[Funland] Việt Nam thời Tây Sơn-Lịch sử nội chiến 1771-1802

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Bình :
  • Có quan điểm cho rằng Ánh ko muốn Xiêm giúp, có người thì nói Tiếp cầu viện Xiêm chứ ko phải Ánh, trước đó cũng có vài người sang Xiêm.
  • Quân Ánh có giúp Xiêm đánh thắng Miến Điện mức độ giúp như thế nào thì ko rõ .
  • Ở Thái Lan trong môn Quyền Thái có võ đường thờ ghi tên 1 vài người Việt trong giai đoạn này.
 

hoinhap

Xe tăng
Biển số
OF-15974
Ngày cấp bằng
5/5/08
Số km
1,905
Động cơ
527,610 Mã lực
Oánh dấu để đọc sau
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Nói về đức tình kien trì, nhẫn nhại thì không chỉ Nguyễn Ánh mà rất nhiều tướng theo phò tông thất nhà Nguyễn cũng có đức tính này. Để thu phục, an dân thì Tây Sơn đã rất nhiều tướng lĩnh, tông thất, quan lại phò Nguyễn. Cá biệt có trường hợp tha 2-3 lần. Trong khi Ánh tính chắc cú chạy ra các đảo, sang Xiêm thì miền Nam các tướng lĩnh vẫn tổ chức khởi nghĩa cứ mạnh lên và cho người đón ánh về. Ánh ở Xiêm cho an toàn chứ không phải ở miền Nam lính phó Nguyễn ít hơn Tây Sơn.
  • Tây Sơn đánh giỏi, có những trận Ánh chỉ còn khoảng 100 người nhưng tháng sau thì đã vài nghìn. Quân Nguyễn Ánh cứ như cỏ sau mưa, hôm nay ko còn ai thì sáng mai đẽ lên cả nghìn người. Ánh có được như thế là phúc chúa Nguyễn để lại và nho giáo đã kiểm soát tư tưởng con người.
  • Tây Sơn có giỏi đến đâu thì chỉ có thể đánh bại lại đội quân gấp mình 10 lần chứ không thể thắng tôn giáo.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Phần tiếp theo _ Tạ chí Đại Trường.
PHẦN THỨ HAI
SỰ TAN RÃ Ở BẮC HÀ VÀ PHẢN ỨNG DỘI NGƯỢC
KHI TÂY SƠN BÀNH TRƯỚNG
(1786 – 1789)




Chương 3
CHIẾN TRANH BẮC HÀ 1


_______________________________________________________Tiết 7

CHIẾN TRANH TIÊU DIỆT HỌ TRỊNH

Vai trò Nguyễn Hữu Chỉnh trong chiến tranh phá vỡ phân tranh cũ * Cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc ở Phú Xuân * Chiêu bài “Phò Lê diệt Trịnh” cũ kỹ khi năng lực mới đem ra sử dụng.


Trong thời gian tiến mạnh về nam, khi dân Đại Việt chậm chạp nhưng chắc chắn biến đổi người và tự để mình biến đổi, thì cả vùng Á châu cũng thấy được thế giới mở rộng với các thuyền buôn Âu châu mang xa lạ đến. Riêng ở Việt Nam, người Bồ đến Hội An (Nam Hà), người Hoà đến phố Hiến (Bắc Hà) rồi sau đó là người Anh, người Pháp. Theo với họ cũng có nhưng người Á châu (Trung Hoa, Nhật, Mã Lai, Xiêm La...) đã hành nghề từ trước nhưng lại tăng tiến theo trào lưu giao thương khích động.

Người ta ghi nhận rằng hoạt động thương mại hồi này ở ta không lấy gì làm khởi sắc cho lắm vì tình trạng nghèo đói của dân chúng. Mọi cung cấp ra cũng như vào phần lớn do đám lái buôn Trung Hoa. Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương, sự giao thương đem lại hàng hoá, con người, tư tưởng khác cũng gây những xáo trộn quan trọng.

Ngoại thương làm khích động nội thương: trầm hương, kỳ nam, tiêu, cau, ớt... đi từ núi, từ đồng xuống biển, cá mắm, đồng sắt từ biển lên núi, đồng. Người đi buôn vượt khỏi ràng buộc của hương ước, của “lệ làng”, tiếp xúc với người khác xứ, khác nước trở nên tiến bộ, có sáng kiến và dám liều hơn. Chúng ta đã thấy nhân dịp chúa Nguyễn phát triển thế lực về phía nam, phía tây, nảy sinh ra một dòng trao đổi sản vật giữa miền núi và đồng bằng dọc biển qua các nguồn để hợp với những nguyên nhân khác gây ra và nuôi dưỡng biến động Tây Sơn.

Nhưng trong lúc nhóm Nam Hà ly khai yếu ớt phải sẵn sàng chờ đón thu nhận, thích ứng với hoàn cảnh và một chừng mực phương tiện mới, thì Bắc Hà vẫn dựa trên cơ cấu trường cửu có sẵn ở trung châu Nhĩ Hà để cố gang tồn tại. Điều đó giải rõ tại sao biến loạn Tây Sơn xảy ra ở Nam Hà, nhưng cũng cho ta thấy trước thời kỳ nghiêng đổ của Bắc Hà. Sớm hay muộn Tây Sơn cũng là một thế lực đe doạ họ Trịnh như Hoàng Ngũ Phúc đã thấy. Đúng vậy, ảnh hưởng giao thương làm đa tạp hoá xã hội cũng có ở Bắc Hà đồng thời với sự tan rã triều chính.

Lịch sử chính thống không ghi rõ có một “thương ban” bên cạnh văn, võ và giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố hay quấy đảo triều Chúa. Nhưng những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ Trịnh và võ quan ủng hộ đám dân Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn, cũng như họ đã ban đặc quyền cho ưu binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa vậy.

Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi nhận sự có mặt của lái buôn vì họ ở dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng họ vẫn kiên nhẫn làm giàu không kể câu “vi phú bất nhân” vì người ta lúc nào cũng cần tiền và chứng tỏ, lúc bình thời, người ta mua chuộc họ bằng quan tước, khi hoạn lạc, người ta tha hồ cướp bóc họ. Đám thương nhân “các lái” của Trịnh đã trải qua như vậy chuyến loạn ở Thăng Long, lúc Tây Sơn ra Bắc:

“Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói kém, vì lợi dụng được lúc thiếu gạo để bán mắc... và để cho những người nghèo khổ chết đói dọc đường. Đám các lái mất hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây, chúng tôi thấy họ đi qua, trần truồng để trở về xứ Thanh”.

Đám các lái đó không phải buôn bán loanh quanh xóm chợ làng quê mà thôi. Vị trí tập trung và số lượng của họ cho biết tầm hoạt động rộng lớn của họ: họ ở “gần cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số lên tới gần 3.000 người”2.

Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào đất ruộng nên họ có gia tư, sản nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt nghiệp và trong lúc đám sĩ phu xuất thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình cảnh thảm thương xảy ra chung quanh nên đâm ra chán đời, bi quan3. Họ sống sung túc rồi muốn danh vọng. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng ở trong số đó4.

Ông người làng Đông Hải, huyện Nghi Lộc, trấn Nghệ An. Không phải tình cờ mà cha ông lái buôn, gia tư kể hàng vạn, có con đỗ Hương cống mà vẫn cứ nương tựa Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc. Đó là vì võ quan cần tiền của lái buôn và lái buôn cần thế lực của nhà quan để làm giàu cho dễ.

Cuộc sống sung túc tạo cho Chỉnh hơn người. Học khắp các kinh sử, đỗ Hương cống năm 16 tuổi, hay Nôm (nghĩa là không chịu nho hoá), hào hiệp, giao du rộng rãi, ứng biến lanh lẹ, giỏi thuỷ chiến đến có danh hiệu “con cắt nước”, Chỉnh là một bộ mặt đặc biệt, nổi bật của Bắc Hà thời ấy. Chỉnh ý thức được tài mình, cho nên không phải là quá huênh hoang khi ông nói với Nguyễn Huệ: “Nhân tài Bắc Hà có một mình Chỉnh, Chỉnh đi rồi ấy là cái nước trống không”.

Mơ ước làm chim bằng tung cánh đến xưng tước là Bằng lĩnh hầu, Bằng quận công, Chỉnh có tầm mắt rộng rãi hơn bọn sĩ phu, võ quan đương thời. “Thiên hạ vạn nước, lo gì không chỗ đi”, đó là lời Chỉnh trả lời thái độ rụt rè của Trấn thủ Nghệ An, em rể Quận Việp, khi phải trốn cái vạ Quận Huy bị quân Tam phủ giết chết. Nguyễn Nhạc, Châu Văn Tiếp rồi bây giờ Nguyễn Hữu Chỉnh, những người khác xứ, lúc bạn lúc thù nhưng đều giống nhau ở chỗ xuất thân, đó là những bộ mặt nổi loạn làm khuấy đảo thêm dữ dội xã hội Đại Việt của thế kỷ XVIII vậy.

Tháng 11 Nhâm Dần (1782), Chỉnh đi theo Tây Sơn, “ngày đêm vì giặc bày mưu thiết kế”. Sử quan nhà Nguyễn thấy rõ rằng Chỉnh “rốt lại thành mối lo cho Bắc Hà”5. Nhưng vượt trên sự lo lắng cho cơ nghiệp một dòng họ, ta cũng thấy việc Chỉnh vào Quy Nhơn là quan trọng: đó là sự tập trung, hợp tác của những năng lực làm gẫy đổ cơ cấu chính trị đương thời, đó là sự tiếp sức làm đổ vỡ nốt cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai trăm năm rồi.

Tây Sơn mạnh, điều đó không ai là không nhận thấy. Lê Quý Đôn đem chuyện sấm ký, nói Tây Sơn có đất thiên tử chẳng qua cũng chỉ thay người đương thời ý thức được cái sức mạnh đó mà thôi. Từ khi đuổi đánh quân Xiêm vào đầu năm 1785, quân Tây Sơn bắt đầu dòm ngó phía bắc, nơi kinh đô cũ của Chúa Nam Hà. Chiếm được Thuận Hoá mới là đạt đến cùng đích mơ ước của Nguyễn Nhạc như khi ông thổ lộ với Chapman từ 1778.

Trong khi con hổ non Tây Sơn gầm gừ nhìn ra thì con sư tử già Trịnh đã tàn tạ đến mức không thể cử động được. Những Linh mục thời bấy giờ ở Bắc Hà đã ghi lại những thiên tai, thuỷ loạn mà dân chúng phải gánh chịu. Đó là những trận hạn hán ghê gớm “làm dân xứ Nghệ không gặt được hột nào”. Trận dịch trâu bò tiếp theo vào năm 1784 làm chết 2/3 súc vật khiến cho người phải cày bừa thay. Nghề chài, nghề đã làm giàu cho cha Nguyễn Hữu Chỉnh ở xứ Thanh Nghệ cũng tàn tạ vì bão tố năm 1785. Trước khi Tây Sơn tới Bắc Hà phải chịu nạn đói vì lụt to, hạn lớn, sâu bọ nhiều, vì dịch đi tướt6.
________________________________________
1. Những chi tiết cho chương này, trừ xuất xứ khác có ghi, đều lấy ở Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố.
2. Thư của Le Roy gởi cho Blandin ở Paris từ Kẻ Vĩnh (Ninh Bình), 6-12-1786 (BEFEO, 1912, t. 7-8). Chữ nghiêng ở trích văn trên là của nguyên văn chữ Việt trong bức thư.
3. Hãy đọc Chinh phụ ngâm khúc chẳng hạn thì thấy rõ.
4. Quá khứ thương nhân của Chỉnh và gia đình khác biệt với đám vua quan còn bằng chứng trong câu chuyện một giáo sĩ kể về lúc Chỉnh nắm quyền ở Thăng Long (1787): “...một hôm nọ, một số người có cửa hàng tại Hoàng thành đến tố cáo với tướng Chỉnh rằng một vài vị hoàng thân, chú bác và cậu vua đến bức hiếp không cho họ buôn bán. Coũ Chỉnh bất bình bắt vua phải trừng phạt những người này. Chiêu Thoũ lập tức phải cho bắt mấy người đó nạp cho Coũ Chỉnh. Sau khi quở trách các vị này, ông bắt họ phải bồi thường do họ gây ra, còn cấm họ từ rầy không được la cà trong phạm vi thành phố nữa. Nếu không tuân lệnh thì sẽ bị trừng phạt”. (Sử Địa, số 9-10, 1969, t. 201).
Hãy nghĩ, nếu không sở cậy nơi quá khứ buôn bán của gia đình quan Tướng quốc, thương nhân Thăng Long làm gì dám khiếu nại những hành vi nhũng nhiễu của quan quyền, hoàng thân quốc thích?
5.Thực lục q1, 22a.
6. Thư ông Breton, gởi ngày 10-7-1787, thư G.M Ceram ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình) (RI. XII, 1910, t. 526, 536, 538).
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Những tai hoạ do nhà cầm quyền gây ra càng làm cho dân chúng điêu đứng hơn nữa. Những chương đầu của quyển Hoàng Lê nhất thống chí cực tả được tình trạng rối loạn chính quyền ở Bắc Hà vào những năm này.

Chúng ta thấy được đám quần thần văn võ chuyên nịnh bợ đưa đón lời Trịnh Sâm, chúc mừng Trịnh Cán. Có kẻ chuyên tố cáo người để làm quan như Đốc đồng Nguyễn Huy Bá ở trấn Thái Nguyên, có kẻ như Đặng Mậu Lân cậy quyền Thứ phi, làm nhục quan quân, bắt hiếp vợ con dân gian, thậm chí đến giết sứ giả Trịnh Sâm sau khi hỏi một câu rất hách: “Chúa là cái gì?”

Chúa là cái gì? Thực vậy, Chúa bị khinh khi vì gia đạo không yên. Trịnh Sâm yêu quý Thứ phi Đặng Thị Huệ, muốn cho con Huệ là Trịnh Cán lên nối nghiệp. Con trưởng Sâm là Trịnh Tông tưởng có thể nhân lúc Sâm nổi chứng đau bụng kinh niên nguy kịch mà mưu đồ giành quyền binh, nhưng thất bại gây ra vụ án Canh Tý (1780) mà lời than van uất ức của một nạn nhân là lời kết án chế độ: “Trời không có mắt, trào không có quan để cho Quốc Chấn chết oan”.

Đám ưu binh Tam phủ mà số lượng độ chừng 25 - 30.000 người1 dùng để bảo vệ Chúa, thường ngày không có việc gì làm ngoài việc phá phách dân chúng, đe doạ các quan, bây giờ mới chen vào việc nhà Chúa. Trịnh Sâm mất sau hàng năm sống tránh ánh sáng mặt trời2 để Trịnh Cán lên ngôi gây nên cái hoạ tương tranh. Kiêu binh phế Cán sau khi giết Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, người che chở Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi lập Trịnh Tông lên ngôi Chúa trong một cảnh mà Ngô Thì Chí tả một cách mỉa mai.

Quyền binh từ nay ở trong tay Kiêu binh. Chúa lập được thì vua cũng do họ lập được nốt. Họ hoành hành tàn phá phố phường dữ dội nhất vào những tháng đầu năm Giáp Thân (1781)3.

Tình hình Bắc Hà như vậy, Chỉnh hay biết cặn kẽ nhờ căn vặn một thuyết khách của Chúa Trịnh. Cuối mùa xuân Bính Ngọ (1786), Trịnh Phu Như từ Thuận Hoá vâng mệnh trấn tướng Phạm Ngô Cầu vào Tây Sơn điều đình việc biên giới nhưng lại thóc mách nói cho Chỉnh rõ về tình hình đói kém ở Bắc Hà, dân với lính không ưa gì nhau. Với một viên trấn tướng đần độn, chậm chạp như Phạm Ngô Cầu thì ba vạn quân dưới quyền điều khiển của các viên Đại tướng, Phó tướng, Đốc thị, Phó Đốc thị cũng không thành một lực lượng gì hết, huống hồ là cách cai trị gay gắt, cướp bóc trong một xứ vừa qua nạn đói lại khiến cho người dân càng thù ghét lính tráng.

Cho nên, cuối tháng tư âm lịch Bính Ngọ, quân Tây Sơn trực phát Thuận Hoá dưới quyền Nguyễn Huệ có Vũ Văn Nhậm làm Tả Đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu Đô đốc với Tiết chế Nguyễn Lữ đi tiếp ứng4. Đánh trúng vào tâm lý mê tín của Phạm Ngô Cầu, Tây Sơn mưu khiến Cầu lập đàn chạy suốt 7 ngày đêm, mệt mỏi tướng sĩ, để hoảng hốt thấy giặc ầm ầm kéo đến không đường chống cự5. Đại diện cho nhóm “treo cờ điều” quyết chiến6ba cha con Hoàng Đình Thể và tướng Vũ Tá Kiên chết ở ngoài thành Phú Xuân vì Cầu muốn hàng đã không tiếp tế thuốc đạn. Số mệnh của ông quan Đại muốn “treo cờ bạc” này cũng không hơn gì: ông bị tống về Quy Nhơn rồi bị giết. Tây Sơn ca khúc khải hoàn vào Huế ngày 14-6-1786.

Trong trận này, quân lính Bắc Hà ở Phú Xuân rất ít người chạy trốn được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng Thuận Hoá trừ.

Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.

Người ta cũng có thể coi việc Tây Sơn trong trận đánh Thuận Hoá phá huỷ một chiếc tàu Bồ từ Macao tới, dìm nước anh em viên chủ tàu, giết hai người thuỷ thủ7 như là một chứng cứ về lòng hiếu sát của họ. Thực ra, chúng ta lưu ý rằng thuỷ quân của họ chỉ là một đoàn thuyền8 tuy tới hơn 400 chiếc, nhưng vẫn ọp ẹp so với chiếc tàu đồng Tây phương ở vùng tiến quân. Họ đã có kinh nghiệm của trận chiến mùa xuân 1782 ở sông Ngã Bảy. Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát. Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ.

Cuối năm 1785, một chiếc tàu Macao bị gió bạt vào Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc tịch thu chiếc tàu đó, cho người lái nhưng vụng về để chìm mất. Chủ tàu và thuỷ thủ được trả về Macao có lẽ vào lúc xuất quân đánh phú Xuân (5-1786). Tây Sơn cho người theo mang thư cho toàn quyền Manille xin giao thương và mua đại bác để đánh giặc, mua đồng để đúc tiền và luôn thể dò xét xem Nguyễn Ánh có đi Manille với Bá-đa-lộc không9. Nhưng dù sao chiến tranh cũng đưa họ tới chỗ cô lập với bên ngoài cũng như sẽ cô lập với dân chúng vì tính cách tận dụng nhân lực của họ.

Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột ước muốn của Nhạc: chiếm để làm chủ cả giang sơn “họ ngoại” của mình. Ý định đó thể hiện trong việc xây lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà, cả đàn bà, con gái, người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ hoặc vào rừng đốn cây. Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người sẵn vì chiến tranh, dịch tể, đói kém.10

Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu phải dè dặt thì Tây Sơn của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất không thể dừng lại bên dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để “phô trương lòng gan dạ của họ”. Lại thêm vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú Xuân mà Trịnh đã lấy về 12 năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh11.

Nếu Nguyễn Huệ còn ngần ngừ thì có Nguyễn Hữu Chỉnh để đốc xúi thêm vào. Đem binh pháp ra để khuyến dụ Huệ, vạch rõ đất Bắc chỉ còn cái vỏ rỗng không “tướng trễ, binh kiêu, triều đình không kỷ cương”, dùng chiêu bài Phù Lê, diệt Trịnh để tiến quân, dùng viễn tượng thành công lớn trong lời sấm để ngăn cái sợ trái lệnh Vua Anh, Chỉnh thực đã hết lòng tìm cách để trở về quê cũ với uy danh sấm sét vậy.

Nhưng đi đánh một xứ xa cũng phải cần tổ chức thêm lực lượng. Quân của họ lúc từ Quy Nhơn cũng lẫn lộn đủ thứ hạng và giống người. Ngoài người Việt Nam Hà, tất nhiên, họ còn có “những người Mường, Man di và các bọn mọi khác như Cao Miên, Cambien (?), Xiêm..”.12, nghĩa là có thể nói đám người thiểu số miền núi, đồng bằng Nam Hà, đám tù binh ở chiếc tàu Bồ, trong các trận chiến thắng trước ở Gia Định. Bây giờ họ phải lấy thêm quân Thuận Hoá, Bố Chính. Tù binh Bắc Hà thì không còn nữa. Dân số ở đây lại sụt xuống nhiều vì đói, dịch tể đến nỗi người ta phải lôi đàn bà đi đắp luỹ sửa đường. Chỉ còn những người của các tôn giáo lẩn lút đứng ngoài chiến tranh là còn đông đúc. Cho nên, từ Phú Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả đều bị bắt đi. Tây Sơn phá các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới đi đánh giặc13. Những tín đồ Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia nhập vào đoàn quân viễn chinh ra Bắc14. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ phá nhà thờ, chùa chiền, một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và các chuông về đúc súng đại bác15. Đáng lưu ý là đám tân binh bị bắt buộc vác súng này, một khi bị lôi cuốn vào trận địa, vẫn trở nên những người lính can đảm, có kỷ luật.

Trước khí thế ào ạt như vậy, Thăng Long lại không nghĩ gì đến chống đánh. Họ cho đất Thuận Hoá là đất Nam Hà, mất đi cũng là “điều may”, chỉ cần giữ Nghệ An là được. Quân tướng sai đi trấn Nghệ An dưới quyền Trịnh Tự Quyền thì trùng trình đến 10 ngày chưa xong việc chỉnh bị.

Trong lúc đó thì Tây Sơn đã ra. Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh 150 thuyền16. đi trước vào cửa Đại An nhắm vào kho lương Vị Hoàng (Nam Định) tấn phát. Trên đường đi, trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Toại, Thanh Hoá - Tạ Danh Thuỳ nghe gió bỏ thành chạy. Tướng giữ Vị Hoàng cũng không hơn gì. Chỉnh thu được ở đây hàng trăm vạn hộc lương, giải quyết chắc việc tiếp tế cho quân đội rồi đốt lửa làm hiệu cho Nguyễn Huệ hay biết chiến thắng mà đến (16-7-1786).

Trịnh phải vội vã tổ chức quân chống cự. Trịnh Tự Quyền xuống giữ Sơn Nam đóng ở Kim Động. Bùi Thế Dận đem bộ binh yểm hộ cho Đinh Tích Nhưỡng dẫn thuỷ binh đến cửa Luộc. Nhưng quân Tây Sơn cũng vừa đến đánh tan quân Nhưỡng, xua Dận, Quyền chạy rồi chiếm giữ phố Hiến ngày 19-7. Hôm sau đoàn thuyền trực chỉ Thăng Long 17.
__________________________________________
1. Thư G.M Ceram, 29-5-1784 (RI, XII, 1910, t. 522, 523).
2. Thư ông Breton kể trước.
3. Thư G.M Ceram kể trên.
4. Chi tiết Nguyễn Lữ làm Tiết chế là của Liệt truyện, q30, 12ab.
5. Ngoài Hoàng Lê, Liệt truyện, còn có thư ông Le Breton đã dẫn, thư Labartette gởi cho Le Blandin 23-6-1786 (BEFEO, 1912. t. 12, 13).
6. Thư ông Doussain gởi ông Blandin 6-6-1787 (Sử Địa, số 9-10, t. 232-233).
7. Thư 10-7-1786, 1-8-1786 của Labartette gởi cho Descourvières, của Longer gởi cho Le Blandin (BEFEO, 1912, t. 14, 15, 17), thư của Labartette gởi cho Letondal ở Macao, 10-8-1786 (A. Launay, III, t. 124).
8. Thư Longer gởi cho Le Blandin (BEFEO, 1912, t. 15 có một lối nói đáng chú ý: “chiều ngày 13 tháng này (6). Thuỷ quân, hay nói rõ ràng hơn, cácghe thuvền Tây Sơn tiến vào cửa Huế”. (Chúng tôi nhấn mạnh).
9. Trích từ nhật ký của ông Letondal (A. Launay, III, t. 154, chú số l).
10. Thư Labartette, G.M Veren, cho Boiret, 15-7-1786 (RI, XIV, 1910, t. 43); thư của Doussain, tạp chí trên, t. 47. Cả hai đều ở Bố Chính trong chiến tranh.
11. Thư Labartette cho Le Blandin. 23-6-1786 (BEFEO, 1912, t. 13, 14).
12. Thư Le Roy cho Le Blandin 6-12-1786 kể trước.
13. Thư Labartette, 23-6-1786 kể trước. Cũng thấy ở A. Launay, III, t. 122.
14. Thư Longer gởi cho Juilhard (A. Launay, III, t. 122).
15. Thư Labartette gởi cho Boiret. 15-7-1786 (A. Launay, III, t. 123).
16. Thư La Mothe, 3-12-1786 (RI, XII, 1910, t. 532.
17.BEFEO, 1912. t. 7.
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
  • Nói về đức tình kien trì, nhẫn nhại thì không chỉ Nguyễn Ánh mà rất nhiều tướng theo phò tông thất nhà Nguyễn cũng có đức tính này. Để thu phục, an dân thì Tây Sơn đã rất nhiều tướng lĩnh, tông thất, quan lại phò Nguyễn. Cá biệt có trường hợp tha 2-3 lần. Trong khi Ánh tính chắc cú chạy ra các đảo, sang Xiêm thì miền Nam các tướng lĩnh vẫn tổ chức khởi nghĩa cứ mạnh lên và cho người đón ánh về. Ánh ở Xiêm cho an toàn chứ không phải ở miền Nam lính phó Nguyễn ít hơn Tây Sơn.
  • Tây Sơn đánh giỏi, có những trận Ánh chỉ còn khoảng 100 người nhưng tháng sau thì đã vài nghìn. Quân Nguyễn Ánh cứ như cỏ sau mưa, hôm nay ko còn ai thì sáng mai đẽ lên cả nghìn người. Ánh có được như thế là phúc chúa Nguyễn để lại và nho giáo đã kiểm soát tư tưởng con người.
  • Tây Sơn có giỏi đến đâu thì chỉ có thể đánh bại lại đội quân gấp mình 10 lần chứ không thể thắng tôn giáo.
Cụ nói thế em không công nhận. Phàm những người tài giỏi là những người biết tập hợp và vận dụng sức mạnh của quần chúng nhân dân cũng như sự ủng hộ của bạn bè các nước (em nhận định cho giống sử CM). So sánh vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chủ tịch và Gia Long, ta thấy có nhiều điểm tương đồng. Trong bối cảnh bị truy sát ráo riết thì việc đặt tổng hành dinh ở hải ngoại là điều dễ hiểu. Qua đó có thể liên lạc và kết nối các hoạt động cách mạng rời rạc đang diễn ra trong nước. Do đó, không có gì gọi là ngạc nhiên cả, không có gì gọi là "cỏ" cả và cũng chả có gì gọi là tôn giáo cả. Bản thân Tây Sơn cũng nằm trong cái vòng nho giáo đã tồn tại hàng nghìn năm qua. Việc kinh tế Tây Sơn khó khăn buộc họ phải có những chính sách mềm dẻo với giáo dân, với người phương Tây chứ không phải họ có ý cải cách gì hết. Trong việc làm này thì Nguyễn Ánh làm tốt hơn Tây Sơn nhiều lần. Tây Sơn chỉ ỷ vào sức mạnh quân sự của mình mà không hề có chính sách đối nội cũng như đối ngoại hợp lý. Một khi "nội bất thuận, ngoại bất phục" thì chuyện nhà Tây Sơn sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Nếu đối chiếu cuộc chiến đấu của Tây Sơn và Nguyễn Ánh theo ánh sáng cách mạng (nếu bỏ qua xuất thân của người lãnh tụ) thì Nguyễn Ánh có nhiều điểm phù hợp hơn : Giai cấp nông dân là lực lượng nòng cốt, đoàn kết tốt các dân tộc anh em vì sự nghiệp chung, tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
Đúng rồi, có chổ nói nghệ thuật của Nguyễn Huệ là khi đánh trận không phải đánh cho đối phương chạy, mà là đánh làm sao để đối phương không thể chạy thoát!!

Hồi nhỏ đọc sách giáo khoa bị thiếu cảm giác về thời gian, tưỏng chừng mọi việc diễn ra nhanh chóng nhưng thật ra rất dài Tây Sơn từ lúc khởi nghĩa đến khi thất bại là 31 năm, Nguyễn Ánh đối đầu với Tây Sơn lúc còn Nguyễn Huệ khoản 10 năm, và 10 năm sau khi Nguyễn Huệ mất thì mới thắng lợi hoàn toàn, tổng cộng Ánh phải đánh nhau 20 năm!
Đó chỉ là một phần. Nếu nghiền ngẫm kỹ :lịch sử nội chiến" của Tạ Chí Đại Truờng thì cụ sẽ thấy, chiến thuật của Tây Sơn thường là như này :
Phải đánh ồ ạt để lấp liếm cái yếu kém kỹ thuật của họ. Cho nên, phải tàn sát. Chứ bình thường họ cũng biết cố tìm cách lôi kéo các nước Tây phương theo họ
Do Tây Sơn bắt đủ thứ hạng dân để đi lính (từ 15 tuổi đến 60 tuổi) và phải chịu áp lực về tài chính. Nên cách đánh của Tây Sơn nói một cách dễ hiểu là "thí quân", đánh rát, áp sát bất chấp thiệt hại (vì sau khi chiếm được đất của đối phương thì Tây Sơn sẽ tiếp tục bắt lính để bổ sung quân số). Cách tàn sát địch cũng có tác dụng về mặt tâm lý. Khiến cho bất cứ đối thủ nào của Tấy Sơn cũng phải cân nhắc trước khi đối đầu.
quân lính Bắc Hà ở Phú Xuân rất ít người chạy trốn được về, lớp bị Tây Sơn giết, lớp bị dân chúng Thuận Hoá trừ. Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.
Sau khi "thí quân" thì Tây Sơn tiến hành bắt lính và lao dịch :
Sau khi chiếm được Đồng Hới, đuổi tướng Ninh Tốn chạy về Bắc, Tây Sơn dừng lại. Thực vậy, vì như đã nói, đó là cùng tột ước muốn của Nhạc: chiếm để làm chủ cả giang sơn “họ ngoại” của mình. Ý định đó thể hiện trong việc xây lại luỹ Thầy cao 19 bộ, dày 1 sào. Không ai được ở nhà, cả đàn bà, con gái, người goá - trừ người còn cho con bú, đều phải đi đắp luỹ hoặc vào rừng đốn cây. Dịch vụ đó lại làm hao tốn thêm một xứ sở đã ít người sẵn vì chiến tranh, dịch tể, đói kém.
Nhận định của em sẽ càng được sáng tỏ thêm bằng những dữ liệu mà cụ Nam sẽ chuẩn bị tung ra khi Tây Sơn tiến đánh Bắc hà.
 
Chỉnh sửa cuối:

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Tướng tá Kinh đô lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không một người nào dám đánh giặc. Tham tụng Bùi Huy Bích bị công kích rồi bị Tông bãi chức, bắt ra trận đốc chiến. Trần Công Xán hiến mưu Chúa, gọi Hoàng Phùng Cơ, bộ tướng Hoàng Ngũ Phúc trước kia, từ Sơn Tây về góp 300 bản bộ binh với 1.000 người vội vã chiêu mộ bằng 5.000 lạng bạc quân phí, tất cả đem ra đóng ở hồ Vạn Xuân. Thuỷ quân của Kinh kỳ cũng đến đóng ở bến Thuý Ái chờ giặc.

Nếp sống thái bình, lừ đừ đã quen thói, quân Trịnh không lường được sức đánh hoả tốc của Tây Sơn. Giặc đến mà lính tráng không kịp lên thuyền để viên Thiên tướng Ngô Cảnh Hoàn một mình đầu thuyền cự chiến, bị súng lớn bắn chết lôi theo cái chết thảm thương hơn của người vợ bé Phan Thị Thuấn. Quân Tây Sơn đã ùa lên bộ mà quân Phùng Cơ còn ăn cơm thì cái thế thua thật đã rõ rệt nghiêng về phía nào rồi.

Tây Sơn chém giết cho chán rồi tiến quân lên bến Tây Long. Đám lính hộ vệ kinh thành bây giờ mới cho người ta thấy xấu hổ với danh vị ưu binh. Nghe súng hoả mai của giặc họ “sợ mất vía, bỏ cả khí giới, chạy thục mạng”. Cây cờ “Diệt Trịnh phù Lê” phất phới trên thành Thăng Long khiến cho “chỉ có Chúa Trịnh, bộ hạ cùng binh lính chạy trốn thôi” (21-7-1786)1.

“Giặc Quảng” tiến vào Trịnh phủ lấy vàng bạc, súng lớn, súng tay, đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân tướng Tây Sơn chui rúc ở các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm nào hết2. Binh lính cũng mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính “không lương, không tiền”, mà “không lấy cái gì của người Bắc hết, hoặc ăn cơm không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời”3. Ở cửa Bạng, La Mothe thấy họ cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có lệnh cấm của “bạo chúa”4. Họ trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc 5. Hình phạt cũng không miễn trừ cho binh lính họ.

Nhưng chiến thắng không đủ, người ta còn phải hợp pháp hoá việc tiến quân đối với dân chúng. Thực ra, ở cửa miệng người mạnh việc gì không phải. Ở đây, như đã thấy, người ta có sẵn để lợi dụng một chiêu bài cũ kỹ: “Phò Lê diệt Trịnh” và một lời sấm truyền tụng từ lâu trong dân gian rằng Trịnh sẽ mất nghiệp Chúa. Lẽ Trời như vậy, Tây Sơn chỉ là kẻ đại Thiên hành đạo thôi. Cho nên, Lý Trần Quán dù có tự phụ “đạo hiếu 3 năm đã trọn” có nhắc đến nghĩa vua tôi, tình thầy trò cũng không ngăn được tên học trò Tuần huyện Trang bắt Đoan Nam vương Trịnh Tông đem nạp cho Tây Sơn với cái lẽ giản dị “sợ thầy không bằng sợ giặc, quý Chúa không bằng quý thân”.

Điều đó cho ta thấy sức phân ly của xã hội Bắc Hà đương thời. Những biến loạn trước xưng là diệt Trịnh phò Lê nhưng không có được những lực lượng kết tập to lớn. Đám nông dân trung châu đi theo Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương... chẳng hạn, vì nghèo đói, bất mãn quan lại mà vác bừa vác gậy làm giặc, mỗi nơi mỗi nhóm chứ thương gì Lê! Đám sĩ phu, võ tướng thấy ngồi ở phủ Chúa cũng không khác gì Điện Vua, làm Bồi tụng cũng giữ ngôi Tể tướng thì có gì mà thắc mắc đổi thay? Còn Nguyễn chúa ở phương Nam muốn nói đến nghĩa tôn phù - để giữ độc quyền tôn phù, thì cũng không đủ sức đem binh qua 7 huyện Nghệ An. Những lực lượng phân tán của xã hội Đại Việt chỉ vừa đủ để giữ ngôi vua Lê chứ không đủ để trao lại thực quyền cho dòng họ này.

Rồi theo dần với thời gian, các vua Lê không dự vào chính sự trở nên vô tài, dung thường. Điển hình nhất là ông vua già, bệnh Lê Hiển Tông. Làm vua mà “khoanh tay rũ áo, tìm trò mua vui”, bị Trịnh Sâm đè nén mọi cách vẫn cười cợt mới có thể làm vua lâu dài. Nhưng lâu dần tính cầu an thành trầm trệ đến nỗi không muốn Trịnh chúa mất nghiệp, sợ “mất kẻ gánh cái lo”, đến nỗi Kiêu binh xin tôn phò, chính ông doạ tố cáo với Đoan Nam vương, đến nỗi được Nguyễn Huệ trao quyền thì không mấy vui, coi đó là “một gánh nặng”, gả Ngọc Hân cho người để họ chia sớt “lo lắng”.

Nhưng ông mai giảo hoạt Nguyễn Hữu Chỉnh chắc không ngờ mình vừa làm một việc thay đổi lớn lao con người của viên tân Nguyên suý Uy quốc công của triều Lê tàn tạ. Viên tướng thường thắng Nguyễn Huệ tuy cầm quân nhiều lần, tuy làm em vua một cõi, có lúc hãnh diện là “kẻ bố y”, nhưng không thoát khỏi mặc cảm làm kẻ mường mán trong hang hốc xa xôi. Làm rể một giòng vua có quá khứ 400 năm, có người vợ kinh sử làu thông, Nguyễn Huệ lớn lên trước chính mình sau mười mấy năm hiên ngang trước binh tướng. Can dự vào việc lập Tự Hoàng, lo lắng cho việc chôn cất Hiển Tông, ông đã không là khách trong nước An Nam này nữa. Mối dè dặt, e ngại can thiệp vào đất Lê cứ dần dà xoá tan trong đầu óc ông cho đến khi có những cuộc tiến quân sau. Nhưng hiện tại ông chưa dám bỏ ý tôn Lê. Tây Sơn còn lo đề phòng loạn ở các trấn của các tướng mất chức biến thành cướp như Đinh Tích Nhưỡng chiếm Cẩm Giang ở Hải Dương, của viên văn quan trở thành tướng bất đắc dĩ, Dương Trọng Tế, chiếm huyện Gia Lâm ngay bên thành Thăng Long. Nguyễn Huệ lo tìm cách cải thiện, tăng cường chiến cụ bằng cách tìm thợ rèn, và chỉ chăm chú rút về. Việc Nguyễn Nhạc hối hả ra Thăng Long làm cho ý định thêm chắc chắn.

Họ hàng Tây Sơn bàn mật ngày rút quân về mà không cho Chỉnh dự vào. Ngô Thì Chí cho là Vũ Văn Nhậm ghét Chỉnh, xúi Huệ bỏ rơi cho người Bắc Hà giết, tiện cho việc chiếm đất sau này. Nguyên cớ hiềm khích nhỏ mọn, lễ vật dân chúng đưa cho Chỉnh nhiều hơn cho Nhậm - cho ta thấy một lý do là sự cô lập của Tây Sơn giữa dân Bắc Hà. Tây Sơn chưa hẳn thù ghét Chỉnh, nhưng trước sự đắc thế, quen thuộc, cá trong nước của Hữu quân họ, một người vốn tự nhận có tài, dễ muốn làm việc độc lập, họ phải nghi kỵ.

Thế rồi nửa đêm 31-8-1786 Tây Sơn lén lút đi, thình lình như khi họ tới, duy không có Chỉnh cùng về. Biết được tình hình Bắc Hà yếu ớt, họ không nề hà gì mà không chiếm lấy một ít đất. Đóng quân ở dinh Vĩnh mươi ngày, họ cho Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, Vũ Văn Dũng6 ở Hà Trung (Thanh Hoá) lui về châu Bố Chính, để Vũ Văn Nhậm giữ Đồng Hới ứng tiếp nhau. Nhân dịp đó, họ vơ vét kho tàng phủ Yên Trường chứa bảo vật của họ Trịnh ở xứ Thanh. Quân lính cũng thừa cơ trên đường về mà “cướp đoạt hai bên sông, bắt cóc đàn bà, con nít, làm nhiều điều nhơ uế”7.

Nguyễn Hữu Chỉnh ở Kinh đô vội vã cướp thuyền chạy theo kịp. Nguyễn Huệ khôn khéo lấy cớ ngoài Bắc còn có Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng chưa trừ được nên cho vàng bạc, lưu Chỉnh lại Nghệ An rồi rút binh về thành Phú Xuân trong khoảng tháng 9-17868.

Trong một chuyến phiêu lưu dài 3 tháng, quân Tây Sơn đã đem lại tan rã cho đất Trịnh từ Thuận Hoá ra Thăng Long. Bắc Hà như một ngôi nhà ọp ẹp, bị xô đổ không gượng dậy được, một cái “nước không” như lời Chiêu Thống nói, chỉ còn chờ Tây Sơn ra cướp lần nữa là xong. Nhưng chuyến phiêu lưu dài này không phải là không có kết quả dội lại trong nội bộ Tây Sơn. Phản ứng dội ngược lại tai hại đến mực không ngờ có ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh của họ9.
_________________________________________
1. Thư Le Roy 6-10-1786 kể trước.
2. Thư Le Roy 6-12-1786 kể trước.
3. Thư Le Roy 26-7-1787 (RI. XII, 1910. t. 535
4. Thư La Mothe 3-12-1786 kể trước.
5. Thư Le Roy, 6-12-1786 kể trước.
6.Hoàng Lê ghi là Đô đốc Chiêu Viễn hầu. Thư Quang Trung gởi cho ông này khi sai đi sứ Trung Hoa năm 1792 (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, sđd, t. 329) có câu: “sắc sai Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc”. So với Qui Nhơn, đất Hải Dương quả là xa để có một viên tướng (Vũ Văn Dũng) về giúp Tây Sơn được phong hàm Chiêu Viễn hầu như vậy.
7. Thư Le Roy 6-10-1786, 6-12-1786 đã kể.
8. .Thư Doussain đã kể.
9. Việc Tây Sơn ra Bắc, các chi tiết còn ở quyển 30, Liệt truyện, chuyện Nguyễn Huệ, tờ 18a trở đi, ở Cương mục quyển 46, 22a trở đi.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Chú ý trích đoạn phía dưới: vì nhiều người tranh cãi vấn đề này.
  • Chiến tranh tàn sát vẫn được coi là vết nhơ cho Tây Sơn, nhưng không phải họ không có lý do để bào chữa. Lý do đó nằm trong nguyên tắc hành quân của họ. Đánh mau, đánh mạnh, đánh bất thần thì tất luật lệ giết chóc của chiến tranh được thi hành triệt để.
  • “Giặc Quảng” tiến vào Trịnh phủ lấy vàng bạc, súng lớn, súng tay, đồ đạc, voi ngựa, chỉ để lại cái xác vôi gạch. Quân tướng Tây Sơn chui rúc ở các chùa, vứt chôn các pho tượng, không một mặc cảm nào hết2. Binh lính cũng mang tinh thần cương cường của chủ tướng. L.M Le Roy ở Kẻ Vĩnh thấy họ đi lính “không lương, không tiền”, mà “không lấy cái gì của người Bắc hết, hoặc ăn cơm không muối, uống nước lạnh và ngủ ngoài trời”3. Ở cửa Bạng, La Mothe thấy họ cướp bóc, đốt phá, nhưng giết người rất ít, vì có lệnh cấm của “bạo chúa”4. Họ trị tội bọn trộm cướp một cách giản dị đến thành thô kệch, tàn nhẫn: có ai cáo là không cần phải dông dài, họ chặt đầu tức khắc 5. Hình phạt cũng không miễn trừ cho binh lính họ.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Chú ý : lúc này Tây Sơn vẫn là lính tình nguyện. Khi Huệ lên thì mới bắt đầu bắt lính.
 

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
Bình :Nói về tư tưởng của Nhạc :
  • Rõ ràng Nhạc không giấu diếm ý đồ chỉ là đất của chúa Nguyễn. Không có ý tơ tưởng đất Lê- Trịnh. Nhạc ko cho Huệ ra Bắc.
  • Tư tưởng của Nhạc không khác tư tưởng của Hoàng Ngũ Phúc-Trịnh Sâm. Tất nhiên lúc đó Hoàng Ngũ Phúc-Trinh Sâm có cơ hội Nam tiến những rõ ràng không dám vào Nam.....quân kém hay dịch tại Quảng Nam thực tế là cái cớ......cho việc ko dám Nam hạ.....Trong khi đó Tây Sơn sẳn sàng chiếm Quảng Nam dù ôm cái ổ dịch.
  • Có thể nói quyết sách của Nhạc, Trinh Sâm-Hoàng Ngũ Phúc là rất khôn ngoan.......quyết sách của Nhạc mang tính chính trị.......Nhưng nếu nhìn từ 1 góc khác: Nhạc chưa đạt đến mức kiêu hùng, đánh bạt trời đất.......chơi là chơi tới bến.
  • Nếu như Huệ ko ra Bắc.....khả năng là đất nước ko thống nhất ????
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
Khi nhận được mật báo của Nguyễn Hữu Chỉnh về sự suy yếu của chúa Trịnh thì vị anh hùng áo vải đã làm một việc cao cả là tiến quân ra Bắc để diệt Trịnh phò Lê. Thật cao cả.
Nhưng nếu Tây Sơn của Nguyễn Nhạc bắt đầu phải dè dặt thì Tây Sơn của Nguyễn Huệ với viên tướng chưa hề thua 33 tuổi tất không thể dừng lại bên dưới sông Gianh mà phải làm cái gì để “phô trương lòng gan dạ của họ”. Lại thêm vào đó là viễn tượng chiếm lại số vàng trong kho Phú Xuân mà Trịnh đã lấy về 12 năm trước, chưa kể kho vàng của chính họ Trịnh11.
Nhân dân hay tin vị anh hùng áo vải bắc tiến thì nhiệt liệt tình nguyện tham gia ủng hộ, đủ mọi thành phần. Ngay cả những sư sãi cũng tình nguyện quyên góp chuông đồng cho người anh hùng đúc súng chống giặc.
Cho nên, từ Phú Xuân cho tới sông Gianh, chỉ trong 5 ngày, tất cả đều bị bắt đi. Tây Sơn phá các chùa chiền và ép các nhà sư phải mang khí giới đi đánh giặc13. Những tín đồ Công giáo cũng không được chừa, hầu hết đều phải gia nhập vào đoàn quân viễn chinh ra Bắc14. Ngoài ra, Tây Sơn cũng cần kim khí. Họ phá nhà thờ, chùa chiền, một phần để bắt người, một phần để tìm các tượng và các chuông về đúc súng đại bác15.
Đội quân Tây Sơn chính nghĩa sáng ngời luôn lấy mục tiêu phục vụ nhân dân làm lý tưởng phấn đấu cho mình.
Nhân dịp đó, họ vơ vét kho tàng phủ Yên Trường chứa bảo vật của họ Trịnh ở xứ Thanh. Quân lính cũng thừa cơ trên đường về mà “cướp đoạt hai bên sông, bắt cóc đàn bà, con nít, làm nhiều điều nhơ uế”
 
Chỉnh sửa cuối:

trancannam

Xe điện
Biển số
OF-394809
Ngày cấp bằng
2/12/15
Số km
3,663
Động cơ
273,598 Mã lực
Tuổi
26
  • Kỷ luật Tây Sơn rất tàn khốc nên lính ko dám trôm cướp. Tất cả chiến lợi phẩm đều đem về chuẩn bị cho chiến tranh.
  • Tây Sơn đã cướp chiến lợi phẩm thường nhắm vào giới thương buôn và tài sản đối thủ : Hội An, Cù Lao Phố, Gia định, Cửa Bạng, Yên Trường. Dù như thế nhưng Tây Sơn vẫn túng thiếu .
  • Người ta nói lính dở cũng được nhưng tướng phải giỏi ....rất đúng với trường hợp Tây sơn : Trước khi tiến ra Bắc thì Chỉnh có ý nói rằng dù Bắc Hà chỉ là cái nhà rỗng nhưng với tình trạng lính Tây Sơn như thế này e là khó khăn........Huệ nói : ông cứ tự chọn lấy khỏe mạnh còn đui què, sứt mẻ, già yếu, tân binh... để cho tôi.
 

atlas07

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-396343
Ngày cấp bằng
11/12/15
Số km
3,690
Động cơ
258,351 Mã lực
Tuổi
42
  • Nói về đức tình kien trì, nhẫn nhại thì không chỉ Nguyễn Ánh mà rất nhiều tướng theo phò tông thất nhà Nguyễn cũng có đức tính này. Để thu phục, an dân thì Tây Sơn đã rất nhiều tướng lĩnh, tông thất, quan lại phò Nguyễn. Cá biệt có trường hợp tha 2-3 lần. Trong khi Ánh tính chắc cú chạy ra các đảo, sang Xiêm thì miền Nam các tướng lĩnh vẫn tổ chức khởi nghĩa cứ mạnh lên và cho người đón ánh về. Ánh ở Xiêm cho an toàn chứ không phải ở miền Nam lính phó Nguyễn ít hơn Tây Sơn.
  • Tây Sơn đánh giỏi, có những trận Ánh chỉ còn khoảng 100 người nhưng tháng sau thì đã vài nghìn. Quân Nguyễn Ánh cứ như cỏ sau mưa, hôm nay ko còn ai thì sáng mai đẽ lên cả nghìn người. Ánh có được như thế là phúc chúa Nguyễn để lại và nho giáo đã kiểm soát tư tưởng con người.
  • Tây Sơn có giỏi đến đâu thì chỉ có thể đánh bại lại đội quân gấp mình 10 lần chứ không thể thắng tôn giáo.
có thể kể vài cái tên quân tây sơn tha quân NGuyễn đặc biệt tha 2-3 lần cho tôi mở rộng tầm mắt được không?
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
có thể kể vài cái tên quân tây sơn tha quân NGuyễn đặc biệt tha 2-3 lần cho tôi mở rộng tầm mắt được không?
Tha rồi cũng giết đi cụ ợ. Vụ ấy sắp tới rồi. Cụ trancannam post bài lâu quá. Sắp đến khúc hấp dẫn là trận đánh thành Qui Nhơn .Nguyễn Huệ chính nghĩa ngời ngời đánh bại tên hủ bại, bạc nhược, xấu xa Nguyễn Nhạc.
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
làm gì có ông nào mà tây sơn tha cho quân Nguyễn trừ Nguyễn Huỳnh đức mà cũng không có chuyện tha 2-3 lần. vậy nên tôi mới hỏi.
Ở phần tiếp theo của lịch sử nội chiến thì có nhắc đến nhân vật Nguyễn Đăng Trường như sau :
Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Đăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Định mới giết đi
.

Có giai thoại về nhân vật này như sau :

Tháng 4 năm Đinh Dậu (1777), trong chỗ đẩy đưa không ngờ của thế cuộc, Nguyễn Huệ đã gặp lại Nguyễn Đăng Trường (quan của chúa Nguyễn, cũng là tên tù binh cũ của Nguyễn Huệ). Cuộc tái ngộ rất đặc biệt này đã được sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 12) mô tả như sau :
"Trước kia, trong cuộc biến năm Giáp Ngọ (chỉ sự kiện năm 1771, năm đó, chúa Nguyễn vừa bị Tây Sơn tấn công, lại vừa bị quân Trịnh bất ngờ vượt sông Gianh đánh vào - ND), Đăng Trường không kịp đi theo xa giá (ý nói không kịp chạy theo chúa Nguyễn Phúc Thuần - ND), bèn đem mẹ già đến lánh nạn ở Quy Nhơn. Bấy giờ, Tân Chính Vương (chỉ Nguyễn Phúc Dương - ND) đã chạy vào Gia Định. Nguyễn Huệ bắt được (Nguyễn Đăng Trường), đối đãi như khách, quý như thầy, nhưng Đăng Trường vẫn không chịu, một mực khước từ để ra đi. Nguyễn Huệ nói :
- Tiên sinh ra đi lần này ắt có ý muốn kéo trời đất lại (ý nói muốn lật thế cờ, giúp chúa Nguyễn diệt Tây Sơn - ND), nhưng liệu có thể được chăng ? Tôi e rằng, ngày khác tiên sinh sẽ ăn năn không kịp nữa.
Đăng Trường đáp :
- Bậc đại trượng phu ở đời, trước hết phải giữ đức trung và đạo hiếu. Ta nay dắt mẹ đi tìm vua, thì trung hiếu đã rõ ràng, còn như được hay mất, khốn cùng hay hanh thông... tất cả đều do mệnh trời cả mà thôi, có gì phải hối tiếc đâu.
Nguyễn Huệ khen là có chí, bèn cho đi.
Đến đây (tháng 4 năm 1777 - ND) Đăng Trường lại bị Huệ bắt được. Huệ nói rằng :
- Nay, tiên sinh nghĩ sao ?
Đăng Trường đáp :
- Nay thì chỉ có chết mà thôi, hà tất gì cứ phải hỏi ?
Nguyễn Huệ sai giết Đăng Trường. Khi dẫn ra đến chợ, Đăng Trường quay mặt về hướng Bắc lạy mấy lạy rồi mới chịu chết. Năm Minh Mạng thứ ba (tức năm 1822 - ND), triều đinh truy tặng Nguyễn Đăng Trường chức Thượng thư."
 

fordeverest2012

Xe điện
Biển số
OF-137063
Ngày cấp bằng
3/4/12
Số km
2,716
Động cơ
387,370 Mã lực
làm gì có ông nào mà tây sơn tha cho quân Nguyễn trừ Nguyễn Huỳnh đức mà cũng không có chuyện tha 2-3 lần. vậy nên tôi mới hỏi.
Nói về cuộc đời của Nguyễn Huỳnh Đức cũng có cái rất thú vị. Nguyễn Huỳnh Đức tên thật là Huỳnh Tường Đức. Ông xuất thân trong một gia đình quan võ, ông nội là Huỳnh Châu, cha là Huỳnh Lương, đều theo phò chúa Nguyễn. Nguyễn Huỳnh Đức là người có "dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi ông là hổ tướng". Ông gia nhập quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân, nhưng chứng kiến cảnh Thanh Nhân lấn áp quyền chúa nên khi Thanh Nhân bị trừ, ông vẫn một lòng trung thành đi theo Nguyễn Ánh. Có lần, Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi đến Định Tường thì bị sa lầy, chỉ mỗi một mình ông dám trở lại cứu chúa. Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối, quân Tây Sơn sợ bị mai phục nên rút lui. Trong đêm đó, vì quá mỏi mệt, Nguyễn Phúc Ánh đã gối đầu lên đùi ông ngủ mê man...Cảm động, Nguyễn Phúc Ánh ban cho ông "quốc tính" và xem ông như người trong hoàng tộc . Từ đó, ông mang tên là "Nguyễn Huỳnh Đức" như đã kể trên. Năm 1783, ông đánh nhau với quân Tây Sơn ở Đông Tuyên, nhưng bị thua, bị bắt cùng với 500 thuộc hạ. Chỉ huy quân Tây Sơn là Nguyễn Huệ thấy ông là một tướng tài nên thu dùng. Ông chịu theo Tây Sơn nhưng có lời giao kết là ông chỉ đánh quân Trịnh, chứ không đánh nhau với quân của chúa Nguyễn. Hành động này của ông làm ta gợi nhớ lại vị hổ tướng của nhà Thục thời tam quốc : Quan Vân Trường. Ông được người dân TQ tôn thờ như một vị thần trung kiên, một lòng trung thành với chủ. Ông nổi tiếng với câu nói : Hàng Hán chứ không hàng Tào. Nguyễn Huỳnh Đức quả thật cũng như một vị thánh về lòng trung thành. Vua Gia Long rất yêu quí và tôn trọng ông. Ông là một trong số các võ quan cao cấp đầu triều Nguyễn, từng giữ chức Tổng trấn của cả Bắc Thành lẫn Gia Định Thành.
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top