Thời gian này, có Shihõken Seishi, một thuyền trưởng người Nhật, đi tầu Hinoshita,tầu của ông bị bão, đắm, thuỷ thủ phiêu bạt đến Gia Định, được Nguyễn ÁNh, giúp, cho phương tiện trở về Nhật. Trở về Nhật, ông có viết 1 cuốn tiểu thuyết, nói về chuyến đi này, và, có một đoạn tả phong cảnh xung quanh Sài Gòn, tả thành Gia Định, và buổi ra mắt Nguyễn Ánh ở kinh thành. Thời điểm Shihõken Seishi ở Gia Định có lẽ là từ khoảng tháng 10 năm 1794 đến tháng 3 năm 1795.
1. Phong cảnh xung quanh Sài Gòn:
"Có núi cao đến tận chân mây, nhiều cây và một con sông nước trong. Biển bao bọc ba phiá. Những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. Nhờ những làng chài lưới ven biển, thợ săn trên núi nên chợ búa đầy cá và muông thú, đầy dẫy cá đồng; trong số cá biển, loại Akaei nhiều nhất ( không rõ là cá gì theo tiếng Việt?).
Quanh năm đủ thứ rau rợ, lại còn hoa quả lớn nhỏ, thêm vào thức ăn. Có thứ tre, khoảng cách giữa hai đốt dài lạ lùng. Có cả vàng, bạc. Đồng thì đến từ Quảng Đông. Một năm ba mùa gặt luá, đậu và đậu ván cũng thế. Người nghèo không biết đói là gì. Con người tử tế và nhân từ. Vua trị vì với lòng tốt và dân chúng không khổ. Nhưng nước này ở cuối Nam Hải, nơi có nhiều đảo quốc, lúc nào cũng phải đề phòng xâm lược. Không ngừng vận dụng khí giới. Tháng thứ tư năm Cảnh Hưng thứ 54 (thực ra là năm Cảnh Hưng thứ 34, 1773, Tây Sơn nổi lên), xứ Tây Sơn nổi lên chống kinh đô (Gia Định), vua đã gửi quân chinh phạt, nhưng chưa biết thắng bại thế nào. Người ta náo động sửa soạn chiến thuyền, phần đông đã khởi hành rồi..."
"... Chẳng bao lâu đã đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống kiệu đi bộ, tới vòng thành thứ nhì, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu hình bán nguyệt (cái đó gọi là Dahaimot ( không rõ tác giả nói gì). Người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng tôi đã đi và ghẹo khoảng gần 3 chõ (330m) trong khi đất cao lên độ 1 chõ (109,10m). Ở cửa vào vòng thành thứ nhì, có một đài thám thính cao 40 ken (72,80m) Một viên quan võ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận phòng vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là phòng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giã thuốc Nam. Cái cối thì cũng y như cối của ta (Nhật Bản). Xa hơn chút nữa có cửa hàng bán thuốc và sân rộng để phơi thuốc. Tất cả các loại dược phòng đều được cắt miếng to tròn hoặc chữ nhật.
Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chõ (109,10m). Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan này đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những hình khắc mầu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các miền. Ở miền Nam, từ quan lớn đến dân đen, tất cả mọi người đều ngồi ghế nói chuyện, hoặc ăn cơm. Theo đúng nghi lễ, người ta đứng, hoặc đi đi lại lại từ người này đến người khác, chào thì nghiêng mình ba lần, không cúi rạp thõng tay (như người Nhật). Hành lang này dài độ 50 ken (91m). Đất lại cao lên nữa. Ba ken (5,46m) trước cửa cung, có 14 ông quan.
2. Chân dung Nguyễn Ánh, Hoàng tử Cảnh, Đảm ( Minh Mạng)
" Một lúc sau, thấy vua hiện ra trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm vàng bạc và giát ngọc ở giữa chính điện. Hai hoàng tử ngồi hai bên (một người là Đông cung Cảnh, người kia chắc là Đảm - Minh Mạng). Vua trạc 40 tuổi (...), mặc áo gấm đen thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng.
Một người hầu cận cầm kiếm của vua đứng sau lưng. Hoàng Thượng đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần vua, đều mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay tê giác.
Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử. Thái tử ( Cảnh) độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về (Nhật), chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông. Sau cùng, người thông ngôn -xứ này người ta học thuyết Khổng Tử, nhưng lại không hiểu tiếng Tàu; thông ngôn là người Nam Kinh, đã làm việc lâu năm tại... (bỏ trống), rồi từ đó sang An Nam- đến tâu vua, cúi chào ba lần, và nói với vua về chiếc tầu Hinoshita của chúng tôi bị đắm. Nhà vua bảo sẽ giúp. Chúng tôi khẩn cầu ngài cho về xứ. Hoàng thượng trả lời qua người thông ngôn, bảo được, nhưng phải đợi vài ngày, và ngay hôm nay, ngài sẽ cho thầy thuốc đến thăm những người bị bệnh. Chúng tôi cảm ơn ngài và được các quan võ tháp tùng trở ra, chúng tôi lên kiệu trở về chỗ ở vào giờ ngọ (12 giờ trưa)
1. Phong cảnh xung quanh Sài Gòn:
"Có núi cao đến tận chân mây, nhiều cây và một con sông nước trong. Biển bao bọc ba phiá. Những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. Nhờ những làng chài lưới ven biển, thợ săn trên núi nên chợ búa đầy cá và muông thú, đầy dẫy cá đồng; trong số cá biển, loại Akaei nhiều nhất ( không rõ là cá gì theo tiếng Việt?).
Quanh năm đủ thứ rau rợ, lại còn hoa quả lớn nhỏ, thêm vào thức ăn. Có thứ tre, khoảng cách giữa hai đốt dài lạ lùng. Có cả vàng, bạc. Đồng thì đến từ Quảng Đông. Một năm ba mùa gặt luá, đậu và đậu ván cũng thế. Người nghèo không biết đói là gì. Con người tử tế và nhân từ. Vua trị vì với lòng tốt và dân chúng không khổ. Nhưng nước này ở cuối Nam Hải, nơi có nhiều đảo quốc, lúc nào cũng phải đề phòng xâm lược. Không ngừng vận dụng khí giới. Tháng thứ tư năm Cảnh Hưng thứ 54 (thực ra là năm Cảnh Hưng thứ 34, 1773, Tây Sơn nổi lên), xứ Tây Sơn nổi lên chống kinh đô (Gia Định), vua đã gửi quân chinh phạt, nhưng chưa biết thắng bại thế nào. Người ta náo động sửa soạn chiến thuyền, phần đông đã khởi hành rồi..."
"... Chẳng bao lâu đã đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi xuống kiệu đi bộ, tới vòng thành thứ nhì, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu hình bán nguyệt (cái đó gọi là Dahaimot ( không rõ tác giả nói gì). Người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng tôi đã đi và ghẹo khoảng gần 3 chõ (330m) trong khi đất cao lên độ 1 chõ (109,10m). Ở cửa vào vòng thành thứ nhì, có một đài thám thính cao 40 ken (72,80m) Một viên quan võ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận phòng vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái nhà vuông. Đó là phòng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giã thuốc Nam. Cái cối thì cũng y như cối của ta (Nhật Bản). Xa hơn chút nữa có cửa hàng bán thuốc và sân rộng để phơi thuốc. Tất cả các loại dược phòng đều được cắt miếng to tròn hoặc chữ nhật.
Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần một chõ (109,10m). Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan này đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những hình khắc mầu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các miền. Ở miền Nam, từ quan lớn đến dân đen, tất cả mọi người đều ngồi ghế nói chuyện, hoặc ăn cơm. Theo đúng nghi lễ, người ta đứng, hoặc đi đi lại lại từ người này đến người khác, chào thì nghiêng mình ba lần, không cúi rạp thõng tay (như người Nhật). Hành lang này dài độ 50 ken (91m). Đất lại cao lên nữa. Ba ken (5,46m) trước cửa cung, có 14 ông quan.
2. Chân dung Nguyễn Ánh, Hoàng tử Cảnh, Đảm ( Minh Mạng)
" Một lúc sau, thấy vua hiện ra trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm vàng bạc và giát ngọc ở giữa chính điện. Hai hoàng tử ngồi hai bên (một người là Đông cung Cảnh, người kia chắc là Đảm - Minh Mạng). Vua trạc 40 tuổi (...), mặc áo gấm đen thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng.
Một người hầu cận cầm kiếm của vua đứng sau lưng. Hoàng Thượng đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần vua, đều mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay tê giác.
Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử. Thái tử ( Cảnh) độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về (Nhật), chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông. Sau cùng, người thông ngôn -xứ này người ta học thuyết Khổng Tử, nhưng lại không hiểu tiếng Tàu; thông ngôn là người Nam Kinh, đã làm việc lâu năm tại... (bỏ trống), rồi từ đó sang An Nam- đến tâu vua, cúi chào ba lần, và nói với vua về chiếc tầu Hinoshita của chúng tôi bị đắm. Nhà vua bảo sẽ giúp. Chúng tôi khẩn cầu ngài cho về xứ. Hoàng thượng trả lời qua người thông ngôn, bảo được, nhưng phải đợi vài ngày, và ngay hôm nay, ngài sẽ cho thầy thuốc đến thăm những người bị bệnh. Chúng tôi cảm ơn ngài và được các quan võ tháp tùng trở ra, chúng tôi lên kiệu trở về chỗ ở vào giờ ngọ (12 giờ trưa)