Hôm ngày mười chín tháng ba, chúng tôi được tin rằng Tân Vương ( ở đây là Nguyễn Nhạc) đánh bại lực-lượng võ-trang của Cựu-Vương ( tức Nguyễn Ánh) , Ông nầy đặng hai mươi lăm tuổi.
Huynh-Trưởng giảng-đạo Emmanuel và tôi không có chiếc ghe nào hết. Chỉ có Đức Giám-mục ( Lộc) có một chiếc của Nhà Vua tặng mà thôi. Vậy, chúng tôi phải nhận chịu đi chung một ghe với Đức Giám-mục, đồng thời với một Cha người Pháp. Chúng tôi ra khơi và trạo-phu chèo đến hai ngày tròn trước khi tới một bán-đảo, vị-trí của bán-đảo ấy ở Hà-tiên, trên hải-lộ đi Xiêm, nơi xứ nầy chúng tôi có một xóm đạo. Từ đầu tháng ba, tói nay, tôi bị chứng sốt rét cách nhựt hoành hành trong thân mình tôi, khiến tôi không thề hành-đạo trong quốc-gia ấy, song có ba Cha khác, một Cha người Tây-Ban-Nha, một Cha người Pháp, người thứ ba là người Việt-Nam tân tín-đồ, họ hành-lễ trong năm ngày liên-tục ở xóm đạo ấy.
Có tin báo trước rằng Nhà Vua sẽ đến nhưng Tây-Sơn đuổi theo bén gót Nhà Vua, chúng tôi lại cưỡng-bách xuống ghe và biểu trạo-phu chèo đi ẩn-náu trên một hòn đảo. Bấy giờ, chúng tôi mới sống với mãnh-thú, giữa những nguy-hiểm tột mức, giữa những ngơm ngớp lo âu chẳng những giặc loạn mà còn vô số những kẻ đầu trộm đuôi cướp ở chốn này.
ít lâu sau khi chúng tôi tời đảo ấy ( Đảo Phú Quốc) , Nhà Vua cũng đến trú-ẩn nơi đó vì Nhà Vua hành-trình một hải-lộ với chúng tôi. Hoàng-Đế Bệ-Hạ ở trên Bắc của đảo và chúng tôi ở phía Tây. Đích thân Nhà Vua đến viếng Thầy Trợ-Tế Truyền-Đạo ( Lộc) . Nhà Vua đã tín-nhiệm nơi Thầy.
Chúng tôi không thể nào noi theo hải-trlnh đễn Xiêm được, đến nỗi tháng bảy nghịch-quân có thể đến chỗ mà hồi tháng tư chúng tôi đã tới. Mặc dầu đến ba quốc-tịch sai biệt nhau, chúng tôi đã sống với nhau hòa-mực hết sức, nhưng khi nghe rằng nghịch-quân sắp đến gần, Huynh-Trưởng Truyền-giáo Emmanuel và tôi quyẽt-định quá hải đi Manille, trên một chiếc ghe bầu.
Nhà Vua sai ghe này đi qua Manille yêu-cầu cứu-viện, và được cấp thực-phẩm vì lính tráng gần chết đói. Chờ trên ghe bầu này là calaim (không rõ là cái gì) để bán hay là đổi với gạo.
( Ánh muốn cầu viện Tây Ban Nha ở Phillipin, vì trong một bức thư đề ngày 14 tháng 7năm 1784, giáo sĩ Castuera có viết cho Cha Provincial: Khi tôi tới đảo ít lâu, đích thân Nhà Vua đến giáp mặt Đức Giám-mục (Lộc) yêụ-cầu vui lòng trợ giúp Nhà Vua làm sở-hữu-chủ lại quốc-gia của Nhà Vua hình như mất gần hết. Đức Giám-mục hỏi chúng tôi có tưởng (xem) là Manille có thể cho vài sự viện-trợ nào. Chúng tôi trả lời rằng không, vì Manille không có khí-giới để cứu-vịện. Tuy vậy, theo lời khẩn-khoản của Nhà Vua, Đức Giám-mục quyết định biểu một trọng hai người chúng tôi đến Manille, Với một viên sứ-thần, thay mặt Nhà Vua để yêu-cầu viện-trợ, hay là xin phép trước cho Nhà Vua đến đó ẩn-náu, tới chừng Nhà Vua Tây- Ban-Nha thấy rõ đặng sự có mặt của Nhà Vua (Quảng-Nam-quốc) ở trên đất- đai của Nhà Vua Tây-Ban-Nha.)
Chúng tôi rời bỏ chỗ ở của chúng tôi và đi đến nơi ngụ của Nhà Vua vì nơi nầy có để chiếc ghe ấy. Lối đúng ngọ, thủy-trình được nửa đường, chúng tôi dừng lại, để chờ gió thuận, nhưng chúng tôi cũng chẳng dám xa bờ vì ghe chúng tôi nhỏ. Liền khi đó, nhiều thuyền xuất-hiện,những thuyền này của quan ( Tây Sơn) đã nói ở trên kia; một gián-điệp nghịch đi trên một chiếc thuyền. Những trạo-phu của chúng tôi sợ hãi, nhảy đùng xuống nước, còn chúng tôi đi dồn sau lái ghe. Khi mới vừa chợt thấy hai tôi, nghịch-quân nhảy lại hai tôi; trong chớp mắt, bọn chúng cột hai tôi lại và lột áo chúng tôi; rồi, một số lính nào đó chèo ghe của hai tôi chỉ mũi về hướng Hà-tiên, trước khi đó Tân-Vương ( Nhạc) đã tấn-công một vị quan ( không rõ ai) thì nay vị ấy có mặt ở Hà-tiên và dự-bị hiệp lại với Nhà Vua thiệt thọ ( tức Ánh).
( Có lẽ 2 ông giáo sĩ này đã gặp trực tiếp Nguyễn Huệ,và Huệ đã hỏi cung)
Hơn nửa đêm, bọn lính áp-giải hai tôi đến Hà-tiên. Bọn trạo-phu cho các vị quan hay trước, các vị này chờ đợi hai tôi mà trong lòng áy- náy. Khi hai tôi đến trước mặt các quan, người quan nhỏ đã câu-lưu hai tôi, tố-cáo rằng:
"Tôi mới vừa bắt đặng hai Huynh nầy, hai người là kẻ thù chẳng đội chung trời với chúng ta; hai Huynh đang sống với " Oung-chung ( Ông Chủng, tức Ánh) và đang hành-trình hướng về Xiêm hầu có yêu-cầu viện-trợ quân-sự chống chúng ta. Hai Huynh đi với nhiều lính tráng có võ-trang, khi chúng tôi tới bọn lính quăng xuống biển và trốn mất. Trong những rương của hai Huynh nầy, tôi có gặp nhiều cây cờ giặc".
Tôi ước ao cho đuốc công-lý của các quan soi vào.
Khi tố-cáo mới vừa xong, tôi xin phép các quan cho tôi biện-minh. Các quan y lời. Bấy giờ, tôi mới khẳng-định rằng các lời tố giác ấy đều là lời vu-cáo. Tôi xin với quan tố-cáo hãy nói cho rõ những khí-giới nào trong tay những người mà ông ấy cho là lính. Sự thật thì trong số đó có ba người theo phục-vụ hai tôi, một lão hỏa-đầu và bảy trạo-phu đi chèo cho Thầy Trợ-Tế Truyền Đạo. Đến như nhiều cờ là hai tôi dùng cờ ấy để trang-trí bàn thờ của Chúa khi chúng tôi hành-lễ Thánh-Giáo. Chúa chúng tôi là ông Tòa phán-quyết những ai thiện ai ác, Thầy trên trời và dưới đất, Đấng Tạo-hóa và Ân-nhơn chúng tôi, và, trong vài lời, tôi đọc lên Thập-Giáo-điều.
Hình như vị quan có nghe nói đến Thánh-Giáo của chúng tôi do-một trong nhiều người bà con tín-đồ Cơ-đốc, vị quan ấy lắng tai nghe chăm chỉ lời thuyết-minh của tôi. Ông biểu chúng tôi xê lại gần ông,và ông hỏi chúng tôi về Nhà Vua và võ-khí của Nhà Vua. Tôi đáp lời rằng tôi không thể cho ông ấy biết tin tức xác-thực của Nhà Vua, vì hồi Nhà Vua đi qua trên đảo, tôi chỉ thoáng thấy mà thôi. Tôi thêm rằng người ta bàn tán về việc Nhà Vua tới đảo, tnà hễ Nhà Vua có mặt
ờ đó, thì chắc chắn là cưỡng-bách Ong-Chung ( ở đây nói Lộc chứ không phải Ánh) rút đi. Tức thì vị quan nói:
“ Chúng tôi biết rằng Ong-Chung ( đây lại nói Ánh) đang chờ đợi chúng tôi để giao tranh chống chúng tôi một phen nữa, và nếu bại-trận, sẽ trốn lánh đến chỗ chỉ-định trước đo Thầy Cả ( Lộc) quyết-đoán, rồi từ nơi nầy Thầy Cả sẽ dìu đi Âu-châu đề yêu-cầu Nhà Vua bên Âu giúp binh-lực và võ-khí ". ( chứng tỏ vị quan Tây Sơn này, có lẽ là Nguyễn Huệ rất có học thức)
Tôi cố-gắng cải-chánh sự lầm lẫn của vị quan, nhưng không xong. Các vị quan ấy nói rằng Thiên-Mạng đã định cho Tầy-Sơn cai-trị quốc gia này, thì dầu có ức-thuyết nào cũng cho là thực-tại hết.
Rồi tới phiên vị quan thứ nhì phát-biều luận-lý nầy:
“Các Cha đều ờ chung quanh Thầy Cả; lúc các Cha noi theo hải-lộ đi Xiêm thì bị chúng tôi câu-lưu. Vậy thì các Cha đều vâng lời Thầy Cả đi Xiêm để yêu-cầu quân viện-trợ".
Tôi toan bác bỏ luận-lý ấy. Vị quan cầm đầu không chú-ý đến luận-điệu của vị quan thứ nhì, mới biểu tôi im lặng. Khi nghe nói đến Thầy Cả, đổi-tượng của sự hờn giận của vị quan ấy, ông có ý-kiến là đề nghị không thành-thật là đem chúng tôi về Lục-Tỉnh, cho chúng tôi sống chung với các tín-đồ Gia-Tô vói điều-kiện là chúng tôi phải " xuống đất" và yêu-cầu Thầy Cả về với vị quan ấy, vì nguyện-vọng nhiệt-liệt của ông là có Thầy Cả chung quanh mình ông. Tôi đáp lời là tôi sẽ sẵn lòng vâng lời vị quan ấy, song tôi cho vị quan ấy biết trước rằng nếu tin tức ấy bay tới tai Thầy, chắc Thầy sẽ lánh mặt ngay, vì Thầy không rõ Ngài có cảm-tình đậm đà đối với các Cha Âu-châu như vậy ( như vậy là viên quan Tây Sơn này biết rõ và rất quý Lộc)
Khi cuộc đàm-thoại này vừa xong, vị quan ấy bảo lính dắt chúng tôi trờ về thuyền chúng tôi. Lính tráng đã đoạt chiếc thuyền này của chúng tôi rồi. VỊ quan ấy căn dặn chúng nên thận-trọng vỗi Duc Chua Jésu và sách Âu-châu, vì, một ngày kia, vị quan ấy chắc sẽ tiếp nhận luật của các Cha.
Có lẽ, không phải vô ích mà cho Cha chú-ý rằng vị quan ấy là một người vang danh trong dân-chúng, và hảo tâm của ông đối với các Cha và đối với tín-đồ Cơ-đốc-giáo làm cho chúng tôi coi ông như vị quan bảo-vệ chúng tôi.
Nhờ có ông ấy mà chúng tôi tiếp-tục thi-hành phận-sự của chúng tôi, và lần thứ nhì chúng tôi thoát khỏi lưỡi phang ghê gớm của Tử Thần. Tôi sẽ tường thuật lại đây thế nào viên quan thứ nhì đã dành để cảnh chết cho hai tôi. Bạo dạn vì ông quan thứ nhứt che chở cho các tín-đồ Gia-tô-gỉáo, các người này dám nhóm họp lại đề hành-lễ, tuy vậy cũng ngơm ngóp lo sợ cho cơn bão tố khác. Chúng tôi phải khích-lệ họ liên-tục cho họ đề lòng tin cậy vào nơi sự khoan dung vô bờ vô bến của đấng thiêng-liêng.
Sáng sớm ngày sau, những vệ-binh tìm đặng các bức thơ của Đức Thầy Trợ-Tế Truyền-giáo. Con dấu in trên thơ khiến cho chúng tưởng rằng đó là các bức thơ ủy-nhiệm chúng tôi làm sứ-thần ở bên cạnh Vua Xiêm, những kẻ đã câu-lưu chúng tôi đồng nói như vậy, vì đã nóng giận khi chúng tôi đã bẻ gẫy những luận-điệu của chúng trước mặt vị quan cầm đầu chúng. Chúng tôi chú-ý đến vài cử-động của các quan, khiển chúng tôi tưởng là giờ chót của chúng tôi sắp điềm. Song, nhờ ơn Trời, chúng tôi đã lầm. Lối xế trưa, chúng tôi đau lòng mà thấy những ảnh Thánh và những đồ thiêng-liêng đều bị chúng phi phạm.
Chúng tồi năn nỉ các người ấy nên tuân lịnh của viên quan đầu-não của họ, nhưng lời cầu xin của hai tôi làm cho họ thêm tức giận. Chúng đem đi một phần sách và ảnh của các Thánh, về sau những tín-đồ Gia-tô-giáo chuộc lại vài bức ảnh ấy. Từ tháng bảy tới ngày Vigile de la Nativité (không rõ ngày gì??) hai tôi không thể nào hành-lễ đặng.
Sự phát-giác ra những bức thơ của Đức Thầy Trợ-Tế Truyền giáo khiến cho (chúng tôi) hồi hộp hết năm hay sáu ngày, trong lúc này chủng tôi bị giữ trên ghe chúng tôi. Thấy chúng tôi nằm ở sau lái ghe, vị quan đầu-não bảo đem chúng tôi sang qua chiếc chiến-thuyền của ộng. Lúc chúng tôi đến trước mặt, ông nói:
“ Những bức thơ đem theo là những bằng tu-sĩ của Thầy cả trao cho hai Cha. Hai Cha đi Manille có người tín-đồ Cơ-đốc vừa ở Xiêm về nói với bổn-quan rằng một chiếc tàu từ Mã-Cao mới đến đây."
Rồi vị quan ấy yêu-cầu tôi cho một dược-phẫm để trị cho bịnh-nhơn, tôi cáo lỗi với ông rằng tôi, ít biết tiếng Việt nên tôi không thể hỏi thăm bịnh-nhơn đặng, và thêm vào sự ấy, tôi không có kinh-nghiệm về dược-liệu của Huê-Kiều bán ở quốc-gia nầy.
Vị quan ấy hỏi tôi lần lượt về Mã-Cao, Ma-ní và Âu-châu. Trong những câu trả lời của tôi, tôi cố gắng làm cho khuây khỏa những nỗi lo âu do các tàu Âu-châu tạo ra. Sau cùng, quan ấy ra lịnh cho đem chúng tôi về ghe chúng tôi. Hai tôi phải chịu nắng cháy và mưa lạnh trên chiếc ghe ấy vì không có mui ghe để đụt mưa, nắng. Hai tôi có hai chiếc chiếu nhỏ, hai cái chén và một cái soon (nồi) , cái soon nầy giúp ích chúng tôi không nhỏ; một người lính con chiên tặng chúng tôi cái soon đó. Một người lính ngoại-đạo cho hai tôi chút đỉnh gạo, nhờ đó mà hai tôi duy-trì đặng sự sống đến mười một hoặc mười hai ngảy.
Khi lịnh trên cho phép, chúng tôi nấu cơm và xin muối để ăn của những đứa ở với thuyền-trưởng. Có những ngảy hai tôi phải nấu cơm lúc trời nhá nhem tối, chúng tôi đau khồ muôn vàn mà khó thở nhứt là chịu đựng sự lăng-nhục của đám người vô-liêm-sĩ là bọn tôi tớ và như thế từ tháng bảy tới đầu thảng chín.