tên lửa hành trình và trực thăng của đối thủ, đồng thời tự bảo vệ mình trước các cuộc tấn công chính xác, tác chiến điện tử và trinh sát của đối phương. Theo suy nghĩ của các chiến lược gia PLA, nếu thành công, cách tiếp cận này sẽ thu hẹp lợi thế của đối thủ hiện đại trên chiến trường và cho phép PLA sử dụng lợi thế về số lượng để bù đắp cho những yếu kém về chất. “Ba tấn công, ba phòng thủ” sẽ cung cấp cả một mức độ răn đe chiến lược để ngăn chặn xung đột và thậm chí là cơ hội chiến thắng trên chiến trường, dù ở xa, nếu xung đột xảy ra. Suy nghĩ về chiến tranh phi đối xứng đã phát triển hơn nữa và cuối cùng dẫn đến sự phát triển và tăng trưởng các khả năng mà các nhà hoạch định Mỹ gọi là chống tiếp cận, ngăn chặn khu vực (A2/AD), sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm tầm xa, khả năng chống vũ trụ, khả năng mạng và lực lượng tác chiến đặc biệt (SOF).

1710411307069.png


Cuối cùng, Chiến tranh Kosovo đã thay đổi sâu sắc cách PLA hiểu về bản chất của chiến tranh trong thời đại mà sự thống trị về thông tin và công nghệ thông tin ngày càng được công nhận là yếu tố then chốt để giành chiến thắng. Cụ thể, cuộc xung đột đã gieo mầm mống cho một khái niệm mới nổi - chiến tranh hủy diệt hệ thống, một sự khởi đầu triệt để khỏi học thuyết trước đây về chiến tranh hủy diệt. Trong khi nhiều khía cạnh cụ thể của khái niệm mới vẫn chưa được xác định, PLA về cơ bản đã nhận ra rằng các chiến dịch quân sự hiện nay là phi đối xứng (dù là do sự thua kém tổng thể ở cấp độ chiến lược hay do tận dụng sự cân bằng quân sự cục bộ), phi tiếp xúc (ví dụ: chiến đấu ở phạm vi dự kiến và thường vượt quá khả năng phòng thủ của đối phương trước các lực lượng tấn công) và phi tuyến tính (ví dụ: các mục tiêu bị tấn công đồng thời ở mọi chiều sâu của chiến trường và khái niệm về “mặt trận” ngày càng vô nghĩa). Vì những sự phát triển này, chiến tranh không còn có thể được coi là cuộc đối đầu giữa quân đội, dịch vụ hoặc nền tảng như trong nhiều thế kỷ mà đã trở thành cuộc đối đầu giữa các hệ thống hoạt động đối lập nhau.

Kết luận

Kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc và những bài học mà nước này rút ra từ việc quan sát các chiến dịch của Mỹ trong ba thập kỷ qua cung cấp nền tảng quan trọng để hiểu cách Trung Quốc nhìn nhận sự cân bằng quân sự. Trong nhiều trường hợp, những bài học và kinh nghiệm này rất dễ hiểu đối với hầu hết các nhà phân tích phương Tây. Sự phát triển của khả năng tấn công chính xác tầm xa, ISR tiên tiến, tự động hóa chỉ huy và hệ thống vũ khí hiện đại là những lĩnh vực có thể dễ dàng hiểu được theo hiểu biết của chúng ta về xung đột hiện đại. Tương tự như vậy, các lĩnh vực tiến bộ của Mỹ – chẳng hạn như tác chiến liên quân và các khái niệm như tác chiến dựa trên hiệu ứng và lấy mạng lưới làm trung tâm – cung cấp cho các nhà phân tích phương Tây những điểm tham chiếu chung gắn kết lộ trình phát triển của PLA với những lộ trình mà quân đội tiên tiến khác theo đuổi. Cuối cùng, vật lý và địa lý nói chung không đưa ra những cách giải thích khác nhau dựa trên kinh nghiệm lịch sử.

Các lĩnh vực khác trong kinh nghiệm lịch sử và bài học kinh nghiệm của Trung Quốc không dễ dàng được áp dụng theo quan điểm của phương Tây về cán cân quân sự. Các yếu tố như công tác chính trị, động viên, ổn định nội bộ, độ tin cậy và quan hệ Đảng-quân đội không phải là vấn đề được giải quyết trong các mô hình, mô phỏng hoặc trò chơi chiến tranh và thường không được thảo luận chi tiết trong các phân tích của phương Tây về cán cân quân sự. Tuy nhiên, như bài viết này đã mô tả, những vấn đề này có vai trò quan trọng trong việc định hình cách nhìn của Trung Quốc về khả năng quân sự và sự phù hợp của nước này cho các cuộc chiến tranh trong tương lai mà nước này tin rằng họ phải chuẩn bị. Tương tự như vậy, kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc (bao gồm cả việc thiếu kinh nghiệm gần đây), địa lý, tài nguyên và nhận thức về sức mạnh quốc gia đều khác rất nhiều so với Mỹ - một quốc gia có khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào nhưng lại đặt trọng tâm tương đối hạn chế vào nhu cầu động viên quốc gia cho chiến tranh kể từ năm 1945, và chắc chắn kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, hệ thống chính trị của nước này không thường xuyên phải đối mặt với những mối đe dọa hiện hữu. Hơn nữa, Mỹ chưa từng chiến đấu hoặc có tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, được hưởng nơi trú ẩn do hai đại dương cung cấp và không phải chiến đấu trên đất của mình kể từ giữa thế kỷ 19 trong cuộc nội chiến.

Việc phóng đại tác động tâm lý của những trải nghiệm này có thể khiến người ta có ấn tượng về Trung Quốc như một quốc gia và là nhà lãnh đạo trong nỗi sợ hãi thường trực. Đây chắc chắn không phải là trường hợp cụ thể. Một cách giải thích chính xác hơn sẽ là những trải nghiệm này – mặc dù đã diễn ra ở một Trung Quốc rất khác với hiện tại – đã để lại cho các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc một sự hiểu biết sâu sắc về những mối đe dọa đối với đất nước Trung Quốc, sức sống kinh tế và sự gắn kết chính trị của nó là rất thực tế và phải được coi là đặc điểm cốt lõi trong việc lập kế hoạch của PLA. Cuối cùng, những kinh nghiệm và bài học lịch sử này phản ánh một loạt yếu tố thiết yếu tạo nên cái mà các ấn phẩm khoa học quân sự Trung Quốc gọi là tiềm năng chiến tranh – những yếu tố của sức mạnh vật chất, tinh thần hoặc quân sự của một quốc gia có thể được động viên thành sức mạnh thực sự trong khủng hoảng hoặc chiến tranh. Chúng có mối liên hệ trực tiếp với định hướng chiến lược cho quá trình hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc và rất quan trọng đối với cán cân quân sự. Tương tự, các yếu tố kinh nghiệm lịch sử được thảo luận trong tài liệu này là những chủ đề được lặp đi lặp lại trong diễn ngôn chiến lược của PLA. Chúng cung cấp một khuôn khổ định hình cách các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc nhìn nhận chiến tranh, hiểu các mối đe dọa mà Trung Quốc phải đối mặt và xác định các chức năng và sự chuẩn bị quan trọng trong thời chiến. Kết quả là, những kinh nghiệm này trực tiếp cung cấp thông tin cho đánh giá của Bắc Kinh về khả năng của PLA và cán cân quân sự Mỹ-Trung./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Vấn đề Đài Loan và thế tiến thoái lưỡng nan của Trung Quốc

Theo bài viết trên báo The Straits Times ngày 9/12, phe đối lập ở Đài Loan gọi cuộc bầu cử tổng thống tới đây của hòn đảo này là sự lựa chọn giữa chiến tranh và hòa bình. Tuy nhiên, Đài Bắc nên lo ngại về các hoạt động của Trung Quốc hơn là chiến tranh. Nội dung bài viết như sau:

2024 sẽ là năm diễn ra rất nhiều cuộc bầu cử trên thế giới. Mỹ sẽ kiểm tra xem liệu Donald Trump có quay trở lại hay không, nền dân chủ lớn nhất thế giới ở Ấn Độ sẽ quyết định về chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi và Vương quốc Anh dường như chuẩn bị lật đổ đảng Bảo thủ sau 14 năm nắm quyền của họ. Tuy nhiên, một cuộc bầu cử quan trọng khác đối với an ninh của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng sẽ khởi động vào năm 2024. Vào tháng 1, Đài Loan sẽ bỏ phiếu bầu tổng thống và cơ quan lập pháp mới, tạo tiền đề cho mối quan hệ giữa hai bờ Eo biển Đài Loan trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc.

Cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnh Bắc Kinh tiến hành các cuộc tập trận xung quanh Đài Loan trong năm qua, máy bay Trung Quốc gần như hàng ngày vượt qua đường trung tuyến và xâm nhập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của hòn đảo này. Trung Quốc tiếp tục hiện đại hóa quân sự, với chi tiêu quốc phòng bỏ xa tăng trưởng kinh tế chậm chạp, trong khi Mỹ nỗ lực phát triển một tư thế răn đe mạnh mẽ hơn ở Đông Á.

Bởi vậy, cuộc bầu cử này là cột mốc quan trọng trong mối quan hệ Trung Quốc-Đài Loan 75 năm qua và sẽ tạo tiền đề cho bốn năm quan trọng tới đây. Đây là giai đoạn sẽ bao gồm thời hạn mà Trung Quốc tự đặt ra là năm 2027 xây dựng một “lực lượng đẳng cấp thế giới”. Cựu Tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ Đô đốc Philip Davidson đã tuyên bố về mối đe dọa Trung Quốc xâm lược Đài Loan sẽ rõ ràng vào thời điểm đó.

Tuy nhiên, trong khi cuộc bầu cử là thời điểm quan trọng sẽ xác định tiến trình chung của quan hệ giữa hai bờ Eo biển Đài Loan, thì việc Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan dường như vẫn là một triển vọng xa vời. Điều đáng lo ngại hơn là việc Trung Quốc tiếp tục làm xói mòn quyền tự chủ của Đài Loan thông qua các chiến thuật vùng xám và khả năng Trung Quốc tiến hành một hoạt động quân sự quy mô nhỏ hơn, dễ quản lý hơn để sáp nhập các vùng lãnh thổ ngoài khơi.

Cuộc chiến giành trái tim và khối óc

Cuộc bầu cử ở Đài Loan sẽ chứng kiến sự kết thúc của chính quyền Tổng thống Thái Anh Văn. Nữ tổng thống đầu tiên của quốc đảo này, bà Thái Anh Văn đã nhậm chức vào năm 2016, sau 8 năm can dự và lập lại quan hệ hữu nghị giữa hai bờ. Chính quyền Quốc dân đảng (KMT) trước đây của ông Mã Anh Cửu đã cố gắng “bắc cầu” với Trung Quốc, mở cửa du lịch, mở các chuyến bay, các tuyến đi lại qua phà và bưu chính. Chính quyền của bà Thái Anh Văn đã kết thúc giai đoạn gắn kết này một cách hiệu quả, mặc dù đáng chú ý là họ đã không hủy bỏ các liên kết đã được thiết lập.

1710478011074.png

Ông Mã Anh Cửu và ông Tập Cận Bình

Tuy nhiên, Chính quyền Thái Anh Văn đã quan sát thấy sự thay đổi mang tính lịch sử trong văn hóa của người Đài Loan đối với Trung Quốc. Điều này một phần là do chính sách của chính quyền ở Bắc Kinh. Các cuộc phản kháng ở Hong Kong giai đoạn 2019-2020, và phản ứng hà khắc của Bắc Kinh đối với các cuộc biểu tình này, đã cảnh báo những người Đài Loan coi các cuộc phản kháng là lời kêu gọi hợp pháp cho quyền bầu cử và đại diện. Họ đã không còn so sánh với một hòn đảo ngoài khơi khác mang sắc tộc Trung Quốc đòi quyền tự trị và thực sự đã bị kiểm soát chặt chẽ.

Bà Thái Anh Văn và đảng dân tiến (DPP) của bà cũng đã làm rất ít để thuyết phục người Đài Loan về lợi ích của quyền tự chủ và một bản sắc khác, với việc Tổng thống thường tuyên bố rằng Đài Loan đã là một thực thể độc lập. Kết quả là, các cuộc khảo sát thường xuyên về bản sắc và ưu tiên chính trị của Đài Loan đã cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ chuyển sang ủng hộ độc lập và xác định bản sắc là người Đài Loan chứ không phải người Trung Quốc, đặc biệt là kể từ sau các cuộc phản kháng ở Hong Kong.

1710478073575.png

Bà Thái Anh Văn

Một cuộc thăm dò thường kỳ của Đại học Quốc gia Chengchi (NCCU) được tiến hành vào cuối năm 2018, trước khi diễn ra các cuộc biểu tình ở Hong Kong, cho thấy chưa đến 55% số người trả lời xác định hoàn toàn là người Đài Loan. Đến giữa năm 2023, con số này đã tăng lên 63%. Sự thay đổi này thậm chí còn rõ ràng hơn trong một khoảng thời gian dài hơn: Cách đây 30 năm, số người xác định là người Đài Loan chỉ là 18%. Một cuộc thăm dò khác của NCCU cho thấy sự ủng hộ đối với việc duy trì nguyên trạng nhưng hướng tới độc lập – trong số 6 lựa chọn – đã tăng từ 13% năm 2018 lên hơn 25% vào năm 2020.

Tăng cường vũ trang

Trong bối cảnh thay đổi về văn hóa này, cũng có sự thay đổi rõ rệt về căng thẳng quân sự trong khu vực. Dưới thời Chính quyền Donald Trump đã áp dụng chính sách đối đầu rõ rệt hơn đối với Trung Quốc, trong đó có sự can dự và hỗ trợ nhiều hơn cho Đài Loan. Chính quyền này đã phá vỡ nhiều quy tắc bất thành văn khác nhau, với việc ông Donald Trump thậm chí còn nhận điện thoại chúc mừng của bà Thái Anh Văn sau khi ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 12/2016. Các chuyến thăm thường xuyên hơn của các chính trị gia cấp cao, sĩ quan quân đội và tàu hải quân Mỹ ở Eo biển Đài Loan đã diễn ra.

1710478139313.png

Vũ khí Mỹ trong quân đội Đài Loan

Chính quyền Joe Biden đã đưa chính sách này đi xa hơn khi vào tháng 11/2023 đồng ý sử dụng Nguồn tài trợ quân sự nước ngoài (FMF) để lần đầu tiên vũ trang cho Đài Loan. Việc mua bán từ FMF bao gồm Mỹ tài trợ cho việc mua sắm vũ khí thay mặt cho quốc gia đối tác, dưới dạng khoản trợ cấp hoặc cho vay trực tiếp - khác với chương trình Mua bán quân sự nước ngoài (FMS) mà Đài Loan đã được lợi từ đó, thỏa thuận mua sắm chung hơn của Mỹ và chương trình Mua bán thương mại trực tiếp, theo đó một thực thể nước ngoài mua trực tiếp từ một công ty vũ khí của Mỹ.

Mỹ cũng đã cố gắng thay đổi cán cân triển khai lực lượng toàn cầu của mình sang Thái Bình Dương, xây dựng các mối quan hệ chiến lược chặt chẽ hơn với các đồng minh và đối tác trên khắp khu vực (chẳng hạn như thông qua AUKUS hay Nhóm Bộ tứ) và cải thiện tư thế răn đe cũng như khả năng sẵn sàng của lực lượng trong phản ứng trước bất kỳ tình huống bất ngờ tiềm tàng nào với Trung Quốc.

1710478187913.png

Bà Nancy Pelosi đến Đài Loan

Bắc Kinh đã phản ứng dữ dội đối với một số chính sách này, đặc biệt là sau chuyến thăm của Chủ tịch Hạ viện Mỹ khi đó là bà Nancy Pelosi đến Đài Loan hồi tháng 8/2022. Trung Quốc đã đáp trả bằng việc tiến hành một số cuộc tập trận hải quân và không quân lớn nhất, đồng thời phóng tên lửa xung quanh Đài Loan. Những động thái này gợi nhớ lại cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1995-1996. Kể từ đó, Trung Quốc về cơ bản đã xóa bỏ đường phân chia không chính thức trước đây giữa Đài Loan và Đại lục, với việc máy bay quân sự thường xuyên vượt qua đường trung tuyến ở Eo biển, trên thực tế khiến đường trung tuyến gần như trở nên dư thừa.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiêp)

Chiến lược của Trung Quốc

Chính trong bối cảnh này cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan sẽ diễn ra – một cuộc cạnh tranh tay ba sít sao. Nói tóm lại, có khả năng một liên minh sẽ được thành lập giữa KMT đối lập và đảng Nhân dân Đài Loan – đảng dường như sẽ giành thắng lợi. Một chiến thắng đối với DPP sẽ đồng nghĩa với căng thẳng tiếp tục với Trung Quốc, trong khi cả hai đảng đối lập đều ủng hộ thái độ vừa phải trong các chính sách chống Trung Quốc.

Mặc dù bị ảnh hưởng bởi hoạt động vận động tranh cử, nhưng các ứng cử viên KMT thậm chí đã cho rằng cuộc bầu cử không khác gì “một sự lựa chọn giữa chiến tranh và hòa bình” (theo lời của ứng cử viên phó tổng thống Jaw Shaw-kong). Điều này có thể hơi xa vời. Hầu như không có bằng chứng cho thấy Bắc Kinh hiện có khả năng phát động một cuộc xâm lược thành công với Đài Loan. Tổng thư ký Hội đồng an ninh Đài Loan Wellington Koo hồi tháng 11 đã bày tỏ nghi ngờ rằng Trung Quốc có thể phát triển khả năng đổ bộ bằng đường biển như vậy vào năm 2027.

Tuy nhiên, điều rõ ràng là Bắc Kinh mong muốn một chiến thắng và sự can dự lớn hơn của KMT. Có lẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong năm 1995-1996, khi các vụ thử tên đầy hiếu chiến của Trung Quốc ở Eo biển Đài Loan trước khi diễn ra bầu cử đã giúp tăng cường sự ủng hộ đối với chính phủ DPP đầu tiên của hòn đảo, Bắc Kinh đã bắt đầu giảm bớt hoạt động ở Eo biển. Tháng 11 đã chứng kiến mức độ thấp thứ hai trong hoạt động quân sự xâm phạm ADIZ của Đài Loan trong năm 2023.

Quả thực, theo quan điểm của Bắc Kinh, việc xâm chiếm Đài Loan có vẻ rất rủi ro. Tốt hơn hết là chờ đợi thời cơ và dần tước đi quyền tự chủ của Đài Loan bằng việc lôi kéo hàng trăm chính trị gia và các nhà lãnh đạo tư tưởng của Đài Loan bằng những chuyến đi đến Trung Quốc trong khi gắn Đài Loan chặt chẽ hơn với nền kinh tế Trung Quốc.

Một chiến thắng của KMT sẽ là lựa chọn tốt nhất cho chiến lược này. Sự ưu tiên rõ ràng của Bắc Kinh đối với KMT được thể hiện rõ qua việc họ tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến thăm của ông Mã Anh Cửu hồi tháng 3, chuyến thăm đầu tiên của một cựu tổng thống Đài Loan, và đón tiếp Phó chủ tịch KMT Andrew Hsia vào tháng 8/2022 và tháng 2/2023. Bắc Kinh cũng đã nhắc lại thông điệp của KMT, khi Văn phòng các vấn đề Đài Loan tuyên bố rằng cuộc bầu cử này là “sự lựa chọn giữa chiến tranh và hòa bình”.

Những căng thẳng kéo dài

Cho dù KMT hay DPP giành chiến thắng, thì vẫn có căng thẳng đáng kể trong khu vực và giữa hai bờ Eo biển Đài Loan. Mỹ vẫn kiên quyết muốn tăng cường khả năng phòng thủ của Đài Loan và phát triển một tư thế răn đe hợp nhất toàn diện hơn trên khắp khu vực Đông Á. Điều nghịch lý là người dân Đài Loan có thể không muốn xung đột, nhưng họ vẫn đang ngày càng xa rời khả năng tái thống nhất hòa bình, ít nhất là trong việc bỏ phiếu.

Bởi vậy, bóng ma của một cuộc xâm lược quân sự sẽ vẫn còn. Bắc Kinh có thể không coi việc xâm chiếm Đài Loan là khả thi, nhưng họ có thể dễ dàng gia tăng sức ép thông qua các biện pháp khác. Tăng cường các hoạt động mạng và vùng xám, làm gián đoạn các tuyến cáp quang dưới biển và việc vận chuyển đường biển, hay đổ bộ lên các hòn đảo ngoài khơi của Đài Loan ở Eo biển và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), tất cả những hành động này sẽ ít tốn kém hơn và có khả năng dẫn đến thành công hơn đối với Trung Quốc.

Một chiến thắng của KMT sẽ làm cho bất kỳ hành động phiêu lưu nào như vậy của Trung Quốc ít có khả năng xảy ra hơn, nhưng các vấn đề mang tính cơ cấu vẫn đang xảy ra – một thực thể tự trị mà Bắc Kinh coi là tỉnh nổi loạn và với tất cả ba bên tham gia gồm Trung Quốc, Mỹ và Đài Loan đang đặt ngón tay vào cò súng – đồng nghĩa với việc đối với Trung Quốc, tất cả các lựa chọn sẽ vẫn còn nằm trên bàn.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,091
Động cơ
655,047 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Tác động của cuộc xung đột Gaza đối với Trung Quốc

Trang thinkchina.sg có bài viết về tác động của cuộc xung đột Gaza đối với Trung Quốc như sau:

Thử thách chiến lược Trung Đông của Trung Quốc

Chuyên gia cấp cao của Viện Trung Đông thuộc Đại học Quốc gia Singapore, Jean-Loup Samaan, cho rằng giữa những nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc như việc các quốc gia Arập và Hồi giáo gần đây tới thăm Bắc Kinh hay cuộc chiến Israel-Hamas đang mang đến bài kiểm tra thực tế hết sức cần thiết đối với những tham vọng của Trung Quốc ở Trung Đông. Cho đến khi xảy ra cuộc tấn công khủng khiếp do Hamas phát động ngày 7/10 nhằm vào Israel, Trung Đông được coi là chiến trường mới để tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Khu vực này từ lâu đã được định hình bởi các chính sách của Mỹ, nhưng trong thập kỷ qua, mọi thứ đã thay đổi. Các quốc gia trong khu vực bắt đầu hoan nghênh các khoản đầu tư của Trung Quốc, có thể là vào các cơ sở hạ tầng địa phương như cảng biển hay phát triển mạng 5G.

1710478431033.png

Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Saudi Arabia

Các nước Arập coi Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) của Chủ tịch Tập Cận Bình (Xi Jinping) là cơ hội lớn để hiện đại hóa nền kinh tế nước họ. Trong khi đó, Washington, kiệt sức với hai cuộc chiến tranh kéo dài ở Iraq và Afghanistan, đã bày tỏ mong muốn giảm bớt sự hiện diện của mình trong khu vực. Vào tháng 3/2023, tiết lộ về một thỏa thuận do Trung Quốc làm trung gian giữa Saudi Arabia và Iran cho rằng chính sách Trung Đông của Trung Quốc giờ đây không chỉ dừng lại ở việc đầu tư kinh doanh. Bắc Kinh đã có được ảnh hưởng ngoại giao để hành động với tư cách là trung gian hòa giải giữa những kẻ thù cũ ở Vịnh Persian.

Những hạn chế của nhà trung gian hòa giải được phơi bày rõ ràng

Những điều này đã gây nên những tranh luận liên quan đến khả năng Trung Quốc thách thức vị trí đứng đầu của Mỹ ở Trung Đông. Mặc dù vậy, những lời đồn đoán này đã biến mất ngay sau khi cuộc chiến giữa Israel và Hamas bắt đầu.

Sau cuộc tấn công của Hamas, các tuyên bố ngoại giao của Trung Quốc đã đi theo một khuôn mẫu quen thuộc. Họ nhấn mạnh tính trung lập, đồng thời kêu gọi hai bên kiềm chế. Trung Quốc lặp lại kế hoạch hòa bình đã được công bố gần đây nhất trong chuyến thăm của Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas đến Bắc Kinh vào tháng 6/2023. Vào thời điểm đó, chuyến thăm của ông Abbas được coi như dấu hiệu cho thấy tham vọng của Trung Quốc muốn đóng vai trò trung gian trong việc nối lại các cuộc đàm phán hòa bình. Sự vắng mặt của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng ngày hôm nay đặt câu hỏi về triển vọng này.

1710478509721.png

Vũ khí của Hamas có nguồn gốc TQ

Việc Trung Quốc kiềm chế lên án Hamas về vụ tấn công ngày 7/10 đã khiến Chính phủ Israel vô cùng tức giận. Tuy nhiên, điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: Kể từ những năm 1950, thái độ của Trung Quốc đối với cuộc xung đột Israel-Palestine là nhất quán, và Bắc Kinh có truyền thống coi tranh chấp này là cuộc đấu tranh giải phóng người Palestine chống lại Israel được phương Tây hậu thuẫn.

Trở lại năm 1965, Chủ tịch Mao Trạch Đông (Mao Zedong) tuyên bố rằng: “Israel và Đài Loan là các căn cứ hoạt động cho chủ nghĩa đế quốc ở châu Á. Họ tạo ra Israel cho người Arập và Đài Loan cho chúng ta. Cả hai đều có cùng mục tiêu”. Cách tiếp cận chống thực dân của Trung Quốc đối với Israel sau đó đã được “hạ tông” khi quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển. Thương mại song phương từ 50 triệu USD năm 1992 tăng lên 11 tỷ USD vào năm 2016. Các công ty Trung Quốc tham gia hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Israel: nông nghiệp, cơ sở hạ tầng cảng biển và đường sắt, cũng như an ninh mạng.

Tuy nhiên, quan hệ thương mại không thực sự làm thay đổi cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Israel, và rộng hơn là đối với khu vực Trung Đông. Từ đầu đến cuối, chiến lược của Bắc Kinh vẫn được thúc đẩy bởi niềm tin theo chủ nghĩa trọng thương: giao dịch làm ăn với tất cả các bên – từ Israel đến Saudi Arabia và Iran – sẽ mang lại sự thịnh vượng cho khu vực và cuối cùng đảm bảo sự ổn định của khu vực. Trong khi đó, Trung Quốc liên tục kiềm chế can thiệp vào các tranh chấp khu vực.

Phương pháp tiếp cận ưu tiên doanh nghiệp có thể không còn hiệu quả ở Trung Đông

Trong một thời gian, phương pháp tiếp cận trọng thương này đã phát huy hiệu quả. Đó là tạo ra một chính sách không kẻ thù, cho phép Trung Quốc thực hiện thỏa thuận Saudi Arabia-Iran vào tháng 3/2023. Mỹ đã không thể làm được điều đó. Trong 3 năm qua, cách tiếp cận đó của Trung Quốc cũng thành công vì các cường quốc khu vực cũng đang cố gắng chú trọng hợp tác kinh tế, thay vì cạnh tranh quân sự. Trong giai đoạn đó, Trung Đông chứng kiến một làn sóng hòa giải và thiết lập quan hệ hữu nghị chưa từng có: Năm 2020, Israel ký thỏa thuận bình thường hóa mới với 4 quốc gia Arập (Các tiểu vương quốc Arập thống nhất – UAE, Bahrain, Maroc, Sudan), 1 năm sau, Saudi Arabia dỡ bỏ lệnh phong tỏa kéo dài 3 năm với Qatar và hàn gắn quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ.

1710478550951.png

Vũ khí của Hamas có nguồn gốc TQ

Giờ đây, cuộc xung đột Israel-Palestine bùng phát thách thức những giả định cơ bản đằng sau cách tiếp cận trọng thương của Trung Quốc. Điều này bất ngờ nêu bật rằng ngoài thương mại, Trung Quốc không có phương tiện cũng như không sẵn sàng đóng vai trò chiến lược trong khu vực.

Nếu cuộc xung đột hiện nay là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất ở Trung Đông kể từ Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, thì sự so sánh cho thấy cách đây 50 năm, cả Mỹ và Liên Xô đều đóng vai trò trung tâm trong việc buộc chấm dứt xung đột. Trung Quốc ngày nay không có ảnh hưởng đối với Iran hay Hamas mà Liên Xô đã có với Ai Cập và Syria, và Bắc Kinh cũng không muốn đóng vai trò đó.

Trên thực tế, khi Tehran leo thang căng thẳng thông qua các lực lượng ủy nhiệm ở Yemen, Liban và Iraq, điều này cũng có thể khiến quan hệ Vùng Vịnh-Iran trở nên xấu đi. Căng thẳng trở lại ở vùng Vịnh Persian khi đó sẽ thách thức độ tin cậy của thỏa thuận Saudi Arabia-Iran mà Trung Quốc làm trung gian.

.........
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top