- Biển số
- OF-451932
- Ngày cấp bằng
- 9/9/16
- Số km
- 4,468
- Động cơ
- 232,230 Mã lực
- Tuổi
- 38
Nguyễn đi từ Bình Nam sang Ngô châu, tức từ tây sang đông. Nhị Quảng phân lưu, không phải hợp lưu, chỉ có thể là miêu tả về địa điểm dòng Tầm giang phân thành hai nhánh trước khi vào thành Ngô. Như vậy cũng phù hợp với ý “Lộ nhập Thanh Ngô 路入青梧”, Đường vào Thanh Ngô.
Thành phố Ngô châu bên các dòng nước (bản đồ Google)
Theo bản đồ, sau khi rẽ đôi, Tầm giang (Xunjiang) hợp lại tại phía nam Ngô châu. Gần sát nơi đây, Quế giang (Guijiang) chảy vào sông Tầm tạo thành Tây giang (Xijiang) hướng xuống Quảng châu đổ ra biển. Ngô châu (Wuzhou) như thế nằm ngay vị trí bốn nhánh sông hội tụ.
Thoát khỏi thời gian trì trệ, Nguyễn thay cái nhìn vào nội tâm lúc đợi chờ bằng cái nhìn tò mò ra thế giới bên ngoài. Những điều thu thập được gồm các chuyện truyền khẩu trong dân gian. Thay vì nhận xét cách tổ chức chính quyền, quân đội hay sinh hoạt tầng lớp cao, ông chỉ nói đến văn hóa, kiến thức bình dân. Điều đó tiết lộ thân phận bé mọn trên đường tìm cơ may mới. Nguồn thông tin thực tế đến từ hạng thần dân thấp thỏi của mẫu quốc. Xưa kia, Ứng Long từng trải nghiệm lần đi sứ khổ sở, tuy nhiên chúng ta vẫn thấy thấp thoáng ao đài ngập ánh trăng, thấy dinh thự có tượng hổ canh gác và cuộc rượu thâu đêm. Chuyến sang Minh của Nguyễn nhiều trầm tư nhưng thiếu phù hoa.
Như trên đã nói, sông Quế và sông Tầm hợp lưu tại Ngô châu tạo thành Tây giang. Rời Ngô châu, Nguyễn xuôi Tây giang về đông đến khu vực Tam Thủy (thuộc Phật Sơn nay) thì rẽ trái vào Bắc giang (Beijiang) để ngược lên bắc hướng tới Thiều châu (nay là thành phố Thiều Quan). Chùa Nam Hoa, cách trung tâm thành phố khoảng 22km về phía đông nam, là nơi Lục tổ Huệ Năng (638 – 713) đại hưng Phật giáo.[13]
遊南華寺
神錫飛來幾百春
寶林香火契前因
降龍伏虎機何妙
無樹非臺語若新
殿側起樓藏佛缽
龕中遺跡脫真身
門前一派漕溪水
洗盡人間劫劫塵
Du Nam Hoa tự
Thần tích(62) phi lai kỷ bách xuân
Bảo lâm hương hoả khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân
Ðiện trắc khởi lâu tàng phật bát
Kham(63) trung di tích thoát(64) chân thân(65)
Môn tiền nhất phái tào khê(66) thuỷ
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
Viếng chùa Nam Hoa
Gậy tầm xích linh thiêng bay đến từ mấy trăm năm,
(Việc thừa kế) đèn nhang chùa Bảo Lâm hợp với nhân duyên trước.
Hàng rồng phục hổ, căn cơ thật thần diệu,
Không cây chẳng đài, lời nói vẫn tinh khôi.
Cạnh điện, dựng lầu để giữ gìn bát phật,
Trong khám, còn dấu tích thoát bỏ chân thân.
Trước cổng, dòng Tào khê tuôn chảy,
Rửa sạch bụi bặm nhiều kiếp nhân gian.
Lộ trình từ Ngô châu (Wuzhou) đến Thiều châu (bản đồ Google)
Chùa Nam Hoa do sư Trí Nhạc Tam Tạng người Ấn Độ thành lập năm 502 với tên ban đầu là Bảo Lâm. Năm 968 đời Tống Thái tông, Bảo Lâm được đổi thành Nam Hoa. Chùa hiện nay thuộc thị trấn Tào Khê, huyện Khúc Giang, thành phố Thiều Quan. Tu viện nổi tiếng khắp Đông Á vì là nơi phát sinh pháp tu đốn ngộ mới mẻ.
Bài thơ tựa đề “Viếng chùa Nam Hoa” nhưng thực ra chỉ đề cập các chi tiết liên quan đến vị tổ thứ sáu. Khi khai sơn, thầy Trí Nhạc đã tiên đoán một trăm bảy mươi năm sau sẽ có bậc thượng sư đến giảng pháp tại chùa. Câu 2 trình bày kết quả lời tiên đoán đó.
Huệ Năng (638 – 713) nhà nghèo, tự giác ngộ sớm khi còn bán củi để sinh nhai. Không hài lòng mức “ngộ” của mình, Ngài tìm đến thầy Hoằng Nhẫn chùa Đông Sơn (huyện Hoàng Mai, Kỳ châu, Hồ Bắc) để học đạo. Huệ Năng được truyền y bát sau khi “triệt ngộ”. Vâng lời Ngũ tổ, ngài về phương Nam ẩn thân gần 16 năm, sau đó tạm dừng chân tại chùa Pháp Tính (Quảng châu) theo lời mời của sư trụ trì Ấn Tông, rồi chuyển sang chùa Bảo Lâm. Nơi đây, ngài thành lập phái Thiền Nam tông.
Tương truyền, Lục Tổ hàng phục được rồng cọp. Người bình dân thú vị về pháp thuật phi phàm, tuy nhiên, tu sĩ hiểu “rồng cọp” như sự “vọng động” của tâm. Xin nhắc lại công án nổi tiếng về lá phướn bay để hiểu phần nào cái “động” này: Hai vị sư nhìn lá phướn bay, tranh cãi nhau. Một vị nói lá phướn động, vị kia nói gió động. Lục tổ đi ngang nói “chẳng phải phướn, chẳng phải gió, tâm đang động.”
Câu 4 đề cập bài kệ mà nhờ nó Huệ Năng được Ngũ tổ chọn làm truyền nhân. Vì bài kệ là đối ứng của một bài kệ khác do đại đệ tử Thần Tú viết, cũng là ứng viên kế thừa y bát, nên chúng tôi chép cả hai ra đây.
Nguyên văn kệ Thần Tú như sau:
身佀菩提樹
心如明鏡臺
峕时勤拂拭
莫使惹塵埃
Thân tự bồ đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Mạc sử nhạ trần ai
Thân tựa cội bồ đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn chăm quét dọn,
Chớ để bụi trần bám vào.
Nguyên văn kệ Huệ Năng như sau:
菩提本無樹
明鏡亦非臺
本來無一物
何處惹塵埃
Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai
Bồ đề vốn không phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không phải vật,
Bụi bặm bám vào đâu!
Cổng chùa Ngũ tổ (Đông Sơn) với bài kệ Thần Tú bên trái, bài kệ Huệ Năng bên phải
Trong cảm nhận của Thần Tú, thân và tâm tồn tại dưới dạng tinh khiết trong suốt. Trong cảm nhận của Huệ Năng, thân và tâm đều là “không”. Sư phụ Hoằng Nhẫn chọn Huệ Năng vì biết đệ tử đã đạt mức khai ngộ cực cao.
Huệ Năng bãi việc truyền y bát nên khi Ngài qua đời chúng tăng đưa bát khất thực và nhục thân(67) của Ngài dưới dạng một bức tượng vào tháp Linh Chiểu靈炤 trong khuôn viên chùa Nam Hoa để thờ cúng. Tháp Linh Chiểu 5 tầng nguyên thủy làm bằng gỗ được xây dựng dành riêng cho di tích Huệ Năng. Do hỏa hoạn, tháp được làm lại bằng đá và gạch vào đời Tống (960 – 1279). Thời điểm viếng Nam Hoa tự, Nguyễn thấy bức tượng mà Ông gọi là “chân thân” trong tầng thấp nhất của ngôi tháp này.(68)
Nguyễn nhẹ nhõm khi viếng chùa, nhưng phải phiêu bồng tiếp vì ông đến Trung nguyên không để tìm thầy mà để tìm công danh.
Thành phố Ngô châu bên các dòng nước (bản đồ Google)
Theo bản đồ, sau khi rẽ đôi, Tầm giang (Xunjiang) hợp lại tại phía nam Ngô châu. Gần sát nơi đây, Quế giang (Guijiang) chảy vào sông Tầm tạo thành Tây giang (Xijiang) hướng xuống Quảng châu đổ ra biển. Ngô châu (Wuzhou) như thế nằm ngay vị trí bốn nhánh sông hội tụ.
Thoát khỏi thời gian trì trệ, Nguyễn thay cái nhìn vào nội tâm lúc đợi chờ bằng cái nhìn tò mò ra thế giới bên ngoài. Những điều thu thập được gồm các chuyện truyền khẩu trong dân gian. Thay vì nhận xét cách tổ chức chính quyền, quân đội hay sinh hoạt tầng lớp cao, ông chỉ nói đến văn hóa, kiến thức bình dân. Điều đó tiết lộ thân phận bé mọn trên đường tìm cơ may mới. Nguồn thông tin thực tế đến từ hạng thần dân thấp thỏi của mẫu quốc. Xưa kia, Ứng Long từng trải nghiệm lần đi sứ khổ sở, tuy nhiên chúng ta vẫn thấy thấp thoáng ao đài ngập ánh trăng, thấy dinh thự có tượng hổ canh gác và cuộc rượu thâu đêm. Chuyến sang Minh của Nguyễn nhiều trầm tư nhưng thiếu phù hoa.
Như trên đã nói, sông Quế và sông Tầm hợp lưu tại Ngô châu tạo thành Tây giang. Rời Ngô châu, Nguyễn xuôi Tây giang về đông đến khu vực Tam Thủy (thuộc Phật Sơn nay) thì rẽ trái vào Bắc giang (Beijiang) để ngược lên bắc hướng tới Thiều châu (nay là thành phố Thiều Quan). Chùa Nam Hoa, cách trung tâm thành phố khoảng 22km về phía đông nam, là nơi Lục tổ Huệ Năng (638 – 713) đại hưng Phật giáo.[13]
遊南華寺
神錫飛來幾百春
寶林香火契前因
降龍伏虎機何妙
無樹非臺語若新
殿側起樓藏佛缽
龕中遺跡脫真身
門前一派漕溪水
洗盡人間劫劫塵
Du Nam Hoa tự
Thần tích(62) phi lai kỷ bách xuân
Bảo lâm hương hoả khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân
Ðiện trắc khởi lâu tàng phật bát
Kham(63) trung di tích thoát(64) chân thân(65)
Môn tiền nhất phái tào khê(66) thuỷ
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
Viếng chùa Nam Hoa
Gậy tầm xích linh thiêng bay đến từ mấy trăm năm,
(Việc thừa kế) đèn nhang chùa Bảo Lâm hợp với nhân duyên trước.
Hàng rồng phục hổ, căn cơ thật thần diệu,
Không cây chẳng đài, lời nói vẫn tinh khôi.
Cạnh điện, dựng lầu để giữ gìn bát phật,
Trong khám, còn dấu tích thoát bỏ chân thân.
Trước cổng, dòng Tào khê tuôn chảy,
Rửa sạch bụi bặm nhiều kiếp nhân gian.
Lộ trình từ Ngô châu (Wuzhou) đến Thiều châu (bản đồ Google)
Chùa Nam Hoa do sư Trí Nhạc Tam Tạng người Ấn Độ thành lập năm 502 với tên ban đầu là Bảo Lâm. Năm 968 đời Tống Thái tông, Bảo Lâm được đổi thành Nam Hoa. Chùa hiện nay thuộc thị trấn Tào Khê, huyện Khúc Giang, thành phố Thiều Quan. Tu viện nổi tiếng khắp Đông Á vì là nơi phát sinh pháp tu đốn ngộ mới mẻ.
Bài thơ tựa đề “Viếng chùa Nam Hoa” nhưng thực ra chỉ đề cập các chi tiết liên quan đến vị tổ thứ sáu. Khi khai sơn, thầy Trí Nhạc đã tiên đoán một trăm bảy mươi năm sau sẽ có bậc thượng sư đến giảng pháp tại chùa. Câu 2 trình bày kết quả lời tiên đoán đó.
Huệ Năng (638 – 713) nhà nghèo, tự giác ngộ sớm khi còn bán củi để sinh nhai. Không hài lòng mức “ngộ” của mình, Ngài tìm đến thầy Hoằng Nhẫn chùa Đông Sơn (huyện Hoàng Mai, Kỳ châu, Hồ Bắc) để học đạo. Huệ Năng được truyền y bát sau khi “triệt ngộ”. Vâng lời Ngũ tổ, ngài về phương Nam ẩn thân gần 16 năm, sau đó tạm dừng chân tại chùa Pháp Tính (Quảng châu) theo lời mời của sư trụ trì Ấn Tông, rồi chuyển sang chùa Bảo Lâm. Nơi đây, ngài thành lập phái Thiền Nam tông.
Tương truyền, Lục Tổ hàng phục được rồng cọp. Người bình dân thú vị về pháp thuật phi phàm, tuy nhiên, tu sĩ hiểu “rồng cọp” như sự “vọng động” của tâm. Xin nhắc lại công án nổi tiếng về lá phướn bay để hiểu phần nào cái “động” này: Hai vị sư nhìn lá phướn bay, tranh cãi nhau. Một vị nói lá phướn động, vị kia nói gió động. Lục tổ đi ngang nói “chẳng phải phướn, chẳng phải gió, tâm đang động.”
Câu 4 đề cập bài kệ mà nhờ nó Huệ Năng được Ngũ tổ chọn làm truyền nhân. Vì bài kệ là đối ứng của một bài kệ khác do đại đệ tử Thần Tú viết, cũng là ứng viên kế thừa y bát, nên chúng tôi chép cả hai ra đây.
Nguyên văn kệ Thần Tú như sau:
身佀菩提樹
心如明鏡臺
峕时勤拂拭
莫使惹塵埃
Thân tự bồ đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Mạc sử nhạ trần ai
Thân tựa cội bồ đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn chăm quét dọn,
Chớ để bụi trần bám vào.
Nguyên văn kệ Huệ Năng như sau:
菩提本無樹
明鏡亦非臺
本來無一物
何處惹塵埃
Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai
Bồ đề vốn không phải cây,
Gương sáng cũng chẳng phải đài.
Xưa nay vốn không phải vật,
Bụi bặm bám vào đâu!
Cổng chùa Ngũ tổ (Đông Sơn) với bài kệ Thần Tú bên trái, bài kệ Huệ Năng bên phải
Trong cảm nhận của Thần Tú, thân và tâm tồn tại dưới dạng tinh khiết trong suốt. Trong cảm nhận của Huệ Năng, thân và tâm đều là “không”. Sư phụ Hoằng Nhẫn chọn Huệ Năng vì biết đệ tử đã đạt mức khai ngộ cực cao.
Huệ Năng bãi việc truyền y bát nên khi Ngài qua đời chúng tăng đưa bát khất thực và nhục thân(67) của Ngài dưới dạng một bức tượng vào tháp Linh Chiểu靈炤 trong khuôn viên chùa Nam Hoa để thờ cúng. Tháp Linh Chiểu 5 tầng nguyên thủy làm bằng gỗ được xây dựng dành riêng cho di tích Huệ Năng. Do hỏa hoạn, tháp được làm lại bằng đá và gạch vào đời Tống (960 – 1279). Thời điểm viếng Nam Hoa tự, Nguyễn thấy bức tượng mà Ông gọi là “chân thân” trong tầng thấp nhất của ngôi tháp này.(68)
Nguyễn nhẹ nhõm khi viếng chùa, nhưng phải phiêu bồng tiếp vì ông đến Trung nguyên không để tìm thầy mà để tìm công danh.