[TT Hữu ích] Nhà Tây Sơn - Đỉnh- cao và sụp -đổ

Trạng thái
Thớt đang đóng

cuti7x

Xe đạp
Biển số
OF-33315
Ngày cấp bằng
10/4/09
Số km
40
Động cơ
477,760 Mã lực
Lý do triều Tây sơn sụp đổ phải nhìn lại gốc gác cái gọi là nghĩa quân Tây sơn. Theo các ghi chép của các nhà truyền giáo thì anh em nhà Tây sơn thực sự là cướp biển, chuyên cướp bóc,thu thuế các cảng và vùng biển đàng trong,đây cũng là sự giải thích cho các tướng nhà TS tự phong mình là đô đốc. Thứ 2,do nguồn gốc ít học,dành đc giang sơn nhờ thời loạn lạc và tính hung bạo mà nhà TS chưa bg đc lòng giới sĩ phu và cả dân nữa. Cứ nhìn cách nhà TS công thành thì biết,ngày xưa tướng công thành xong vỗ về an dân,nhưng nhà TS đi đến đâu ngập máu đến đó,cướp bóc giết hại ko trừ ai. Thứ 3,do bản tính lục lâm thảo khấu,anh em nhà TS ko tin nhau,luôn lăm le tiếm quyền tiêu diệt lẫn nhau,dành đc giang sơn xong là sát hại công thần,mang quân đánh nhau nồi da xáo thịt. Sử sách coi nội chiến nhà TS còn đẫm máu hơn cả các cuộc chống ngoại xâm nhà TS từng lãnh đạo. Chính sử thời này bị bóp méo rất nhiều vì sự tàn bạo của nhà TS. Đơn cử chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa,theo những văn kiện cũ của nhà Thanh,ko hề có 20vạn quân Thanh sang VN,cái này được các nhà sử học sau này đối chiếu qua các văn bản tấu trình của nhà Thanh gửi triều đình,các văn bản về cấp phát lương thảo của quân Thanh( sự thực các bác hỏi anh Gúc). Thế mới biết sử VN mù mờ.
 

fun4u

Xe điện
Biển số
OF-396176
Ngày cấp bằng
10/12/15
Số km
2,864
Động cơ
470,663 Mã lực
Nơi ở
Gia Long thành
Suy nghĩ của cụ thật khoáng đạt !

Tàu ngầm mãi…nhưng chả lẽ cứ tàu ngầm mãi? Thôi thì góp một câu nhận xét cho xôm thớt:

Sử Việt? Xin lỗi luôn là nó luôm nhuôm, đầu không có (chỉ từ thời Trần có quan sử) đuôi thì nhiều dị bản, ta thắng, địch thua. Giọng điệu nhà sử học thì giỏi nịnh xu thời. Họa chăng có ai chính chứng thì nằm im sợ vạ. Nổi lên là các bố kiểu như Phan Huy Lê (bảo kê và thanh minh cho Lê Văn Tám của sử học Trần Huy Liệu), rồi ông Bế Văn Đàn ai dựng?

Qua nhiều lần tọa đàm, tranh luận viết rồi sửa, sửa rồi cải tiến, viết sách giáo khoa từ 1- 2 người rồi đến nhóm 5 người rồi sẵn sàng: ai cũng có thể viết sách giáo khoa (kẻ cả giáo viên dạy sử lâu năm…). Thời nối thời…cuối cùng để lại cho hậu thế những đầu sách, những pho sử, những tài liệu…mà ai đọc đến nếu không có nguồn khác biên khảo, dẫn chiếu rồi suy xét thì rất dễ tin đó là chính thống.

Các cụ dẫn tài liệu tranh luận, trao đổi tôi thấy cụ nào cũng có lý cả. Bởi vì chúng ta không sống cùng thời đấy. Nhưng chúng ta có trong tay những số liệu là tài liệu viết về thời đấy. Nhưng cái người viết nó chỉ cần dịch 1 số 0 thôi đủ thấy ba xạo và đủ thấy vô lý và nực cười thế nào rồi (ví dụ: Nhà vua huy động hàng nghìn chiến thuyền, chục vạn binh mã – Thực chất dân số thời ấy là bao nhiêu, trẻ con, già khú không nhẽ bắt lính hết?). Những tài liệu căn cứ ấy có khi khiên cưỡng. Nhưng chúng ta có người lại khiên cưỡng tìm cách biện minh cho nó (ví dụ cắm cọc và trận thủy chiến sông Bạch Đằng của Ngô Quyền)…

Tôi lấy ví dụ thật gần là cái ông Tướng Lê Mã Lương (làm giám đốc bảo tàng gì đó). Ai cùng thời với ông này thừa biết ông chả bắn viên đạn khỉ gió nào. Ông vừa vào trận thì bị một mắt. Mang về phẫu thì cũng là lỡ chém với bạn bè, với người quen rồi. Trong khi đạn bom chất ngất biết quay về phía sau có toàn mạng nổi không? Thôi thì xin về đơn vị cũ. Cái lý do để được về là câu nói khẩu hiệu:” Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Nhờ cái câu nói hoa mỹ và khẩu hiệu ấy, các nhà tuyên truyền liền xây dựng ông Lương lên như điển hình của khí phách thanh niên. Ông không phải oánh nữa, ông đi nói chuyện, ông về học hành làm nguồn…rồi từng bước, ông tiến bộ thành ông Tướng như ta đã thấy. Sách giáo khoa viết về ông, quân đội cũng có phát động học tập ông. Cũng là sử đấy! Sau này, ông tưởng chả ai biết thân thế của ông nên ông chém nhầu rất phê. Nhưng cũng là sử đấy! Lớp trẻ sau này ngưỡng mộ ông, tôn sùng ông và tin ông như đức Chúa Lời cũng một phần do những ngòi bút đẩy đí..t ông lên. Đáng thương!

Trở lại chủ đề chính Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ai cũng có lý cả. Xalong tôi không cãi lý mà chỉ nói tình cảm, nói cái lợi cái hại tác động đến bản thân và gia đình mình từ 2 triều đại này:

Ông Tây Sơn, tôi chỉ biết qua sách sử Miền Bắc bảo ông là anh hùng áo vải. Biết vậy xong là thôi. Sau này có ngao du vào Bình Định coi bà chị cháu 5 đời ( hay 7 đời??) của ông Quang Trung múa trống trận. Coi 15 phút là xong. Mất vé thấy bình thường. Hết!

Ông Nguyễn Ánh, lúc học tôi biết qua sách sử bảo là ông rất đểu (lời thầy dạy sử), cóng rắn cắn gà nhà. Nghe tên thấy ghê răng. Nhưng sau này ngao du thấy ông Ánh và con cháu ông để lại nhiều kiến trúc hữu lý như lăng tẩm, vườn chùa và nhất là kinh thành Huế. Thăm nom thấy toát lên vẻ lãng mạn, kỳ phu, cẩn tụng và nhất là thấy bà con địa phương chắc ơn ông vì thu được nhiều tiền từ du khách viếng thăm. Rồi lại được công nhận di sản. Có di sản là một bộ phận có ăn. Có ăn là có ơn. Xét về cá nhân, mình thấy ông Ánh mang lại nhiều lợi hơn ông Huệ. Ông Ánh cho cảm xúc và tầm mở mang, hiểu biết với mình nhiều hơn ông Huệ. Ông Ánh cho những điển tích giáo dục, răn dạy…thiện nguyện và rõ ràng hơn ông Huệ. Ông Huệ thì có tài liệu ghi tù mù là đoạt vợ người, đè chị em dâu …này nọ thấy không đáng và hơi ghê răng nên chả thích…

Em thích ông Ánh hơn ông Huệ

Ấy là nói cái cảm nhận cá nhân mình. Chứ mình chả ở cùng thời với các cụ ấy nên nói chắc chắn chả dám. Nhưng cái chắc là sử thì nịnh phe thắng là trúng bóc. Vậy nên không bàn nhiều…

Nhưng có một điều, khoảng vài chục năm nữa, đám con cháu chúng mình nó bàn về sử chắc chắn không giống chúng mình vì lúc ấy nhiều vùng chả còn phạm húy với cấm kỵ nữa!
 

fun4u

Xe điện
Biển số
OF-396176
Ngày cấp bằng
10/12/15
Số km
2,864
Động cơ
470,663 Mã lực
Nơi ở
Gia Long thành
Quyển "Đàng Trong thời chúa Nguyễn" e thấy cụ Chính tuyển dịch nhiều bài hay.

Về vụ công nghệ đóng tàu biển khiến người Anh phải học tập thì e nghĩ là hơi chém.

Công nghệ đóng tàu của vua GL là học từ các chiến thuyền Châu Âu (do Ba Đá Lộc mua giúp, ...), vua GL cho gỡ tàu ra để học các công nghệ thiết kế từ đó.




Thế thì, tại sao em lại nói "nhiều tượng đài [Pháp] bị sụp đổ"?

Là vì,
Các sử gia thuộc địa đã tìm mọi cách nâng tầm công lao của của những người Pháp giúp cụ Ánh. Tâng bốc những sĩ quan Pháp như Manuel, Dayot thành những tổng chỉ huy thủy binh đại tài, giúp cụ Ánh đánh đông dẹp bắc. Trong khi, họ [những người Pháp] chưa bao giờ là sĩ quan, chỉ là những lính đánh thuê tầm thường. Thậm chí còn là gián điệp, vẽ lại bờ biển nước Nam dâng về cho nước Pháp, nhằm giúp nước Pháp tấn công nước Nam khi đủ điều kiện.
Người vẽ bản đồ này là ai, dâng về cho Pháp như thế nào, nước Pháp có sử dung bản đồ ấy không?
Tất cả những câu hỏi này đều có câu trả lời chính xác.

Ở chiều ngược lại, họ ra sức bóp méo các nhân vật lịch sử Việt. Họ vẽ lên chân dung những vị vua tham tàn, độc ác. Họ đổ cho dân Nam cái tội man di mọi rợ, ăn thịt lẫn nhau, hay các hình phạt tàn khốc, còn văn hóa thì chẳng có gì. Phải chờ người Pháp dạy cho cách xây dựng các thành trì kiểu Vauban...

Những điều nói trên ở đâu ra?
Bịa?
Tất cả cũng đều dựa vào các thư từ, tài liệu của phương Tây mà thôi.

Người Pháp khi viết sử Nam, họ ém nhẹm đi các thông tin bất lợi cho họ. Còn thông tin về công lao vốn chỉ có một, nhưng vẽ thành trăm.
Thế nên, thay vì chép nguyên si những gì người Pháp viết ra, chúng ta cần phải đối chiếu sự khác nhau, sự mâu thuẫn giữa các thông tin. Cùng một vấn đề, phải dùng nhiều nguồn sử liệu khác nhau soi chiếu rõ ràng. Cũng như, nếu nhìn lên mặt trăng, mà chỉ nhìn từ trái đất thì vĩnh viễn chỉ thấy được mặt sáng của nó vậy.

Những sử quan thuộc địa dựa vào thư từ của các giáo sĩ, sĩ quan Pháp để viết sử của người Việt.
Thế thì, chúng ta cũng sẽ dựa vào các tài liệu này. Tất cả đều có trong văn khố quốc gia Pháp. Chẳng qua, chúng ta không tìm đọc mà thôi, do đã quá tin vào các sách sử bị bóp méo hàng trăm năm nay.
Tất cả sự thực lịch sử u tối kia sẽ được soi rọi sáng sủa, nếu chúng ta thôi không chép mãi những điều gian trá của người Pháp đã viết về người Nam chúng ta. Như những gì cụ Krupta, cụ Nokfev đang làm.

Ngoài tư liệu người Pháp, chúng ta còn có người Anh, người Nhật... họ đã đều từng đặt chân tới Đàng Trong vào thời điểm có cuộc chiến tranh Tây Sơn-Gia Long, và đều đã xuất bản ở nước họ...

Nhưng khổ một nỗi, chỉ cần hơi có ý khác, là ngay lập tức đã bị;



Nhưng cũng rất may là không phải ai cũng vậy. Trong đó có cụ Hàn Phi.
Khởi đầu để các cụ tìm hiểu sự thật chính là cuốn sách mà cụ Hàn Phi đã đưa ảnh ở mấy trang trước, nhưng dường như không mấy ai để ý.
Nói thêm: Cuốn sách này bị các sử quan thuộc địa ra sức phỉ báng, bị bôi nhọ không thương tiếc.
Người Pháp phủ nhận cuốn sách này để làm gì?
Cũng chỉ vì cuốn sách đã lột được cái mặt nạ [phần nào thôi] mà người Pháp đang đeo trên măt.







Vì đây là thớt của cụ doctor76, nên em sẽ không nói thêm về vấn đề này nữa.
Có thể, sau khi cụ doctor trình bày xong, nếu có thời gian, em sẽ mở thớt, dùng chính những tài liệu của Pháp, vốn bị ém nhẹm bấy lâu nay/hoặc không bị ém nhẹm, nhưng không ai tìm hiểu, để nói thêm về lịch sử thời kỳ này.
 

The_very_lonely_boy

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-474640
Ngày cấp bằng
2/12/16
Số km
474
Động cơ
202,600 Mã lực
Tuổi
40
Em cũng có suy nghĩ giống cụ, bộ môn sử hiện nay có vấn đề. Nếu nói Tây Sơn được lòng dân, thì làm sao mà sụp nhanh thế, tại sao anh em Quang Toản và rất nhiều tướng lĩnh đi trốn gần như bị dân bắt ngay lập tức rồi đem nộp? Nếu Nguyễn Ánh mất lòng dân thì tại sao bị Tây Sơn truy lùng phải trốn trui lủi bao nhiêu năm trời mà chẳng thấy người dân nào bắt đem nộp Tây Sơn, trái lại còn được người dân che trở cho thoát nạn?
Em cũng có suy nghĩ giống cụ, bộ môn sử hiện nay có vấn đề. Nếu nói Tây Sơn được lòng dân, thì làm sao mà sụp nhanh thế, tại sao anh em Quang Toản và rất nhiều tướng lĩnh đi trốn gần như bị dân bắt ngay lập tức rồi đem nộp? Nếu Nguyễn Ánh mất lòng dân thì tại sao bị Tây Sơn truy lùng phải trốn trui lủi bao nhiêu năm trời mà chẳng thấy người dân nào bắt đem nộp Tây Sơn, trái lại còn được người dân che trở cho thoát nạn?
Theo e do thằng pháp thôi, nó không đem nhiều quân nhưng mà cho đội ngũ chuyên gia với súng đạn tàu bè, kĩ thuật xây thành giúp thì tây sơn đỡ vào mắt. Không có pháp giúp kĩ thuật thì ánh sao mà tay không khôi phục giang sơn được?
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ý đánh ra Bắc Hà, việc Nguyễn Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ.
Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón, cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng.
Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam... Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc tức giận, giết người ủng hộ Nguyễn Huệ là công thần Nguyễn Thung.
Khoảng đầu năm 1787, Nguyễn Huệ mang quân 60.000 Nam tiến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị Nguyễn Huệ bắt sống.
Chiến trận rất khốc liệt, tổn thất của cả hai phía rất cao, đến nổi Nguyễn Huệ phải bắt thêm toàn bộ số đinh Thuận-Quảng vào lính, đến nỗi nhiều vùng không còn đàn ông nữa (theo thư của các linh mục Pháp).
Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em đừng đánh thành nữa. Nguyễn Huệ bằng lòng giảng hòa với anh…
Giữa anh em vua Thái Đức dù giảng hoà nhưng chưa hoàn toàn xoá bỏ hiềm nghi. Nguyễn Nhạc vẫn ngầm mang ý định giành lại quyền lực. Nhân tướng Nguyễn Văn Duệ dưới trướng Nguyễn Huệ vốn được giao giữ Nghệ An lại ngả theo Nguyễn Nhạc, ông bèn tranh thủ sự ủng hộ của viên tướng này. Tháng 3 năm 1788, Nguyễn Duệ vào Quy Nhơn theo Nguyễn Nhạc rồi mang quân đánh ra Quảng Nam do Nguyễn Huệ quản lý. Duệ nhanh chóng bị đánh tan. Duệ bị bắt và xử tử.
Nguyễn Nhạc không muốn Huệ đánh ra bắc không phải vì sợ không kiểm soát được Huệ. Nhạc sợ là cái nho giáo của đất bắc, nhà Lê ở đó rất lâu đời nền móng vẫn còn. Đánh thì dễ nhưng giữ là rất khó, lòng người không theo. Sau này Ánh cũng có thu phục được đất bắc nhưng Huệ đã đập tan tành rồi nên nổi dậy không nổi.
  • Huệ đánh tan tành đất bắc xong, phải lập Lê Chiêu Thống, lấy Ngọc Hân. Vỗ về nhân sĩ vẫn không xong.
  • Tôn Sĩ Nghị qua cũng phải dùng chiêu phò Lê nếu không cũng khó yên với đất bắc.
  • Nguyễn Ánh xong cũng phải vỗ về con cháu Lê Trịnh.
  • Thậm chí cả trăm năm sau, Pháp qua dân Bắc còn không theo Nguyễn chống xâm lược
 

saubapcai

Xe đạp
Biển số
OF-208094
Ngày cấp bằng
29/8/13
Số km
27
Động cơ
317,360 Mã lực
https://www.wattpad.com/364390-quang-trung-nguyễn-huệ-1752-1792
http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/quangtrung.htm
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.

http://www.hodangbinhnghi.com/index.php?id=32
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.
e lội lại thớt chưa biết có cụ nào rep chưa, nhưng cơ bản năm tây - ta ko trùng nhau nên thế là thường. vd T1 thuộc năm âm trước nhưng T5 thuộc năm âm sau thôi
 

greenbk

Xe buýt
Biển số
OF-48153
Ngày cấp bằng
7/10/09
Số km
542
Động cơ
464,730 Mã lực
Nơi ở
hà nội
em cũng đang tìm hiểu lịch sử VN thời Trịnh - Nguyễn. xin đặt gạch hóng ạ.
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
Sự kiện năm 1773 tại Quảng Nam quốc
Năm ngoái, tức là năm 1773.
Vào đầu tháng Tư, nhiều nhóm người từ Quảng Nam quốc bắt đầu di chuyển về phía các toán cướp trên núi – ngọn núi này là ranh giới giữa tỉnh Quy Nhơn và Phú Yên.
Giữa ban ngày ban mặt, họ kéo xuống các chợ, mang theo vũ khí: kiếm, cung tên, súng. Tuy nhiên, họ không phá phách, không giết người, không cướp bóc. Trái lại, họ kêu gọi tinh thần tương trợ giữa những người dân Quảng Nam quốc.
Họ tìm đến nhà các phú ông, nếu các phú ông tự nguyện hiến tặng, họ rút lui mà không gây tổn hại gì. Nhưng nếu có người chống đối, họ sẽ tịch thu những món đồ xa xỉ rồi phân phát cho người nghèo, chỉ giữ lại lương thực và thực phẩm cho mình.
Ban đêm, họ rút về núi, ban ngày lại di chuyển từ làng này sang làng khác, buộc dân làng phải phục tùng. Nếu bị chống cự, họ đe dọa phóng hỏa.
Trong suốt bảy tháng, họ hoạt động khắp tỉnh Phú Yên và một phần tỉnh Quy Nhơn.
Quan chức trong vùng đều biết về các cuộc di chuyển này, nhưng không bắt giữ. Dân chúng cũng không chống lại, bởi những toán người này lấy của người giàu chia cho dân nghèo. Vì vậy, người dân gọi họ là "kẻ cướp có nghĩa và từ thiện".
Mỗi nhóm khoảng 300 người, riêng nhóm Dou-hau có 600 người. Họ tấn công các đoàn thu thuế, đốt giấy tờ công chứng. Quan thu thuế chống cự, bị chém một nhát vào vai trái, rồi chạy thoát.
Những biến cố này đến tai nhà vua, nhưng yêu cầu viện binh không được chấp thuận.
Ban đầu, họ đi chân đất, nhưng đến giữa tháng Tám, họ cưỡi ngựa, đi cáng hoặc võng như quan lớn. Mỗi nhóm có cờ hiệu bằng lụa điều dài 9 thước (~5,8m).
Họ tuyên truyền rằng mình không phải cướp, mà được "Trời và Đức Thầy Cả" phái xuống. Tuy nhiên, không ai xác định được Đức Thầy Cả là ai.
Giữa tháng Chín năm 1773, họ bao vây dinh Tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên và chiếm giữ. Quan Tuần phủ bỏ trốn, chỉ mang theo ấn tín, chạy hai ngày đường đến Tam Quan (Hoài Nhơn, Bình Định). Những kẻ nổi dậy không giết vợ con ông, nhưng tịch thu của cải, vũ khí và đốt trụ sở. Họ chiếm cả tỉnh Phú Yên theo cách tương tự.
Họ bắt giam các quan tham nhũng, thả hết tù nhân phạm tội nhẹ.
Họ buộc dân làng phải thề trung thành, giết những chủ thôn chống đối, đốt giấy tờ thuế khóa.
Họ ban lệnh xóa bỏ thuế, chỉ giữ lại thuế địa tô 1,5 quan/năm như tục lệ Bắc Hà. Dân chúng hoan nghênhtặng nhiều lễ vật.
Họ bắt giam quan lại, binh lính, nhưng không hại dân thường.
Họ phong tỏa liên lạc giữa triều đình với các tỉnh từ Phú Yên đến Sài Gòn, khiến đi lại đường bộ và đường biển bị đình trệ.
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
CUỘC CÁCH MẠNG Ở QUẢNG NAM QUỐC
Năm 1767, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát băng hà. Huệ Vương Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi, nhưng trị nước yếu kém, làm mất lòng phần lớn thuộc hạ.
Ba anh em Tây Sơn gồm Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ, quê gốc tại Tây Sơn, quyết định chớp lấy thời cơ để khởi nghĩa.
Đến giữa tháng Tư năm 1773, Nguyễn Văn Nhạc, một người mưu lược và thông minh, đã tiêu xài hết gia sản tổ tiên. Hết đường sinh sống, Nhạc buộc phải làm nghề thấp hèn để kiếm sống.
Tuy nhiên, Nhạc không cam chịu. Hắn bàn bạc với hai em và bè bạn, bàn về kế hoạch khởi nghĩa.
Những người này nhất trí hưởng ứng, đồng lòng lật đổ triều đình. Nhạc cố gắng tập hợp khoảng 23-24 tên cướp – những kẻ từng sống ẩn dật trong rừng sâu vì phạm pháp.
Lúc này, Nhạc và nhóm người ấy xuất hiện công khai, rong ruổi từ làng này qua xóm nọ, tuyên truyền với dân rằng:
"Chúng tôi không phải là kẻ xấu, mà là những người được trời phái xuống để mang công lý đến cho dân chúng, giải thoát họ khỏi ách áp bức của vua, quan và cố vấn triều đình."
Họ kêu gọi bình đẳng, đi theo tư tưởng xã hội mới, tịch thu tài sản của quan lại và người giàu để phân phát cho dân nghèo.
Dân chúng, vốn đã khốn khổ vì thuế má nặng nề, buộc phải tuyên thệ trung thành với Tây Sơn.
Tại tỉnh Chàm (tức Quảng Nam ngày nay), những người khởi nghĩa còn liên kết với người Trung Quốc, hứa sẽ tôn một quan Trung Hoa làm vua Quảng Nam quốc nếu họ giúp giải phóng dân chúng khỏi sự cai trị của triều đình.
Nhờ có sự hỗ trợ từ người Hoa và sự hưởng ứng của quần chúng, người dân bắt đầu gọi họ là "kẻ cướp có lòng từ thiện".
Đến tháng Tám năm 1773, Tây Sơn – được đặt tên theo vùng núi phía Tây nơi họ khởi nghĩacưỡi ngựa, cầm kiếm, giáo, mác tiến vào thành phố, phất cờ khởi nghĩa.
Họ chiếm lấy hoàng thành, tịch thu toàn bộ giấy tờ, tài liệu rồi đốt sạch.
Tây Sơn ban hành chỉ dụ, gồm các nội dung:
  • Xóa bỏ thuế khóa triều đình.
  • Thả tất cả tù nhân, bao gồm Giáo dân Thiên Chúa giáo và những người ngoại đạo.
  • Bãi nhiệm quan lại và quân lính trung thành với nhà vua, vì họ bị xem là những kẻ áp bức nhân dân.
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
CUỘC CHIẾN TRANH MỞ RỘNG – QUY NHƠN, PHÚ YÊN, QUẢNG NGÃI (1773)
Trong bảy tháng, quân Tây Sơn hành quân khắp tỉnh Quy Nhơn và Phú Yên, đánh đâu thắng đó, không gặp bất kỳ sự kháng cự nào.
Khi chiến tranh lan đến Quảng Ngãi, quan Tuần phủ (hoặc Trấn thủ) quyết định chống lại Tây Sơn. Trận đánh diễn ra với binh lính triều đình và năm thớt voi chiến. Tuy nhiên, quan Tuần phủ thua trận, quân Tây Sơn chiếm đoạt toàn bộ vũ khí và cả năm con voi.
Viên quan bại trận bỏ trốn, rồi tấu trình lên triều đình về tình hình nguy cấp trong tỉnh.
Khi nghe tin thất trận ở Quảng Ngãi, nhà vua lúc này mới nhận ra rằng Tây Sơn không phải là nhóm cướp thông thường, như lời các quan tham nhũng đã tâu bẩm.
Hoàng đế ra lệnh điều binh, huy động ba chiến thuyền lớn và bốn quân đoàn để đánh dẹp Tây Sơn.
TÂY SƠN CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH
Không hề sợ hãi trước quân chính quy của triều đình, Nguyễn Văn Nhạc lập tức chiêu mộ thêm quân, tổ chức ba đạo quân mạnh mẽ:
  • Đạo quân thứ nhất: Gồm binh lính Trung Quốc.
  • Đạo quân thứ hai: Tập hợp những kẻ từng làm thổ phỉ, sơn tặc sống trong núi.
  • Đạo quân thứ ba: Bao gồm dân chúng Quảng Nam quốc hưởng ứng khởi nghĩa.
Đến tháng 11 năm 1773, chiến tranh chính thức nổ ra.
Nhạc tấn công đồng thời hai tỉnh Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Trận đánh kéo dài suốt ba ngày, cả hai bên đều bất phân thắng bại.
Bước ngoặt xảy ra khi quân Tây Sơn bắt được một quan lớn triều đình, do đạo quân Trung Quốc thực hiện. Khi tin này lan ra, các quan còn lại bỏ trốn, khiến quân triều đình tan rã, nhường thế chủ động cho quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn lập tức chiếm lấy thành trì, tịch thu toàn bộ vũ khí của triều đìnhthiêu hủy dinh thự quan Tuần phủ Quảng Ngãi.
NHÀ VUA LO SỢ – CHUẨN BỊ PHÒNG THỦ
Trước mối đe dọa ngày càng lớn, nhà vua ra chiếu chỉ khẩn cấp, yêu cầu:
  • Xây dựng lại cảng Chàm thành quân cảng.
  • Biến triều đình thành pháo lũy phòng thủ.
Trong khi đó, Nguyễn Văn Nhạc, sau chiến thắng, tận dụng sự bất hòa giữa các quan triều đình để chuẩn bị mở rộng cuộc chinh phạt.
LỜI GHI CHÉP CỦA ĐỨC CHA DIEGO DE JUMILLA
Lúc bấy giờ, trong vùng tỉnh Chàm và Quy Nhơn, có Đức cha Diego de Jumilla, một nhà truyền giáo, chứng kiến toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa.
Ông viết thư cho cha Jean Salguaero, bày tỏ cảm xúc cá nhân về tình hình hỗn loạn.
"Kính chào Đức Bà Maria. Gửi đến ủy viên kính yêu Jean Salguaero, huynh trưởng Hội Truyền giáo tại Quảng Nam quốc và Campuchia.
Tôi kính chào lòng từ bi của Cha và xin cúi mình trước những giáo sĩ đức hạnh.
Tôi cầu mong tất cả đều có được sự an yên về tâm linh và vật chất.
Tôi xin hoàn toàn phục tùng Cha và sẵn sàng tiếp nhận mọi mệnh lệnh.
Tôi mong Cha lưu ý về tình hình như sau..."
(Lá thư tiếp tục mô tả những diễn biến của cuộc chiến.)
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
BỨC THƯ CỦA ĐỨC CHA DIEGO DE JUMILLA – TƯỜNG TRÌNH CUỘC BIẾN LOẠN
**"Một tháng sau khi tôi đến tỉnh Chàm, tại hải cảng Fai-Fo (Hội An), tôi đã viết một bức thư nhờ thuyền trưởng chuyển đến Cha. Tôi đã đi thuyền của ông ấy để trở về đây.
Thuyền trưởng này là thân thuộc của Outhruom-thay (có lẽ là Ông Trùm Thầy) ở xứ Bến Nghé (Sài Gòn). Sau đó, ông ta quay về Natlang (Nha Trang ngày nay) và mang theo những vật dụng mà tôi kính gửi Cha.
Ông ấy cho biết tháng Mười Hai sẽ đi tỉnh Ray-gon (tỉnh giáp Campuchia, hiện không rõ là tỉnh nào). Tôi tin rằng Cha đã nhận được bức thư của tôi, trong đó tôi đã thuật lại mọi biến cố từ tháng Bảy trở lại đây, cũng như kế hoạch đi giáo phận Quy Nhơn để chăm sóc tín đồ của chúng ta."
HÀNH TRÌNH ĐẾN QUY NHƠN – BIẾN LOẠN VÀ BỊ TÀN PHÁ
Vào ngày 7 tháng 8, Đức Cha đi đường bộ đến Quy Nhơn, không gặp trở ngại nào.
Đến ngày 17 tháng 8, ngài đến địa phận truyền giáo Gia Hữu (có thể là Gia Hội) và quyết định ở lại theo lời mời của các thầy giảng đạo.
Lúc này, cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã nổ ra mạnh mẽ, nhưng ngài vẫn lưu lại khoảng một tháng để lắng nghe các tín đồ xưng tội. Tổng số tín đồ tại đó và các vùng lân cận lên đến khoảng 600 người.
Tuy nhiên, biến cố lớn đã xảy ra:
  • Thầy giảng trưởng không cho ngài đi đến Dou-hau (không rõ địa danh này).
  • Những tín đồ đi đến đó vào hôm ấy khi trở về bị quân nổi loạn phục kích, tổng số khoảng 600 người bị bao vây.
  • Ngày hôm sau, toàn bộ ngôi làng bị tàn phá hoàn toàn.
QUÂN TÂY SƠN TÀN PHÁ NHÀ THỜ VÀ DI TÍCH TÔN GIÁO
Nhóm khởi nghĩa Tây Sơn cướp sạch tài sản trong làng, nhà thờ cũng không thoát khỏi thảm họa:
  • Chúng lấy tấm khảm trải bàn thờ, xé hình Đức Bà Porteria – bức tranh vẽ trên vải bố do các giáo sĩ truyền giáo đời trước để lại.
  • Tượng Đức Ki-tô bằng ngà bị đập vỡ một cánh tay, sau đó bị vứt ra bãi cát sau nhà thờ. Một nhóm người ngoại đạo trong đoàn kịch đã nhặt lại bức tượng.
  • Giáo dân quyết định chuộc lại tượng với giá 10 quan, nhưng nhóm ngoại đạo đòi đến 20 quan.
  • Hình Đức Bà Porteria còn nguyên hai chân nhưng bị Ông Trùm đốt sạch.
  • Màn che bàn thờ do Đức Cha dâng tặng cũng bị lấy đi.
  • Tuy nhiên, chúng không lấy Kinh Thánh vì những cuốn sách ấy quá nặng để mang theo.
Toàn bộ những sự việc này đã được thầy giảng trưởng làng Dou-hau ghi chép lại.
SỰ HOẢNG LOẠN CỦA CÁC GIÁO SĨ VÀ QUYẾT ĐỊNH CHẠY TRỐN
Tình hình trở nên vô cùng nguy hiểm, khiến các thầy giảng và tín đồ hoảng sợ:
  • Một nhóm muốn Đức Cha rời khỏi vùng đất nguy hiểm này.
  • Một nhóm phản đối, cho rằng Đức Cha nên ẩn náu trong khu rừng gần đó, nơi có hai ngôi nhà của tín đồ.
  • Hơn 30 thầy giảng từ nhiều làng tập trung lại, bàn bạc suốt 8 ngày để tìm cách bảo vệ ngài.
Lúc này, tin tức khẩn cấp đến:
  • Quân Tây Sơn tiến đến dinh quan Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên (trấn thủ thành Quy Nhơn).
  • Chúng ép quan Tuần phủ phải bỏ trốn.
  • Ông ta vội vàng chạy thoát, chỉ kịp mang theo ấn tín, nhưng lại đánh rơi trên đường.
  • Tây Sơn đốt dinh thự và chiếm toàn bộ tỉnh, giết sạch những ai dám chống cự.
  • Nghe tin này, toàn bộ các thầy giảng đều bỏ trốn, chỉ còn lại ba người dũng cảm ở lại.
Lúc này, ai cũng hiểu rằng tính mạng Đức Cha đang bị đe dọa.
CUỘC TRỐN CHẠY VỀ QUẢNG NGÃI
Hơn 300 tín đồ rơi nước mắt, tuyệt vọng trước tình thế nguy nan.
Tuy nhiên, vào đêm định mệnh đó, thầy giảng trưởng Ou-Thu-Cao, một người gan dạ và kiên quyết, đã tập hợp:
  • 20 thanh niên tín đồ.
  • 3 thầy giảng.
  • 3 con ngựa, với nhiệm vụ bảo vệ Đức Cha.
Vào 3 giờ sáng, họ bí mật lên đường trốn về Quảng Ngãi.
**"Tôi phải đi bằng võng, các thanh niên thay nhau khiêng. Những lễ phục của tôi được họ gánh vác.
Chúng tôi men theo những con đường mòn, leo qua nhiều ngọn núi cao.
Đến chiều hôm sau, khoảng 5 giờ, chúng tôi đến được bờ biển.
Chúng tôi tiếp tục đi trong 3 ngày nữa, chịu đựng sự đói khát khủng khiếp, phơi mình dưới cái nắng gay gắt tháng Chín.
Trên đường đi, không có một mái nhà nào để trú nắng, chỉ toàn là rừng rậm và cát bỏng."**
Hai thanh niên trong đoàn giả làm lính, mang theo đồ trang sức của nhà thờ, đề phòng bị kiểm tra.
ĐẾN ĐƯỢC CHÙA CHIA-LA – CẢM TẠ THƯỢNG ĐẾ
Cuối cùng, nhờ sự che chở của Đức Thượng Đế và Đức Bà, họ đã đến được làng Chia-La (không rõ nay là đâu), nơi có một nhà thờ dòng Tên.
**"Chúng tôi quỳ xuống, cảm tạ Chúa vì đã cứu chúng tôi khỏi cái chết cận kề.
Do nguyện vọng của các tín đồ trong tỉnh, tôi đã ở lại Chia-La thêm hai ngày.
Nhưng nơi đây lại không có linh mục. Đức Bề Trên của các giáo sĩ dòng Tên, Cha Jean de Loureiro, đã nhiều lần bày tỏ sự lo lắng về tình trạng vắng linh mục tại đây."**
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
HÀNH TRÌNH CHẠY TRỐN VÀ SỰ NGUY HIỂM CỦA CÁC GIÁO SĨ
Khi tình hình trở nên nguy cấp, các tín đồ rút lui hết, để lại Đức Cha Diego de Jumilla dưới sự che chở của các giáo sĩ dòng Tên. Suốt hơn một tháng, ngài vẫn tiếp tục chăm sóc các tín đồ trong tỉnh, dù tâm lý ai cũng hoảng sợtrước sự mở rộng thế lực của quân Tây Sơn.
Lúc này, Tây Sơn đã chiếm Quy Nhơn, khiến các quan trong tỉnh chạy trốn lên Quảng Ngãi.
Trong thời gian đó, Đức Cha nhận được thư từ thầy giảng trưởng Ou-Thu-Cao, người đang ở Quy Nhơn. Trong thư, thầy báo tin rằng quân Tây Sơn đang có kế hoạch đánh chiếm Quảng Ngãi.
Hiểu rằng không còn an toàn, Đức Cha triệu tập tất cả các thầy giảng, thông báo tin xấu rằng ngài bắt buộc phải trở về tỉnh Chàm. Ngài dự định đến trú sở của Hội Truyền giáo tại Thiên-doa (không rõ địa danh này, nhưng nằm bên trong Đà Nẵng, gần sông Hàn).
Tại đây, ngài hy vọng sẽ gặp huynh trưởng giáo sĩ Fernand de Olmedilla, cùng bàn bạc về cách bảo vệ sinh mạng của các giáo sĩ và tài sản của Hội Truyền giáo. Tài sản này có thể phải chôn giấu để tránh rơi vào tay quân Tây Sơn, trong trường hợp họ lật đổ triều đình và kiểm soát cả quốc gia.
QUYẾT ĐỊNH CHẠY TRỐN VỀ TỈNH CHÀM
Sau khi nghe những lý do của Đức Cha, các thầy giảng lập tức sắp xếp cho ngài ra đi. Trong bốn ngày, họ chuẩn bị mọi thứ.
Ngài lên đường cùng hai thầy giảng hộ tống, đi vòng qua một xóm đạo tên Sang, cách Chia-La một ngày đường đi bộ.
Trên đường đi, họ không gặp trở ngại nào, nhưng vì địa hình đồi núi hiểm trở, cả đoàn mệt mỏi vô cùng.
Sau hai ngày, Đức Cha ở lại xóm đạo để nghe các tín đồ xưng tội.
LÍNH TRIỀU ĐÌNH RA CHỈ DỤ KHẮT KHE – TÌNH HÌNH NGUY HIỂM HƠN
Trong khi đó, Đức Cha nhận được tin báo từ các thầy giảng ở Chàm:
"Theo chiếu dụ của triều đình, lính tráng đang được lệnh kiểm tra tất cả những người đi đường.
Họ tra hỏi nguồn gốc xuất thân, điểm đến và mục đích di chuyển.
Ngay cả các quan đi võng hoặc cáng cũng bị xét hỏi, vì triều đình lo sợ có những kẻ mang thư tín bí mật cho quân khởi nghĩa."
Ngay khi nghe tin này, các thầy giảng và tín đồ vô cùng hoảng sợ.
Đêm hôm đó, tất cả các thầy giảng trốn chạy, bỏ lại Đức Cha một mình với toàn bộ lễ phục.
Chỉ có một thầy giảng ở tỉnh Chàm dám ở lại.
BẾ TẮC – KHÔNG THỂ RỜI ĐI
Hai thầy giảng hộ tống Đức Cha cố gắng thuê ghe trong đêm, nhưng không thể thành công.
Lý do là quan Tuần phủ đã ra lệnh cấm tất cả ghe thuyền rời cảng, chỉ trừ thuyền đánh cá, nhưng chúng cũng bị kiểm tra kỹ lưỡng trước khi ra khơi và lúc cập bờ.
Với mọi con đường bị phong tỏa, Đức Cha hoàn toàn không biết phải làm gì tiếp theo.
CUỘC GẶP GỠ VỚI NGƯỜI TÍN ĐỒ GAN DẠ
Đúng lúc đó, một tín đồ đến gặp Đức Cha để xưng tội.
Người này từng bị kết án làm lao dịch, bị ép cắt cỏ cho voi ăn vì đã từ chối giẫm lên ảnh tượng Chúakhông chịu từ bỏ đạo Công giáo.
Hắn bị đánh dấu là "Tả Đạo", với vòng sắt lớn đeo quanh cổ, dây xích treo một tấm thẻ sắt, trên đó khắc hai chữ "Tha Dao", mang ý nghĩa "dị giáo, đáng nguyền rủa".
Người tín đồ này quỳ xuống và nói với Đức Cha:
"Xin Cha đừng lo sợ, con sẽ hộ tống Cha.
Chúng ta cần tìm một con đường mà không ai biết.
Con chỉ mong Cha nhờ các thầy giảng khuân giúp những vật phẩm của nhà thờ và đồ dùng cá nhân của Cha."
Tuy nhiên, các thầy giảng đều quá sợ hãi, không ai dám mang theo bất kỳ món đồ nào.
NHỮNG THIẾU NỮ GAN DẠ NHẤT
Khi thấy các thầy giảng đều khiếp sợ, người tín đồ và thầy giảng tỉnh Chàm đã bàn bạc với các thiếu nữ trong làng.
Kết quả thật bất ngờ:
"Những thiếu nữ ấy lập tức thể hiện tinh thần gan dạ như nam nhân.
Họ tình nguyện mang lễ phục và đồ thờ phụng lên đường, đi về tỉnh Chàm bằng con đường lộ chính."
Hành động này đã khích lệ tinh thần của những thanh niên khác. Một số chấp nhận giúp Đức Cha, khiêng vác những vật phẩm nặng nề.
LỜI CẢM TẠ THƯỢNG ĐẾ
Cuối cùng, Đức Cha xúc động viết:
**"Tạ ơn Chúa, vì Ngài đã khiến trái tim con người trở nên hăng hái, bảo vệ những ai trung thành với Đức Tin.
Và ánh hào quang của Ngài lại được tỏa sáng giữa gian truân."**
(Lời này được trích từ câu Latin: "Infirma mundi elegit Deus…", có nghĩa là "Chúa chọn lựa những kẻ yếu đuối trên thế gian để làm vinh hiển Ngài.")
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
HÀNH TRÌNH TRỐN CHẠY ĐẦY GIAN NAN – ĐẾN ĐƯỢC TỈNH CHÀM
Sau khi rời khỏi xóm đạo Sang, chúng tôi tiếp tục tiến về tỉnh Chàm.
Đi cùng tôi là người tín đồ bị kết án lao dịchthầy giảng ở tỉnh Chàm, cả hai đều quyết tâm ủng hộ và bảo vệ tôi.
Nửa ngày sau, chúng tôi băng qua một truông gần bờ biển, rồi đến một vùng hoang vu, vắng vẻ. Sau đó, phải đi ngang qua lộ Vua, rồi tiến thẳng lên núi – nơi vốn là hang ổ của bọn cướp khét tiếng mà người ta từng gọi là “bọn tước đoạt sản vật của thiên hạ”.
Khi đến chân núi, tôi sực nhận ra đây chính là nơi trú ngụ của bọn cướp giết người. Một nỗi lo sợ bao trùm, tôi cất tiếng than thở:
"Chẳng lẽ các anh đưa tôi vào đây là để nộp tôi cho Tử Thần sao?"
Nhưng thầy giảng và người tín đồ liên tục trấn an tôi:
"Thưa Cha, đừng lo sợ gì cả. Lúc này, bọn cướp đã rút sâu vào rừng, không có ai ở đây đâu."
Dù vậy, tôi vẫn run rẩy vì lo lắng, bởi thân thể tôi đã quá yếu ớt và kiệt sức. Nhưng tôi vẫn giữ vững lòng tin vào sự che chở của Đức Chúa và Đức Mẹ Maria.
Tôi thúc giục cả đoàn đi nhanh hơn, nhưng đường quá gập ghềnh, với đá rừng chồi lên và vô số những con dốc dựng đứng, khiến chúng tôi không thể đi nhanh được.
Trên đường đi, chúng tôi thấy nhiều thung lũng nhỏ, nơi từng có đất canh tác của nông dân. Nhưng giờ đây, ruộng vườn bị bỏ hoang, bởi dân chúng đã chạy trốn do bị bọn cướp hoành hành và giết hại hàng ngày.
Sau một ngày dài mệt mỏi, vào khoảng 3 giờ chiều, nhờ ơn Thượng Đế, chúng tôi ra khỏi khu rừng và đặt chân đến đồng ruộng tỉnh Chàm.
NỖI VUI MỪNG KHI THOÁT KHỎI TỬ THẦN
Khi đặt chân đến vùng an toàn, chúng tôi tràn ngập niềm vui sướng, bởi đã thoát khỏi cảnh nguy hiểm cận kề.
Dù ai cũng rã rời, kiệt sức, chúng tôi vẫn cố gắng đi tiếp đến Ka-do.
Đúng 3 giờ chiều, tôi đến nhà thầy giảng. Lập tức, tôi vào giảng đường, quỳ xuống cảm tạ Thiên Chúa, vì chỉ có những ai từng đặt chân vào vùng núi ấy mới hiểu được mối nguy hiểm ghê gớm đến nhường nào.
"Tạ ơn Chúa, vì Ngài đã che chở cho chúng con thoát khỏi hiểm nguy!"
Tối hôm ấy, quá mệt mỏi, chúng tôi nằm trên chiếu trải dưới đất để nghỉ ngơi.
Tôi là người kiệt sức nhất, vì chưa bao giờ phải đi đường núi hiểm trở như vậy.
Nhưng dù mệt mỏi đến đâu, tôi vẫn đủ sức nói một câu trách yêu với thầy giảng và người tín đồ đã dẫn tôi đi:
"Đức Chúa chắc hẳn sẽ tha lỗi cho sự liều lĩnh của hai anh, vì hai anh đã đưa tôi qua con đường đầy nguy hiểm như vậy!"
Và tôi thú thật rằng:
"Dù ai có hứa sẽ đội vương miện Quảng Nam quốc cho tôi, tôi cũng không dám phiêu lưu lần nữa vào khu rừng đó!"
Nghe vậy, thầy giảng và người tín đồ đáp lại với giọng điềm tĩnh và đầy đức tin:
**"Thưa Cha, chúng con có lòng tín nhiệm nơi Đức Chúa nên mới dám đưa Cha đi trên con đường ấy.
Tạ ơn Trời, vì nhờ thiện cử ấy và nhiều nghĩa cử khác, chúng ta đều là những con nợ của ân sủng Đức Chúa Trời."**
TIN VUI ĐẾN – NHÓM THIẾU NỮ DŨNG CẢM TRỞ VỀ BÌNH AN
Một lát sau, người ta dọn cơm cho chúng tôi.
Trong lúc đang ăn, những thanh niên và thiếu nữ mang đồ đạc từ nhà thờ đã đến nơi.
  • Một nhóm băng rừng để đi đường tắt.
  • Một nhóm đi trên lộ Vua, bất chấp nguy hiểm.
Sự bình an trở về của họ khiến chúng tôi vui mừng khôn xiết, vì giờ đây mọi hiểm nguy đã lùi xa.
CHUẨN BỊ CHO HÀNH TRÌNH VỀ THIÊN-DOA
Chúng tôi sẽ đi bằng đường sông, và nếu thuận lợi, chỉ mất hai đêm hai ngày để đến trú sở Thiên-doa.
Tuy nhiên, các thầy giảng mong muốn tôi ở lại thêm ít ngày để chăm sóc tín đồ, nên tôi đồng ý ở lại thêm năm ngày.
Những tín đồ từ xóm Sang nghe tin tôi đến cũng nán lại năm ngày để gặp gỡ và cầu nguyện cùng tôi, trước khi tôi xuống ghe về Thiên-doa.
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
ĐÊM TRỐN CHẠY ĐẦY HIỂM NGUY
Tôi muốn giữ các tín đồ ở lại để ủng hộ tôi suốt đêm, bởi vì vào ban đêm, bọn cướp thường kéo xuống làng, cướp bóc, giết chóc và phóng hỏa nhà cửa.
Vì lẽ đó, nhà cửa trong làng đều được xây dựng trên sàn cao, bao quanh là hàng rào bằng cây gai và tre, đủ khả năng chống lại sự tàn phá của cướp.
Nếu bọn cướp lọt qua được hàng rào, dân làng sẽ leo lên cây cao, nơi họ đã dựng sẵn những chòi ẩn nấp trong tán lá. Từ các chòi trên cao, họ bắn tên xuống bọn cướp, ngăn chặn chúng tàn sát.
Chỉ một năm trước, bọn cướp đã nhiều lần tấn công vào làng này.
Có lần, chúng còn đột nhập vào nhà thầy giảng và sát hại con gái ông bằng lưỡi giáo.
Vì vậy, tôi quyết định giữ các tín đồ lại để bảo vệ mình trong những ngày ở đây.
XUỐNG GHE – KHỞI HÀNH VỀ THIÊN-DOA
Năm ngày sau, các tín đồ thuê được một chiếc ghe, chất lên toàn bộ đồ đạc và vật phẩm của nhà thờ.
Sau khi đưa tôi xuống ghe, các tín đồ trở về xóm đạo Sang ở Quảng Ngãi.
Cùng đi với tôi có hai người:
  • Một thầy giảng.
  • Một tín đồ bị đóng dấu "Tả Đạo" trên cổ.
Chúng tôi xuống thuyền với tâm trạng đầy lo lắng, vì không biết trên đường đi sẽ gặp những nguy hiểm nào.
TRÊN SÔNG – CHẠM TRÁN QUÂN TRIỀU ĐÌNH
Đúng như dự đoán, trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều ghe chở đầy lính triều đình.
Tuy nhiên, may mắn thay, không có ai tra hỏi hay kiểm tra ghe của chúng tôi.
Khi mặt trời dần khuất sau đường chân trời, chúng tôi ăn chút lương thực lót dạ.
Lúc này trời đã tối, và chúng tôi đang dần đến sở thương chính.
Trước khi lên bờ, chúng tôi quyết định một địa điểm gặp lại nhau vào lúc 12 giờ khuya, phòng trường hợp bị chia cắt trên đường đi.
ĐÊM TỐI – LẠC TRONG RỪNG
Vào 8 giờ tối, chúng tôi rời thuyền, đi bộ lên bờ.
Đoàn đi ngang qua những giồng cát, rồi vào một khu rừng rậm.
Tuy nhiên, chỉ sau một giờ di chuyển, chúng tôi bị lạc hướng và quay trở lại mép sông.
Không còn cách nào khác, chúng tôi phải tìm một con đường khác để tiếp tục di chuyển.
Đoàn băng qua một khu rừng chồi đầy gai góc, nhưng tôi đi chân trần, khiến gai nhọn đâm vào chân đau đớn đến tận xương tủy.
"Tôi cảm thấy như thể đang chịu nỗi đau của cả ngàn vết thương."
Mệt lả, thở hổn hển, chúng tôi vẫn phải gắng sức đi trong bóng tối, lòng đầy nỗi sợ hãi rằng nếu gặp người lạ, họ có thể xem chúng tôi là kẻ trộm và bắt giữ ngay lập tức.
BỊ PHÁT HIỆN – CUỘC CHẠY TRỐN CĂNG THẲNG
Sau hơn hai tiếng đi lạc, chúng tôi băng qua rừng chồi, rồi đến một cánh đồng đầy nước và bùn lầy.
Lúc này, thầy giảng bị trượt chân ngã hai, ba lần trong bùn, nhưng vẫn cố gắng đứng dậy và tiếp tục di chuyển.
Đúng lúc chúng tôi tiến đến bờ sông, chó trong làng gần đó sủa vang trời.
Bất ngờ, ba người đàn ông cầm bó đuốc xuất hiện, tiến về phía chúng tôi.
"Lúc đó, tôi hoảng sợ đến tột độ. Tôi nghĩ họ là quan binh đến bắt chúng tôi. Nhưng lúc này, tôi đã kiệt sức, không còn khả năng chạy trốn."
Ba người kia đến gần và hỏi chúng tôi đi đâu.
Thầy giảng nhanh trí đáp:
**"Chúng tôi đang đi tìm một chiếc thuyền để qua Đồng Nai.
Đây là hành lý chúng tôi mang theo để lên thuyền."**
Khi thầy giảng trò chuyện với ba người lạ, tôi kéo thấp vành nón, che mặt lại.
Lúc này, trăng đã lên cao, tôi sợ họ có thể nhận ra tôi, nên quay lưng về phía họ, tránh ánh sáng từ bó đuốc.
THOÁT KHỎI NGUY HIỂM
Sau một hồi hỏi chuyện, ba người kia bỏ đi, tiếp tục công việc đánh cá của họ.
Lúc này, chúng tôi mới dám thở phào nhẹ nhõm, vui mừng vì đã thoát khỏi nguy hiểm.
 

a.b.c

Xe tải
Biển số
OF-127111
Ngày cấp bằng
9/1/12
Số km
274
Động cơ
378,370 Mã lực
HÀNH TRÌNH CUỐI CÙNG – ĐẾN ĐƯỢC THIÊN-DOA
Vào nửa đêm, thuyền của chúng tôi cuối cùng cũng đến.
Nhờ ơn Chúa, chúng tôi vượt qua sở thương chính mà không bị tra hỏi.
Lý do là vì trước đây, người hỏa đầu trong nhóm chúng tôi từng phục vụ trong triều đình, mang danh nghĩa lính hầu cho một người chú của nhà vua.
Nhờ thân thế này, các binh lính tại sở thương chính không dám xuống thuyền kiểm tra.
Không những thế, họ còn tặng trà và thuốc lá cho chúng tôi, thậm chí mời người hỏa đầu dự tiệc, vì đêm đó, quan sở thương chính tổ chức yến tiệc.
LÊN THUYỀN – RỜI KHỎI NGUY HIỂM
Chúng tôi nhanh chóng đưa toàn bộ đồ đạc và vật phẩm lên thuyền.
Lúc này, mọi hiểm nguy đã lùi xa, và chúng tôi quỳ xuống tạ ơn Chúa, vì Ngài đã bảo vệ chúng tôi trong suốt hành trình.
Nửa đêm hôm ấy, thuyền bắt đầu rời bến, lặng lẽ lướt đi trong bóng tối.
ĐẾN THIÊN-DOA – CUỘC TRỐN CHẠY KẾT THÚC
Chúng tôi đi suốt đêm, và đến 10 giờ sáng hôm sau, cuối cùng cũng cập bến trú sở Thiên-doa.
Tại đây, tôi gặp lại Huynh Trưởng Fernand, người mà tôi mong mỏi được hội ngộ.
Hành trình đầy hiểm nguy và gian nan của chúng tôi cuối cùng cũng kết thúc trong bình an.
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top