Chiết tự chữ Hán Nôm là một thú vui của người xưa, có thể đơn giản chỉ là một cách học vui vui, chiết tự giúp cho việc nhớ mặt chữ dễ dàng hơn. Nhưng đôi khi, chiết tự cũng có thể dùng để ám chỉ những điều không thể nói thẳng ra (ngôn ngữ hiện đại gọi là code, như cách các cụ OF phải code khi viết còm). Cháu mở thớt này xin mời các cụ thích chiết tự vào chém gió cho vui. Chiết tự của các cụ sẽ luôn được cháu cập nhật ở #1.
Mở đầu cháu xin chiết tự chữ
大成 = đại thành.
Sự tích của chữ "đại thành": Ngày xưa, mỗi lần nhạc thay đổi điệu gọi là “nhất thành”, chín lần thay đổi là bản nhạc được hoàn thành và gọi là "đại thành", sau này "đại thành" mang ý nghĩa làm nên việc to lớn.
大成 có thể chiết tự ra là
一 人 万 戈 (nhất nhân vạn qua): một người trải qua vạn lưỡi mác (mà không chết).
(1) Dương Tu chiết tự (cảm ơn bác
bTd_11711 đã đóng góp bài này ạ).
Dương Tu (mưu sĩ của Tào Tháo) là người có tài nhưng nhiều lúc quá thông minh khiến Tào Tháo khó chịu. Một lần Dương Tu phò Tào Tháo đi đánh trận ngoài biên ải, có người gửi cho Tào Tháo một hộp bơ, Tào Tháo viết lên đó mấy chữ
一 合 酥 (Nhất hợp tô - Một hộp bơ) rồi để ở bàn. Dương Tu thấy thế liền lấy ra đem chia cho mỗi người một miếng. Khi Tào Tháo tra hỏi, Dương Tu nói:
一 合 酥 (nhất hợp tô) là
一人一口酥 (nhất nhân nhất khẩu tô) - mỗi người một miếng bơ.
(2) Chiết tự chữ đức (德) cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
Chim chích mà đậu cành tre (彳), thập trên (十), tứ dưới (罒), nhất đè (一) chữ tâm (心).
Dù chỉ là một chú chim bé nhỏ, bay đi thập phương, tứ hướng, vẫn mang một chữ tâm cao cả. (Cảm ơn góp ý của bác
cưỡi chổi).
(3) Chiết tự chữ gian (姦) cảm ơn bác
doccocuukiem đã đóng góp bài này ạ.
Tam nữ (女) thành gian - nên bây giờ cứ nhìn thấy bộ thủ có chữ nữ là khiếp, toàn thấy gian tà nịnh bợ, nô lệ đố kỵ, tham lam yêu quái ma mị...
(4) Chiết tự chữ an (安) cảm ơn bác
trauxanh đã đóng góp bài này ạ.
Chữ nữ (女) phải thêm "cái gông" trên đầu thì mới bình an được. Tóm lại là cứ phải nhanh lấy chồng.
Cháu nói đùa đấy, thực ra đó là chữ nữ (女) bên trên là bộ miên (宀)
(5) Cảm ơn bác comiki đã đóng góp bài này ạ.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy.
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này.
(6) Chiết tự thơ Hồ Xuân Hương, cảm ơn vác
kokuka đã đóng góp bài này ạ.
Duyên thiên
天 chửa thấy nhô đầu dọc
夫 (Phu là chồng)
Phận liễu
了 sao đà nảy nét ngang
子 (Tử là con)
Chưa chồng sao có con.
(7) Chiết tự Truyện Kiều, cảm ơn hai bác
kokuka và
comiki đã cùng đóng góp bài này ạ.
Mở xem một bức tiên mai
Rành rành Tích Việt có hai chữ đề
Lấy trong ý tứ mà suy
Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng.
Tích:
昔 gồm 2 chữ thập ++, chữ nhất - và chữ nhật 日: ngày 21
Việt:
越 leo qua, vượt qua
Ngày 21 leo tường trốn
(8) Chiết tự chữ hảo (好), cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
Phụ nữ, chữ nữ (女) mà có con, chữ tử (子) luôn là chuyện tốt lành, chữ hảo (好).
(9) Chiết tự chứ khoát (闊)
Một lần Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết lên cổng chữ "hoạt" (括) Dương Tu trông thấy bèn sai thợ phá cái cổng để làm nhỏ hơn. Có người hỏi thì Dương Tu nói là làm theo lệnh Tháo. Hôm sau Tháo tra hỏi tại sao Dương Tu dám sửa cổng. Tu nói: thần làm theo lệnh của Chúa công, chữ hoạt (括) nằm trong cái cửa chữ môn (門), nghĩa là chữ khoát (闊) - rộng. Chúa công chê cửa rộng nên thần sửa hẹp lại ạ. Tháo không nói gì, nhưng trong lòng không thích vì Tu thông minh quá.
(10) Hào khí Đông A, cảm ơn bác
trauxanh đã đóng góp bài này ạ.
Chữ Trần (陳) là ghép bởi chữ Đông (東) và chữ A (阿). Do đó thường thấy nói đến Hào khí Đông A (nghĩa là hào khí triều Trần).
(11) Chiết tự sấm Lý Công Uẩn lên ngôi thay nhà Lê, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
禾刀木落十八子成 (hòa đao mộc lạc thập bát tử thành).
Chữ Hòa (禾) + chữ Đao (刀) + chữ Mộc (木) ghép lại thành chữ Lê (黎).
Chữ Thập (十) + chữ Bát (八) + chữ Tử (子) ghép lại thành chữ Lý (李).
(12) Chiết tự thành câu đối, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
千里重金鍾 (thiên lý trọng kim chung)
八刀分米粉 (bát đao phân mễ phấn)
Chữ thiên (千) chồng lên chữ lý (里) thành chữ trọng (重) chữ trọng (重) ghép với chữ kim (金) thành chữ chung (鍾).
Chữ bát (八) chồng lên chữ đao (刀) thành chữ phân (分) chữ phân (分) ghép với chữ mễ (米) thành chữ phấn (粉).
(13) Bài thơ Chiết tự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
Bài thơ Chiết tự (折字) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cháu xin tô đỏ những chữ được chiết tự để thấy cái hay và đẹp của bài thơ.
折字 (Chiết tự)
囚人出去或為國 (Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc)
患過頭時始見忠 (Hoạn quá đầu thì thủy kiến trung)
人有憂愁優點大 (Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại)
籠開竹閂出真龍 (Lung khai trúc sản xuất chân long)
囚人出去
或為
國 : chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人) bên trong, thay vào đó là chữ hoặc (或) để thành chữ quốc (國): người tù ra khỏi ngục dựng nên đất nước.
患過頭時始見
忠 : chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠): qua cơn hoạn nạn mới rõ lòng trung.
人有
憂愁
優點大 : chữ nhân (人) ghép với chữ ưu sầu (憂) thành ưu điểm (優) : người biết lo âu (là) ưu điểm lớn.
籠開
竹閂出真
龍 : chữ lung (籠) bỏ đi bộ trúc (竹) thành chữ long (龍) : nhà lao mở then cửa trúc, chân long sẽ bay ra.
Người tù ra khỏi ngục dựng nên đất nước
Qua cơn hoạn nạn mới rõ lòng trung
Người biết lo âu, ưu điểm lớn
Nhà lao mở then cửa trúc, chân long sẽ bay ra.
(14) Thúy Kiều là một tài năng chiết tự ?
Phẩm tiên rơi đến tay hèn
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung
Chữ chung (鍾) có thể chiết tự thành chữ kim (金) và chữ trọng (重).
Như vậy có thể hiểu là: Nhị đào thà bẻ cho người tình KIM TRỌNG.
(15) Chiết tự tương truyền của Vua Duy Tân, cảm ơn bác
Buryat Toyota Cresta đã đóng góp bài này ạ.
Rút ruột Vương, tam phân thiên hạ
Chém đầu Tây, tứ hải giai huynh
CHẶT ĐẦU TÂY
Tương truyền, khi vua Duy Tân mới mười hai tuổi, có dự ngự yến ở tòa Khâm Sứ cùng với viên cố đạo người Pháp.
Viên cố đạo này đã có tuổi, lại là người thông thạo tiếng Việt và tiếng Hán.
Thấy nhà vua ít tuổi, nhưng có vẻ thông minh và tuấn tú, ông ta mới ra một vế câu đối như sau:
- "Rút ruột VƯƠNG, tam phân thiên hạ "
Chữ VƯƠNG = 王, là VUA, nếu bỏ đi một nét đọc thì thành chữ TAM( 三), câu này có ý nhắc đến việc chánh phủ thực dân Pháp chia nước ta ra làm ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.
Vua Duy Tân nghe xong, liền ứng khẩu đối ngay:
- ”Chặt đầu TÂY, tứ hải giai huynh.
Chữ TÂY = 西, nếu bỏ đầu thì thành chữ TỨ(四 ) Qua vế đối, vua Duy Tân muốn khẳng định rõ: Chỉ có tiêu diệt cả bọn thực dân cướp nước thì bốn bể mới sum họp một nhà, coi nhau như anh em ruột thịt.
Tên quan Pháp nghe xong tái mặt vì bị cảnh cáo nghiêm khắc, nhưng vẫn phải giả bộ làm vui, khen tài đối đáp thông minh qua vế đối đầy khí phách anh hùng của nhà vua yêu nước.
(Theo báo Tri Tân số 196 )
(16) Giai thoại chiết tự của cụ Phùng Khắc Khoan, cảm ơn bác
Atlas23 đã đóng góp bài này ạ.
Triều đình nhà Minh đã phái sứ giả sang ta thảo luận việc đánh phỉ ở biên giới. Điều tai ác là trước khi thảo luận cụ thể, vị sứ giả này chỉ trình thư của nhà Minh, trong thư cũng chỉ có hai chữ “Thanh Thúy” (清翠) . Cả triều đình không ai hiểu hai chữ “Thanh Thúy” có liên quan đến việc đánh phỉ như thế nào. Triều đình phải phái người vào tận xứ Mang Quạ triệu cụ Phùng về. Cụ về triều nghe xong đầu đuôi câu chuyện, liền nói: Đây là Minh triều muốn triều ta đến tháng mười hai ra quân, phối hợp với họ để đánh phỉ.
Thanh (清) = thập (十) + nhị (二) + nguyệt (月)
Thúy (翠) = vũ (羽) + tốt (卒)
Thập Nhị Nguyệt Vũ Tốt (tháng mười hai ra quân).
(17) Câu đối chiết tự hàng ngàn năm chưa có lời giải, cảm ơn bác
Atlas23 đã đóng góp bài này ạ.
六 木 森 森 桃 枚 杏 柏 松 李 (lục mộc sâm sâm đào mai hạnh bách tùng lý) - sáu cây sum suê đào mai hạnh bách tùng mận.
Trong vế đối này có 18 chữ mộc (木).
六 木 = 6 chữ mộc.
森 森 = 6 chữ mộc (mỗi chữ sâm do 3 chữ mộc 木 ghép thành).
桃 枚 杏 柏 松 李 = 6 chữ mộc (vì chữ nào cũng có chữ mộc 木 bên trong).
(18) Chiết tự chữ hưu tức (休息) - nghỉ ngơi, cảm ơn bác
mrductk111 đã đóng góp bài này ạ.
Chữ nhân, người (人) + chữ mộc, cây (木) + chữ tự, riêng tư (自) + chữ tâm (心).
Nhân Mộc Tự Tâm = nghỉ ngơi.
(20) Chiết tự chữ gia (家).
安 女 去 豕 入 为 家 - an nữ khứ thỉ nhập vi gia.
Chữ an (安) bỏ đi (去) chữ nữ (女) nhập vào (入) con lợn (豕) làm nên (为) gia đình (家).
Lấy vợ về nuôi lợn để gây dựng gia đình (cháu đùa đấy).
Thực ra là câu ca dao
Đàn bà thì phải nuôi heo
Thời vận còn nghèo nuôi chửa được trâu.
(21) Giai thoại chúa Nguyễn ly khai chúa Trịnh bằng chiết tự, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
矛而無掖 (Mâu nhi vô dịch)
覔非見迹 (Mịch phi kiến tích)
愛落心肠 (Ái lạc tâm tràng)
力來相敌 (Lực lai tương địch)
Chữ mâu (矛) lông (而) không có (無) ở bên cạnh (掖) - thành chữ dư (予) - Ta.
Chữ mịch (覔) không (非) chữ kiến (見) vết tích (迹) - thành chữ bất (不) - Không.
Chữ ái (愛) bị rụng (落) chữ tâm (心) trong ruột (肠) - thành chữ thụ (受) - Nhận.
Chữ lực (力) chữ lai (來) qua lại (相) (như) kẻ thù (敌) - thành chữ sắc (勑) - Sắc.
予不受勑 - Dư Bất Thụ Sắc (Ta không nhận sắc).
Tương truyền chiết tự này là của Đào Duy Từ (phe chúa Nguyễn) đặt dưới mâm đồng hai đáy để Trần Văn Khuông tiến cống chúa Trịnh. Sau khi dâng lễ vật xong, Khuông bỏ về, chúa Trịnh sinh nghi cho người khám xét kỹ mâm đồng, phát hiện ra bốn câu trên. Chúa Trịnh giải mã mãi không xong, đến lúc xong thì Khuông đã chạy thoát về Nam.
(22) Chiết tự chữ phu (夫) bằng ca dao, cảm ơn bác
hoviethung đã đóng góp bài này ạ.
Thương em anh muốn nên duyên
Chỉ e em có chữ thiên nhô đầu
Chữ thiên (天) nhô đầu thành chữ phu (夫)
Thương một người con gái, nhưng chỉ sợ người ta đã có chồng.
(23) Chiết tự hai câu đầu bài thơ Chữ Nhàn của Nguyễn Công Trứ, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
巿 在 門 前 鬧 (Thị tại môn tiền náo)
月 來 門 下 閒 (Nguyệt lai môn hạ nhàn)
Chữ thị (巿) là chợ, chữ tại (在) là ở, chữ môn (門) là cửa, chữ tiền (前) là phía trước, chữ náo (鬧) là ồn ào, náo nhiệt.
Lấy chữ thị (巿) đặt dưới chữ môn (門) ra được chữ náo (鬧).
Tương tự lấy chữ nguyệt (月) là mặt trăng, đặt dưới chữ môn (門) ra được chữ nhàn (閒).
Chợ nằm trước cửa (thì) huyên náo
Trăng soi dưới cửa (thì) thanh nhàn
(24) Chiết tự chữ mật (密), cảm ơn bác
Atlas23 đã đóng góp bài này ạ.
一 首雙拳必上山 - Nhất thủ song quyền tất thượng sơn (một đầu hai tay đấm, chữ tất nằm trên chữ sơn).
Một đầu hai tay đấm là bộ miên (宀) chữ tất (必), đặt bộ miên lên chữ tất, rồi đặt lên chữ sơn (山) ra được chữ mật (密).
(25) Chiết tự chữ túc (宿) - chỗ trú ngụ, cảm ơn bác
comiki đã đóng góp bài này ạ.
Bộ miên (宀) giống như mái nhà, nằm trên chữ nhân (人) và chữ bách (百).
Trăm người dưới một mái nhà, chính là nơi trú ngụ.