- Biển số
- OF-451932
- Ngày cấp bằng
- 9/9/16
- Số km
- 4,468
- Động cơ
- 232,230 Mã lực
- Tuổi
- 38
Qua hai lần tranh luận được sử sách ghi chép, chúng ta phát hiện cả hai lần Nguyễn Trãi đều có hành vi tấn công cá nhân (ad hominem) đối tượng tranh luận.(237) Vì vậy, nếu ngày nay phải chứng kiến hành động thay mặt quan tòa của giới “có chữ”, nên mỉm cười khoan thứ vì thói quen đó của trí thức Kinh có lịch sử hết sức sâu dầy.
Nguyễn Trãi có tự phát hiện điểm yếu của mình? Dường như có! Nhưng Ông phần nào xem đó là điểm mạnh. Hãy tìm hiểu bài thơ dưới đây:
偶成
喜得身閒官又冷
閉門盡日少相過
滿堂雲氣朝焚柏
遶枕松聲夜瀹茶
修己但知為善樂
致身未必讀書多
平生迂闊真吾病
無術能醫老更加
Ngẫu thành
Hỉ đắc thân nhàn quan hựu lãnh
Bế môn tận nhật thiểu tương qua
Mãn đường vân khí triêu phần bách
Nhiễu chẩm tùng thanh dạ thược trà
Tu kỉ đãn tri vi thiện lạc
Trí thân vị tất độc thư đa
Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh
Vô thuật năng y lão cánh gia
Ngẫu thành
Mừng được thân nhàn, việc quan rãnh rỗi,
Khép cửa suốt ngày ít giao thiệp với ai.
Sớm đốt gỗ bách, hơi khói đầy nhà,
Khuya nấu trà, nghe thông reo quanh gối.
Dưỡng mình chỉ biết lấy việc thiện làm vui,
Tiến thân chưa hẳn phải đọc nhiều sách.
Vu khoát chính thực bệnh suốt đời của ta,
Vô phương cứu chữa, càng già càng nặng.
Từ năm 1434 đến năm 1437, tần suất xuất hiện thường xuyên trong Toàn Thư tiết lộ sự bận rộn của Nguyễn Trãi. Khá chắc chắn là nhà thơ chỉ rỗi việc sau khi mâu thuẫn với Lương Đăng bùng nổ với hậu quả một đồng chí của Ông chịu án lưu đày. Tự nhận “thần vô học thuật bất tri cổ chế 臣無學術不知古制”, thần vô học thuật, không biết quy chế cổ, họ Lương mù tịt điển phần lại được vua chọn thay vì chọn sĩ nho danh tiếng Ức Trai. Người đọc thấy rõ tâm trạng ngỡ ngàng của tác giả xao động bên dưới bề mặt bình lặng. Dường như, do ủng hộ Tham nghị Nguyễn Liễu, Ức Trai bị hạ tầng công tác.
Ông cô độc giữa hương trà, hương gỗ bách và tiếng thông reo. Mùi tinh khiết kèm âm thanh cao nhã tạo ấn tượng cả đời nhơ hết, mình Nguyễn sạch; cả đời say hết, mình Nguyễn tỉnh.
Khó thể phủ nhận cuộc sống thanh bạch của quan Thừa Chỉ, nhưng ông có tỉnh hay không thì nên xét lại. Với tư cách nhà quản trị xã hội, vua Lê cần người làm được việc. Ngài cần gì ở nhóm người to tiếng mà kết quả công cán thì phải chờ đến thời điểm chưa biết rõ? Khái niệm, quy chế Hoa Hạ hai ngàn năm trước ích gì cho triều đình Mường kiêu hãnh vừa bức bách đại quân Trung nguyên rút lui quên cả chờ mệnh thiên tử?
Câu 5 với hai chữ “tu kỷ 修己” cung cấp thêm manh mối giúp xác định thời điểm tác phẩm ra đời. Nguyễn Trãi đang suy gẫm về nhạc xưa. Nhạc ký chép câu trả lời của Tử Hạ với Ngụy Văn hầu nội dung miêu tả sự hài hòa cực điểm của cổ nhạc. Theo Tử Hạ, người quân tử dựa vào đó để bàn luận, cũng theo đó để học cổ, để tu thân ở nhà rồi tiến đến bình thiên hạ.[76] Câu 6 gợi liên tưởng sự thành công vẻ vang của đối thủ ít học Lương Đăng.
Nguyễn cũng tự ý thức bản thân có lúc nói năng thiếu thực tế. Nhưng đệ tử Khổng Mạnh truyền bá giáo lý Khổng Mạnh có gì sai? Dĩ nhiên, Nguyễn xem giá trị Nho giáo là tài sản chung của nhân loại chứ không thuộc riêng Hoa Hạ. Lại tồn tại dĩ nhiên khác, để thay thế giải pháp chưa hoàn hảo cần một giải pháp tương đối hoàn hảo hơn. Đề xuất chờ người tầm cỡ Chu Công xuất hiện mới làm lễ nhạc không cho thấy ưu điểm nổi trội nào. Vua Lê đã hành động theo lý trí, Nguyễn Trãi vật vã với niềm tin.
“Vu khoát” thành bệnh nan y không chỉ tạo khoảng cách giữa Nguyễn và đa số triều thần mà còn tạo phiền toái cho con cháu.
Thuật hứng XXIII
Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng,(238)
Con cháu nhiều ngày chịu khó dường.(239)
La ỷ(240) lấy đâu chăng lưới thưới,(241)
Hùng ngư(242) khôn kiếm phải thèm thuồng.
Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất bụt ương nhờ một lảnh(243) mùng.
Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẫn(244) nẻo(245) sơ chung.(246)
Tạm hiểu như sau: Cuộc sống khiến ta nhiễm bệnh điên nhè nhẹ, Do vậy con cháu phải thương khó dài ngày. Lấy đâu ra lụa là mà không rách rưới? Chẳng kiếm được gấu hay cá nên cam cảnh thèm thuồng. Gửi trồng hai bè rau muống ở ao công, Nhờ ương một luống mồng tơi trên đất Phật. (Tài sản) còn lại chỉ tấm lòng lo âu việc nước, Đêm nào cũng trằn trọc đến cử chuông sớm mai.
Nguyễn Trãi có tự phát hiện điểm yếu của mình? Dường như có! Nhưng Ông phần nào xem đó là điểm mạnh. Hãy tìm hiểu bài thơ dưới đây:
偶成
喜得身閒官又冷
閉門盡日少相過
滿堂雲氣朝焚柏
遶枕松聲夜瀹茶
修己但知為善樂
致身未必讀書多
平生迂闊真吾病
無術能醫老更加
Ngẫu thành
Hỉ đắc thân nhàn quan hựu lãnh
Bế môn tận nhật thiểu tương qua
Mãn đường vân khí triêu phần bách
Nhiễu chẩm tùng thanh dạ thược trà
Tu kỉ đãn tri vi thiện lạc
Trí thân vị tất độc thư đa
Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh
Vô thuật năng y lão cánh gia
Ngẫu thành
Mừng được thân nhàn, việc quan rãnh rỗi,
Khép cửa suốt ngày ít giao thiệp với ai.
Sớm đốt gỗ bách, hơi khói đầy nhà,
Khuya nấu trà, nghe thông reo quanh gối.
Dưỡng mình chỉ biết lấy việc thiện làm vui,
Tiến thân chưa hẳn phải đọc nhiều sách.
Vu khoát chính thực bệnh suốt đời của ta,
Vô phương cứu chữa, càng già càng nặng.
Từ năm 1434 đến năm 1437, tần suất xuất hiện thường xuyên trong Toàn Thư tiết lộ sự bận rộn của Nguyễn Trãi. Khá chắc chắn là nhà thơ chỉ rỗi việc sau khi mâu thuẫn với Lương Đăng bùng nổ với hậu quả một đồng chí của Ông chịu án lưu đày. Tự nhận “thần vô học thuật bất tri cổ chế 臣無學術不知古制”, thần vô học thuật, không biết quy chế cổ, họ Lương mù tịt điển phần lại được vua chọn thay vì chọn sĩ nho danh tiếng Ức Trai. Người đọc thấy rõ tâm trạng ngỡ ngàng của tác giả xao động bên dưới bề mặt bình lặng. Dường như, do ủng hộ Tham nghị Nguyễn Liễu, Ức Trai bị hạ tầng công tác.
Ông cô độc giữa hương trà, hương gỗ bách và tiếng thông reo. Mùi tinh khiết kèm âm thanh cao nhã tạo ấn tượng cả đời nhơ hết, mình Nguyễn sạch; cả đời say hết, mình Nguyễn tỉnh.
Khó thể phủ nhận cuộc sống thanh bạch của quan Thừa Chỉ, nhưng ông có tỉnh hay không thì nên xét lại. Với tư cách nhà quản trị xã hội, vua Lê cần người làm được việc. Ngài cần gì ở nhóm người to tiếng mà kết quả công cán thì phải chờ đến thời điểm chưa biết rõ? Khái niệm, quy chế Hoa Hạ hai ngàn năm trước ích gì cho triều đình Mường kiêu hãnh vừa bức bách đại quân Trung nguyên rút lui quên cả chờ mệnh thiên tử?
Câu 5 với hai chữ “tu kỷ 修己” cung cấp thêm manh mối giúp xác định thời điểm tác phẩm ra đời. Nguyễn Trãi đang suy gẫm về nhạc xưa. Nhạc ký chép câu trả lời của Tử Hạ với Ngụy Văn hầu nội dung miêu tả sự hài hòa cực điểm của cổ nhạc. Theo Tử Hạ, người quân tử dựa vào đó để bàn luận, cũng theo đó để học cổ, để tu thân ở nhà rồi tiến đến bình thiên hạ.[76] Câu 6 gợi liên tưởng sự thành công vẻ vang của đối thủ ít học Lương Đăng.
Nguyễn cũng tự ý thức bản thân có lúc nói năng thiếu thực tế. Nhưng đệ tử Khổng Mạnh truyền bá giáo lý Khổng Mạnh có gì sai? Dĩ nhiên, Nguyễn xem giá trị Nho giáo là tài sản chung của nhân loại chứ không thuộc riêng Hoa Hạ. Lại tồn tại dĩ nhiên khác, để thay thế giải pháp chưa hoàn hảo cần một giải pháp tương đối hoàn hảo hơn. Đề xuất chờ người tầm cỡ Chu Công xuất hiện mới làm lễ nhạc không cho thấy ưu điểm nổi trội nào. Vua Lê đã hành động theo lý trí, Nguyễn Trãi vật vã với niềm tin.
“Vu khoát” thành bệnh nan y không chỉ tạo khoảng cách giữa Nguyễn và đa số triều thần mà còn tạo phiền toái cho con cháu.
Thuật hứng XXIII
Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng,(238)
Con cháu nhiều ngày chịu khó dường.(239)
La ỷ(240) lấy đâu chăng lưới thưới,(241)
Hùng ngư(242) khôn kiếm phải thèm thuồng.
Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất bụt ương nhờ một lảnh(243) mùng.
Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẫn(244) nẻo(245) sơ chung.(246)
Tạm hiểu như sau: Cuộc sống khiến ta nhiễm bệnh điên nhè nhẹ, Do vậy con cháu phải thương khó dài ngày. Lấy đâu ra lụa là mà không rách rưới? Chẳng kiếm được gấu hay cá nên cam cảnh thèm thuồng. Gửi trồng hai bè rau muống ở ao công, Nhờ ương một luống mồng tơi trên đất Phật. (Tài sản) còn lại chỉ tấm lòng lo âu việc nước, Đêm nào cũng trằn trọc đến cử chuông sớm mai.