Ngày 19 tháng 3 năm Hy Ninh thứ 9 [ 13/4/1077].
Xuống chiếu yêu cầu kiểm lại số quân, binh mã, phu phen, tài vật trong chiến dịch, 3 ngày sau [ 16/4/1077], Thái Thừa Hy dâng sớ tâu trình cụ thể:
- Số lính lúc đi là 115.000 quân [ bao gồm cả thủy quân], số lính về được [ gồm cả lính bị thương] là: 49.506 người, lúc về trừ đi số chết vì bệnh, bị thương, chết tiếp khi về đến nhà, còn 23.400 người [khỏe mạnh].
- Số phu phen lúc đi: [ hơn] 80.000 người, lúc về [ gồm cả người bị thương, ốm] 10.014 người, sau khi về nước lại chết vì bị thương, bệnh tật, còn lại 6.087 người.
- Số ngựa lúc đi: 9.078 con, lúc về còn 4690 con, sau đó chết thêm, còn lại 3.174 con khỏe mạnh.
- Số tiền chi phí tổng cộng: 5.190.000 lượng vàng. [ Tính 1 lượng là 1 cây vàng, thì số tiền khủng khiếp].
- Ngoài bốn trại Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, và bốn thành Khâm, Liêm, Bạch và Ung bị tàn phá gần hết, mất vài năm chưa khôi phục lại được.
Thừa Hy xin vua cho bọn Quỳ coi các vùng giáp Giao Châu, vua bằng lòng, xuống chiếu ban:
Quách Quỳ coi Đàm Châu, Triệu Tiết coi Quế Châu, Thạch Giám coi Ung Châu và Đào Bật coi Thuận Châu [Quảng Nguyên].
Xuống chiếu yêu cầu kiểm lại số quân, binh mã, phu phen, tài vật trong chiến dịch, 3 ngày sau [ 16/4/1077], Thái Thừa Hy dâng sớ tâu trình cụ thể:
- Số lính lúc đi là 115.000 quân [ bao gồm cả thủy quân], số lính về được [ gồm cả lính bị thương] là: 49.506 người, lúc về trừ đi số chết vì bệnh, bị thương, chết tiếp khi về đến nhà, còn 23.400 người [khỏe mạnh].
- Số phu phen lúc đi: [ hơn] 80.000 người, lúc về [ gồm cả người bị thương, ốm] 10.014 người, sau khi về nước lại chết vì bị thương, bệnh tật, còn lại 6.087 người.
- Số ngựa lúc đi: 9.078 con, lúc về còn 4690 con, sau đó chết thêm, còn lại 3.174 con khỏe mạnh.
- Số tiền chi phí tổng cộng: 5.190.000 lượng vàng. [ Tính 1 lượng là 1 cây vàng, thì số tiền khủng khiếp].
- Ngoài bốn trại Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, và bốn thành Khâm, Liêm, Bạch và Ung bị tàn phá gần hết, mất vài năm chưa khôi phục lại được.
Thừa Hy xin vua cho bọn Quỳ coi các vùng giáp Giao Châu, vua bằng lòng, xuống chiếu ban:
Quách Quỳ coi Đàm Châu, Triệu Tiết coi Quế Châu, Thạch Giám coi Ung Châu và Đào Bật coi Thuận Châu [Quảng Nguyên].