[Funland] Tự học tiếng Trung và tiếng Hán

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Vừa có câu trả lời rồi.

với mối quan hệ họ hàng, thân thiết làm trung tâm ngữ, mn có thể bỏ 的 để thân mật, gần gũi hơn.

  1. 我姐姐 /Wǒ jiějiě/: Chị gái tôi
  2. 我弟弟 /Wǒ dìdì/: Em trai tôi
  3. 我妈妈给我买了一双鞋 /Wǒ māmā gěi wǒ mǎile yīshuāng xié/: Mẹ tôi mua cho tôi 1 đôi giày
  4. 我爸爸刚买车 /Wǒ bàba gāng mǎi chē/: bố tôi mới mua xe
Cháu hỏi rất nghiêm túc: "thân mật, gần gũi hơn" là giữa đối tượng nào? và đối tượng nào?
Ví dụ: 我姐姐, có 3 đối tượng.
A - Người nói.
B - Chị gái người nói.
C - Người nghe.
Vậy thân mật sẽ là giữa A và B? hay A và C? hay B và C?
 

--Lamborghini--

Xe cút kít
Biển số
OF-110827
Ngày cấp bằng
29/8/11
Số km
15,538
Động cơ
566,979 Mã lực
Tự học tiếng Trung hay Hàn thì nghe, nói, đọc còn OK, học viết thì kiểu gì các cụ nhỉ.
Chỉ có duy nhất một cách như bọn trẻ con nó tập viết thôi cụ, viết nh để nhớ.
Chữ hán cổ nh người còn không biết viết là chuyện bt mà cụ vì có bao h viết hoặc dùng nó đâu mà nhớ nhất là chữ nh nét.
 

itsmylife

Xe tải
Biển số
OF-174261
Ngày cấp bằng
29/12/12
Số km
267
Động cơ
344,379 Mã lực
Vừa có câu trả lời rồi.

với mối quan hệ họ hàng, thân thiết làm trung tâm ngữ, mn có thể bỏ 的 để thân mật, gần gũi hơn.

  1. 我姐姐 /Wǒ jiějiě/: Chị gái tôi
  2. 我弟弟 /Wǒ dìdì/: Em trai tôi
  3. 我妈妈给我买了一双鞋 /Wǒ māmā gěi wǒ mǎile yīshuāng xié/: Mẹ tôi mua cho tôi 1 đôi giày
  4. 我爸爸刚买车 /Wǒ bàba gāng mǎi chē/: bố tôi mới mua xe
Trong giao tiếp thông thường người ta sẽ nói thế này;
我爸 = 我爸爸 = 我的爸爸
我姐 = 我姐姐 = 我的姐姐
我弟 = 我弟弟 = 我弟弟
Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng dùng như vậy
người ta nói 我奶奶 = 我的奶奶 chứ không nói 我奶 vì 奶 đứng một mình mang nghĩa hoàn toàn khác.
 

minhlp

Xe tải
Biển số
OF-107719
Ngày cấp bằng
4/8/11
Số km
437
Động cơ
383,596 Mã lực
Cháu hỏi rất nghiêm túc: "thân mật, gần gũi hơn" là giữa đối tượng nào? và đối tượng nào?
Ví dụ: 我姐姐, có 3 đối tượng.
A - Người nói.
B - Chị gái người nói.
C - Người nghe.
Vậy thân mật sẽ là giữa A và B? hay A và C? hay B và C?
Chào mợ.
Trên quan điểm là người hay vào OF và đọc khá nhiều bài của mợ (cũng như người mà mợ đang tranh luận), em khuyên mợ tránh nói chuyện qua lại với thành phần này.
Thứ nhất là cụ ấy ko bao giờ tiếp thu cái gì cả, nói phí lời. Thứ hai là cụ ấy mới đang bập bẹ, nói đến đâu hỏi cô đến đấy thì tranh luận làm gì. Mợ nghe chuyện quan xử vụ 4*4=17 chưa.
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Chào mợ.
Trên quan điểm là người hay vào OF và đọc khá nhiều bài của mợ (cũng như người mà mợ đang tranh luận), em khuyên mợ tránh nói chuyện qua lại với thành phần này.
Thứ nhất là cụ ấy ko bao giờ tiếp thu cái gì cả, nói phí lời. Thứ hai là cụ ấy mới đang bập bẹ, nói đến đâu hỏi cô đến đấy thì tranh luận làm gì. Mợ nghe chuyện quan xử vụ 4*4=17 chưa.
Dạ, việc cháu hỏi không phải là tranh luận gì đâu ạ, cháu muốn hỏi rõ để giải thích thêm thôi ạ. Bác ấy đang hiểu nhầm là thân mật giữa "người nói" và "người được nói tới", nghĩa là khi "người nói" và "người được nói tới" có quan hệ thân mật thì không dùng (的), nếu dùng (的) là sai.

Thực ra không phải như vậy, "thân mật" nên hiểu là giữa "người nói" và "người nghe", nghĩa là khi "người nói" muốn tạo mối quan hệ "thân mật" với "người nghe" thì "người nói" sẽ không dùng (的) nữa ạ.

Quay trở lại ví dụ (我姐姐), một cô gái nói về chị gái của mình (我的姐姐) với một chàng trai, có nghĩa là cô gái và chàng trai có mối quan hệ thông thường và cô gái không muốn kéo mối quan hệ giữa cô và chàng trai đó trở nên thân mật hơn.

Nhưng nếu cô gái nói về chị gái của mình (我姐姐) với một chàng trai, có nghĩa là cô gái muốn làm cho mối quan hệ của mình và chàng trai trở nên thân mật hơn (bằng cách không dùng 的).

Nhưng trong giao tiếp của người Trung Quốc, chỉ chủ động kéo mối thân mật hơn, khi "người nói" và "người nghe" ngang vai nhau. Nếu "người nói" là vai dưới, không được tự kéo mối quan hệ thân mật hơn, vẫn phải dùng (的) đầy đủ. Ví dụ nhân viên giới thiệu với sếp về cha của người nhân viên đó, vẫn phải nói đầy đủ là (这是我的父亲).
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Lợi thế của người Việt khi học Tiếng Trung là người Việt sử dụng Hán - Việt, nên hiểu nghĩa rất thuận lợi và học 1, có thể tự suy ra 2 - 3 từ khác. Ví dụ:
Thực hiện (实现).
Thi hành (施行).
Thực thi (实施).
Người Việt hiểu ý nghĩa các từ Tiếng Trung bên trên rất dễ và thường là học một từ là nhớ luôn cả 3 từ, nhưng nếu sử dụng trong các trường hợp cần thật chính xác (ví dụ trong các vấn đề liên quan đến pháp luật) lại có thể bị lúng túng vì lợi thế đó. Ví dụ trong 3 câu Tiếng Trung, câu nào là chính xác trong văn viết:

全国人民代表大会公告公布实现
全国人民代表大会公告公布施行
全国人民代表大会公告公布实施

Câu chính xác là Thi hành (施行): 全国人民代表大会公告公布施行.
Những người nước khác học Tiếng Trung, do chữ Hán khó (và ngôn ngữ của họ không có Hán - Việt), cho nên thường là học chữ nào biết chữ đó, nhưng khi cần sử dụng thật đúng (trong văn viết) thì họ lại dùng tốt hơn người Việt chúng ta (bởi vì họ chỉ học được 1 cái từ đúng đó và không tự suy ra được các từ khác).

Tuy nhiên, nếu khi phải dùng văn viết, người Việt có thể dùng mẹo, để suy luận tiếp. Ví dụ nếu ghép thêm "án" vào, sẽ nhân ra ngay cái nào là đúng:
Thực hiện án.
Thi hành án.
Thực thi án.
Rõ ràng "Thi hành án" là đúng, do đó sẽ chọn được đáp án đúng là "Thi hành".
 

temuchin

Xe tải
Biển số
OF-100767
Ngày cấp bằng
16/6/11
Số km
310
Động cơ
410,725 Mã lực
Lợi thế của người Việt khi học Tiếng Trung là người Việt sử dụng Hán - Việt, nên hiểu nghĩa rất thuận lợi và học 1, có thể tự suy ra 2 - 3 từ khác. Ví dụ:
Thực hiện (实现).
Thi hành (施行).
Thực thi (实施).
Người Việt hiểu ý nghĩa các từ Tiếng Trung bên trên rất dễ và thường là học một từ là nhớ luôn cả 3 từ, nhưng nếu sử dụng trong các trường hợp cần thật chính xác (ví dụ trong các vấn đề liên quan đến pháp luật) lại có thể bị lúng túng vì lợi thế đó. Ví dụ trong 3 câu Tiếng Trung, câu nào là chính xác trong văn viết:

全国人民代表大会公告公布实现
全国人民代表大会公告公布施行
全国人民代表大会公告公布实施

Câu chính xác là Thi hành (施行): 全国人民代表大会公告公布施行.
Những người nước khác học Tiếng Trung, do chữ Hán khó (và ngôn ngữ của họ không có Hán - Việt), cho nên thường là học chữ nào biết chữ đó, nhưng khi cần sử dụng thật đúng (trong văn viết) thì họ lại dùng tốt hơn người Việt chúng ta (bởi vì họ chỉ học được 1 cái từ đúng đó và không tự suy ra được các từ khác).

Tuy nhiên, nếu khi phải dùng văn viết, người Việt có thể dùng mẹo, để suy luận tiếp. Ví dụ nếu ghép thêm "án" vào, sẽ nhân ra ngay cái nào là đúng:
Thực hiện án.
Thi hành án.
Thực thi án.
Rõ ràng "Thi hành án" là đúng, do đó sẽ chọn được đáp án đúng là "Thi hành".
Các kiểu này cũng khó với cả bản ngữ nhé, tây nó học theo kiểu collocation thì họ sẽ bớt xoắn não hơn. Còn VN với tàu thì sẽ bị xoắn não. Tương tự đề thì với tiếng Việt cho người nước ngoài. Cụ nào người VN nhưng lười đọc và chú ý cách sách báo dùng thì cũng tạch tương đối.
đề-ôn-tập-kỳ-thi-năng-lực-Tiếng-Việt.jpg
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Cháu xin viết tiếp về vấn đề học trường lớp bài bản/tự học và vấn đề Hán - Việt.

Khi đi học ở trường lớp bài bản, cả 4 kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) đều được dạy cân đối, trường lớp bài bản sẽ dạy cho người học cách đọc chuẩn theo Pinyin, hầu như các thày/cô giáo không đưa Hán - Việt vào bài học chính thức (có thể chỉ minh họa đôi chút).

Khi tự học, người học thường có xu hướng nghiêng về đọc/viết và thường coi trọng Hán - Việt (bởi vì dễ hiểu mà). Việc học có xu hướng "hơi lệch" như vậy, về sau sẽ khó sửa ạ.

Cháu quay lại lấy ví dụ về:
实现 (shíxiàn) - thực hiện.
施行 (shīxíng) - thi hành.
Ở trường lớp sẽ dạy như vậy và chỉ cần nhìn Pinyin, sẽ thấy 实现 (shíxiàn), 施行 (shīxíng) rất thông dụng, bởi vì không bị hiện tượng "đồng âm". Thông thường 实施 (shíshī) không được đưa vào giáo trình, bởi vì (shí) và (shī) đồng âm rất nhiều, ví dụ shíshī (实施) đồng âm hoàn toàn với shíshī (十失). Muốn nói về việc "thực thi" (实施) mà người nghe lại hiểu thành "mười sai lầm" (十失) thì hỏng bét.

Nếu tự học, tự tra google, thêm cả thói quen sử dụng Hán - Việt. Người học sẽ không nhận ra được rằng: "thực thi" (实施) được sử dụng khá phổ biến trong Tiếng Việt, nhưng lại rất ít được sử dụng trong Tiếng Trung (vì bị đồng âm).

Vì vậy nếu có điều kiện, nên đi học trường lớp bài bản ngay từ đầu, tránh gặp những lỗi phát sinh do tự học, sau này rất khó sửa ạ.
 

temuchin

Xe tải
Biển số
OF-100767
Ngày cấp bằng
16/6/11
Số km
310
Động cơ
410,725 Mã lực
Cháu xin viết tiếp về vấn đề học trường lớp bài bản/tự học và vấn đề Hán - Việt.

Khi đi học ở trường lớp bài bản, cả 4 kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) đều được dạy cân đối, trường lớp bài bản sẽ dạy cho người học cách đọc chuẩn theo Pinyin, hầu như các thày/cô giáo không đưa Hán - Việt vào bài học chính thức (có thể chỉ minh họa đôi chút).

Khi tự học, người học thường có xu hướng nghiêng về đọc/viết và thường coi trọng Hán - Việt (bởi vì dễ hiểu mà). Việc học có xu hướng "hơi lệch" như vậy, về sau sẽ khó sửa ạ.

Cháu quay lại lấy ví dụ về:
实现 (shíxiàn) - thực hiện.
施行 (shīxíng) - thi hành.
Ở trường lớp sẽ dạy như vậy và chỉ cần nhìn Pinyin, sẽ thấy 实现 (shíxiàn), 施行 (shīxíng) rất thông dụng, bởi vì không bị hiện tượng "đồng âm". Thông thường 实施 (shíshī) không được đưa vào giáo trình, bởi vì (shí) và (shī) đồng âm rất nhiều, ví dụ shíshī (实施) đồng âm hoàn toàn với shíshī (十失). Muốn nói về việc "thực thi" (实施) mà người nghe lại hiểu thành "mười sai lầm" (十失) thì hỏng bét.

Nếu tự học, tự tra google, thêm cả thói quen sử dụng Hán - Việt. Người học sẽ không nhận ra được rằng: "thực thi" (实施) được sử dụng khá phổ biến trong Tiếng Việt, nhưng lại rất ít được sử dụng trong Tiếng Trung (vì bị đồng âm).

Vì vậy nếu có điều kiện, nên đi học trường lớp bài bản ngay từ đầu, tránh gặp những lỗi phát sinh do tự học, sau này rất khó sửa ạ.
Lên đến từ vựng tầm này thì người dùng từ thường ko cần học cô giáo dạy nữa vì là mức advanced rồi. Chủ yếu tìm hiểu sách báo và thói quen sử dụng của bản ngữ.
Lỗi không tìm hiểu nghĩa của từ dù trong từ điển chẳng có định nghĩa xảy ra cả trên đài truyền hình. Gần đây có vụ dùng cụm "lâu lắm rồi mới có một cơn bão ra hồn bão" mà MC bị ăn búa rìu dư luận. Dù ý của người nói chắc chỉ là muốn nói Bão to, bão lớn nhưng trong thói quen và ngầm hiểu của người dân ta đặc biệt là thế hệ 8-9x về trước thì câu "ra hồn bão" có hàm chỉ mong muốn của người nói là muốn nó xảy ra.
Nói vui câu chuyện về ngôn ngữ vậy thôi.
 

Hoàng Trang

Xe ngựa
Biển số
OF-422667
Ngày cấp bằng
16/5/16
Số km
26,247
Động cơ
688,364 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Lên đến từ vựng tầm này thì người dùng từ thường ko cần học cô giáo dạy nữa vì là mức advanced rồi. Chủ yếu tìm hiểu sách báo và thói quen sử dụng của bản ngữ.
Lỗi không tìm hiểu nghĩa của từ dù trong từ điển chẳng có định nghĩa xảy ra cả trên đài truyền hình. Gần đây có vụ dùng cụm "lâu lắm rồi mới có một cơn bão ra hồn bão" mà MC bị ăn búa rìu dư luận. Dù ý của người nói chắc chỉ là muốn nói Bão to, bão lớn nhưng trong thói quen và ngầm hiểu của người dân ta đặc biệt là thế hệ 8-9x về trước thì câu "ra hồn bão" có hàm chỉ mong muốn của người nói là muốn nó xảy ra.
Nói vui câu chuyện về ngôn ngữ vậy thôi.
Vụ đó MC viết trên trang cá nhân chứ không phải nói trên truyền hình, và phát ngôn vô cảm như thế ăn gạch đá cũng không oan ạ.
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Lên đến từ vựng tầm này thì người dùng từ thường ko cần học cô giáo dạy nữa vì là mức advanced rồi.
Chuyện đồng âm của Tiếng Trung thì nhiều chuyện vui lắm ạ, phải đi học mới biết được. Ví dụ đơn giản nhất là bài học hỏi họ tên (ngay khi bắt đầu học Tiếng Trung) 你叫什么名字? Cô giáo kể chuyện cười về mấy cái tên, đọc thì giống hệt nhau, nhưng viết lại khác nhau:
Zhōng Huá (钟华) rất hay bị nhầm thành Zhōng Huá (中华).
Lǐ Yuè (李玥) cái tên ít người đặt, rất hay bị nhầm thành Lǐ Yuè (李月) cái tên phổ biến ở Trung Quốc.
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
"Đồng âm" trong Tiếng Trung và cách khắc phục.

"Đồng âm" là một hiện tượng khá phổ biến trong Tiếng Trung, nghĩa là có những từ Tiếng Trung mà pinyin giống nhau 100%, phát âm giống nhau 100%, nhưng mặt chữ viết khác nhau và mang nghĩa khác nhau.

Những từ "đồng âm" này do mặt chữ khác nhau, cho nên khi đọc/viết sẽ không gặp vấn đề, nhưng khi nghe sẽ hay bị nghe nhầm và khi nói sẽ hay bị hiểu lầm. Số lượng những từ "đồng âm" cũng khá nhiều (vài trăm từ), cho nên gây nhiều khó khăn cho người học Tiếng Trung.

Muốn khắc phục khó khăn do "đồng âm" gây ra, người học không nên học các từ "đồng âm" một cách đơn lẻ, mà nên tìm cách học từ "đồng âm" đó trong một cụm từ/trong một câu. Với một chút kinh nghiệm của mình, cháu sẽ viết ra dần những cặp "đồng âm" và cách khắc phục.

Cặp "đồng âm" có thể coi là tiêu biểu trong Tiếng Trung, đó là:
权利 (quánlì) - quyền lợi.
权力 (quánlì) - quyền lực.
全力 (quánlì) - toàn lực.
Do 3 từ bên trên có pinyin giống hệt nhau, cách đọc giống hệt nhau, cho nên nếu học các từ đó một cách đơn lẻ, sau này nghe/nói sẽ hay bị lúng túng. Vì vậy ngay từ khi bắt đầu học, nên học trong các cụm từ/trong câu. Ví dụ với 权利 (quánlì) - quyền lợi:
权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ).
Nếu cảm thấy muốn mở rộng hơn, có thể học thêm:
基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản).
Nếu muốn có một câu hoàn chỉnh, có thể thêm:
公民的基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
Tiếp tục thực hiện cách học tương tự như vậy với 权力 (quánlì) - quyền lực, 全力 (quánlì) - toàn lực.
 

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Một cặp từ đồng âm khác trong Tiếng Trung.
义务 (yìwù) - nghĩa vụ.
异物 (yìwù) - cơ thể của những sinh vật ngoài trái đất (kiểu như người ngoài hành tinh) (dùng để chat chit linh tinh).
Bởi vì đã có sẵn những cụm từ/câu của còm bên trên, cho nên tận dụng được luôn:
权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ).
基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản).
公民的基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
异物 (yìwù) thì chỉ cần biết là "đồng âm" với 义务 (yìwù) thôi, cũng chả mấy khi sử dụng (nếu không làm trong ngành y), nên học cũng được, mà không học cũng được ạ.
 
Chỉnh sửa cuối:

hoantoanmayman

Xe tăng
Biển số
OF-18888
Ngày cấp bằng
11/11/18
Số km
1,017
Động cơ
119,277 Mã lực
Chuyện đồng âm của Tiếng Trung thì nhiều chuyện vui lắm ạ, phải đi học mới biết được. Ví dụ đơn giản nhất là bài học hỏi họ tên (ngay khi bắt đầu học Tiếng Trung) 你叫什么名字? Cô giáo kể chuyện cười về mấy cái tên, đọc thì giống hệt nhau, nhưng viết lại khác nhau:
Zhōng Huá (钟华) rất hay bị nhầm thành Zhōng Huá (中华).
Lǐ Yuè (李玥) cái tên ít người đặt, rất hay bị nhầm thành Lǐ Yuè (李月) cái tên phổ biến ở Trung Quốc.
Trong giao tiếp tự giới thiệu tên, người Hoa nói chung thường biết ngoài họ ra phần tên (đơn hoặc kép) nếu như có sử dụng chữ đặc biệt ít sử dụng hoặc chữ ghép cho phù hợp ngũ hành bát tự, họ đều giới thiệu qua về cách ghép chữ tên của họ. Không bao giờ có chuyện nhầm tên, trừ phi chỉ được nghe thoáng thấy, tức là không được tham gia cuộc nói chuyện đó.
Một cặp từ đồng âm khác trong Tiếng Trung.
义务 (yìwù) - nghĩa vụ.
异物 (yìwù) - cơ thể của những sinh vật ngoài trái đất (kiểu như người ngoài hành tinh).
Bởi vì đã có sẵn những cụm từ/câu của còm bên trên, cho nên tận dụng được luôn:
权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ).
基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản).
公民的基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
异物 (yìwù) thì chỉ cần biết là "đồng âm" với 义务 (yìwù) thôi, cũng chả mấy khi sử dụng, nên học cũng được, mà không học cũng được ạ.
Dòng bôi đậm không phải là cơ thể của những sinh vật ngoài trái đất (kiểu như người ngoài hành tinh), đó là chữ Dị Vật, dị vật là gì thì tiếng Việt cũng rất rõ nghĩa.
"Đồng âm" trong Tiếng Trung và cách khắc phục.

"Đồng âm" là một hiện tượng khá phổ biến trong Tiếng Trung, nghĩa là có những từ Tiếng Trung mà pinyin giống nhau 100%, phát âm giống nhau 100%, nhưng mặt chữ viết khác nhau và mang nghĩa khác nhau.

Những từ "đồng âm" này do mặt chữ khác nhau, cho nên khi đọc/viết sẽ không gặp vấn đề, nhưng khi nghe sẽ hay bị nghe nhầm và khi nói sẽ hay bị hiểu lầm. Số lượng những từ "đồng âm" cũng khá nhiều (vài trăm từ), cho nên gây nhiều khó khăn cho người học Tiếng Trung.

Muốn khắc phục khó khăn do "đồng âm" gây ra, người học không nên học các từ "đồng âm" một cách đơn lẻ, mà nên tìm cách học từ "đồng âm" đó trong một cụm từ/trong một câu. Với một chút kinh nghiệm của mình, cháu sẽ viết ra dần những cặp "đồng âm" và cách khắc phục.

Cặp "đồng âm" có thể coi là tiêu biểu trong Tiếng Trung, đó là:
权利 (quánlì) - quyền lợi.
权力 (quánlì) - quyền lực.
全力 (quánlì) - toàn lực.
Do 3 từ bên trên có pinyin giống hệt nhau, cách đọc giống hệt nhau, cho nên nếu học các từ đó một cách đơn lẻ, sau này nghe/nói sẽ hay bị lúng túng. Vì vậy ngay từ khi bắt đầu học, nên học trong các cụm từ/trong câu. Ví dụ với 权利 (quánlì) - quyền lợi:
权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ).
Nếu cảm thấy muốn mở rộng hơn, có thể học thêm:
基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản).
Nếu muốn có một câu hoàn chỉnh, có thể thêm:
公民的基本权利和义务 (quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
Tiếp tục thực hiện cách học tương tự như vậy với 权力 (quánlì) - quyền lực, 全力 (quánlì) - toàn lực.
Vấn đề từ đồng âm trong tiếng Trung cũng không phải là khó, nhưng nó không lý giải như mợ trẻ viết, những người học cơ bản và đủ thâm niêm sẽ tự phát hiện ra các trường hợp đồng âm, việc có phát hiện ra hay không nằm ở tư duy của người sử dụng tiếng Trung, vốn từ vựng và khả năng sử dụng từ ngữ. Một cách đơn giản nhất là tiếng Trung đa số khá dễ dàng để luận sang âm Hán Việt, với khả năng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ tốt, sẽ nhận diện ra được từ đồng âm trong tiếng Trung. Ngoài ra dựa vào bản chất của từ và kết cấu của câu sẽ phân biệt được tình huống đồng âm và hiểu được chính xác đó là từ nào.
Sơ lược về ví dụ của từ phiên âm "quán lì":
Nếu là quyền lợi, nó sẽ tương xứng với nội dung đằng trước của nó, như: Việc ban hành Luật pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi người, cả cụm chính đáng của mỗi người thông thường nó chỉ là quyền lợi, chứ không bao giờ chỉ quyền lực, vì quyền lực nó không phải là thứ được phân chia đều cho mỗi người.
Nếu là quyền lực, nó cũng phải tương xứng với nội dung trước và sau nó trong câu, như: Việc sử dụng quyền lực đúng mức sẻ đảm bảo luật pháp được thực thi đầy đủ, động từ trước nó và cụm bổ ngữ kết quả sau nó sẽ cho thấy chỉ có là từ quyền lực chứ không thể là từ quyền lợi, càng không thể là từ toàn lực.
Nếu là toàn lực, trong kết cấu ngữ pháp của câu tiếng Trung, từ toàn lực rất hay xuất hiện với chữ Dĩ, tức là dùng toàn lực để làm một việc gì đó, sau nó luôn là một cụm động từ kèm tân ngữ.

Góp ý với mợ trẻ:
Mợ trẻ nếu viết chia sẻ kinh nghiệm nên viết cụ thể, không nên chỉ đặt ra vấn đề và hẹn giải thích sau, như thế không phải là chia sẻ kinh nghiệm.
Mợ trẻ nếu định post cái gì thì nên tra từ điển cho chính xác rồi hẵng post, đưa thông tin kiến thức mà sai sót thì không nên.
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
11,313
Động cơ
477,648 Mã lực
Trong giao tiếp tự giới thiệu tên, người Hoa nói chung thường biết ngoài họ ra phần tên (đơn hoặc kép) nếu như có sử dụng chữ đặc biệt ít sử dụng hoặc chữ ghép cho phù hợp ngũ hành bát tự, họ đều giới thiệu qua về cách ghép chữ tên của họ. Không bao giờ có chuyện nhầm tên, trừ phi chỉ được nghe thoáng thấy, tức là không được tham gia cuộc nói chuyện đó.

Dòng bôi đậm không phải là cơ thể của những sinh vật ngoài trái đất (kiểu như người ngoài hành tinh), đó là chữ Dị Vật, dị vật là gì thì tiếng Việt cũng rất rõ nghĩa.

Vấn đề từ đồng âm trong tiếng Trung cũng không phải là khó, nhưng nó không lý giải như mợ trẻ viết, những người học cơ bản và đủ thâm niêm sẽ tự phát hiện ra các trường hợp đồng âm, việc có phát hiện ra hay không nằm ở tư duy của người sử dụng tiếng Trung, vốn từ vựng và khả năng sử dụng từ ngữ. Một cách đơn giản nhất là tiếng Trung đa số khá dễ dàng để luận sang âm Hán Việt, với khả năng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ tốt, sẽ nhận diện ra được từ đồng âm trong tiếng Trung. Ngoài ra dựa vào bản chất của từ và kết cấu của câu sẽ phân biệt được tình huống đồng âm và hiểu được chính xác đó là từ nào.
Sơ lược về ví dụ của từ phiên âm "quán lì":
Nếu là quyền lợi, nó sẽ tương xứng với nội dung đằng trước của nó, như: Việc ban hành Luật pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi người, cả cụm chính đáng của mỗi người thông thường nó chỉ là quyền lợi, chứ không bao giờ chỉ quyền lực, vì quyền lực nó không phải là thứ được phân chia đều cho mỗi người.
Nếu là quyền lực, nó cũng phải tương xứng với nội dung trước và sau nó trong câu, như: Việc sử dụng quyền lực đúng mức sẻ đảm bảo luật pháp được thực thi đầy đủ, động từ trước nó và cụm bổ ngữ kết quả sau nó sẽ cho thấy chỉ có là từ quyền lực chứ không thể là từ quyền lợi, càng không thể là từ toàn lực.
Nếu là toàn lực, trong kết cấu ngữ pháp của câu tiếng Trung, từ toàn lực rất hay xuất hiện với chữ Dĩ, tức là dùng toàn lực để làm một việc gì đó, sau nó luôn là một cụm động từ kèm tân ngữ.

Góp ý với mợ trẻ:
Mợ trẻ nếu viết chia sẻ kinh nghiệm nên viết cụ thể, không nên chỉ đặt ra vấn đề và hẹn giải thích sau, như thế không phải là chia sẻ kinh nghiệm.
Mợ trẻ nếu định post cái gì thì nên tra từ điển cho chính xác rồi hẵng post, đưa thông tin kiến thức mà sai sót thì không nên.
Em cũng xin góp ý rằng nếu cụ chỉ gọi riêng mợ ý là “mợ trẻ” thì mặc nhiên coi các mợ còn lại trên OF là ko còn trẻ hoặc thậm chí là già, rất nguy hiểm! :D
 
Chỉnh sửa cuối:

Jochi Daigaku

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-456402
Ngày cấp bằng
26/9/16
Số km
52,464
Động cơ
577,611 Mã lực
Tuổi
26
Nơi ở
Tokyo
Dòng bôi đậm không phải là cơ thể của những sinh vật ngoài trái đất (kiểu như người ngoài hành tinh), đó là chữ Dị Vật, dị vật là gì thì tiếng Việt cũng rất rõ nghĩa.
Cháu xin lỗi vì sử dụng ngôn ngữ chat chit, mà không đưa vào 异物 (yìwù) sử dụng trong ngành y ạ.
 

hoantoanmayman

Xe tăng
Biển số
OF-18888
Ngày cấp bằng
11/11/18
Số km
1,017
Động cơ
119,277 Mã lực
Em cũng xin góp ý rằng nếu cụ chỉ gọi riêng mợ ý là “mợ trẻ” thì mặc nhiên coi các mợ còn lại trên OF là ko còn trẻ hoặc thậm chí là già, thật không nên! :D
Các mợ khác em không biết chính xác bao nhiêu tuổi, còn mợ ấy thì mợ ấy có cả một seri tự giới thiệu về mình trên OF, nên em biết chính xác là trẻ, nên em gọi vậy, em gọi vậy nhưng không có ý coi thường gì cụ ạ, em còm chỉ góp ý là chính, kiến thức đưa trên OF phải chuẩn.
 

hoantoanmayman

Xe tăng
Biển số
OF-18888
Ngày cấp bằng
11/11/18
Số km
1,017
Động cơ
119,277 Mã lực
Cháu xin lỗi vì sử dụng ngôn ngữ chat chit, mà không đưa vào 异物 (yìwù) sử dụng trong ngành y ạ.
Dị vật được sử dụng không chỉ trong ngành y, dị vật CN và dị vật VN được sử dụng tương đương nhau trong nhiều phương diện.
 

hoantoanmayman

Xe tăng
Biển số
OF-18888
Ngày cấp bằng
11/11/18
Số km
1,017
Động cơ
119,277 Mã lực
Cháu sai chỗ nào, xin mọi người cứ góp ý thôi ạ. Còn yêu cầu ở mức viết còm mà phải chuẩn như sách, chắc là cháu không làm được ạ. Cháu xin rút lui ạ.
Đưa kiến thức lên OF hay lên đâu thì cũng nên chuẩn chỉ, kiến thức vốn được cung cấp từ sách vở tài liệu, đưa kiến thức lên đây là phải chuẩn như sách, điều đó là bắt buộc, ít nhất theo quan điểm của em là vậy.
Mợ muốn mọi người góp ý nếu mợ sai, nhưng mợ lại không muốn bản thân mình viết còm phải chuẩn như sách, đoạn này em không lý giải được.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top