[Funland] Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802

luuhn

Xe hơi
Biển số
OF-420874
Ngày cấp bằng
6/5/16
Số km
190
Động cơ
220,390 Mã lực
Tuổi
43
Cá nhân em thấy việc tẩn nhau của các anh em quan lại chẳng mang lại lợi lộc gì cho dân. Vì suy cho cùng anh nào làm Vua thì cũng đè dân ra mà thu thuế để tồn tại. Anh này oánh anh kia xong lại lên thâu thuế. Dân thì chuyển từ cái máng lợn này sang máng lợn khác thôi. Đang yên thì bị các anh ấy lôi ra bắt choảng nhau. Mà các anh ấy tài lắm gạ dân đen nổi dậy cướp nhà giầu chia cho nhà nghèo. Nhưng cướp xong là của các anh ấy tất.
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
  • Tôi sẽ viết lại theo ý bác : Quân Tây Sơn thảm sát 4000 dân Hoa không 1 tất sắt, máu chảy thành sông, oan thán ngất trời, đến năm sau dân ko dám ăn cá. Lòng người hướng về minh chúa Nguyễn mong rằng sẽ tiêu diệt bọn thảo khấu, man di. Mọi hành động khác là đều bào chữa cho tây Sơn : chuyện Mạc thiên Tứ kêu gọi ủng hộ của các hào phú người Hoa, môi giới Bá đá Lộc, cho thuyền đi quảng Đông cầu viện, môi giới với Xiêm. Các vùng người Hoa luôn ủng hộ, đầu tư giúp đỡ Ánh trốn chạy cho Nguyễn Ánh, môi giới buôn bán vũ khí, các đội quân người Hoa nỗi lên hùng cứ, tham gia đắc lực cho Nguyễn Ánh chống tây sơn. Hành động tàn sát ở cù Lao Phố cho thấy Tây Sơn lòng lang dạ thú, man di, tham lam cướp bóc, sẳn sàng giết người cướp của, bất nhân.
Cụ lại dỗi :)) Em nói là căn cứ vào sự tìm tòi, kiến thức từ nhiều nguồn sử liệu khác nhau. Nhưng vì cụ muốn sử dụng "Lịch sử nội chiến" của Tạ Chí Đại Trường thì em cũng đồng ý luôn với cụ. Nhưng rõ ràng, cụ bị quá nhiều lổ hổng về mặt kiến thức nên khi đọc "lịch sử nội chiến" cụ đã không hiểu được hết dẫn đến diễn giải lung tung. Nếu tìm hiểu kỹ thì cụ sẽ biết "Nghĩa Hòa quân" ban đầu do Lý Tài thành lập bằng cách tụ họp dân Hoa sống rãi rác khu vực nam trung bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và sau này Lý Tài có chiêu mộ thêm một số người Hoa ở Gia định. Người Minh Hương là người Hoa đã sống từ lâu dưới thời các chúa Nguyễn, họ quần tụ với nhau thành những làng mạc và sống chủ yếu nhờ vào buôn bán, kinh doanh. Người Minh Hương tuy có lực lượng "tự vệ" nhưng chỉ dùng để đối phó với bọn trộm, cướp nhỏ lẻ chứ không đủ khả năng chống lại một đội quân chính quy. Sau khi Lý Tài chết thì lực lượng của ông ta vẫn còn và vùng hoạt động vẫn ở Nam Trung bộ.
Lúc bấy giờ Tiết chế Bình Thuận Tôn Thất Dụ nghe Tây Sơn vào Gia Định vội xuất binh đem Nguyễn Văn Đàm, Trần Văn Tự, tướng Hoà nghĩa Trần Công Chương đi vào cứu giá. Tháng 1 âm lịch, viện binh đến Vườn Trầu6 gặp bộ binh Tây Sơn, họ bèn phục binh đánh. Tham tán Hồ Công Siêu bị đạn chết. Về phía Tây Sơn, Hộ giá Phạm Ngạn bị Chương giết ở cầu Tham Lương. Vừa lúc ấy đại binh Tây Sơn kéo đến, họ phải rút lui.
Đằng khác, nhìn vào hoạt động của kẻ mà Nhạc trút căm hận lên đầu, ta cũng thấy nhiều điểm sáng tỏ. Từ những biến loạn 1776, 1777 tàn phá cù lao Đại Phố ở Biên Hoà thì thương nhân Trung Hoa kéo về quây quần quanh thành Gia Định. Lý Tài chết đi nhưng đám Hoà Nghĩa quân vẫn còn. Nguyễn Ánh khôn ngoan đã thu dụng họ, tuy không đồng hoá được quân đội họ
Phân biệt được người Minh Hương với "Nghĩa Hòa quân" thì mới thấy được cái dã tâm, các tàn ác của quân Tây Sơn khi "giận cá chém thớt" trút hết mọi giận dữ lên đầu người Minh Hương.

Người Trung Hoa, bất luận binh lính hay dân buôn, mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn ngang vất đầy sông ngòi, đến nỗi nước ứ không chảy, cả tháng hơn người ta không ai dám ăn tôm cá, uống nước sông”
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
Bằng chứng người Minh Hương tại Cù Lao Phố không đủ khả năng tự vệ, dù chỉ là một nhóm thương khách
Năm 1747, một nhóm khách thương người Phúc Kiến qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố rất giàu có nên dậy lòng tham muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu, đánh úp dinh Trấn Biên (tiền thân của Biên Hòa sau này), giết chết Nguyễn Cư Cẩn (tước Cẩn Thành hầu) là người cai quản dinh. Tin cấp báo về Thuận Hóa, chúa Vũ vương (Nguyễn Phúc Khoát) liền sai cai cơ Tống Phước Đại (tước Đại Thắng hầu) đang đóng ở Mô Xoài đem binh vào cứu viện. Tống Phước Đại phá tan đạo quân của Lý Văn Quang, bắt được chúa đảng cùng đồng bọn 57 người. Tuy dẹp được cuộc bạo loạn, nhưng Cù lao Phố cũng đã chịu nhiều thiệt hại.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Việc giết 4000 người Hoa ở Cù Lao Phố là rõ ràng, Tây Sơn ko biện hộ, họ dám làm dám chịu. Sử sách đã ghi còn quan điểm là do người đọc.
  • Đối với cá nhân mình quan điểm như sau : giết 4000 người Hoa đúng hay sai ? mình trả lời sai...dù nhân danh cái gì thì giết người vẫn là giết người. Còn nếu hỏi có ủng hộ việc Tây Sơn thanh trừng hay không ....mình bỏ phiếu cho Tây Sơn. Nếu hỏi có cần thiết ra tay thảm sát như vậy ko ??? Mình trả lời là cần.
  • Quân Tây Sơn có tinh thần dân tộc cao, họ thấy rõ dã tâm của người Hoa vì đã có nhiều cuộc dấy binh người Hoa trong thời gian này, ngoài ra sự khắng khít của người Hoa và Nguyễn. Thế lực người Hoa quá lớn và là mối nguy........Tây Sơn có ý đồ triệt phá nguồn lực phía Nam.....đã ra triệt hạ về mặt con người và chiếm tài sản để tăng lực cũng như làm mất đi nguồn viện trợ chiến tranh phía Nam.
  • Trong lịch sử Việt Nam có rất nhiều cuộc thảm sát : Như Lý Thường Kiệt ở Ung Châu, những cuộc thanh trừng khi lấn chiếm về phía Nam với Chăm hay Chân Lạp...........gần đây thì có Mậu Thân Huế. Quan điểm của mình từng vụ khác nhau tùy vào bối cảnh
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Quan điểm của mình việc chạy trốn của Nguyễn Ánh :
  • Thua thì chạy trốn là chuyện bình thường, không trốn để bị giết sao ??? Dại gì làm anh hùng miễn thắng là được. Huệ từng nói : thiên hạ này ko của riêng ai, ai lấy được thì lấy. Tây Sơn chỉ trách là ko giết được Ánh chứ ko trách gì chuyện chạy........thua chạy là bình thường. Vì thua chạy nhiều nên cái khí của Ánh thua xa Tây Sơn nên dù có nói như thế nào người ta vẫn thích cái khí chất đầu đội trời chân đạp đất của Tây Sơn.
  • Đặt Ánh bên cạnh Huệ ........????? nếu ko phải là Huệ bên cạnh thì Ánh sẽ rất lộng lẫy.
  • Mặc dù có nhiều quan điểm rằng như thế là hơi hèn nhưng có ý nghĩa gì nếu làm anh hùng mà chết.....theo quan điểm thời nay.
  • Có thể nói Nguyễn ánh rất kiên trì và nhẫn nại là đức tính rất tốt trong làm chính trị. Nhưng cũng chính vì cơ cực, chạy trốn kẻ thù ảnh hưởng đến tâm lý thành ra sau này Nguyễn Ánh trở nên cực đoan........cái này theo quan điểm hành vi học.
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
có nguồn tin là khi bắt được gia tộc Nguyễn, Bùi Thị Xuân đã tha Nguyễn Ánh vì quá nhỏ, (chắc 13 tuổi). Có bác nào biết từ đâu ra không? Chuyện Nguyễn Ánh cưỡi cá sấu qua sông để thoát thì ảo quá!
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Cái chuyện cưỡi cá sấu hay thần linh gì đó đều là trò bịp chính trị.
  • Chuyện Bùi Thị Xuân đã tha Nguyễn Ánh thì do truyền miệng rồi người ta chép lại. Thật hay ko thật cũng chẳng quan trọng.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Kiểu đánh truyền thống của Tây Sơn :
  • Lối đánh uyển kích, tấn công táo bạo, liều chết.
  • Quân Tây Sơn thường tập toàn sức đánh thẳng vỗ mặt, đánh vào chỗ mạnh nhất của đối phương. Lối đánh này rất dễ làm đối phương vỡ trận và làm chết tướng đối phương. Trong lịch sử Tây Sơn giết ko biết bao nhiêu mà kể về tướng đối phương vì lối đánh vỗ mặt này.
  • Tuy nhiên cái đáng sợ của Tây Sơn là truy kích vì đối phương rút thì Tây Sơn truy bén gót làm vỡ trận khiến đối phương rất sợ. Ăn nhau là ở chỗ này.
  • Đánh mà đủng đỉnh, không tập trung lực lượng thì Tây Sơn mệt. Vì đất lạ, quân ít Tây Sơn ko thể cù cưa....chính vì thế sự kiên trì của Nguyễn ánh được đền đáp
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
____________________________________________________________Tiết 6

CHIẾN THẮNG TÂY SƠN
TRƯỚC VIỆN BINH XIÊM LA
Tây Sơn săn đuổi * Giao thiệp Gia Định và Xiêm La * Viện binh Xiêm và chiến bại * Ảnh hưởng.

Sau trận Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại thêm một lần khốn đốn. Trong lúc quân lính chết đuối thì nhờ biết bơi, ông đã thoát nạn. Có những may mắn đưa đến cho ông Chúa này để sử quan nhà Nguyễn lại có dịp tán tụng phước mạng đế vương. Qua Rạch Chanh, ông nhờ đến một con trâu nằm trên bờ; giữa dòng nước triều chiều chảy xiết chìm trâu thì may sao một con cá sấu (?) lại đưa giúp ông qua bờ bên kia1. Tây Sơn đã có mặt tại Hậu Giang chận mất con đường chạy trốn quen thuộc, ông phải chạy xuống trú ở Mỹ Tho, rồi từ đó đưa gia quyến đi Phú Quốc.

Bị săn đuổi, binh tướng trở lòng. Đó là đám người từ lâu vẫn khó đồng hoá: quân Hoà Nghĩa đạo. Nguyên để có người điều khiển đám tân binh, Ánh sai Tôn Thất Cốc trông coi rồi sai tướng Hoà Nghĩa Trần Đình về cửa Cần Giờ để do thám. Công việc thật khó khăn mà tướng sai thì không đủ uy tín, Đình không thi hành. Ánh sai Cốc giết đi. Thuộc tướng của Đình là Trần Hưng và Lâm Húc làm phản chiếm Hà Tiên. Rủi ro cho Nguyễn Kim Phẩm và công chúa Ngọc Chú, người về Hà Tiên thu binh, người mua gạo mắm, đều bị bọn này giết chết.

Tuy nhiên việc quân đội Gia Định có mặt ở các đảo vịnh Xiêm gây nên khó khăn cho các đám cướp biển ở vùng này. Vinh-ly-ma, một tướng Xiêm từ sau loạn Phi-nhã Oan-sản (1781) tụ tập một đám người Mã Lai chiếm cứ đảo Cổ Long trong vịnh Kompong Som, thấy lẽ khôn ngoan là đem thuộc binh ra thần phục Nguyễn Ánh. Đội quân lưu vong lái thêm 100 chiến thuyền và 200 người nữa.

Thêm người tất thêm miệng ăn cho đám quân thiếu thốn sẵn. Nguyễn Ánh phải dùng binh Vinh-ly-ma quen cướp giựt hai ba lần vào Hà Tiên và quanh đó để kiếm khí giới, lương thực. Tin tức nơi trú ẩn lộ ra ngoài.

Tháng 6 âm lịch, lúc Nguyễn Ánh đang ở mũi Đá Chồng thì Tổng suất Tây Sơn là Phan Tấn Thuận kéo binh tới vừa thuỷ vừa bộ. Cai cơ Lê Phước Điển phải đóng vai trò Lê Lai thuở trước, Ánh mới chạy thoát về đảo Cổ Long.2 Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc, Hoảng, Vinh-ly-ma đều bị bắt và bị giết.3 Tây Sơn vẫn không tha. Một tháng sau, phò mã Trương Văn Đa lại đem quân đến Cổ Long vây ba vòng trùng trùng, điệp điệp, quyết không để Ánh thoát lần nữa. Rủi ro cho Tây Sơn, một trận bão đánh đắm nhiều thuyền để Ánh nhân đó thoát ra, chạy đi Cổ Cốt.

Tây Sơn rút đi, Ánh lại mò về Phú Quốc. Tình cảnh đám quân bại thật thảm thương: thuyền Ánh gãy nát cột buồm, quân lính hết lương phải bứt cỏ mà ăn rồi sống nhờ một thuyền gạo của một người đàn bà Hà Tiên đem giúp. Để vợ con lại hải đảo, Ánh táo bạo đem một chiếc thuyền vào cửa Ma Ly4do thám tình hình. Độ 20 thuyền Tây Sơn thấy được đến vây, ông giương buồm chạy thẳng ra biển, lênh đênh suốt 7 ngày đêm. Gặp được dòng nước ngọt, thoát chết khát, ông quay trở về Phú Quốc.

Không ở yên được một chỗ, Ánh phải sai Cai cơ Nguyễn Văn Chính về Long Xuyên chiêu binh, tập mã. Thuyền đến cửa sông Ông Đốc5 thì bắt được tướng Tây Sơn là Quản Nguyệt, Ánh sai chém đầu thị chúng. Oai vũ chưa thấy đâu mà chỉ làm động đến Tây Sơn. May mắn, đạo quân tuần đêm bắt được viên Phó chiến Dạng trong đội phục binh ở cửa sông do Lưu thủ Long Xuyên của Tây Sơn là Nguyễn Hoá điều động. Rõ được cơ mưu, Ánh giục thuyền chạy mau cho thoát.

Lúc bấy giờ Lữ, Huệ đã về Quy Nhơn, để lại Trương Văn Đa với Chưởng tiền Bảo. Nguyễn Ánh trôi dạt Hòn Chông, rồi Thổ Châu, Cổ Long, Cổ Cốt... sống cuộc đời vật vờ phẫn chí của viên chúa tể trong cơn bại vong. Ông phải thay phiên chèo chống, chia sớt cùng khổ với bọn tòng thần cùng vài trăm binh trên độ mươi lăm chiếc thuyền. Tướng sĩ có khi vài ngày không ăn, phải đào rễ cây nhấm nhá cầm hơi.6

Vắng Nguyễn Huệ, dư đảng Ánh ở đất liền tưởng có dịp nổi lên thành công. Hồ Văn tân đánh ở Tân Châu, Tôn Thất Hội chiếm giồng Sao7, đắp luỹ cự địch trong khi Lê Văn Quân lại giữ sông Tân Hoà. Quân Tây Sơn tiến đánh giồng Sao rồi phá tan đồn Tân Hoà. Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1784), kiện tướng Ánh không còn ai ở Gia Định vì Hội, Quân đều bỏ chạy sang Xiêm, chỗ trú cuối cùng.

Châu Văn Tiếp sau trận Cá Trê đã theo đường thượng chạy một mạch qua Xiêm kêu xin viện binh. Tiếp thực táo bạo trong lúc Ánh không dám liều lĩnh8. Sở dĩ có sự dè dặt này vì bang giao Xiêm Việt lúc bấy giờ tuy có dấu hiệu cải thiện nhưng chưa đủ cho Ánh thấy Xiêm tỏ ra quên những cừu thù cũ.

Nam Vang và Hà Tiên là hai địa điểm đầu mối gây chiến. Ta đã biết âm mưu mở rộng Hà Tiên qua phía Xiêm đã gây nên trận chiến tranh giữa Mạc Thiên Tứ và Trịnh Quốc Anh9. Khi Duệ Tông bị bắt, Tứ với Tôn Thất Xuân chạy trốn bị thuyền Xiêm bắt về Vọng Các. Mùa xuân 1778, Ánh sai Cai cơ Lưu Phúc Trưng qua tìm Tứ. Mùa hạ năm đó sứ bộ của Cai cơ Tham, Tịnh đi Xiêm thì gặp rủi ro: một thuyền Xiêm đi buôn Quảng Đông về qua Hà Tiên bị Lưu thủ Thăng giết cướp. Có người Chân Lạp lại nói dèm rằng Gia Định có mật thư cho Tứ, Xuân làm nội ứng để chiếm Vọng Các. Muốn khỏi lo lắng, Trịnh Quốc Anh cho giết Tứ, các con lớn Tử Diên, Tử Hoàng, Tử Thượng và Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh, 50 người tuỳ tùng, chỉ chừa lại con nhỏ và cháu Tứ phải đi đày thôi 10. Tình hình bang giao không mấy khả quan thì lại tiếp xảy ra việc tranh quyền bảo hộ Chân Lạp.
___________________________________________
1. Ta biết là những khúc sông có tên là Rạch Chanh bắt đầu từ Long Định (Long An) đi vào Vàm Cỏ đông phía hạ lưu Bến Lức, qua Vàm Cỏ tây rồi ra Tiền Giang bằng kinh Bà Bèo và rạch Ba Rài. Vậy thì Nguyễn Ánh đã thoát nạn ở các khúc Rạch Chanh nào?
Chứng tích hiện tại so với sử sự thì hình như không hợp. Rạch Chanh khá nhỏ (trừ phi vào thế kỷ XVIII nó có lớn hơn không) mà sử quan kể chuyện Ánh lội qua sông, leo lên lưng trâu cỡi, nước triều buổi chiều dâng, trâu chìm, cá sấu đưa đi... như trên một khúc sông lớn vậy. Địa điểm chính xác chắc là vịnh Đá Hàn trên sông Vàm Cỏ tây gần chỗ một khúc Rạch Chanh nhập vào (xã Hướng Thọ Phú, Long An). Đó là một vùng nước xoáy rất dữ (một khuỷu sông). tục truyền Nguyễn Ánh đi qua đó không ghe thuyền, bỗng nhiên đá dưới sông trồi lên, hàn lại (vi thế mới có tên là Đá Hàn. Người ta đồn ở khúc sông này có bầy trâu nước, ai lấy được một sợi lông của nó mang theo qua sông, thân mình không bao giờ bị chìm. Phảng phất trong truyện tích, ta thấy có chuyện Nguyễn Ánh cỡi trâu qua sông. Vậy chắc khúc sông này là chỗ Nguyễn Ánh thoát nạn. )
2. Sử quan gọi là đảo Côn Lôn. Tìm ra địa điểm Cổ Long là công của Ch. Maybon (Histoire moderne du pays d’Annam, t. 201, chú số 3). Tuy nhiên, tên Côn Lôn nói ở các quyển Thực lục về sau không thể lẫn được vì đảo này, từ lúc Nguyễn Ánh chiếm hẳn Gia Định đã đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp xúc với Tây phương mà Tây phương thì biết rõ nó hơn Cổ Long.
3. Chi tiết vụ này lấy ở Thực lục q2, 3ab, Liệt truyện q28, 9b, thư Langenois gởi cho Descourvières từ Sa Đéc 14-11-1783. Sử quan gọi vị trí xảy ra cuộc vây hãm là “Điệp thạch dự”, hòn Đá Chồng. Trịnh Hoài Đức (Aubaret, t. 52) kể chuyện Vinh-ly-ma, gọi là vũng Luỹ Thạch ở Phú Quốc. Hai chữ “luỹ” và “điệp” có thể lẫn với nhau. Thực ra chữ “dự” ở đây không chỉ một hòn đảo mà chỉ một mõm núi nhô ra sát biển.
Trận chiến hình như không phải chỉ xảy ra ngoài biển, ở mũi Đá Chồng của đảo Phú Quốc mà còn có trên đất liền ở vùng Hà Tiên nữa. Tài liệu Tây phương trên ghi: “...(Ánh) trong lúc chờ đợi viện binh ở Xiêm đã hai ba lần lẻn vào Cancao và quanh đó với bọn Mã Lai Campot để tìm lương thực, khí giới thì thuỷ quân Tây Sơn và đạo quân Lào, Bassac bằng đường bộ đổ xô đến cướp của ông nhiều thuyền đi biển, bắt các tướng, hầu hết đều phản bội. Một vài người bị giết, số còn lại đem về Sài Gòn”. (A. Launay, III, t. 79, chú số 1).
Chúng tôi nhấn mạnh các chữ Mã Lai Campot vì đó là đầu mối tổng hợp các tài liệu. Sử quan vẫn gọi bọn cướp biển ở vịnh Xiêm là giặc Chà-và (từ chữ Java). Khi Nguyễn Ánh ở Xiêm đánh Pégou (Mã Lai) giúp Rama I, sử quan cũng gọi là đánh giặc Chà-và. Vậy Chà-và ở đây là chỉ dân Malais, và bọn “Malais du Campot” nói trên là tướng sĩ của Vinh-ly-ma. Thực lục ghi việc Xiêm tướng Vinh-ly-ma về đầu rồi tiếp theo vụ Điệp Thạch Dự liền, khiến ta có thể thấy ngay sự liên tục giữa hai sự kiện. Hơn nữa trong thời gian chờ đợi viện binh Xiêm, chỉ có trận bại chiến này là lớn thôi, trận mà Pigneau có nói tới: “... (khoảng 17, 18-7) vua đánh với bọn nổi loạn một trận mất gần hết binh thuyền còn lại” (A. Launay, III. t. 88) rất đúng với thời điểm tháng 6 âl của Thực lục.
4.Đồng Khánh, quyển hạ, t. 209 cho biết đó là cửa biển của xã Tam Tân (nay thuộc Bình Tuy). Sông Ma Ly có tên trên bản đồ của Nha Địa dư là sông Phan. Ta có thể hoài nghi là địa điểm Ánh tới quá xa Phú Quốc và quá gần Tây Sơn. Tuy nhiên sự việc lại quá hợp với chi tiết nước ngọt giữa biển kể sau. Phải ở Ma Ly chạy thẳng ra biển Đông, đi tới 7 ngày đêm người ta mới vẫn có thể may ra gặp các dòng nước ngọt do sông Cửu Long đổ ra vì khối lượng lớn quá nên không lẫn với nước mặn được.
5. Đốc Công hải khẩu. Thực lục, q2, 7ab.
6.Thực lục, q2, 8b; thư của Pigneau kể chuyện nửa sau tháng giêng 1784 (A. Launay III, t. 90.)
7. Cù lao Ông Chưởng.
8. Thư ông Descourvières (A. Launay, III, t. 80).
9. Ch. Maitre “Documents sur Pigneau de Béhaine, évêque d’Adran”, RI, 1913. t 176. Liệt truyện tiền biên, q6, 5ab
10.Liệt truyện q32, 3b, 4a.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Vào cuối năm 1781, Trịnh Quốc Anh phái các tướng Chất-tri, Xô-si qua Chân Lạp hỏi tội Nặc-ấn, trả thù vụ Nặc-vinh bị Đỗ Thanh Nhân giết. Nặc-ấn thua rút binh về Colompé cầu cứu với Gia Định vào cuối tháng giêng 1782. Nguyễn Hữu Thuỵ và Hồ Văn Lân tiến quân lên Loveck1. Chiến tranh còn dằng dai thì ở Xiêm xảy ra chính biến. Giặc thành Cổ Lạc (Korat) nổi dậy, Trịnh Quốc Anh sai Phi-nhã Oan-sản2 cầm quân dẹp mà không biết tại sao lại không lưu ý rằng người cầm đầu cuộc loạn lại là em Sản. Sản quay giáo đem quân về Vọng Các bắt Anh cầm tù. Ở Chân Lạp, Chất-tri cầu hoà với Thuỵ, bẻ tên thề, nhận cờ, đao, kiếm của Thuỵ tặng rồi kéo quân về giết Quốc Anh, vu tội cho Sản rồi giết luôn. Chất-tri, Xô-si, và cháu là Ma-lặc làm đệ nhất, đệ nhị, đệ tam Phật vương, cùng nhau cai trị truyền dòng Rama3.

Việc kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ, tiếp theo với việc Rama I kêu Mạc Tử Sanh về Vọng Các nuôi, có thể coi như những dấu hiệu khuyến khích Nguyễn Ánh tới gần Xiêm hơn. Cho nên, khi bại binh ở sông Ngã Tư, Ánh sai sứ bộ trên 100 người theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu viện. Dân Chân Lạp gặp dịp may trả thù kẻ thất thế, bèn giết gần hết sứ bộ với Nguyễn Hữu Thuỵ, Trần Xuân Đàm. Chỉ có Nguyễn Văn Nhân, Cao Phước Trí là chạy thoát4. Tuy bị trở ngại, Nguyễn Ánh khôn ngoan vẫn cố giữ liên lạc thân thiện để hi vọng nhờ cậy. Mùa thu năm 1782, khi trở lại Gia Định rồi, ông cũng sai sứ đi Xiêm nữa.

Đến nay, Xiêm vương nghe lời Châu Văn Tiếp ai cầu, một mặt sai Tiếp theo thượng đạo trở về tìm chủ, một mặt sai Thát-xỉ-đa đem thuyền đi Hà Tiên tìm rước Ánh ở Long Xuyên vào tháng 5- 17845. Nhưng có phải vì lời kêu xin khẩn thiết của Châu Văn Tiếp ngày nay và vì nhớ mối kết giao với Nguyễn Hữu Thuỵ trước kia mà Xiêm vương cho rước Nguyễn Ánh để rồi tính việc trợ giúp không? Có những tài liệu khiến ta phải dè dặt.

Bá-đa-lộc đến Bangkok vào đầu tháng 11-1783 có gặp ở đây một sứ giả của Tây Sơn6. Tài liệu thật là ít ỏi để cho ta có thể biết thêm về ngày tháng tới lui, sứ mệnh giao phó, sự tiến hành công việc của viên sứ giả này ở Bangkok. Tuy nhiên do đó, ta cũng thấy Xiêm phải lựa chọn Nguyễn Ánh và Tây Sơn mà quyết định nghiêng về bên nào lại tuỳ thuộc vào tình hình Chân Lạp.

Thực vậy, trong tháng 12-1783, Trương Văn Đa dẫn quân tấn công Chân Lạp. Trước đó, Nặc Ấn bị Chiêu-thuỳ-biện, một người Mã Lai, nổi dậy đánh đuổi đến phải trốn qua Xiêm. Đa đến, Biện vốn được Xiêm công nhận làm phụ chính ở đây từ trước, vội vàng chạy qua cầu viện. Và rồi Tây Sơn giáp mặt quân Xiêm. Trương Văn Đa nghe tin điệp viên báo rằng quân Xiêm sẽ tiến theo đường Lào đánh Quy Nhơn, nên quyết định khai chiến. Xiêm cũng đòi Tây Sơn trả những kẻ thù của Xiêm mà Tây Sơn giữ (?) không thì chiến tranh. Và chiến tranh xẩy ra. Tây Sơn bị Xiêm vây, hai bên đánh nhau vài lần.

Cuối cùng Trương Văn Đa rút khỏi Nam Vang (6-1-1784). Nhưng từ đó “chiến tranh càng ngày càng nhen nhúm giữa người Xiêm và bọn giặc ở Sài Gòn”.7

Để phân tán lực lượng Tây Sơn, Xiêm vương nghĩ tới Nguyễn Ánh. Và đó là cớ quan trọng nhất để giải thích việc Nguyễn Ánh được “rước mời” vào Vọng Các. Cuộc đón rước nếu thực tình và diễn tiến trong bình đẳng thì sao lại để xẩy ra những điều mà khi gặp lại Bá-đa-lộc lần thứ hai, Ánh phải than phiền về “cách thức người ta lôi ông vào Xiêm”?

Tuy vậy, Ánh cũng ở Vọng Các chờ đợi đưa về. Đây là dịp may mắn cho Xiêm vương có thể mở rộng cương giới về phía Thuỷ Chân Lạp. Viện binh Xiêm gồm có hai vạn quân, ba trăm chiến thuyền dưới quyền điều khiển của Chiêu Tăng, Chiêu Sương, xuất binh ngày Nhâm thìn tháng sáu (25-7-1784).

Chiến tranh dùng Xiêm binh chiếm Gia Định được Nguyễn Ánh tóm thuật trong một bức thư gởi cho J. Liot8:

“Từ Thầy theo Ta mà trở về9 thì Ta cùng Xiêm binh tựu tại Mang Thít10 hạnh công Tây tặc, thủ thắng tàu một chiếc, hải đạo11 5 chiếc. Nhẩn ngày sau trực tấn xứ Lạch12. Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhơn tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy. Cớ ấy qua tháng chạp, mùng tám vừa thất lợi, các giai hội tản”...

Sử quan ghi cẩn thận hơn: tháng 7 âm lịch, khi quân Nguyễn Ánh và Xiêm chiếm Kiên Giang rồi đánh Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hoá ở Trấn Giang (Cần Thơ), quân Xiêm chia nhau đồn trú Ba Vác, Trà Ôn, Mang Thít, Sa Đéc. Nguyễn Ánh lo kiến tạo lực lượng riêng. Ông sai Cai cơ Trịnh Ngọc Trí đi đến các làng kêu cựu thần đang lẩn trốn và hào kiệt nổi lên hưởng ứng quan binh. Kết quả sơ khởi cũng khả quan: ở Vũng Liêm13, phó Đốc chiến Lý của Tây Sơn ra hàng. Cai cơ Nguyễn Tấn Văn hàng Tây Sơn ở trận Cá Trê năm ngoái nay cũng trở về. Sau đó là Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm bị bắt sau trận Đồng Tuyên và dư đảng Đông Sơn do Nguyễn Văn Thành chiêu dụ.

10 âm lịch, Nguyễn Ánh chịu một cái tang đau đớn: Châu Văn Tiếp quá hăng hái tiến sâu vào trận địa chết đổi mạng với Chưởng tiền Bảo ở Mang Thít. Trương Văn Đa vội rút về Long Hồ, sai người cấp báo Quy Nhơn.

Quân Xiêm hoành hành dữ. Ánh kêu với cận tướng14, rồi bỏ ra các hải đảo, gặp Bá-đa-lộc ở Thổ Châu vào tháng 12-1784, than thở với ông này rằng: người Xiêm lừa gạt ông, lấy cớ lập lại quyền binh cho ông chỉ để dùng danh vị ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi15. Trong khi đó, các tướng ông còn lại ở lục địa cố gắng tìm chiến thắng. Lê Văn Quân tiếp tục công việc của Châu Văn Tiếp, làm Khâm sai Tổng nhung, đem Chưởng cơ Đổng tiến chiếm Ba Lai, Trà Lọt.

Nhưng không lâu, tháng chạp Giáp Thìn, Nguyễn Huệ kéo quân vào. Chạm với một kẻ địch lạ tay, Nguyễn Huệ đánh mấy lần không thủ thắng đã có ý rút quân về. Vừa lúc một hàng tướng của Nguyễn Ánh, Lê Xuân Giác, liền cho Huệ kế phục binh, đánh mạnh, bất thần, hợp với sở trường viên tướng trẻ mà đầy khả năng này.

Huệ đem lính thiện chiến mai phục ở Rạch Gầm, rạch Xoài Mút16 rồi dụ quân Xiêm tới. Quen mùi chiến thắng, quân Xiêm tiến sâu vào nội địa bị đánh úp tan tành, chỉ còn vài nghìn người lẩn trốn theo đường bộ Cao Miên chạy về nước. Thực là một chiến thắng làm choáng váng địch quân. Nguyễn Ánh không trông cậy gì ở viện binh Xiên nữa. “Họ sợ Tây Sơn như sợ cọp”.

Nguyễn Ánh chạy về Trấn Giang sai Cai cơ Châu Phúc Trung tâu sự tình lên Nhị vương nước Xiêm. Cuộc đời lao đao bị săn đuổi lại bắt đầu qua Thổ Châu rồi Cổ Cốt. May mắn hơn, lần này đã quen sẵn, ra Cổ Cốt, Nguyễn Ánh gặp Cai cơ Trung đem binh Xiêm rước. Tháng ba năm Ất Tỵ (1785), với các tướng tòng vong trên 5 thuyền và 200 binh, Nguyễn Ánh lủi thủi vào Vọng Các.

Nhưng hi vọng chưa dứt, ông còn mong chờ. Trong khi đó Tây Sơn lại bắt đầu tính chuyện tuôn đổ sức mạnh có sẵn của họ ngược lên phía bắc, cưỡng bách đám dân chúng ở đây nhìn nhận oai quyền, giá trị của kẻ bà con phương xa về đã thu nhặt được trong chuyến viễn du mấy trăm năm cách biệt.
______________________________________
1. La-bích, Lô-việt của sử quan.
2. Phi-nhã là chức tước (sử quan cũng biết đến điều này: Liệt truyện q32, 2a). Chất-tri cũng vậy. Tên Rama I là P’hut Yodfa (P. Schweisguth, Un siècle d’histoire dans la péninsule indochinoise (1750-1830), Taupin, Hanoi. 1944.
3.Thực lục q1, 14ab, 15ab. Thư J. Liot cho Ô. Descourvières, 25-7-1782, A. Launay, III, t. 74.
4.Thực lục q1, 18a, Liệt truyện q13 truyện Nguyễn Hữu Thuỵ 6a, truyện Nguyễn Văn Nhân 15b. “La révolte ét la guerre des Tây Sơn”, bđd, t. 87.
5.Thực lục q2, 9b, 10a ghi tháng hai âm lịch (21/2-20/3/1784). Ghi chú của ông Descourvières (A. Launay, III, t. 80) tuy không đề rõ ngày viết, nhưng cho biết J. Liot ở Chantaboun (Chanthaburi), bệnh không theo Pigneau được, viết thư nói rõ Nguyễn Ánh gặp tướng Xiêm “tháng 5 năm nay” nói rằng “vua từ Chantaboun đi Bangkok” lúc ông ta viết thư ngày 31-5. “Năm nay” là năm 1784 vì khi nói chuyện Bá-đa-lộc xin được giấy thông hành để ra khỏi Xiêm (1784), Descourvières cũng dùng chữ “năm nay”. Về số quân đem vào Xiêm, Liot nói có tới 4.500 người, Thực lục ghi chỉ có tướng hơn 30 và quân vài mươi. Ngày về nước được ghi rõ “Nhâm Thìn tháng 6” (25-7). Vậy Ánh ở Xiêm không lâu, chứng tỏ Xiêm đã chuẩn bị sẵn sàng từ trước. Về đạo quân đi rước, có thể đây là đạo quân mà Pigneau gặp ở Chantaboun giữa tháng 12-1783. Đó là đạo thuỷ quân, vì họ ra lệnh cho ông đợi họ rời bến rồi hãy đi sau. Điều ông nghe thấy là đạo quân này “gởi chống bọn Cochinchinois” (A. Launay, III, t. 89) phù hợp lời Thực lục q2. 9b: “Thát-xỉ-đa đem thuỷ quân đi Hà Tiên... tiếng là cứu viện mà để lén mời Nguyễn Ánh”
6. A. Launay, III, t. 80.
7. Thư của André Tôn cho Ô. Descourvières 1-7-1784, A. Lau nay, III, t. 84. A. Tôn cũng bị dẫn từ Nam Vang về trong dịp này. Thư của L.M Ginestar, dòng Phăng-xi-cô 1784 (“La révolte... bđd, BSEI, 1940, t. 98). L.M bị đưa lên Nam Vang với thầy giảng Emmanuel trong tháng 12-1783 và về theo Trương Văn Đa. Thực lục q2, 8a.
8. Xem Phụ lục, bản thư Nôm thứ ba. Liot có tên trong Liệt truyện (q28 Bá-đa-lộc) tuy Liệt truyện lẫn với L.M Ginestar (sẽ nói sau)
9. Thư triệu hồi Long Xuyên, thư thứ hai.
10. Một ấp ở làng Mỹ Thạnh Trung, quận Minh Đức, Vĩnh Long.
11. Hải đạo thuyền (thuyền đi biển) thấy ghi trong Thực lục, Liệt truyện.
12. Định Tường còn có tên xứ Tầm Lạch. Nay còn địa danh Chợ Lách, một quận của tỉnh Vĩnh Long, phía bờ tây Tiền Giang.
13. Liêm Úc của Thực lục.
14.Thực lục q2, 14a.
15. Pigneaụ, thư 20-3-1785 ở Pondichéry (A. Launay, III, t. 91).
16. Sầm Giang, Xuy Miệt của Thực lục, Liệt truyện. Rạch Gầm chảy từ xã Long Tiên (quận Cai Lây, Định Tường) sang các làng Bàn Long, Vĩnh Kim (q. Sầm Giang) đến Kim Sơn ra Tiền Giang. Rạch Xoài Mút chảy từ giồng Dứa ấp Thanh Long sang ấp Thạnh Hưng xã Phước Thạnh, vào rạch Xoài Hột đến Tiền Giang. (Chỉ dẫn của ông Trương Ngọc Tường, Cai Lậy). Binh Xiêm bại ngày 8-12 Giáp Thìn (18-1-1785) như lời thư Nguyễn Ánh kể trước.
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Đúng rồi, có chổ nói nghệ thuật của Nguyễn Huệ là khi đánh trận không phải đánh cho đối phương chạy, mà là đánh làm sao để đối phương không thể chạy thoát!!

Hồi nhỏ đọc sách giáo khoa bị thiếu cảm giác về thời gian, tưỏng chừng mọi việc diễn ra nhanh chóng nhưng thật ra rất dài Tây Sơn từ lúc khởi nghĩa đến khi thất bại là 31 năm, Nguyễn Ánh đối đầu với Tây Sơn lúc còn Nguyễn Huệ khoản 10 năm, và 10 năm sau khi Nguyễn Huệ mất thì mới thắng lợi hoàn toàn, tổng cộng Ánh phải đánh nhau 20 năm!
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Mình post tiếp Triều Tây Sơn của Quách Tấn-Quách Giao cùng giai đoạn để mọi người so sánh với Tạ Chí Đại trường: nói chung cũng giống nhau.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
NGUYỄN PHÚC ÁNH XƯNG VƯƠNG
TÂY SƠN BÌNH GIA ÐỊNH


Trong khi Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn thì ở Gia Ðịnh Nguyễn Phúc Ánh quật khởi.

Năm Giáp Tý chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương hiệu (1744) và chia đất Gia Ðịnh ra làm ba dinh: Trấn Biên dinh (Biên Hòa hiện nay), Phiên Trấn dinh (Vũng Sài Gòn, Gia Ðịnh hiện nay), Long Hồ dinh (vùng Long Xuyên, Vĩnh Long hiện nay).

Nguyễn Phúc Ánh là cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, kêu Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Tần bằng chú, đối với Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương là vai anh con ông bác.

Nguyễn Phúc Ánh theo Ðịnh Vương vào Gia Ðịnh năm Giáp Ngọ (1774). Năm Tân Dậu, Tây Sơn đánh chiếm
Gia Ðịnh (1777), Ðịnh Vương và Ðông Cung bị giết. Phúc Ánh chạy thoát. Sau khi binh Tây Sơn rút về Quy Nhơn, giao thành Sài Côn cho Tổng đốc Chu trấn thủ, thì Nguyễn Phúc Ánh tụ tập đám thủ hạ cũ của chúa Nguyễn tại Long Xuyên, tấn cứ đất Tam Thụ (tục gọi là Ba Giồng thuộc Ðịnh Tường). Tháng giêng năm Mậu Tuất (1778), được quân của Ðỗ Thành Nhân ở Ðông Sơn đến giúp, Nguyễn Phúc Ánh bèn kéo binh đánh Phiên An. Không phòng bị thành Sài Côn bị thất thủ. Ðất Gia Ðịnh lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh được Ðỗ Thành Nhân và tướng sĩ tôn làm Ðại Nguyên Súy Nhiếp Quốc Chánh. Phúc Ánh lúc bấy giờ mới mười bảy tuổi.

Bị mất Gia Ðịnh, Tổng Ðốc Chu cùng thủ hạ chạy về Quy Nhơn. Ðược ít lâu, Vua Thái Ðức sai đem thủy binh vào đánh Gia Ðịnh. Tổng đốc Chu bị Ðỗ Thành Nhân đánh thua. Quân Tây Sơn tan rã. Thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Văn Quân kéo quân ra đánh Bình Thuận.

Bình Thuận, từ khi Lý Tài làm phản, thì giao cho Trấn thủ Diên Khánh là Lê Văn Hưng kiêm nhiệm. Do đó mà thành bị Lê Văn Quân đánh lấy được dễ dàng. Nhưng khi quân Nguyễn thừa thắng kéo ra Diên Khánh thì bị Lê Văn Hưng chận đánh phải thối lui vào Bình Thuận. Binh Tây Sơn truy kích, đánh cho một trận tơi bời, Lê Văn Quân vội rút tàn quân chạy về Gia Ðịnh. Từ ấy quân Nguyễn rất sợ Lê Văn Hưng và Nguyễn Phúc Ánh gọi Hưng là Lê Vô Ðịch.

Từ ấy Bình Thuận trở ra thuộc về Tây Sơn, từ Bình Thuận trở vô thuộc về Nguyễn Phúc Ánh.

Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiếm được Gia Ðịnh một mặt lo sửa sang mọi việc về quân sự và nhân sự, một mặt sai sứ sang giao hiếu cùng Xiêm La.

Chỉ trong vòng hai năm, Nguyễn Phúc Ánh đã có ba vạn quân thủy bộ, tám mươi thuyền chiến hạng vừa, ba thuyền chiến lớn, hai chiếc tàu kiểu Châu Âu. Ngoài ra còn có thêm ba chiếc tàu đồng do các sĩ quan và thủy thủ Bồ Ðào Nha điều khiển. Ba tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là Manuel tục gọi là Mạn Hòe.

Tự thấy mình đủ sức đối đầu cùng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn xưng Vương hiệu. Lễ tấn phong cử hành vào cuối năm Canh Tý (1780). Ðỗ Thành Nhân được phong chức Ngoại Hữu Phụ Chánh Thượng Tướng Công. Tất cả tướng sĩ đều được thăng thưởng. Binh quyền do Ðỗ Thành Nhân nắm trọn, chống giữ Tây Sơn ở mặt Bắc, đánh phạt Chân Lạp ở mặt Tây. Thành Nhân lập được nhiều công lớn, nha tướng mỗi ngày mỗi thêm đông. Sợ Thành Nhân tiếm vị, Phúc Ánh bèn tìm cách giết chết năm Tân Sửu (1781).

Ðỗ Thành Nhân chết rồi, Phúc Ánh không còn lo họa bên trong, liền cử binh đánh Tây Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hòa hiện thời).

Ba đạo quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp ở Phú Yên đánh vào, và do Tôn Thất Dụ ở Bình Thuận đánh ra. Một đạo thủy quân do Tống Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia Ðịnh kéo ra chận quân Quy Nhơn ở mặt biển.

Bình Khang là dinh nằm giữa dinh Bình Thuận ở phía Nam và dinh Phú Yên ở phía Bắc, dinh Bình Khang chia làm hai phủ: phủ Bình Khang ở phía Phú Yên, phủ Diên Khánh ở phía Bình Thuận. Trấn thủ dinh Bình Khang lúc bấy giờ là Lê Văn Hưng có một đội tượng binh thiện chiến. Phần lớn quân lực đóng ở Diên Khánh.
Bình Thuận thuộc quyền chiếm đóng của Nguyễn Phúc Ánh
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Phú Yên do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc trấn thủ. Chu Văn Tiếp chỉ chiếm cứ một vùng ở Trà Lương (Tuy An).

Quân Tôn Thất Dụ kéo ra đến Diên Khánh chưa kịp đóng quân thì bị Lê Văn Hưng cho đoàn chiến tượng xung trận. Quân nhà Nguyễn vốn đã sợ uy thế Lê Văn Hưng, lại còn sức hùng mãnh của chiến tượng, đều khiếp đảm, rùng rùng bỏ chạy. Quân Nguyễn chưa đánh đã tan! Còn Chu Văn Tiếp kéo quân ra chưa khỏi Phú Yên đã bị Nguyễn Văn Lộc chặn đánh tơi bời. Binh bị giết gần hết, một mình Tiếp tẩu thoát, chạy về trốn ở Trà Lương. Trong tình hình nguy ngập của bộ binh, thì thủy binh của Tống Phước Thiêm lại không rời khỏi Gia Ðịnh được. Bởi bộ hạ của Ðỗ Thành Nhân ở Ba Giồng nổi loạn.

Không thể để yên cho Phúc Ánh phát triển lực lượng và chiếm giữ lâu dài đất gia Ðịnh, Vua Thái Ðức lo việc chinh Nam.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), nhà vua cùng Nguyễn Huệ, Phạm Ngạn đem 200 chiến thuyền vào Gia Ðịnh. Binh đi thẳng vào cửa biển Cần Giờ.

Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đem thủy quân ra chận đánh. Ðạo thủy quân của nhà Nguyễn gồm trên 400 chiếc thuyền, lại có một số tàu đồng của Pháp và Bồ Ðào Nha tham dự.
Tống Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng tại sông Thất Kỳ tức ngã Bảy, quyết tiêu diệt binh Tây Sơn. Hai bên kịch chiến. Bên ngoài có súng trường và đại bác bắn rền trời. Thuyền Tây Sơn anh dũng xông vào bám sát thuyền địch, dùng pháo lửa (fusée)[48] ném sang vùn vụt. Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu của Pháp do Mạn Hòe chỉ huy, có 10 khẩu đại bác, bị hãm không sao ra khỏi vòng vây, cố sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòe tử trận. Thuyền của nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!

Một đội thuyền do Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy đến cứu cũng bị hỏa lực đánh tan, Phúc Ánh vội rút tàn quân chạy về Bến Nghé. Binh Tây Sơn lớp đuổi theo Phúc Ánh, lớp kéo lên đánh chiếm Thị Nghè, Gia Ðịnh. Phúc Ánh phải chạy trốn về Ba Giồng, theo phò vừa tướng vừa quân chỉ trên dưới 300 người; nhưng chưa ở yên thì bị binh Tây Sơn kéo đến đánh, phải chạy hết từ chỗ này đến chỗ khác từ Gia Ðịnh đến Hậu Giang.

Quân Nguyễn ở Bình Thuận nghe tin Gia Ðịnh thất thủ liền tiến về cứu viện. Nhưng vừa đến Biên Hòa thì Tôn Thất Dụ bị tướng Tây Sơn là Phạm Ngạn chận đánh, quân Nguyễn phải thối lui. Vừa lúc đó Châu Văn Tiếp kéo quân ở Phú Yên vào tiếp ứng. Phạm Ngạn đương đuổi theo quân Nguyễn, giết được một viên tướng Nguyễn là Hồ Công Siêu, thì bị Châu Văn Tiếp tiếp chiến thình lình trở tay không kịp liền bị giết. Quân Tây Sơn không dám đuổi tiếp. Tôn Thất Dụ cùng Châu Văn Tiếp rút ra Bình Thuận.

Nguyễn Phúc Ánh ở Hậu Giang nghe tin quân mình thất bại khắp mọi nơi, liệu không đủ sức đối phó với Tây Sơn, bèn sai Nguyễn Hữu Thụy cùng 150 người tùy tùng sang Xiêm cầu viện, còn mình thì chạy đến Hà Tiên cùng Lê Văn Duyệt và một số quan tòng vong chạy ra Phú Quốc.

Thế là đất Gia Ðịnh được bình định. Bộ tướng của Ðỗ Thành Nhân kéo binh từ Ðông Sơn đến hàng. Vua Thái Ðức thu nạp và trọng dụng.

Tháng 5 năm Nhâm Dần (1782) tình hình Gia Ðịnh đã tương đối ổn định, Vua Thái Ðức cùng Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn. Ðất Gia Ðịnh giao cho Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá trấn thủ.

Vua Thái Ðức cùng Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn chưa được bao lâu thì ở Gia Ðịnh một cựu tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Hồ Văn Lân tập hợp một số tàn quân của nhà Nguyễn còn lẩn lút ở miền Hậu Giang, nổi lên đánh chiếm dinh Long Hồ. Một số tướng khác như Dương Công Trừng, Nguyễn Văn Quý cũng đem tàn quân hợp với Hồ Văn Lân đánh úp thủy quân Tây Sơn ở Lật Giang. Trong khi bọn Hồ Văn Lân hoạt động ở Gia Ðịnh thì ở Phú Yên Châu Văn Tiếp cũng mộ quân kéo vào giúp rập.

Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá chỉ có 3.000 quân trong tay, phải chia ra chống đỡ các mặt. Thành Gia Ðịnh bị yếu thế không trì thủ được lâu. Ðỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá phải bỏ chạy về Quy Nhơn.

Lấy lại được Gia Ðịnh, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người ra Phú Quốc rước Nguyễn Phúc Ánh trở về.
Ðầu năm Quý Mão (1783) Vua Thái Ðức sai Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ, Lê Văn Hưng, Trương Văn Ða cử đại binh vào đánh Nguyễn Phúc Ánh.

Biết trước thế nào Vua Tây Sơn cũng đem quân vào đánh, Nguyễn Phúc Ánh lo phòng bị cẩn mật. Một mặt sai Lê Phúc Diễn, Lê Phúc Bình đem vàng bạc sang Xiêm La, cầu xin Vua Xiêm cứu viện khi Gia Ðịnh bị Tây Sơn tấn công. Một mặt lo tăng cường phòng thủ thành Gia Ðịnh: đồn Bến Nghé ở phía nam thành và đồn Thị Nghè ở phía bắc thành là hai đồn lớn nhất và đã xây đắp từ lâu. Ðồn Bến Nghé là bình phong của thành. Ðồn Thị Nghè nằm trên ngã ba sông Thị Nghè, có thể khống chế mấy ngã sông Thị Nghè và sông Gia Ðịnh, do đó đủ sức che chở cho thành một cách vững vàng kín đáo. Hai đồn này được tu bổ nghiêm túc. Hai đồn mới được xây đắp: đồn Thảo Câu ở phía nam thành, trên sông Vàm Cỏ Ðông; đồn Dác Ngư ở phía bắc thành, trên sông Gia Ðịnh. Ðồn nào cũng có tướng sĩ canh giữ nghiêm ngặt. Ðồng thời Nguyễn Phúc Ánh cho khôi phục thủy quân, đóng chiến thuyền. Trên khúc sông rộng ở hạ lưu Gia Ðịnh giang có đóng nọc ngầm và hai bên sông có hàng nghìn bè tre chất đầy củi khô và thuốc súng sẵn sàng đánh hỏa công. Một toán chiến thuyền trên 100 chiếc trang bị đầy đủ dàn sẵn trên sông Gia Ðịnh.

Việc phòng bị lần này nghiêm chỉnh hơn lần trước thập bội.

Thủy binh Tây Sơn đến cửa Cần Giờ ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão (1783)
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Nắm vững tình hình của địch. Nguyễn Huệ đợi lúc thủy triều dâng, gió từ cửa biển thổi mạnh vào đất mới đốc suất chiến thuyền vào cửa sông.

Châu Văn Tiếp chỉ huy chiến thuyền Nguyễn kéo binh ra chống cự. Tiếp đã bố trí chiến trường, quyết dùng hỏa công tiêu diệt thuyền địch, ít ra cũng đẩy lui địch không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội rút lui. Biết rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn hô quân tiến đánh.

Khi chiến thuyền Nguyễn đã qua khỏi khúc sông bố trí đánh hỏa công và thuyền Tây Sơn đã lâm vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và cắt dây neo để cho trôi xuống thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên mạnh và gió biển theo nước triều thổi mạnh, bè lửa trôi ngược trở lên và lửa đốt cháy thuyền Nguyễn. Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo càng gấp, Châu Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi chạy sang Xiêm. Thủy binh của Phúc Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt. Nguyễn Huệ chia quân đến đánh hai đồn Thảo Châu và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất Mãn bị Lê Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị Trương Văn Ða bắt sống. Nguyễn Huệ kéo quân đánh thành Gia Ðịnh. Nguyễn Phúc Ánh hốt hoảng, bỏ thành đem gia đình chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng và chừng trăm quân chạy theo. Tướng sĩ ở Bến Nghé và Thị Nghè cũng bỏ đồn chạy.

Nguyễn Huệ kéo quân vào thành, phủ dụ nhân dân và tướng sĩ còn ở lại.

Chạy về Ba Giồng, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức lại quân đội.

Ðầu tháng 4 năm Quý Mão (1783) cất quân đánh Tây Sơn.

Quân hai bên gặp nhau ở Ðồng Tuyên (Kiến An, Ðịnh Tường). Quân nhà Nguyễn vừa thấy quân Tây Sơn
hùng hổ kéo đến thì đã muốn bỏ chạy. Do đó mới vừa giáp chiến thì binh liền tan rã, tướng phần nhiều bị giết. Nguyễn Văn Quý bị Trương Văn Ða chém trên mình ngựa. Nguyễn Huỳnh Ðức bị Lê Văn Hưng bắt sống. Quân sĩ bị bắt sống trên nghìn người. Quân Nguyễn bị tiêu diệt toàn bộ.

Nguyễn Phúc Ánh tẩu thoát, chạy đến Lật Giang, chạy sang Mỹ Tho, rồi chạy đến Ba Thắc, cuối cùng chạy đến Hà Tiên để xuống thuyền ra Phú Quốc.

Về việc chạy trốn của Nguyễn Phúc Ánh, sử nhà Nguyễn chép:

Vương chạy đến Lật Giang thì trên sông tuyệt không có đò sang ngang. Ngài bỗng thấy một con trâu nằm
ngay nơi mé tả, Ngài bèn cỡi lên lưng trâu để qua sông. Nhưng khi đến giữa dòng thì nước rút quá mạnh, trâu không bơi được. May một con cá voi nổi lên há miệng ngậm lấy Ngài đưa sang bờ bên kia. Nhờ vậy mà ngụy quân không nhận được vết tích để truy tìm. Tới xứ Vịnh Cù, Ngài gặp Thái giám Duyệt đem theo ấn nhỏ bằng vàng cùng các quan tòng vong. Mọi người xuống thuyền tới cửa Kinh Hào (Long Xuyên) rồi sang thuyền đi Phú Quốc... (Nguyễn Triều Long Hưng sự tích).

Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai Phan Tiến Thận đi đánh bắt. Một số tướng lãnh bị bắt sống. Nguyễn Phúc Ánh thoát chết chạy ra đảo Cổ Long (KohRong). Trương Văn Ða đem một lực lượng thủy quân lớn đến vây đánh. Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra để bao vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Phúc

Ánh có cơ hội đem tàn quân chạy thoát, trốn sang đảo Cổ Cốt (Koh Kut) rồi chạy về Phú Quốc.

Ðất Gia Ðịnh đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Ða cùng một số tướng sĩ ở lại giữ thành Gia Ðịnh. Nguyên trước khi Nguyễn Huệ xuất binh, Trương Văn Hiến tâu cùng Vua Thái Ðức:

- Gia Ðịnh ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan, nên không căm thù nhà
Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy hễ bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó quân ta cứ lấy được Gia Ðịnh rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.
Do đó Nguyễn Huệ mới để Trương Văn Ða, một người văn võ toàn tài, ở lại trấn thủ Gia Ðịnh. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái Ðức sai thêm hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiệp vào trợ lực.

Họ Cao họ Triệu vào đến nơi lo tìm hiểu dân tình dân ý. Hai ông giả làm thầy địa lý và thầy tướng số để được gần gũi nhân dân. Hai ông nhận thấy miền Nam hầu hết đều chất phác nhân hậu. Sĩ phu giữ khư khư lời dạy của thánh hiền, chữ Trung của Hán Nho, Tống Nho đã in sâu vào tâm phủ. Lòng họ đối với nhà Nguyễn tuy không sâu đậm bằng lòng người miền Bắc đối với nhà Lê, song có tài chinh phục đến đâu cũng khó thu về cho nhà Tây Sơn trong hôm sớm. Muốn thu phục nhân tâm miền Nam, thì phải làm sao cho họ thấy nhà Tây Sơn hơn nhà Nguyễn về mọi mặt.

Trước hết phải có một chính sách tốt.

Chính sách đã có sẵn từ nghìn xưa. Chẳng qua tám chữ Thân Dân, Ái Dân, An Dân, Lợi Dân. Khó nhất là làm sao thực thi cho được tám chữ ấy.
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
  • Việc giết 4000 người Hoa ở Cù Lao Phố là rõ ràng, Tây Sơn ko biện hộ, họ dám làm dám chịu. Sử sách đã ghi còn quan điểm là do người đọc.
  • Đối với cá nhân mình quan điểm như sau : giết 4000 người Hoa đúng hay sai ? mình trả lời sai...dù nhân danh cái gì thì giết người vẫn là giết người. Còn nếu hỏi có ủng hộ việc Tây Sơn thanh trừng hay không ....mình bỏ phiếu cho Tây Sơn. Nếu hỏi có cần thiết ra tay thảm sát như vậy ko ??? Mình trả lời là cần.
  • Quân Tây Sơn có tinh thần dân tộc cao, họ thấy rõ dã tâm của người Hoa vì đã có nhiều cuộc dấy binh người Hoa trong thời gian này, ngoài ra sự khắng khít của người Hoa và Nguyễn. Thế lực người Hoa quá lớn và là mối nguy........Tây Sơn có ý đồ triệt phá nguồn lực phía Nam.....đã ra triệt hạ về mặt con người và chiếm tài sản để tăng lực cũng như làm mất đi nguồn viện trợ chiến tranh phía Nam.
  • Trong lịch sử Việt Nam có rất nhiều cuộc thảm sát : Như Lý Thường Kiệt ở Ung Châu, những cuộc thanh trừng khi lấn chiếm về phía Nam với Chăm hay Chân Lạp...........gần đây thì có Mậu Thân Huế. Quan điểm của mình từng vụ khác nhau tùy vào bối cảnh
- Lão lại luyên thuyên nữa rồi. từ trước đến nay dân tộc Việt luôn coi những người Hoa sống trên lãnh thổ Việt là người Việt. Cái mục ghi chữ dân tộc : Hoa chỉ xuất hiện sau này trên chứng minh thư và khai sinh. Thời phong kiến thì không có sự phân biệt. Tuy nhiên, người Hoa thường sống quần tụ thành cộng đồng. Người Hoa đã có nhiều đóng góp to lớn cho đất Việt xuyên suốt lịch sử chứ không riêng thời các chúa Nguyễn. Bản thân ngay từ những ngày đầu, Tây Sơn vẫn sử dụng người Hoa làm lực lượng cho mình như Lý Tài, Tập Đình ..., sau này Nguyễn Huệ còn liên kết với bọn hải tặc người Hoa. Nói thế lực người Hoa ở miền Nam quá lớn để tiêu diệt là lối nói ngụy biện.
- Nhắc về Lý Thường Kiệt thì lại càng nhảm, bôi nhọ tiền nhân. Lý Thường Kiệt nào tàn sát dân ở Ung Châu với Chân Lạp. Kiến thức lịch sử thế này thì nguy hiểm quá. Lý Thường Kiệt chỉ giết quân địch, ông không hề giết dân, thậm chí ông còn gom hàng vạn dân của 3 châu bên TQ về làm thần dân của mình. Đừng có đặt điều vu khống cho một tượng đài của dân tộc [-X
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Trong khi ở Gia Ðịnh nhà Tây Sơn lo việc an dân thì ở Phú Quốc Nguyễn Phúc Ánh lo cầu cạnh nước ngoài cứu viện để đánh cướp đất.

Nguyên Nguyễn Phúc Ánh có quen cùng hai giáo sĩ Cơ Ðốc Tây Phương là Linh mục Ly-ô (Liot), người Bồ Ðào Nha, và Giám mục Bá Ða Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine Evêque dAdran), người Pháp, trước kia truyền giáo ở Gia Ðịnh, sau chạy sang Săn Ta Buôn (Chantabuon) ở Xiêm La lập giáo sở. Phúc Ánh bắt liên lạc cùng hai nhà truyền giáo ấy, nhờ Linh mục Bồ Ðào Nha mua lương thực và Giám mục Bá Ða Lộc sang cầu viện nước Pháp. Phúc Ánh hứa bằng giấy tờ, sẽ cắt đất nhượng cho nước Pháp, và để cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở Việt Nam sau khi chiến thắng. Con trai đầu của Phúc Ánh là Hoàng Tử
Cảnh theo Bá Ða Lộc làm con tin.

Giám mục chưa kịp xuống tàu sang Pháp thì Phúc Ánh được mật thư của Châu Văn Tiếp mời sang Vọng Các (Bangkok) hội kiến cùng Vua Xiêm.

Nguyễn Phúc Ánh sang Xiêm vào khoảng tháng giêng năm Giáp Thìn (1784).

Vua Xiêm tiếp đãi nồng hậu.

Nước Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri) đương lúc thịnh vượng và đang nuôi tham vọng nuốt Chân Lạpvà Gia Ðịnh để mở rộng cõi bờ. Ðược Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.

Ðể chuẩn bị cuộc xâm lăng, Vua Xiêm giúp Phúc Ánh tổ chức một đạo binh gồm đám tàn quân và bọn người Việt lưu vong trên dưới nghìn người do Châu Văn Tiếp làm Ðại Ðô Ðốc và Mạc Tử Sinh làm Tham Tướng.

Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784), Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên
phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân của Phúc Ánh từ Vọng Các vượt biển sang Gia Ðịnh. Ðồng thời nhà vua lại phái hai tướng là Lục Côn và Sa Uyển cùng với Chiêu Thùy Biện, một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo binh trên 3 vạn người, tiến sang Chân Lạp rồi từ đó kéo xuống Gia Ðịnh phối hợp cùng thủy binh của Chiêu Tăng và Chiêu Sương.

Châu Văn Tiếp đã thuộc được lối và biết rõ các nơi hiểm yếu ở Gia Ðịnh, nên dẫn quân đi trước.

Thủy quân Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá.

Bộ binh Xiêm đánh xuống Châu Ðốc.

Ðể phòng ngự mặt biển và mặt sông, thời chúa Nguyễn, Nguyễn Cư Trinh đã lập ra 5 đạo là Tân Châu Ðạo
ở Cù Lao Giêng thuộc Tiền Giang, Châu Ðốc Ðạo ở Hậu Giang sát biên giới Chân Lạp, Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc, Kiên Giang Ðạo ở Rạch Giá và An Xuyên Ðạo ở Cà Mau.

Quân Xiêm kéo vào Gia Ðịnh một cách rầm rộ.

Trấn thủ Gia Ðịnh là Trương Văn Ða thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho các nơi vừa chận đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.

Quân Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Ðốc ở biên cương rút về Cần Thơ. Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc.

Ba Thắc (Srok Pra-sak) là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc Trăng, Bạc Liêu... Dân cư phần đông là người Cao Miên. Ðất đai phần lớn là rừng và bưng biền nước ngập.

Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho một trận tơi bời phải thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Hậu Giang sang Trà Ôn để rồi lui về Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc. Quân đóng ở An Xuyên Ðạo (Cà Mau) bị cô thế cũng rút về Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Man Thiếc (Mânthít) thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo quân của Trương Văn Ða từ Sa Ðéc kéo xuống đánh kịch liệt. Châu Văn Tiếp bị Trương Văn Ða chém chết. Quân giặc rút lui xuống Trà Cú. Nhưng Trương Văn Ða liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất miền Tây về phía hữu ngạn sông Tiền Giang, kéo đại binh về đóng ở Mỹ Tho.
Vì mất người hướng đạo là Châu Văn Tiếp, giặc không dám sang sông, lấy Ðông Khấu Ðạo ở Sa Ðéc làm Tổng Hành dinh .

Sau trận kịch chiến ở Man Thiếc vào khoảng trung tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (tháng 11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng 11 năm Giáp Thìn (tháng 12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Ðịnh Tường và Vĩnh Long. Chỉ huy trận này là Ðặng Văn Lương, người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm tới chức Chưởng Cơ và Lê Văn Quân cũng người Ðịnh Tường, theo Phúc Ánh làm đến chức Ðô Ðốc. Ðô Ðốc lên thay Châu Văn Tiếp làm Tổng Nhung. Họ Ðặng và họ Lê cậy mình là người địa phương thông thạo đường lối, đương tính đem quân đánh úp quân Tây Sơn. Chẳng ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi quân Nguyễn vào đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất mạnh, quân Nguyễn không chống nổi bị giết gần hết. Ðặng Văn Lương bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Kim chém chết. Lê Văn Quân bị Lê Văn Kế đánh trọng thương, chạy thóat nhưng phẫn uất mà tự sát.

Từ đó quân Xiêm - Nguyễn đóng yên một chỗ.

Trương Văn Ða với số quân không quá 10 nghìn, phải tận lực giữ vững nửa phần đất còn lại ở phía Ðông từ Tiền Giang trở ra. Vùng đất phía Tây từ Tiền Giang, Hậu giang trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm - Nguyễn.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Chiếm được nửa phần đất Gia Ðịnh, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu căng. Chúng xem thường quân Tây Sơn, khinh mạn Phúc Ánh, không lo chiến đấu mà chỉ lo tìm cách cướp bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam tỏ thái độ hay có hành động chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm không biết bao nhiêu con gái, vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán. Hành động bạo ngược của quân giặc đào sâu lòng căm thù của toàn dân miền Tây và cả miền Ðông Gia Ðịnh, căm thù cả Xiêm lẫn Nguyễn kẻ rước giặc về phá quê hương, và hết lòng ủng hộ tướng sĩ Tây Sơn.

Nhờ lòng dân ủng hộ mà Trương Văn Ða với một số quân ít ỏi có thể chặn đứng được bước tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được mãi. Cuối năm 1784 Trương Văn Ða sai Ðô Uùy Ðặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia Ðịnh.

Nghe qua lời tấu của Ðô úy Ðặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn biết rằng lực lượng của giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Ðức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Bùi Thị Xuân xin tòng chinh.

Binh Tây Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11 năm Giáp Thìn (tức khoảng đầu năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi, còn có Ðô úy Ðặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.

Thủy binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu để lên Gia Ðịnh như mấy lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Tiền Giang kéo đến Mỹ Tho. Chủ lực của Tây Sơn do Trương Văn Ða chỉ huy đóng tại Mỹ Tho.

Nguyễn Huệ sai Trương Văn Ða ra giữ thành Gia Ðịnh, còn mình thì đóng quân tại Mỹ Tho quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Trước hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế, và cho người do thám tình hình của địch.
Mỹ Tho lúc bấy giờ gọi là Trường Ðồn, đất đai phì nhiêu, rừng núi hiểm trở, sông ngòi lưu thôn. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có hai cửa tả hữu, hào rộng 4 trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào, ngoài hào còn có lũy che chở. Trước mặt đồn có sông Ðại Giang gọi là sông Mỹ Tho, một chi lưu của sông Tiền Giang. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo thủy triều mà lên xuống, rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một cánh rừng rộng làm hào thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục gọi là Rừng Dừa.

Ðịa thế khá hiểm trở.

Trên sông Ðại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu vừa rộng vừa dài. Ðó là nhờ nước sông Sầm
Giang tục gọi là Rạch Gầm và sông Hiệp Ðức tục gọi là Rạch Cái La hay Rạch Xoài Mút chảy vào tăng lưu lượng cho nước sông Tiền Giang. Từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dông dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và rộng gần cả dặm (1 cây số). Thủy triều lên thì tràn đầy, khi xuống vẫn không cạn. Giữa sông có một gò đất bồi chu vi khoảng 5 dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và một cù lao nhỏ gọi là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai bên bờ sông và trên cù lao lau lách và cây bần mọc um tùm và không có vết chân người qua lại.

Nguyễn Huệ dùng khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút và Rừng Dừa làm trận địa để diệt quân thù. Vì quân Xiêm
- Nguyễn tập trung toàn bộ lực lượng, cả thủy quân tại đạo Ðông Khấu ở Sa Ðéc, lực lượng quá lớn (300 chiến thuyền và 5 vạn thủy lục quân), không thể nào đánh thẳng vào đại doanh của địch với số quân không đầy một nửa. Nguyễn Huệ phải dụ địch ra ngoài nơi có lợi thế cho mình. Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục trong các nhánh sông Rạch Gầm, Xoài Mút và trong các con sông nhỏ chảy quanh các cù lao. Còn bộ binh thì một đạo mai phục ở hai bên bờ sông và trên cù lao Thới, trên bãi Tôn, một đội mai phục nơi Rừng Dừa. Thủy binh do Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng Trần Quang Diệu điều khiển.

Vạn sự cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu chiến. Ðó là chiều ngày mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm 1785.

Quân Xiêm - Nguyễn khi được tin binh Tây Sơn kéo đến Mỹ Tho thì liền chuẩn bị sẵn sàng để đối phó.
Nhưng do chưa biết được rõ lực lượng của địch mạnh yếu thế nào nên chưa tấn công. Bị khiêu chiến, Chiêu Tăng liền cắt Sạ Uyển cùng một vạn bộ binh ở lại giữ đại bản doanh và các nơi hiểm yếu, còn mình thống lãnh đạo thủy lục quân đi đánh Tây Sơn.

Bộ binh do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Tiền Giang đi xuống.

Thủy binh do Chiêu Sương làm tiên phong kéo thẳng xuống sông Mỹ Tho.

Hai đạo thủy bộ đều có tướng sĩ của Nguyễn Phúc Ánh dẫn đường, hẹn nhau sau khi chiến thắng Mỹ Tho
thì đồng kéo nhau ra đánh thành Gia Ðịnh.

Trời tháng chạp quang đãng. Trăng thượng huyền treo cao.

Quân giặc kéo đi rầm rộ. Nhưng không thể tiến nhanh, vì trên bờ lau lách, dưới sông thì nước triều đương dâng.

Võ Văn Dũng vừa đánh vừa lui.
 

atlas07

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-396343
Ngày cấp bằng
11/12/15
Số km
3,690
Động cơ
258,351 Mã lực
Tuổi
42
Đúng rồi, có chổ nói nghệ thuật của Nguyễn Huệ là khi đánh trận không phải đánh cho đối phương chạy, mà là đánh làm sao để đối phương không thể chạy thoát!!

Hồi nhỏ đọc sách giáo khoa bị thiếu cảm giác về thời gian, tưỏng chừng mọi việc diễn ra nhanh chóng nhưng thật ra rất dài Tây Sơn từ lúc khởi nghĩa đến khi thất bại là 31 năm, Nguyễn Ánh đối đầu với Tây Sơn lúc còn Nguyễn Huệ khoản 10 năm, và 10 năm sau khi Nguyễn Huệ mất thì mới thắng lợi hoàn toàn, tổng cộng Ánh phải đánh nhau 20 năm!
Nguyễn ánh đánh nhau 24 năm và triều tây sơn tính từ lúc khởi nghĩa đến khi bị tiêu diệt là khoảng 27 năm.
24 năm của Nguyễn Ánh tạm chia 2 giai đoạn: 8 năm đầu thua chạy muốn tụt quần hết vòng từ Gia định ra Phú Quốc Thổ chu cổ long cổ cốt Xiêm. 16 năm sau bắt đầu xây dựng lực lượng và không còn chạy nửa đánh đến thắng lợi cuối cùng.
thắng lợi đầu tiên của ông Ánh mang tính bước ngoặt bản lề là thắng lợi năm 24 tuổi ở Xiêm khi thắng quân Miến điện
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Ðến giang đầu sông Mỹ Tho thì trời bắt đầu tối. Ðèn được treo trên thuyền đôi bên thắp sáng rực trời.
Thuyền Tây Sơn núp trong Rạch Gầm kéo ra hợp lực cùng thuyền Võ Văn Dũng chặn không cho thuyền giặc tiến. Ðợi khi trăng sắp lặn, thủy triều sắp rút thì Võ Văn Dũng trá bại. Thuyền giặc ra sức đuổi theo. Ðến Rạch Gầm, một phần lớn thuyền Tây Sơn tắt hết đèn đuốc, trẽ vào rạch, còn phần nhỏ thì chạy thẳng theo dòng sông Mỹ Tho. Thuyền giặc cứ trông theo ánh sáng mà đuổi. Khi thuyền giặc đã lọt trọn vào trận địa, thì một tiếng pháo lệnh nổ vang. Thuyền của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy từ rạch Xoài Mút và các sông nhỏ kéo ra chặn đánh. Ðồng thời súng đại bác trên cù lao Thới Sơn và hai bên bờ sông nã liên thanh vào thuyền giặc. Bị đánh thình lình, Chiêu Sương hoảng hốt cho dừng thuyền lại. Thuyền trước dừng lại một cách đột ngột, những đoàn thuyền đi sau đương đà tiến nhanh theo nước triều rút, không sao hãm kịp, bị va vào nhau, hết lớp này đến lớp khác. Ðoàn thuyền đi sau rốt vừa quay trở lại thì bị thuyền ở Rạch Gầm kéo ra đánh thối lui vào trận địa.

Phần bị trước chặn đánh, sau đuổi đánh, phần bị hai bên hông và trên đầu đại bác nã, phần thuyền va vào nhau, hàng ngũ rối loạn, hết phương day trở, hết phương chống đỡ, thuyền địch lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm không còn một chiếc. Quân sĩ lớp nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giết chết, trăm phần không còn được một, hai. Thế là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm và một số quân của Phúc Ánh bị hoàn toàn tiêu diệt.

Còn đạo bộ binh của giặc đương đi bỗng nghe tiếng đại bác nổ, liền dừng bước. Thình lình trong lau lách phục binh của Tây Sơn vừa hét vừa xông ra. Lục Côn trở tay không kịp, bị Bùi Thị Xuân chém một nhát bay đầu [49]. Binh lính hết hồn, đều bỏ chạy tán loạn. Nhưng sau lưng có quân đánh, hai bên tả hữu cũng có quân đánh, chúng ùa nhau chạy về phía trước, nhảy ào vào rừng dừa. Hai vạn binh Xiêm và số quân nhà Nguyễn, lớp bị đao kiếm, lớp bị sình lầy, chết không còn một mống !

Trời vừa rạng đông thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Quân Tây Sơn toàn thắng, Chiêu Tăng và Chiêu Sương tẩu thoát. Nguyễn Phúc Ánh được một bộ tướng là Nguyễn Văn trị cứu khỏi và cõng chạy đến trốn nơi Mỹ Ðức ở Thi Giang, rồi chạy lần ra náu ở Cồn Khơi thuộc Hà Tiên.

Tướng Xiêm Chiêu Tăng và Chiêu Sương[50] trốn thoát chạy về Sa Ðéc, bị quân Tây Sơn truy kích, hối hả cùng Sạ Uyển kéo tàn quân chạy bộ về Xiêm. Kiểm điểm quân số thì khi xuất quân, thủy bộ cả thảy 5 vạn, lúc trở về chỉ còn mươi ngàn lục quân và không đầy vài ngàn thủy quân! Như vậy chỉ trong một trận Tây Sơn tiêu diệt gần 4 vạn quân Xiêm và 300 thuyền chiến.

Còn Nguyễn Phúc Ánh hết trốn nơi này đến nơi khác, liệu không thoát khỏi tay đối phương luôn luôn cho lùng bắt, bèn cùng một số tướng sĩ chạy qua Xiêm xin tị nạn[51].

Quét sạch quân xâm lăng, đuổi được Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi nước, Nguyễn Huệ lo sắp đặt tề chỉnh việc quân việc dân, rồi giao Gia Ðịnh cho Trương Văn Ða và Ðặng Văn Chấn trấn thủ, còn mình cùng Võ Văn Dũng và vợ chồng Bùi Thị Xuân kéo đại binh về Quy Nhơn.

Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiếp bàn cùng nhau:

+ Cuộc chiến thắng này đã làm sáng tỏ chính nghĩa của nhà Tây Sơn. Cái tội rước voi của Nguyễn Phúc Ánh đã sờ sờ ra đó, và có công giải thoát ách ngoại xâm của Long Nhương Tướng quân đã đủ trang bị cho chúng ta để chinh phục nhân tâm của sĩ phu và lê thứ đất Gia Ðịnh.

+ Phần đông sĩ phu Gia Ðịnh hiểu nghĩa chữ trung một cách lệch lạc. Họ chỉ nghĩ đến Vua, cho rằng trung quân tức ái quốc. Cho nên cứ khư khư ôm chữ trung quân vào lòng, mặc dù Vua kia, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của mình mà dẫm đạp lên trên quyền lợi chung của Tổ quốc và Dân tộc. Họ nghĩ rằng đất này là của nhà Nguyễn bị nhà Tây Sơn chiếm đoạt, thì Nguyễn Phúc Ánh có quyền nhờ ngoại bang giúp mình đánh lấy lại. Phá nước hại dân là tội của quân Xiêm, chớ không phải tội của Phúc Ánh. Cho nên họ không oán giận họ Nguyễn mà chỉ căm thù quân Xiêm. Phải đả phá cho được tư tưởng sai lầm đó, thì lời nói phải của chúng ta mới lọt được vào tai.

+ Ðất Gia Ðịnh rộng mênh mông mà chỉ có hai chúng ta thì không thể nào dẫy hết cỏ dại đã ăn sâu vào trí não, để cấy lúa trồng dâu.

Hai ông liền bàn cùng Trương Văn Ða và Ðặng Văn Chấn rồi một mặt làm sớ gởi về Quy Nhơn xin thêm người, một mặt chiêu nạp nhân tài ở địa phương làm phụ tá.

Vua Thái Ðức liền sai Huỳnh Văn Thuận và Lưu Quốc Hưng vào tăng cường.

Từ ấy đồng bào Gia Ðịnh được an cư lạc nghiệp.

Việc học hành được tổ chức khắp nơi. Ruộng đất mỗi ngày mỗi thêm mở rộng. Quân sĩ thay phiên nhau làm
việc canh tác với đồng bào. Gia Ðịnh trở thành nơi trù phú.

----------

[48]Ðích danh là Hỏa hổ lớn bằng cổ tay, làm bằng đèn khối, rất nhạy lửa, nước tưới không tắt, chỉ đất bùn mới dập tắt.

[49] Nghe truyền rằng viên tướng Xiêm thấy Bùi nữ tướng đường kiếm tuyệt luân, sắc đẹp lại tuyệt mỹ, đứng ngó sững sờ nên bị nữ tướng chém không đỡ kịp. Ðầu giặc bay xa đến mấy dặm và bị rơi dính trên cây cao.

[50] Các sách Quốc ngữ đều chép là Chiêu Sương và giải thích rằng Chiêu là một chức quan. Nhưng sách Nguyễn triều long hưng sự tích lại chép là Triệu Tăng và gọi là Thế Tử.

[51] Các sách Quốc ngữ đều chép rằng trong số tướng tá chạy theo Nguyễn Phúc Ánh có Lê Văn Quân. Song nghe truyền Quân bị thua trận Ba hai xấu hổ tự sát. Lời truyền phù hợp với lời ghi trong Ðại Nam Nhất Thống chí nơi mục sông ngòi và mục nhân vật
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top