[TT Hữu ích] Dịch sách cổ: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, 1646-1658.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trước khi đến chào Vua, người ta phải thực hiện bốn lần quỳ gối với cả hai đầu gối chạm đất, đầu gối trái trước, sau đó là đầu gối phải, đồng thời cúi đầu sâu sát đất. Lễ nghi này bắt đầu từ cửa Đại sảnh hoặc nơi người ta đến để xin yết kiến Vua, cách Vua một khoảng cách nhất định. Sau bốn lần cúi chào, người ta sẽ đến trước chân Vua. Lúc này, người ta đứng dậy và chắp tay, các ngón tay đan xen vào nhau, che khuất bởi tay áo rộng của áo choàng ngoài. Giữ nguyên tư thế này, họ đưa tay lên đầu và sau một lần cúi đầu nhẹ - nghi thức cuối cùng - họ sẽ chào Vua bằng cách nói:

-Vua sống lâu muôn năm!. [Hoàng thượng vạn tuế]

Cách ăn mặc và cách xuất hiện trước Vua này chắc chắn có phần khác thường. Tuy nhiên, so với những bước đầu tiên và những lời chào mà họ phải thực hiện khi bước vào Đại sảnh nơi Vua ngự triều, đây chỉ là những biểu hiện của sự phục-tùng và tôn-kính sâu sắc.

Về vấn đề này, cần lưu ý rằng có năm cách chào hỏi riêng biệt và khác nhau, thể hiện mức độ tôn-trọng và lịch-sự khác nhau. Khi chào Vua, người ta sử dụng một thuật ngữ riêng, chào quan lại sử dụng một thuật ngữ khác, chào Hoàng thân quốc thích và quan lại cấp cao như Phó vương [có lẽ là Chúa Trịnh] và Cố vấn Nhà nước lại sử dụng một thuật ngữ khác. Tương tự như vậy đối với các quan chức khác, người có địa vị và người bình đẳng. Ví dụ khi chào Bua [Vua]:

- Tôi tà ú dúc Bua [Tôi tạ ơn đức Vua].

Còn với Ciua [Chúa Trịnh]:

- Tôi do ú Ciua [Tôi đội ơn Chúa]

Với các hoàng tử, hoàng thân quốc thích:

- Tôi thâ’n duẻ ou [Tôi thưa đức ông]

Với người bề trên:

- Toy Cieng? [ người dịch chưa luận ra được]

Với người bằng vai vế:

- Tôi, N’oy [tôi nói]

Ngoài ra, sau khi được yết kiến Vua, các quan lại lớn sẽ vội vã ra khỏi phòng vua và chạy về nhà.Nếu trong những trường hợp tương-tự mà họ cư xử khác đi, đó sẽ là sự thiếu lịch-sự mà họ không bao giờ được tha thứ. Tất cả các kỵ sĩ, bất kể địa vị nào, đều phải xuống ngựa, voi hoặc bất kỳ phương tiện di chuyển nào khác khi đi ngang qua Cung điện nhà vua. Tuy nhiên, phụ nữ không bắt buộc phải làm điều này. Nhưng khi họ gặp những người có địa vị cao hơn và cần phải chào hỏi và chúc tụng, họ sẽ dừng lại, cúi xuống và ngồi trên gót chân. Trong tư thế này, họ chắp tay và cúi đầu sâu sát đất năm lần. Họ dành thời gian trò chuyện trong tư thế này vì ở Bắc Hà không sử dụng ghế, họ chỉ dùng chiếu trải trên đất [giống kiểu ngồi của Nhật Bản].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Giới quý tộc và những người có địa vị trò chuyện trên một bục cao cách mặt đất khoảng một gang tay và được trải một tấm chiếu đẹp thay vì thảm. Khi những người có cùng địa vị đến thăm, họ sẽ được mời ngồi trên bục này. Nếu người đến thăm có địa vị thấp hơn, họ sẽ được mời ngồi thấp hơn trên một tấm chiếu đôi. Người có địa vị trung bình sẽ được mời ngồi trên một tấm chiếu đơn và người bình thường sẽ ngồi trên đất không trải chiếu. Họ không bao giờ trò chuyện hoặc giải-quyết công việc khi đang đi lại. Họ luôn ngồi hoặc đứng yên, không cử động tay. Các tu sĩ giảng đạo cũng noi theo phong cách này, họ không cử động mà chỉ cử động lưỡi, không cử động tay và giữ tay trong tay áo trên ngực.

Họ rất ngạc nhiên khi thấy người châu Âu đi lại liên tục vì họ không có thói quen này. Khi một người trong số họ hỏi tôi tại sao chúng tôi thường đi lại, tôi trả lời rằng chúng tôi noi theo Mặt Trời luôn chuyển động và nước Biển luôn chuyển động. Nước Biển chỉ được thanh lọc khi chuyển động và sẽ bị hỏng nếu nó tù đọng. Từ đó, chúng tôi kết luận rằng đi lại tốt hơn là ở yên một chỗ và vận động hữu ích hơn nghỉ ngơi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các quan lại cấp dưới cũng có nghĩa vụ phải tỏ ra lịch-sự với các quan lại cấp cao như dân thường, tuy nhiên họ chỉ thực hiện ba lần quỳ gối và cúi chào. Ở lần cúi chào cuối cùng, họ sẽ đặt tay lên đầu theo cách tôi đã mô tả ở trên, nhưng không được phép sử dụng quạt trước mặt quan lại. Đối với họ, để tóc dài xõa xuống vai là biểu tượng của sự tôn-trọng và vinh-dự. Do đó, nếu họ buộc tóc hoặc búi tóc bằng ruy băng khi ở trước mặt Vua hoặc người có địa vị cao, họ sẽ ngay lập tức tháo ra và chào hỏi trong tư thế tóc xõa. Nếu không làm vậy, quan lại sẽ cắt tóc của họ mà không cần thông báo trước. Hình phạt này càng trở nên nhục nhã hơn vì họ coi mái tóc là biểu tượng đẹp nhất của sự tự do.

Khi gặp một người có cùng địa vị, người dân Bắc Hà sẽ chào hỏi bằng lời nói "Tôi vui mừng được gặp bạn". Khi gặp người có địa vị cao hơn, họ sẽ đưa tay trái ra như để thể hiện sự chia sẻ và giữ tay phải để phục vụ và bảo vệ người đó khỏi những kẻ muốn hãm hại. Nếu có một quan chức cao cấp sống trong khu vực lân cận và một người không có địa vị nào đó trùng tên với quan chức đó, theo luật pháp của đất nước, người đó buộc phải đổi tên. Ví dụ, nếu tên của quan chức là Ba (có nghĩa là ba), mọi người sẽ không bao giờ nói "Ba" khi muốn nói số ba để tỏ lòng tôn-kính, mà sẽ nói "Tam".

Vì lý do này, không có Kitô hữu nào ở đây được đặt tên là Marie Bapteme. Họ cho rằng một cái tên thiêng-liêng như vậy chỉ dành cho Đức Mẹ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đây là những cách thức thể hiện sự lịch sự và tôn kính mà người Đàng Ngoài dành cho nhau, và họ luôn dành những cử chỉ này cho những người mà họ coi trọng. Thật vậy, những người lớn tuổi ở đây được kính trọng đến mức những người trẻ tuổi luôn chào hỏi họ bằng lời nói "Thưa ông, tôi là người hầu của ông".Họ thường đi kèm những cử chỉ lịch-sự và tôn-trọng này với những bữa tiệc thịnh-soạn mà họ dành cho nhau nhiều lần mỗi tháng theo phong tục đã có từ lâu đời. Tuy nhiên, sự tham ăn vô độ của họ khiến họ trở nên giống như loài vật, và cách họ ăn uống thậm chí còn tệ hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Thật vậy, họ luôn ăn uống quá mức và một cách thiếu vệ sinh, thiếu thanh-lịch đến mức tôi không tin rằng một người châu Âu nào có thể chịu được khi ăn cùng họ, trừ khi họ đói như một kẻ khốn khổ và có dạ dày như đà điểu. Ngay cả như vậy, tôi nghĩ họ cũng sẽ muốn nôn mửa sau khi ăn. Đối với người Bắc Hà, thịt sống hay chín đều không quan-trọng vì họ có thể ăn cả hai một cách ngon lành. Người nào ăn nhiều nhất và ít quan tâm đến chất lượng thức ăn nhất được coi là người hùng. Thay vì bánh mì, họ ăn cơm nấu không muối. Họ ăn kèm cơm với nhiều loại cá, thịt trâu, bò, gà, lợn. Và như thể chưa đủ no, họ bày biện nhiều món ăn trên những chiếc bàn trải chiếu dưới đất dành cho người bình dân hoặc trên những chiếc bàn tròn như cái trống dành cho người có địa vị. Tuy nhiên, những chiếc bàn này rất thấp, để ăn uống thoải mái, người ta phải ngồi xếp bằng dưới đất.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đối với các Hoàng thân và quý tộc, họ ăn trên những chiếc chiếu cói trải trên một phiến đá phẳng. Họ cũng ăn thịt voi, chủ yếu là vòi voi, được coi là món ăn rất ngon. Thỉnh thoảng, thịt voi con cũng được dọn lên bàn ăn của Vua như một món ăn quý hiếm và tinh-tế. Họ cũng không ngại ăn thịt ngựa, hổ, chó, mèo, chuột chũi, rắn, dơi, ngỗng, cầy hương và các loài động vật khác.Họ ăn trứng vịt, ngỗng hoặc gà không phân biệt trứng tươi hay trứng đã ấp. Khi họ giết một con vật để ăn, họ không lột da mà chỉ hơ qua lửa cho cháy hết lông và cho rằng như vậy thịt sẽ ngon hơn, đậm đà và thơm ngon hơn. Họ không bao giờ rửa tay trước hoặc sau khi ăn vì họ cho rằng đây là một nghi thức rườm rà và vô ích. Hơn nữa, tất cả thức ăn trên bàn đều được cắt thành từng miếng nhỏ và họ không dùng tay để chạm vào thức ăn mà dùng hai chiếc đũa hoặc hai chiếc que ngà hoặc gỗ mỏng và chắc dài khoảng nửa gang tay thay cho muỗng và nĩa.Do đó, trên bàn ăn của họ không có khăn trải bàn hay khăn ăn. Họ chỉ cần những chiếc bàn tròn được sơn màu đỏ đẹp mắt bằng loại sơn mài mà người ta ở khắp nơi khác đều cố gắng bắt-chước nhưng không thành-công.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Họ ăn rất nhanh và thiếu thanh-lịch. Người nào ăn uống khác biệt và có chừng-mực hơn sẽ bị coi là kẻ tầm-thường và thấp-kém. Họ uống rất nhiều, chủ yếu là rượu gạo và rượu mạnh. Họ cũng làm rượu từ trái cây với nhiều màu sắc và hương vị khác nhau.Đối với họ, say rượu là một phong cách, miễn là người say không quá khích và bạo lực. Họ coi thường những người say rượu đến mức mất kiểm soát. Do đó, khi ai đó đã uống quá chén và không thể tiếp tục, họ sẽ xin phép được lui ra để ngủ vì họ không có cách nào chữa trị căn bệnh này hiệu quả hơn. Họ cho rằng say rượu ở vùng nóng là có hại cho những người có tính khí nóng nảy, nó làm thay đổi và làm hỏng máu. Họ cũng tin rằng ăn nhiều bữa nhỏ sẽ giúp tiêu hóa tốt hơn. Trên thực tế, họ thường ăn bốn bữa mỗi ngày, nhưng nếu ai đó mời họ đi ăn sau một bữa ăn, họ sẽ đến với sự háo hức và thèm ăn như thể họ chưa ăn gì cả, và họ sẽ tiếp tục ăn uống nhiệt tình như bất kỳ ai trong bữa tiệc.

Món ăn ngon nhất và được họ trân-trọng nhất trong những bữa tiệc lớn mà họ thỉnh thoảng được mời chỉ là một đĩa rau thơm được tẩm ướp với những miếng thịt hoặc cá sống nhỏ [món gỏi cá]. Họ ăn món này ngon miệng và thích thú như thể đó là một món hầm tinh tế. Bên cạnh đó, thường có một cốc lớn rượu ngon của họ mà mỗi khách mời sử dụng như một loại thuốc giải độc để giúp dạ dày hoạt động và tiêu hóa những món ăn sống này.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong thời gian tôi đến thăm các nhà thờ của người Kitô giáo ở khu vực này, họ đã nhiều lần mời tôi ăn tối tại nhà và thường phục vụ thịt mèo thay vì thịt, và có lần là ong non chưa ra khỏi tổ. Họ nấu ong trong nước và gọi đó là món ăn của vua. Tôi cũng nếm thử món này để không làm họ phật lòng.

Sau bữa ăn, họ sẽ mang đến cho mỗi khách mời một chiếc giỏ nhỏ đựng trầu, họ gọi là "Blầu" trong ngôn ngữ của họ. Trầu là một loại cây có lá giống lá thường xuân khi mới nhú, có mùi thơm và vị cay. Để tăng thêm hương vị, họ sẽ trộn trầu với vôi sống được làm từ vỏ sò, khác với vôi của chúng ta được nung như diêm sinh và cũng được dùng để quét vôi tường. Sau khi chuẩn bị lá trầu như vậy, họ sẽ bọc quả cau, một loại quả giống như quả sồi ở nước ta, vào trong lá trầu. Cây cau có nhiều điểm tương-đồng với cây cọ của chúng ta. Cau thường được sử dụng khi đã khô, sau khi phần vỏ xanh bên ngoài rụng đi. Họ dùng cau để nhai như kẹo dẻo và coi đây là thói quen quan trọng đến mức ai cũng mang theo một túi nhỏ hoặc một chiếc giỏ xinh xắn đựng cau bên mình. Việc sử dụng cau phổ biến ở khu vực này giống như việc sử dụng thuốc lá ở châu Âu hiện nay. Do đó, khi gặp nhau, điều đầu tiên họ làm là mời nhau ăn cau. Nếu đang đi trên đường, họ sẽ mở túi lụa đựng cau và cùng nhau nhai. Khi đến nhà ai đó, họ cũng sẽ được phục vụ một đĩa cau đầy. Việc từ chối ăn cau trong những trường hợp này được coi là thiếu lịch sự và thậm chí là xúc phạm người mời. Tuy nhiên, họ cũng không quá khắt khe, nếu bạn chỉ cầm cau mà không nhai thì họ cũng không trách móc. Một số người lo ngại bị ngộ độc nên chỉ nhai một ít, cũng có người nhai cau nhiều và say như khi uống rượu quá chén. Nếu được vua hoặc các quan chức lớn mời cau theo phong tục, bạn phải ăn hết cau trong túi hoặc giỏ. Tuy nhiên, bạn không được phép nhai cau trước mặt họ trừ khi được họ cho phép.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngoài nghi thức này, còn có một nghi thức khác là uống Cià [trà], nhưng không phổ biến rộng rãi như ở Trung Quốc và Nhật Bản. Có thể trà ở Đàng Ngoài không ngon bằng ở một số tỉnh [có khí hậu] ôn hòa hơn của Trung Quốc, nơi khí hậu góp phần tạo nên hương vị hoàn-hảo cho trà. Cũng như dâu tằm trắng, trà được gieo trồng ba năm một lần hoặc tối đa năm năm một lần. Trà mọc thành những cây bụi nhỏ, người ta hái lá trà có hình dạng giống lá dâu tằm nhưng thuôn dài hơn, gần giống đầu giáo mác hoặc lá hoa hồng.Trà ở Đàng Ngoài được trồng tự nhiên, lá to, nhiều nước và vị chát hơn. Do đó, người ta sử dụng trà chủ yếu để làm thuốc hơn là để thưởng thức. Khi pha trà, người Đàng Ngoài đun sôi nước với một lượng lá trà nhất định trong nồi. Ở Trung Quốc, do lá trà mềm hơn nên chỉ cần đun sôi nước rồi cho lá trà đã phơi khô vào. Lượng lá trà cần cho mỗi cốc nước bằng một đồng xu bạc. Trà có tác dụng lợi tiểu, giải độc, giảm khí hư, thông kinh mạch, ngăn ngừa khí độc lên não. Do đó, những người cần thức khuya thường uống trà để giữ cho tinh thần tỉnh táo. Người ta thường sử dụng trà như một thức uống và uống trước khi bắt đầu công việc. Ngoài ra, trà cũng có thể được uống bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là nên uống vào buổi sáng hoặc ba hoặc bốn giờ sau bữa ăn. Nhờ có trà, người dân ở đây hầu như không biết đến sỏi thận, sỏi mật và bệnh gút, trừ khi những người từ nơi khác mang bệnh đến. Mặc dù người Đàng Ngoài không kiêng khem và thường ăn uống quá độ, nhưng họ vẫn khỏe mạnh. Trà nên được uống nóng nhất có thể. Người uống trà nóng không cần uống nước lạnh, ngay cả khi trời nắng nóng và nhiệt độ cao khó chịu. Người Trung Quốc để bảo quản trà trong nhiều năm thường cho trà vào bình đất nung tráng men hoặc hộp thiếc, đậy kín để hương vị trà không bị bay mất và không khí không xâm nhập vào làm hỏng trà. Người Nhật Bản mua những chiếc bình đất nung này từ Trung Quốc với giá cao để bảo quản trà. Lý do là vì nếu để trà bị bay hơi hoặc bảo quản trong bình có mùi khác thì sẽ mất đi nhiều hương vị. Để chống ẩm, họ cũng cho than đã tắt vào bình trà. Nhờ vậy, trà có thể giữ được hương vị tự nhiên trong nhiều năm. Tôi đề cập đến vấn đề này để những người mới bắt đầu uống trà ở châu Âu có thể bảo-quản trà tốt hơn vì họ không thể mua trà mới thường xuyên. Trà và trầu được giao-dịch rất nhiều ở Trung Quốc. Tuy nhiên, về các nghi-thức và công-dụng khác của trà, tôi sẽ có dịp trình bày trong những phần sau.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHƯƠNG V

SỨC MẠNH CỦA VƯƠNG QUỐC VÀ SỰ TRÁNG-LỆ CỦA TRIỀU ĐÌNH ĐÀNG NGOÀI

Sức mạnh của Vương quốc Đàng Ngoài có thể được chia thành hai loại: tự nhiên và chính trị-nhân tạo, Rõ ràng là so với các vương quốc khác, Đàng Ngoài là một trong những nơi yếu nhất và ít được củng-cố nhất.Không có thành trì nào đáng kể, thậm chí không có thành nào được xây dựng kiên-cố với tháp canh, pháo đài hay bất kỳ vị trí phòng thủ nào.Do thiếu đạn dược và quân đội dày dặn kinh-nghiệm, họ không thể bảo vệ mình trong thời gian dài.Tất cả các thị trấn, hay nói chính xác hơn là các làng mạc, đều mở và không có khả năng phòng-thủ.Họ không biết cách xây dựng công sự, hào lũy như người châu Âu. Để bảo vệ bản thân khỏi những kẻ xâm lược, họ chỉ dựa vào những rào tre dày, hàng rào, chướng ngại vật và những ngọn tháp mà họ sử dụng để trang bị cho voi chiến. Bên trong những rào chắn này có một số binh lính được bố trí, nhưng họ được trang bị vũ khí rất nhẹ và chỉ có một số ít đại bác nhỏ và pháo nhẹ làm vũ khí. Họ cũng sử dụng những khẩu pháo lớn hơn để trang bị cho thuyền chiến và bảo vệ kinh thành. Tuy nhiên, họ vẫn chưa biết cách sử dụng pháo hiệu quả trên bộ, có thể do việc di chuyển pháo trên bộ rất khó khăn vì phải vượt qua nhiều sông suối, làm chậm tốc độ tiến quân của quân đội. Vua Đàng Trong có vẻ như muốn bắt đầu sử dụng pháo, nhưng việc di chuyển qua nhiều sông suối và địa hình sình lầy là những trở ngại lớn cho việc sử dụng pháo hiệu quả trên chiến trường. Họ cũng thường củng cố một số thành phố và nhà cửa bằng tre, trồng tre xung quanh như hàng rào. Tre mọc rất nhanh và dày đặc, có thể bảo vệ họ khỏi kẻ trộm và thú dữ, nhưng không thể bảo vệ họ khỏi hỏa lực và vũ khí. Do đó, việc sử dụng tre để phòng-thủ chỉ là một giải pháp tạm thời. Có thể nói, kỷ luật quân đội của họ là kết quả của sự lãnh đạo tài tình và chính sách hiệu quả. Các chỉ huy dày dặn kinh-nghiệm tuyển chọn và huấn luyện những người lính nhập ngũ vào quân đội của Hoàng tử.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về mặt chính trị, kỷ luật quân sự có thể được cải thiện. Các chỉ huy giàu kinh-nghiệm thường xuyên huấn luyện binh lính, và mỗi tỉnh đều có những người đứng đầu quân sự có trách nhiệm huấn luyện binh lính bắn súng và bắn bia hàng ngày. Điều đáng kinh ngạc là lượng thuốc súng tiêu thụ cho việc huấn luyện này là rất lớn.

Không chỉ dừng lại ở đó, họ còn được huấn luyện các kỹ năng chiến đấu khác, tham gia diễn tập và làm quen với việc chiến đấu. Mỗi khi nhà vua triệu tập, ông luôn có sẵn khoảng 300.000 binh lính được huấn luyện và khỏe mạnh, ngoài ra còn có 40.000 binh lính thường trú tại kinh thành. Con số này có thể tăng lên trong thời chiến. Ví dụ, cha của vị vua hiện tại từng huy động 60.000 đến 70.000 binh lính. Hiện tại, ngoài 40.000 binh lính thường trú, nhà vua còn điều động 60.000 binh lính đến tỉnh Bố Chánh để bảo vệ biên giới với vua Đàng Trong bại trận. Ngoài ra, ông còn tập trung 170.000 binh lính ở 4 tỉnh gần Trung Quốc để phòng thủ trước mối đe dọa từ quân Trung Hoa. Điều này là do quân Trung Hoa đã đe dọa xâm lược Đàng Ngoài nếu không được nộp cống. Để tránh chiến tranh, nhà vua đã phái hai sứ thần đến Bắc Kinh để đàm phán. Nếu đàm phán thất bại, nhà vua quyết tâm tự vệ và ông có thể làm được điều đó nhờ lợi thế địa hình, miễn là không có kẻ thù nào nổi dậy trong nước.

Theo thống kê năm 1640, vào thời chiến, quân đội Đàng Ngoài có 335.000 bộ binh, 12.000 kỵ binh, 2.000 voi chiến và voi vận tải, cùng 2.000 chiến thuyền.

Về đạn dược và lương thực, vương quốc rất giàu có: Có rất nhiều thuốc súng, súng trường được sản xuất với chất lượng rất tốt và với số lượng lớn đến nỗi nhà vua có thể trang bị súng cho nửa triệu người nếu cần. Họ có giáo mác, thương, rìu, kiếm hai tay với cán dài 4-5 tấc [nguyên văn là palmi, 1palmi được ước tính tương đương với khoảng 25-30 cm], lưỡi kiếm cong như hình lưỡi liềm. Họ tung hứng những vũ khí này một cách điêu luyện, vung chúng lên cao như thể chúng đang phát ra ánh sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Họ sử dụng cung tên, nỏ và quả nổ [nguyên văn là bombarde]. Họ cũng đúc được đại bác, nhưng chỉ bắn được đạn 8 cân [nguyên văn là Libre, trong tiếng Latin, "libra" là một đơn vị đo khối lượng, tương đương với khoảng 327 gram] và chủ yếu dùng trên chiến thuyền, tương tự như loại đại bác mà chúng ta gọi là Chim Ưng [là một loại pháo hạng nhẹ được phát triển vào cuối thế kỷ 15 có thể bắn ra một phát bắn nhỏ hơn so với các loại đại bác tương tự. Trong suốt thời Trung cổ, súng được trang trí bằng các hình khắc động vật, chẳng hạn như loài bò sát, chim hoặc thú thần thoại tùy thuộc vào kích thước của chúng]. Họ cũng có những khẩu đại bác lớn hơn nhưng không di chuyển chúng ra khỏi cung điện.

Ngoài lưu huỳnh, một phần được nhập khẩu, thì vương quốc không thiếu chì, sắt và các kim loại khác, chúng được khai thác với số lượng lớn từ các mỏ. Gỗ cũng sẵn có để phục vụ cho mọi nhu cầu quân sự. Họ cũng đã học cách chế tạo và sử dụng pháo hoa và quả nổ nhỏ [nguyên văn là granate, dịch đúng phải là lựu đạn, nhưng có lẽ thời đó quân đội Lê-Trịnh chưa thể có lựu đạn được]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về phần lương thực, không chỉ việc cung cấp lương thực bằng [thuyền vận chuyển trên] các kênh rạch là dễ dàng và nhanh chóng, mà còn có sự dồi dào của thịt, trái cây và mọi thứ khác, đến nỗi người lính không bao giờ phải chịu đói khát. Bởi vì nếu không có thức ăn, họ sẽ bỏ quân đội, bị đánh bại bởi một kẻ thù quen thuộc đó là cơn đói mà họ không quen chịu đựng. Đây là điều mà quân đội trên bộ thường gặp phải.

Sau đó, chúng tôi đi bằng đường thủy và chiêm ngưỡng sức mạnh của vua Bắc Hà. Ông làm cho chúng tôi kinh ngạc với những gì ông có thể làm. Ông cho hạ thủy 2.000 chiếc thuyền lớn, ngoài một số lượng lớn các loại thuyền nhỏ hơn. Tuy nhiên, hạm đội của ông không thể so sánh với hạm đội châu Âu về pháo đài và vũ khí. Ông cũng không duy trì một đội quân lớn như vậy thường xuyên, nhưng ông luôn sẵn sàng đưa vào hoạt động hàng trăm chiếc thuyền lớn và nhỏ cho các cuộc chiến tranh hoặc các cuộc diễu hành long trọng khác. Các quan lại và thái giám, do nghĩa vụ của chức vụ, phải sở hữu một số lượng lớn các loại thuyền này, và chúng đều sẵn sàng phục vụ cho chiến tranh và nhà vua bất cứ khi nào được triệu tập, được trang bị đầy đủ vũ khí và lương thực. Và ngay cả khi ông muốn tăng cường hạm đội, ông có thể làm được điều đó với một chút nỗ lực. Khi tôi đến thăm tỉnh phía Bắc, vào thời điểm nhà vua đến thăm một ngôi đền do một trong những thái giám được sủng ái của ông xây dựng, tôi đã nhìn thấy từ cả hai bờ sông, trải dài hàng dặm, một khu rừng lớn và một số lượng lớn thuyền, tất cả đều không có cột buồm và không có cánh buồm. Tôi tuyệt vọng khi cố gắng đếm chúng và chỉ có thể để lại việc này cho những người khác tò mò, để không làm mất đi niềm vui khi nhìn thấy chúng, mặc dù không phải tất cả chúng đều ở đó. Để nói một chút về những chiếc thuyền này, chúng dài khoảng 120 đến 130 palmi nhưng rộng chỉ khoảng 15 piedi [tương đương với feet]. Chúng không có những chiếc mái chèo bên hông như các tàu châu Âu, cũng không có mũi nhọn ở phía trước. Chúng có mái chèo ở giữa phía sau, giống như những chiếc thuyền lớn trên sông. Một số chiếc, như tất cả các chiếc trong hạm đội hoàng gia, có 30 mái chèo mỗi bên, trong khi những chiếc nhỏ hơn chỉ có 25 hoặc 20 mái chèo, và mỗi mái chèo chỉ có một người chèo. Vì vậy, toàn bộ thủy thủ đoàn chỉ có khoảng 50 đến 60 người, những người ngoài việc biết chèo còn phải biết chiến đấu, và khi cần thiết, họ có thể bỏ mái chèo và lấy súng trường của mình. Họ không chèo theo tiếng còi mà người lái thuyền dùng một cây gậy đánh vào một cái trống tròn, đứng trên một bục cao ở phía sau, giống như một bục giảng. Tùy thuộc vào nhịp điệu nhanh chậm, đều đặn hoặc không đều đặn của tiếng trống, những người chèo sẽ điều chỉnh tốc độ của mình. Trên các thuyền hoàng gia, toàn bộ thủy thủ đoàn đều là những thanh niên khỏe mạnh, cao lớn, đồng đều đến nỗi trông họ như được đúc ra từ một khuôn. Họ thường khỏa thân từ thắt lưng trở xuống, chỉ quấn một tấm vải quanh hông để che thân, nhưng họ cũng có quần áo và mũ dài bằng vải trắng. Phần mũi thuyền là phần đẹp nhất, với một căn phòng rộng rãi và sang trọng, được chạm khắc tinh xảo và dát vàng. Bên trong có rèm cửa bằng lụa, thảm trải sàn bằng chất liệu tốt nhất, lan can và cột được chạm khắc tinh xảo, và thậm chí còn có một hoặc 2 khẩu pháo cỡ 8 pound. Tất cả các thuyền đều có một sàn duy nhất. Phần đuôi thuyền và mũi thuyền đều được nâng cao, tròn trịa, cao khoảng 20 palmi, được chạm khắc tinh xảo với nhiều hình thù khác nhau, lá, hoa văn Ả Rập, được dát vàng và sơn màu rực rỡ. Các bên của thuyền, nơi đặt mái chèo, cũng được trang trí bằng các hoa văn tương tự. Họ không sử dụng nhựa thông hoặc nhựa đường mà dùng một loại sơn bóng, được làm từ một hỗn hợp giống như sáp Tây Ban Nha, làm cho thuyền sáng bóng và phản chiếu ánh sáng mặt trời đến nỗi không thể nhìn thẳng vào chúng. Những chiếc thuyền trong hạm đội hoàng gia, bao gồm cả chiếc thuyền của nhà vua, đều được dát vàng, cả bên trong và bên ngoài, và thậm chí cả những chiếc mái chèo cũng được dát vàng. Tất cả đều có mái che để tránh nắng. Những mái che này được làm bằng vải dày, được căng từ mũi đến đuôi thuyền và được giữ cố định bằng các cột và dây thừng. Các thuyền của các hoàng tử, quan lại và thái giám cũng được trang trí tương tự, nhưng ít xa hoa hơn. Chúng có thể căng buồm nhưng tôi chưa bao giờ thấy chúng làm như vậy. Và những người chèo thuyền cũng không muốn bỏ mái chèo, ngay cả khi có gió thuận, vì họ không muốn giao phó nhà vua và các thuyền hoàng gia cho gió. Tuy nhiên, khi đi xa, họ sẽ căng một chiếc buồm hình tam giác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tranh vẽ thuyền Mông Đồng thời Lê-Trịnh của Samuel Barron
50082396956_44d2385357_o.jpg
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đối với sức mạnh này, sự giàu có là một câu trả lời, và điều này có thể được suy ra từ những gì tôi sắp nói. Trước khi nói về điều đó, tôi sẽ xem xét sức mạnh tự nhiên của vương quốc này. Mặc dù không tốt bằng vương quốc Lào, nhưng chắc chắn nó được bảo vệ một cách rất mạnh mẽ và tiện lợi với Bắc Hà. Bởi vì từ phía biển, với một bãi biển vô cùng nguy hiểm, các cửa sông bị cản trở bởi rất nhiều đá ngầm, bãi cát và kênh rạch đến nỗi việc đi vào mà không có hoa tiêu dày dạn kinh nghiệm là đi đến cái chết. Sau đó, đi vào đất liền, rất nhiều sông lớn và kênh rạch chia cắt đất nước, phục vụ như những hào sâu lớn để bảo vệ, làm chậm bất kỳ kẻ thù nào trong cuộc tiến công và bảo đảm an toàn cho vương quốc. Sự nhanh chóng của các dòng sông và sự rộng lớn của các khu rừng rậm rạp, với những cây cối dày đặc, giống như những pháo đài được xây dựng trên đá sống và không thể xuyên thủng bởi đại bác. Chúng đan xen và trải dài hàng ngày, và ngay cả những đoạn đường ngắn cũng rất dễ bảo vệ. Do đó, khi Bắc Hà không có bất kỳ cuộc nội chiến nào từ bên trong, nó không cần đến các pháo đài để đảm bảo an toàn, mà chỉ cần tình yêu của thần dân, những người mà họ phục vụ hoặc bằng sự sợ hãi như một bạo chúa, hoặc bằng lợi ích cá nhân thuần túy. Và họ không bao giờ tăng cường sức mạnh mà không phải là sức mạnh cưỡng bức và bạo lực, nghĩa là bằng những biện pháp ít phù hợp để thu hút thiện cảm và do đó là lòng trung-thành. Tại đây, một số người, khi nghe câu chuyện về sức mạnh của vua Bắc Hà, có thể đặt ra câu hỏi này: Tại sao, khi là một vị vua giàu có và mạnh mẽ như vậy, tham vọng danh vọng và quyền lực lớn lao, ông ta không chinh phục những tỉnh lẻ ít ỏi đang bị chiếm đóng bởi hai vị vua nhỏ bé là kẻ thù của ông ta, tức là vương quốc Cao Bằng và Nam Hà? Và chắc chắn là nếu bạc vàng mà ông sở hữu, số lượng binh lính mà ông làm chủ, nằm trong tay các chỉ huy châu Âu, thì giờ đây họ không chỉ chinh phục những kẻ thù nhỏ bé này mà còn nhiều vị vua khác ở phương Đông, và nếu không cướp bóc họ thì ít nhất cũng khiến họ trở thành những người nộp thuế. Tôi trả lời trước hết rằng, khi là những vị vua bạo chúa và chiếm giữ vương quốc bằng vũ lực, cho đến khi họ thấy mình đã nắm chắc những gì hiện đang sở hữu, họ không muốn vươn tay ra bất cứ điều gì khác mà họ đòi hỏi. Do đó, trong các quyết định chiến tranh, giống như những người mê tín, họ nhút nhát và không nhất quán. Vị vua cha quá cố của vị vua đang trị vì dường như đã có được nhiều quyền lực và sự kiểm soát đến nỗi ông có thể chắc chắn rằng mình sẽ mở rộng nó để chinh phục vị vua Nam Hà. Ông đã thực hiện một cuộc chuẩn bị lớn và đáng sợ như chúng ta đã nói. Khối lượng lớn này đã sụp đổ cùng với sự sụp đổ của một cây cầu, bởi vì khi thấy cây cầu sụp đổ khi ông chuẩn bị băng qua, ông đã ra lệnh rút quân, coi đó là một điềm xấu, cho thấy rằng Trời không ủng hộ cuộc chiến của ông. Và khi trở về với những người lính dũng cảm nhất đến triều đình, ông giao nhiệm vụ chỉ huy quân đội cho một trong những thái giám của mình, người đã tiến về phía biên giới với danh tiếng lớn nhưng đã quay trở lại mà không làm gì ngoài việc phô trương sức mạnh.

[Không rõ tác giả nói về trận đánh nào giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, tham khảo Lịch sử cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn giai đoạn 1648-1658 là thời gian tác giả sống ở Đàng Ngoài, ta thấy có những trận sau:

Tháng 2 âm lịch năm 1648, Trịnh Tráng sai Lê Văn Hiểu khởi binh nam tiến lần thứ tư, dẫn bộ binh đánh Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Cha con Trương Phúc Phấn cố thủ ở lũy Trường Dục, quân Trịnh đánh không hạ được.

Thế tử Tần mang quân cứu viện ra Quảng Bình, chia quân thủy phục ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang quân đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Gianh.

Tháng 3 năm 1648, quân Nguyễn định vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin chúa Nguyễn ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh. Con chúa Lan là Nguyễn Phúc Tần lên thay, tức là Hiền vương. Trịnh Tráng lui binh, sai Lê Văn Hiểu giữ Hà Trung, Lê Hữu Đức đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Toàn giữ Bắc Bố Chính.

Đại chiến 1655 – 1660: Giằng co ở Nghệ An, tức là cuộc chiến lần thứ năm, là cuộc chiến dài nhất, lớn nhất trong cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn và là lần duy nhất quân Nguyễn chủ động đánh ra bắc.

Tháng 4 năm 1655, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật mang quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính. Tướng Trịnh là Phạm Tất Toàn đầu hàng. Tiến và Dật thừa thắng tiến lên đánh Hoành Sơn, Lê Hữu Đức thua chạy. Tiến và Dật đánh luôn Hà Trung, Lê Văn Hiểu thua chạy nốt, cùng Đức lui về giữ An Trường (Nghệ An).

Trịnh Tráng thấy các tướng thua luôn, sai Trịnh Thượng làm thống lĩnh mang quân vào nam, triệu các tướng cũ về. Lê Văn Hiểu bị thương, nửa đường chết, còn Đức bị giáng chức. Trịnh Thượng lãnh binh, tiến quân bộ vào huyện Kỳ Hoa, chia quân thủy tiến đến cửa Kỳ La. Hữu Tiến rút về nam sông Gianh. Trịnh Thượng thấy địch vô cớ rút, biết có mưu nhử nên không đuổi, đóng lại Lạc Xuyên, chia quân ra giữ Hà Trung. Hữu Tiến, Hữu Dật thấy địch không đuổi, liền chia quân thủy bộ đánh ra. Quân Trịnh hai cánh đều thua, quân thủy bỏ Kỳ La về Châu Nhai, quân bộ bỏ Lạc Xuyên về giữ An Trường. Thế là 7 huyện Nghệ An ở phía nam sông Lam là Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương về tay chúa Nguyễn.

Trịnh Tráng giáng chức Thượng rồi cử con là Trịnh Tạc vào làm Thống lĩnh. Hữu Tiến thấy viện binh Trịnh bèn lui về giữ Hà Trung. Gặp lúc họ Mạc phía bắc quấy rối, Trịnh Tạc phải rút về bắc, để Đào Quang Nhiêu ở lại đóng ở An Trường, Vũ Văn Thiêm lãnh thủy quân đóng ở Khu Độc; Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên đóng ở Tiếp Vũ.

Năm 1656, Hữu Tiến đánh Tiếp Vũ, Quang và Liên bỏ chạy. Hữu Dật phá tan thủy quân của Văn Thiêm, Thiêm cũng chạy. Quân Nguyễn hợp lại đụng Đào Quang Nhiêu, Nhiêu bại trận chạy về giữ An Trường.

Trịnh Tráng bèn cử con út là Trịnh Toàn vào cứu viện. Toàn đốc quân tiến đến Thạch Hà, sai Nhiêu và Dương Hồ tiến lên đóng ở Đại Nại và Hương Bộc, Văn Thiêm tiến lên cửa Châu Nhai (cửa khẩu sông Lam). Hữu Dật sai Nguyễn Cửu Kiều một lần nữa đánh tan Văn Thiêm, Thiêm lại bỏ chạy. Dật sang bờ sông Lam hợp binh với Kiều kéo đến Đại Nại. Quân bộ của Hữu Tiến đánh Nhiêu ở Hương Bộc, Trịnh Toàn mang quân đến cứu, đánh bại quân Nguyễn. Sau đó Toàn lại sang đánh quân Nguyễn ở Đại Nại, giết chết Cửu Kiều, quân Nguyễn thua to, chạy về Hà Trung. Toàn và Nhiêu cùng đuổi đến Tam Lộng lại bị Tiến và Dật đánh bại, phải rút về An Trường.

Trịnh Tráng bệnh nặng, thế tử Trịnh Tạc cầm quyền điều hành. Thấy Trịnh Toàn rất có uy tín với quân sĩ, Trịnh Tạc lo lắng. Tạc sai con là Căn mang quân vào Nghệ An, tiếng là tăng viện nhưng để kìm chế Trịnh Toàn. Tháng 4 năm 1657, Trịnh Tráng chết, Tây Định vương Trịnh Tạc lên thay. Biết anh em chúa Trịnh bất hòa, chúa Nguyễn sai người đến dụ nhưng Toàn cự tuyệt. Chúa Trịnh cử Trịnh Căn thay Toàn làm Thống lĩnh, triệu Toàn về kinh. Thủ hạ của Toàn một số người sang với Trịnh Căn, một số hàng Nguyễn. Toàn về kinh, chúa Trịnh lấy cớ trách Toàn không chịu tang cha rồi giam vào ngục và giết đi.

Tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn chia quân sai Hoàng Thể Giao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh tướng Nguyễn là Tống Hữu Đại ở huyện Thanh Chương. Do có người tiết lộ, Hữu Tiến biết trước phòng bị nên quân Trịnh bị thua rút về bờ bắc sông Lam.

Hai bên tạm hưu chiến cầm cự ở sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ
.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngoài sự mê-tín, còn có những nghi ngờ liên tục về việc bị tước đoạt vương quyền, dựa trên những ví dụ về nhiều cuộc thay đổi như chúng ta đã kể khi nói về nguồn gốc của vương quốc Bắc Hà. Và điều này càng có cơ sở hơn khi có rất nhiều người tranh giành ngai vàng và hậu quả là những âm mưu nội bộ. Ông [Trịnh Tráng] biết rằng ông nội của mình [Trịnh Kiểm] đã dùng mưu kế và độc dược để cướp ngôi của Bua [Vua] [Nguyễn Kim], người mà ông ta là con rể, bằng cách mời ông ta [Nguyễn Kim] đến một bữa tiệc và thay vì các món ngọt, đã chuẩn bị trái cây, đặc biệt là dưa hấu, món mà ông bố vợ của ông ta rất thích. Và để che giấu âm mưu phản bội bằng vẻ ngoài yêu thương và thân thiết, chính ông [Trịnh Kiểm] đã tự mình cắt dưa hấu. Ông ta lấy một con dao đã được tẩm một loại độc dược mạnh vào một phần lưỡi dao, phần còn lại không có độc. Ông ta cắt dưa hấu thành hai phần, một phần cho mình không dính độc và một phần đã tẩm độc đưa cho ông bố vợ của mình. Ông bố vợ của ông ăn phần có độc và chết vào ban đêm. Vì vậy, họ luôn sống trong nỗi sợ hãi bị trừng phạt tương tự, đến nỗi họ luôn nghi ngờ nhau, cha không dám cho con ăn, con không dám cho cha ăn, anh em không dám trao đổi thức ăn cho nhau, vì họ tin rằng con mắt đố kỵ, bị mê hoặc bởi tham vọng ngông cuồng muốn làm vua, có thể làm phép thuật và nguyền rủa những món quà tử tế. Và ngay cả khi điều đó không xảy ra, tâm hồn vẫn không thoát khỏi sự bất an, điều tồi tệ hơn cái chết. Bua [Vua], người đã chết theo cách này, cũng bị con rể phản bội và giết hại các con. Nhưng vì có một đứa con còn quá nhỏ [Nguyễn Hoàng], theo lời cầu xin của vợ [Trịnh Thị Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm, con gái Nguyễn Kim, chị ruột Nguyễn Hoàng] người em rể này, anh [Nguyễn Hoàng] đã được tha mạng. Sau đó, nhờ sự can thiệp và cầu xin của người vợ này, anh đã được giao cai quản Nam Hà. Chàng trai, vốn đã trở nên thông minh, dũng cảm và chín chắn, khi nắm quyền đã giữ vững được lãnh thổ và thay vì dùng tên Ciuá [Chúa], anh ta lấy tên Nhà cá [Nhà Cả], có nghĩa là Nhà lớn. Anh ta cai quản đất nước rất tốt đến nỗi, lợi dụng cơ hội, không những không muốn trả lại quyền cai quản mà còn từ chối nộp thuế như đã hứa trước đây. Anh ta ngày càng mạnh lên và để lại cho con cái một vương quốc được tổ chức tốt và giàu có, đến nỗi họ đã mở rộng lãnh thổ bằng những cuộc chinh phục mới và ngày nay, như tôi sẽ nói sau, Anh đã là vua của một vương quốc lớn hơn Nam Hà, đó là Chăm Pa, khiến vương quốc của anh ta trở nên lớn mạnh và hùng mạnh hơn. Việc vua Bắc Hà nuôi tham vọng lên ngôi, việc vua Mạc [Cao Bằng] có những yêu sách lâu đời hơn, những cuộc tranh giành quyền lực ngay cả giữa các con cái và người thân của ông, và việc thấy rằng nếu ông tấn công Nam Hà thì vua Mạc ở Cao Bằng sẽ tấn công lại, và ngược lại, nếu ông tấn công Cao Bằng thì vương quốc sẽ bị chia rẽ, và nếu ông rời khỏi triều đình ở giữa thì anh em sẽ nổi loạn, buộc ông phải đứng yên và không thể thực hiện bất kỳ cuộc chiến lớn nào. Mặc dù vậy, ông đã đạt được một thành công lớn trong việc chiếm lại tỉnh mà chúng tôi đã nói ở trên, trước đây đã bị Nam Hà chiếm đoạt. Và nếu ông có thể giữ hòa bình với các con trai, ông có thể đảm bảo thực hiện những cuộc chinh phục lớn hơn nữa, bởi vì ông có người dân, của cải và vũ khí vượt quá nhu cầu.

[đoạn này tác giả mô tả một sự kiện Lịch sử, theo các sách sử Việt Nam như: Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Tục biên, Quyển XVI. Trang Tông Dụ Hoàng đế.

Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Liệt truyện, Nghịch thần truyện.

Đại Nam thực lục Tiền biên, Quyển I. Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế.

Khâm định Việt sử Thông giám cương mục Chính Biên, Quyển XXVII
.

Thì người đầu độc chết Nguyễn Kim là Dương Chấp Nhất, một tướng lĩnh nhà Mạc, sau về trá hàng nhà Lê, tuy nhiên, theo tác giả sách này thì chính Trịnh Kiểm mới là người đầu độc Nguyễn Kim]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bây giờ, ta hãy tạm bỏ qua những lực lượng quân sự mạnh mẽ của vương quốc để đến chiêm ngưỡng sự huy hoàng của thành phố. Nói đến thành phố, ta có thể hình dung đó là một tập hợp những ngôi nhà và một biển người, không hề có bức tường bao quanh, không hào sâu, không hàng rào để ngăn cách và bao bọc. Chính vì vậy, những người nước ngoài, dựa vào nơi ở của nhà vua tại đó, đơn giản gọi nơi này là ‘Triều đình’ [nguyên văn là Corte]. Còn người dân bản địa gọi nơi này là Ké Ciọ’ [Kẻ Chợ], nghĩa là ‘Chợ’ [Fiera] hoặc ‘Hội chợ’ [mercato], bởi vì mọi thứ tốt đẹp trong vương quốc và từ các quốc gia khác đều tập trung về đây. Và cứ mỗi tháng hai lần, vào ngày mùng Một và ngày Rằm, nơi đây lại càng nhộn nhịp với những phiên chợ lớn. Người ta đã trải rộng một dân cư đông đúc trên một đồng bằng rộng lớn, với những cánh đồng màu mỡ và tươi tốt trải dài nhiều dặm, nằm bên bờ một con sông lớn. Người ta nói rằng con sông này chảy từ Trung Quốc xuống, sau một hành trình dài và mang theo nhiều nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương. Con sông này phân nhánh ra khắp vương quốc, thông qua các kênh đào nhân tạo và các con sông khác, tạo thành một mạng lưới giao thông thuận tiện, giúp vận chuyển mọi loại hàng hóa và kết nối thương mại giữa các tỉnh với thành phố. Người châu Âu đến thăm triều đình hoặc kinh đô này sẽ không có gì ngạc nhiên khi nhìn thấy những công trình kiến trúc, bởi vì những ngôi nhà ở đây cũng giống như những ngôi nhà ở khắp các vùng khác của vương quốc. Đất đai ở đây không thích hợp để xây dựng những công trình lớn mà không tốn kém quá nhiều, do lượng nước ngầm dồi dào. Vì thế, mỗi nhà đều dễ dàng có một cái ao nhỏ, không gây ô nhiễm không khí và phục vụ nhiều mục đích như giặt giũ, làm sạch, tưới tiêu và nuôi cá, mặc dù số lượng ao ở đây ít hơn so với các làng mạc khác trong vương quốc. Các ngôi nhà chỉ có một tầng và thậm chí cả tầng trệt cũng được nâng cao để tránh ngập lụt. Đường xá không lát gạch, người dân thường đi chân đất. Tuy nhiên, dù có vẻ đơn sơ, nơi này vẫn có nhiều điều tráng lệ và nguy nga. Có 72 khu phố hoặc phường tạo nên kinh thành lớn hoặc Kẻ Chợ này, mỗi khu phố có thể sánh ngang với một thành phố trung bình của Ý. Những khu phố này tràn ngập các nghệ nhân và thương nhân. Để tránh nhầm lẫn và thuận tiện cho việc tìm kiếm hàng hóa, mỗi khu phố đều có một biểu tượng hoặc biểu ngữ thể hiện loại hàng hóa được bán ở đó, vì vậy ngay cả người nước ngoài cũng khó bị lừa gạt về giá cả hoặc chất lượng hàng hóa. Bởi vì, như tôi đã nói, nơi đây tập trung những sản phẩm tốt nhất và nhiều nhất từ khắp các vùng của vương quốc và các vương quốc khác. Thậm chí, nhà vua chỉ cho phép các thương nhân nước ngoài giao thương qua con sông này và không cho phép tàu thuyền của người Trung Quốc, Nhật Bản, Chân Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Philippines, Hà Lan và các nước khác ở phương Đông vào vương quốc qua bất kỳ con sông hoặc cảng nào khác. Nhà vua không chỉ làm vậy vì lo ngại về an ninh quốc gia mà còn vì tham vọng muốn làm giàu. Tham vọng của nhà vua không kém gì tham-vọng muốn trở thành một vị vua vĩ đại. Nhà vua muốn kiểm soát mọi hoạt động thương mại và tận mắt chứng kiến kho tàng của mình ngày càng đầy lên nhờ những khoản lợi nhuận khổng lồ. Và đó chưa phải là tất cả thu nhập của ông. Nhà vua thu được rất nhiều thuế từ các tỉnh. Vì vậy, mà không cần phải lấy một đồng nào từ kho bạc nhà nước, nhà vua vẫn có đủ tiền để chi trả cho triều đình, quân đội, quan lại và cung cấp đầy đủ mọi thứ cần thiết cho các chi tiêu công và tư, nhờ đó ông có thể dễ dàng tích lũy của cải mỗi năm. Và đó chưa kể đến những món quà quý giá và những khoản tiền lớn mà các tỉnh dâng lên nhà vua hai lần một năm, theo quy định và ngoài ra còn có những món quà đặc biệt khi có những sự kiện quan trọng như chiến thắng, phục hồi sức khỏe, nhận được danh hiệu mới, v.v. Những lời chúc mừng mà nhà vua thích không chỉ là những lời nói xã giao mà còn là những món quà quý giá, có giá trị thực tế và ông rất vui khi nhận được chúng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Và không thể không nhắc đến các khoản thuế mà ông nhận được từ các quốc vương láng giềng. Vua Lào, như một dấu hiệu của tình hữu nghị và mong muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp, thường xuyên gửi tặng voi, long não, hổ phách, sừng tê giác và ngà voi. Vua của nước Bao [chúa Bầu], để được phép khai thác mỏ bạc, hàng năm phải nộp cho ông một khoản tiền đáng kể và có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ củi đun cho nhà bếp của cung đình, cũng như gỗ tếch để thay thế các cột lớn trong cung điện và các công trình khác. Vua của nước Lào nhỏ hơn, mặc dù bị ép buộc, vẫn phải nộp một khoản thuế nhỏ. Về lý thuyết, hai vua của nước Nam Hà và Cao Bằng cũng phải nộp thuế, nhưng những vị vua này tự cho mình là chủ nhân hợp pháp của vương quốc, như tôi đã nói ở trên, và cho rằng mình có quyền lên ngôi, do đó họ từ chối nộp thuế và sẵn sàng dùng vũ lực để từ chối những yêu sách đối với mình.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhà vua không cần phải tiêu tốn gì cho việc cung cấp gạo, rượu, dầu, thịt, cá muối, trái cây... tất cả đều được các thần dân cung cấp đầy đủ. Vì vậy, nhà vua có thể tích lũy gần như toàn bộ vàng bạc mà mình thu được. Và trong việc làm giàu này, họ rất siêng năng và kiên trì, không phải để lại cho con cháu mà là để chuẩn bị cho cuộc sống sau khi chết, vì họ tin rằng ở thế giới bên kia, họ vẫn cần đến vàng bạc. Đối với lòng tham của con người đối với vàng bạc, chỉ thiếu một niềm tin sai lầm này để khiến họ càng khao khát hơn việc tích lũy vàng bạc, tin rằng nó cần thiết và hữu ích ngay cả sau khi chết.

Để đảm bảo rằng kho vàng được bảo vệ an toàn và không bị kẻ thù đánh cắp trong trường hợp nổi loạn hoặc chạy trốn, nhà vua giao việc bảo vệ kho vàng cho một trong những thái giám đáng tin cậy nhất của mình. Chỉ có thái giám này và các binh lính canh gác mới biết nơi cất giấu kho vàng. Để thực hiện điều này, các vị vua đã chọn một vách đá hiểm trở ở tỉnh Thignoà [Thanh Hóa], nơi họ sinh ra, để chôn giấu vàng bạc. Họ đặt những người lính canh có lương cao để bảo vệ kho tàng này một cách trung thành và cẩn thận, để khi họ qua đời, họ vẫn có thể hưởng thụ những tài sản đó ở thế giới bên kia.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đây là một trong những tín ngưỡng sâu sắc nhất của họ, đến nỗi con cháu họ rất ngại lấy bất kỳ thứ gì có giá trị từ kho tàng của cha ông. Và nếu trong trường hợp đặc biệt, họ cần dùng đến số vàng này, họ sẽ thực hiện rất nhiều nghi lễ. Ví dụ, khi vị vua quá cố cần dùng đến kho vàng để trang trải chi phí cho các cuộc chiến tranh, trước khi lấy bất kỳ thứ gì, ông đã cúng tế trời đất, cầu xin tổ tiên tha thứ và hứa sẽ bù lại số vàng đã lấy. Ông lo sợ rằng nếu để lại ví dụ xấu cho các thế hệ vua kế vị, họ cũng sẽ làm như vậy và cuối cùng ông sẽ bị nghèo khó khi những người kế vị tiêu hết số vàng của ông.

Vì thế mà họ không bao giờ cảm thấy hài lòng hay thỏa mãn với những gì mình có, luôn luôn tìm kiếm và muốn nhiều hơn. Không phải vì vậy mà người ta cần phải biếu xén, thưởng cho các dịch vụ, làm các lễ tiếp đón sứ thần, hoặc bố thí cho người chết và những khoản thưởng khác mà họ mới chịu tỏ ra hào phóng và rộng lượng như những người cùng đẳng cấp với họ.

Cho nên, nếu ta muốn vào bên trong thành, tức là vào kinh thành, nơi mà ông vua cùng với tất cả những người hầu hạ khác sinh sống, thì khi nhìn vào, ta sẽ không thấy một tòa cung điện mà là một cái gì đó rất lớn lao và tráng lệ. Người ta sẽ ngạc nhiên không phải vì nghệ thuật kiến trúc hay điêu khắc tinh xảo, không phải vì những trang trí lộng lẫy hay những bộ quần áo cầu kỳ, mà chính là vì số lượng vệ sĩ, các chức vụ, các cấp bậc, và toàn bộ dân chúng phục vụ ở đó, sự trật tự, đồng phục, các khu vườn, voi, ngựa, vũ khí và các vật dụng chiến tranh khác được tập trung ở đó mới thực sự gây kinh ngạc, và còn đẹp hơn nữa là những công trình bằng gỗ của các phòng dành cho vua, dù chúng được trang trí bằng vàng và những hoa văn chạm khắc tinh xảo, những tấm thảm dệt với những hình thù và màu sắc đa dạng như những tấm thảm của người Visigoth. Người ta vẫn còn thấy trên những vòm đá lớn và những bức tường dày, cung điện nơi vua ở, theo tôi nghĩ, là công trình của người Trung Quốc cổ đại khi họ làm chủ nơi này. Nhưng để không rời khỏi cung điện, mà trong khu vực rộng lớn đó là nơi ở riêng của vua, thì ngài ngự trên một tòa nhà cao lớn được dựng lên bởi những cột gỗ rất lớn và dày, được nâng lên trên một tầng và người ta lên đó bằng những bậc thang được làm bằng gỗ tốt hơn những nơi khác và có kỹ thuật tinh xảo hơn. Để thực hiện công việc này, người ta triệu tập từ khắp vương quốc những quan chức hàng đầu và những thợ thủ công giỏi nhất, những người duy nhất có thể tự tay làm việc, khinh thường việc sử dụng những người thấp kém và vụng về. Những công trình được xây dựng ngày nay đều [có thể] được nâng cao và khi muốn xây dựng thêm bất cứ thứ gì, người ta chọn những cây đẹp nhất và lạ mắt nhất trong vùng, nhờ đó mà nó nổi bật so với toàn bộ vùng và an toàn hơn trước lũ lụt. Ở đây có những nhà kho rất rộng lớn, những hành lang dài đến mức mắt thường không thể nhìn thấy hết và những sân trong rộng rãi để phục vụ cho các quan lại và những người khác trong cung. Vào sâu bên trong là một nơi rất kín đáo, tôi không biết nên gọi là hành lang hay nhà tù của rất nhiều phụ nữ mà nhà vua giữ gìn một cách cẩn thận. Để phục vụ và ở cho mỗi người, có một ngôi nhà riêng với một khu vườn, giống như các tu viện của dòng Carthusian hoặc Camaldoli ở nước ta. Và giữa những ngôi nhà này, có sự khác biệt về kích thước, với những ngôi nhà tốt nhất dành cho những người có địa vị cao nhất, và tất cả đều thấp hơn cung điện của vua. Trong khu vực này, cũng có chỗ cho các thái giám. Có những tiện nghi sinh hoạt cho vô số người trong cung.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Các phi tần không có số lượng cố định, vì tùy thuộc vào ý muốn của nhà vua mà có thể có bao nhiêu người. Mỗi người trong số họ đều có nhiều tì nữ hầu hạ, và số lượng tì nữ lên tới hàng trăm, vì các phi tần bậc hai cũng có đến hơn một trăm người. Trong số họ, có một người được coi là chính thất, và luôn được đối xử như một hoàng hậu, ngay cả khi bà không sinh con và nhà vua có con với những người khác. Với mỗi phi tần, đều có một thái giám phụ trách. Những thái giám này, vì được nhà vua tin cậy hơn, nên được giao những chức vụ quan trọng nhất trong triều đình, và mạng sống của họ nằm trong tay nhà vua. Ngoài ra, còn có rất nhiều thị vệ, và mỗi người trong số họ đều được một thầy dạy lễ giáo dạy dỗ. Ngày nay, nhiều người trong số họ, nhờ ơn Chúa, đã trở thành những Kitô hữu tốt hơn là những người hầu. Không ai, dù còn nhỏ, được phép vào hậu cung của các hoàng hậu.

Trong cùng khu vực của cung điện, có một đội quân gồm hơn bốn vạn người để bảo vệ nhà vua trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra, còn có hơn 500 con voi chiến và voi phục vụ cho các nghi lễ, và chúng thường xuyên được huấn luyện để rèn luyện và giải trí. Ngoài ra, còn có một số lượng lớn người hầu khác ở các cấp bậc khác nhau, mỗi cấp bậc đều có người giám sát.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,245
Động cơ
699,835 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi nhà vua xuất cung, thường là một vài lần trong năm, hoặc khi tiếp đón sứ thần của hoàng đế Trung Quốc (người mà nhà vua phải đích thân ra đón), thì tất cả các quan đại thần hàng đầu, cả văn lẫn võ, đều sẵn sàng đi theo. Mỗi người đều mặc trang phục quan phục của mình và có rất nhiều người hầu đi theo. Ngoài ra, còn có hàng trăm quan lại cấp dưới khác nhau, mỗi người đều mặc trang phục riêng của mình, trong đó có những người chưa có chức vụ trong cung, nhưng hy vọng sẽ được thăng chức, và họ làm tăng thêm vẻ huy hoàng của đoàn tùy tùng. Trang phục đẹp của các thị vệ, đặc biệt là trang phục của binh lính, dù đi bộ hay cưỡi ngựa, là một trong những màn trình diễn tráng lệ nhất mà một vị vua có thể tổ chức. Mỗi đội quân đều có trang phục và vũ khí riêng, như giáo, mác, cung tên, súng, kiếm và những thanh kiếm dài có cán rất nặng. Vũ khí của họ được mạ vàng, bạc hoặc ngà voi, và so với vũ khí của binh lính của Darius, chúng còn đẹp hơn nhiều.

[Darius thường ám chỉ Darius Đại đế, một vị vua Ba Tư hùng mạnh, lính Darius chỉ quân đội Ba Tư dưới thời Darius Đại đế. Quân đội này nổi tiếng với kỷ luật cao, tổ chức tốt và sử dụng các loại vũ khí hiện đại vào thời đó như cung tên, giáo mác và xe chiến]
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top