[Funland] Số phận bi thãm của một số công thần sau cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Nguyễn đi từ Bình Nam sang Ngô châu, tức từ tây sang đông. Nhị Quảng phân lưu, không phải hợp lưu, chỉ có thể là miêu tả về địa điểm dòng Tầm giang phân thành hai nhánh trước khi vào thành Ngô. Như vậy cũng phù hợp với ý “Lộ nhập Thanh Ngô 路入青梧”, Đường vào Thanh Ngô.


Thành phố Ngô châu bên các dòng nước (bản đồ Google)

Theo bản đồ, sau khi rẽ đôi, Tầm giang (Xunjiang) hợp lại tại phía nam Ngô châu. Gần sát nơi đây, Quế giang (Guijiang) chảy vào sông Tầm tạo thành Tây giang (Xijiang) hướng xuống Quảng châu đổ ra biển. Ngô châu (Wuzhou) như thế nằm ngay vị trí bốn nhánh sông hội tụ.

Thoát khỏi thời gian trì trệ, Nguyễn thay cái nhìn vào nội tâm lúc đợi chờ bằng cái nhìn tò mò ra thế giới bên ngoài. Những điều thu thập được gồm các chuyện truyền khẩu trong dân gian. Thay vì nhận xét cách tổ chức chính quyền, quân đội hay sinh hoạt tầng lớp cao, ông chỉ nói đến văn hóa, kiến thức bình dân. Điều đó tiết lộ thân phận bé mọn trên đường tìm cơ may mới. Nguồn thông tin thực tế đến từ hạng thần dân thấp thỏi của mẫu quốc. Xưa kia, Ứng Long từng trải nghiệm lần đi sứ khổ sở, tuy nhiên chúng ta vẫn thấy thấp thoáng ao đài ngập ánh trăng, thấy dinh thự có tượng hổ canh gác và cuộc rượu thâu đêm. Chuyến sang Minh của Nguyễn nhiều trầm tư nhưng thiếu phù hoa.

Như trên đã nói, sông Quế và sông Tầm hợp lưu tại Ngô châu tạo thành Tây giang. Rời Ngô châu, Nguyễn xuôi Tây giang về đông đến khu vực Tam Thủy (thuộc Phật Sơn nay) thì rẽ trái vào Bắc giang (Beijiang) để ngược lên bắc hướng tới Thiều châu (nay là thành phố Thiều Quan). Chùa Nam Hoa, cách trung tâm thành phố khoảng 22km về phía đông nam, là nơi Lục tổ Huệ Năng (638 – 713) đại hưng Phật giáo.[13]

遊南華寺


神錫飛來幾百春

寶林香火契前因

降龍伏虎機何妙

無樹非臺語若新

殿側起樓藏佛缽

龕中遺跡脫真身

門前一派漕溪水

洗盡人間劫劫塵

Du Nam Hoa tự


Thần tích(62) phi lai kỷ bách xuân

Bảo lâm hương hoả khế tiền nhân

Hàng long phục hổ cơ hà diệu

Vô thụ phi đài ngữ nhược tân

Ðiện trắc khởi lâu tàng phật bát

Kham(63) trung di tích thoát(64) chân thân(65)

Môn tiền nhất phái tào khê(66) thuỷ

Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần

Viếng chùa Nam Hoa

Gậy tầm xích linh thiêng bay đến từ mấy trăm năm,

(Việc thừa kế) đèn nhang chùa Bảo Lâm hợp với nhân duyên trước.

Hàng rồng phục hổ, căn cơ thật thần diệu,

Không cây chẳng đài, lời nói vẫn tinh khôi.

Cạnh điện, dựng lầu để giữ gìn bát phật,

Trong khám, còn dấu tích thoát bỏ chân thân.

Trước cổng, dòng Tào khê tuôn chảy,

Rửa sạch bụi bặm nhiều kiếp nhân gian.


Lộ trình từ Ngô châu (Wuzhou) đến Thiều châu (bản đồ Google)

Chùa Nam Hoa do sư Trí Nhạc Tam Tạng người Ấn Độ thành lập năm 502 với tên ban đầu là Bảo Lâm. Năm 968 đời Tống Thái tông, Bảo Lâm được đổi thành Nam Hoa. Chùa hiện nay thuộc thị trấn Tào Khê, huyện Khúc Giang, thành phố Thiều Quan. Tu viện nổi tiếng khắp Đông Á vì là nơi phát sinh pháp tu đốn ngộ mới mẻ.

Bài thơ tựa đề “Viếng chùa Nam Hoa” nhưng thực ra chỉ đề cập các chi tiết liên quan đến vị tổ thứ sáu. Khi khai sơn, thầy Trí Nhạc đã tiên đoán một trăm bảy mươi năm sau sẽ có bậc thượng sư đến giảng pháp tại chùa. Câu 2 trình bày kết quả lời tiên đoán đó.

Huệ Năng (638 – 713) nhà nghèo, tự giác ngộ sớm khi còn bán củi để sinh nhai. Không hài lòng mức “ngộ” của mình, Ngài tìm đến thầy Hoằng Nhẫn chùa Đông Sơn (huyện Hoàng Mai, Kỳ châu, Hồ Bắc) để học đạo. Huệ Năng được truyền y bát sau khi “triệt ngộ”. Vâng lời Ngũ tổ, ngài về phương Nam ẩn thân gần 16 năm, sau đó tạm dừng chân tại chùa Pháp Tính (Quảng châu) theo lời mời của sư trụ trì Ấn Tông, rồi chuyển sang chùa Bảo Lâm. Nơi đây, ngài thành lập phái Thiền Nam tông.

Tương truyền, Lục Tổ hàng phục được rồng cọp. Người bình dân thú vị về pháp thuật phi phàm, tuy nhiên, tu sĩ hiểu “rồng cọp” như sự “vọng động” của tâm. Xin nhắc lại công án nổi tiếng về lá phướn bay để hiểu phần nào cái “động” này: Hai vị sư nhìn lá phướn bay, tranh cãi nhau. Một vị nói lá phướn động, vị kia nói gió động. Lục tổ đi ngang nói “chẳng phải phướn, chẳng phải gió, tâm đang động.

Câu 4 đề cập bài kệ mà nhờ nó Huệ Năng được Ngũ tổ chọn làm truyền nhân. Vì bài kệ là đối ứng của một bài kệ khác do đại đệ tử Thần Tú viết, cũng là ứng viên kế thừa y bát, nên chúng tôi chép cả hai ra đây.

Nguyên văn kệ Thần Tú như sau:

身佀菩提樹


心如明鏡臺

峕时勤拂拭

莫使惹塵埃

Thân tự bồ đề thụ


Tâm như minh kính đài

Thời thời cần phất thức

Mạc sử nhạ trần ai

Thân tựa cội bồ đề,


Tâm như đài gương sáng.

Luôn luôn chăm quét dọn,

Chớ để bụi trần bám vào.

Nguyên văn kệ Huệ Năng như sau:

菩提本無樹


明鏡亦非臺

本來無一物

何處惹塵埃

Bồ đề bản vô thụ


Minh kính diệc phi đài

Bản lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai

Bồ đề vốn không phải cây,


Gương sáng cũng chẳng phải đài.

Xưa nay vốn không phải vật,

Bụi bặm bám vào đâu!


Cổng chùa Ngũ tổ (Đông Sơn) với bài kệ Thần Tú bên trái, bài kệ Huệ Năng bên phải

Trong cảm nhận của Thần Tú, thân và tâm tồn tại dưới dạng tinh khiết trong suốt. Trong cảm nhận của Huệ Năng, thân và tâm đều là “không”. Sư phụ Hoằng Nhẫn chọn Huệ Năng vì biết đệ tử đã đạt mức khai ngộ cực cao.

Huệ Năng bãi việc truyền y bát nên khi Ngài qua đời chúng tăng đưa bát khất thực và nhục thân(67) của Ngài dưới dạng một bức tượng vào tháp Linh Chiểu靈炤 trong khuôn viên chùa Nam Hoa để thờ cúng. Tháp Linh Chiểu 5 tầng nguyên thủy làm bằng gỗ được xây dựng dành riêng cho di tích Huệ Năng. Do hỏa hoạn, tháp được làm lại bằng đá và gạch vào đời Tống (960 – 1279). Thời điểm viếng Nam Hoa tự, Nguyễn thấy bức tượng mà Ông gọi là “chân thân” trong tầng thấp nhất của ngôi tháp này.(68)

Nguyễn nhẹ nhõm khi viếng chùa, nhưng phải phiêu bồng tiếp vì ông đến Trung nguyên không để tìm thầy mà để tìm công danh.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Nguyễn sẽ đi thuyền đến thị trấn Nam Hùng, điểm cuối cùng chuỗi dịch trạm đường thủy. Từ đây, hành khách lên bộ vượt Ngũ Lĩnh đến Nam An, Giang Tây. Từ Nam An, lại dùng thuyền theo sông Cám đến Hồng Đô, thủ phủ Giang Tây.

Trên đèo Đại Dữu, Nguyễn Trãi có dịp viếng miếu thờ nhà Nho lừng danh Trương Cửu Linh (678 – 740).

韶州文憲廟


反狀當年辨羯兒
至明先見若蓍龜
濟時儒術生平有
諫主忠言死後知
萬古不磨金鑑錄
千年猶享曲江祠
高風追想渾如昨
手拂青苔認古碑

Thiều châu văn hiến miếu(69)


Phản trạng đương niên biện yết nhi(70)
Chí minh tiên kiến nhược thi qui
Tế thì nho thuật sinh bình hữu
Gián chúa trung ngôn tử hậu tri
Vạn cổ bất ma kim giám lục(71)
Thiên niên do hưởng khúc giang từ(72)
Cao phong truy tưởng hồn như tạc
Thủ phất thanh đài nhận cổ bi

Miếu thờ ông Văn Hiến người Thiều châu

Xưa kia, cáo trạng tố phản chỉ rõ tên rợ Yết,

Trí sáng suốt tiên đoán mọi việc y như bói cỏ thi, mai rùa.

Lúc sinh thời, sở đắc nho thuật để giúp đời,

Sau khi mất, lời gián chúa của tôi trung mới được hiểu.

Muôn thuở, “kim giám lục” vẫn không mai một,

Nghìn năm, đền Khúc giang sẽ mãi khói hương.

Nhớ lại phong độ cao nhã, tưởng việc mới hôm qua,

Lấy tay phất rêu xanh săm soi bia cổ.

Văn Hiến là tên thụy của Trương Cửu Linh (678 – 740), chính khách kiêm nhà thơ đời Đường. Ông tự Tử Thọ, người Khúc giang, Thiều châu (thành phố Thiều Quan nay). Trương Cửu Linh hay chữ từ bé, nổi tiếng thần đồng. Ông đỗ Tiến sĩ năm 702, trải nhiều chức quan tại trung ương lẫn địa phương. Năm 732, thăng Trung Thư thị lang đồng Trung Thư Môn hạ Bình chương sự. Năm sau, thăng Trung Thư lệnh tức Tể tướng. Năm 735, gia phong Kim Tử Quang Lộc Đại phu, Thủy Hưng huyện bá.

Trương hiền minh, chính trực, hoài bão vì dân. Văn chương và nhân cách của ông nức tiếng đương thời. Từ lê thứ, đồng liêu đến hoàng đế đều ca ngợi “phong độ Cửu Linh”.

Về nhân sự, Trương chủ trương tuyển quan trên căn bản năng lực, đạo đức. Ông từng đề cử nhiều người về sau làm quan được tiếng thơm như Nghiêm Đình Chi, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên……Ông phản bác việc dùng Lý Lâm Phủ hoặc Trương Thủ Khuê làm Tể tướng, dâng sớ cảnh báo Đường Huyền tông về khả năng tạo phản của An Lộc Sơn. Cửu Linh thiếu thiện cảm với người kém nho học và giới quân nhân chuyên nghiệp.

Về quản trị xã hội, ông lập Thái Phỏng sứ ở 10 đạo chuyên giám sát hoạt động quan lại cấp châu huyện nhằm khuyến thiện, trừng ác, tạo điều kiện cho dân đen nói lên oan khuất. Hơn nữa, ông đề xuất ít dùng hình phạt, giảm thống khổ cho phạm nhân. Mặt nông nghiệp được chú trọng. Cửu Linh soạn “Chế độ tịch điền” khuyến khích vua quan chủ động lễ cày mùa xuân làm gương khuyến nông cho cả nước. Ông trực tiếp chịu trách nhiệm trồng thử nghiệm lúa gạo ở bắc Ngũ lĩnh. Dù Trương trọng nghề nông hơn, nhưng chính ông mở rộng đèo Đại Dữu để tăng cường lưu thông hàng hóa từ Quảng châu đến Hoa Bắc và ngược lại. Quảng châu đương thời là trung tâm ngoại thương nhộn nhịp với thành phần cư dân gồm cả các thương nhân đến từ Tây Á, Nam Á và Đông Nam Á. Đại Dữu là chướng ngại cuối cùng của đường tơ lụa trên biển hướng đến Trường An. Thời ông làm tướng, dân chúng đầy đủ cơm ăn áo mặc.

Ngày 14/9/736, nhân sinh nhật Huyền tông, vương công đại thần dâng những tấm gương quý lên hoàng đế. Đây là loại bảo vật thịnh hành thời đó,[14] gương báu thâm nhập vào cả bài kệ Thần Tú trích dẫn bên trên. Khác mọi người, Trương Cửu Linh tiến vua quyển “Thiên thu(73) kim giám lục千秋金鏡錄”, Ghi chép về gương vàng nghìn năm. Quần thần, hoàng gia mong Huyền tông nhìn thấy dung mạo tôn quý của mình, Khúc giang nguyện vua nhìn thấy tâm mình. Hoàng đế ban chiếu thư cảm ơn và ngợi khen.

Sự giàu mạnh của đế quốc khiến Đường Huyền tông tự mãn. Nhà vua có xu hướng ngả sang hưởng thụ, xao lãng chính sự. Năm 737, do Lý Lâm Phủ sàm tấu, Trương Cửu Linh bị giáng làm Kinh châu Đại đô đốc phủ Trưởng sử. Năm 740, ông qua đời khi về quê Thiều châu trẩy mộ cha mẹ được vua truy tặng chức Kinh châu Đại đô đốc, thụy Văn Hiến. Năm 756, lúc chạy loạn An Lộc Sơn vào đạo Kiếm Nam (Tứ Xuyên, Trùng Khánh nay) rồi nhường ngôi cho thái tử, Huyền tông nhớ lại lời can gián xưa của Cửu Linh nên ban thư truy thưởng đồng thời cử người đến Thiều châu cúng viếng mộ ông.

Ngoài vai trò chính khách, Cửu Linh còn là một văn nhân thực sự tài hoa. Văn ông tải đạo, trình bày ý thức rõ ràng về trách nhiệm của nhà cầm quyền. Trong một bài thơ ứng đối với hoàng đế, ông viết:

每勞蒼生念


不以黃屋尊

Mỗi lao thương sinh niệm


Bất dĩ hoàng ốc tôn

Mỗi lần để dân lo lắng


Không xem ở nhà vàng là tôn quý

Theo ông, nếu dân không được ấm no hạnh phúc, thì người quản trị xã hội bất xứng với chức vụ và quyền lợi của mình.

Trong một bài chiếu viết nhân danh vua, ông khẳng định:

言念苍生必必遍于天下 Ngôn niệm thương sinh tất tất biến vu thiên hạ Lời nói, ý nghĩ đều hướng về dân đen và phải phổ biến khắp thiên hạ
Hoặc:

以誠告示其或知歸何必用威然後致理? Dĩ thành cáo thị kỳ hoặc tri quy hà tất dụng uy nhiên hậu trí lý? Lấy lòng thành cáo thị dân sẽ hiểu mà theo về, hà tất dùng oai lực rồi sau đó lại dùng án?
Quan niệm thân dân của ông khiến nhiều chính trị gia “hiện đại” phải đỏ mặt.

Văn ông còn tải tình, loại tình vừa chân phương theo phong cách Hán Ngụy, vừa diễm lệ kiểu Lục triều. Dưới đây xin ghi lại bài “Vọng nguyệt hoài viễn 望月懷遠”, Ngắm trăng nhớ người xa bất hủ của ông, một thủ lĩnh thi phái Lĩnh Nam:

望月懷遠[15]


海上生明月

天涯共此時

情人怨遙夜

竟夕起相思

滅燭憐光滿

披衣覺露滋

不堪盈手贈

還寢夢佳期

Vọng nguyệt hoài viễn


Hải thượng sinh minh nguyệt

Thiên nhai cộng thử thì

Tình nhân oán dao dạ

Cánh tịch khởi tương tư

Diệt chúc liên quang mãn

Phi y giác lộ ty

Bất kham doanh thủ tặng

Hoàn tẩm mộng giai kỳ

Ngắm trăng nhớ người xa


Trăng nhô rạng trên mặt biển

Khách chân trời cùng ngắm như ta

Tình nhân oán hận đêm xa cách

Mối tương tư tuôn trào suốt canh khuya

Tắt đèn vì thương ánh sáng tròn đầy

Choàng áo bởi biết sương ngấm ướt

Không thể vốc trăng tặng người

Quay về buồng ngủ để gặp nhau trong mộng

Lướt qua sự nghiệp Văn Hiến công, chúng ta phát hiện ngay cụ Trương chính là hình tượng nhà nho mẫu mực trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi.[16]

過嶺


前崗日落馬虺隤

行盡梅關不見梅

夾道千松撐漢立

緣雲一路擘山開

長安日近聊舒目

故國天遙重感懷

唐相一從通此道

不知今幾百年來

Quá lĩnh


Tiền cương(74) nhật lạc mã hôi đồi

Hành tận mai quan(75) bất kiến mai

Giáp đạo thiên tùng xanh hán lập

Duyên vân nhất lộ phách sơn khai

Trường an(76) nhật cận liêu thư mục

Cố quốc thiên dao trọng cảm hoài

Đường tướng(77) nhất tòng thông thử đạo

Bất tri kim kỷ bách niên lai

Qua đèo

Mặt trời lặn nơi đồn canh phía trước, ngựa đã mỏi mệt,

Đến tận ải Mai lại chẳng thấy mai!

Ven lộ, nghìn cội tùng chống thẳng Ngân hà,

Nương mây, một lối đi chẻ xuyên qua núi.

Mặt trời Trường An gần gũi, tạm thư trông ngóng,

Quê cũ tít tắp chân mây, trĩu nặng cảm hoài.

Từ lúc tướng nhà Đường khai mở đường này,

Tới nay không biết mấy trăm năm rồi!


Mai quan nhìn từ phía Giang Tây- By Zhangzhugang – Own work, CC BY-SA 3.0

Nguyễn sáng tác bài này khi đứng ngay đỉnh đèo, nơi có cửa ải, chứ chưa xuống dốc vì tùng mọc ở nửa phía nam. Nửa phía bắc trồng mai đến nay hãy còn. Từ vị trí cao nhất, Nguyễn mường tượng thấy cả Trường An lẫn quê nhà.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Thời cổ, ải trên đèo mang tên Hoành Phố quan. Đèo được mở rộng vào năm Khai Nguyên IV (716) khi Cửu Linh còn giữ chức quan khiêm tốn thuộc sảnh Trung Thư chứ chưa đảm trách vị trí Tể tướng. Bề rộng đường khoảng 5 đến 6 mét, đến đời Tống mới lát đá. Trước đó, đèo nhỏ hẹp hơn nhưng không phải “dấu thỏ đường dê” như ta thường hình dung. Tống Chi Vấn (khoảng 660 – 712), khi vượt Mai Lĩnh năm 705 để đến nơi lưu đày từng viết “Độ lĩnh phương từ quốc, Đình diêu nhất vọng gia 度嶺方辭國停軺一望家,”[17] Qua đèo xem như cách lìa bản quán, Ngừng xe ngóng mãi quê nhà. Cụ Tống du hành bằng “diêu 軺”, xe ngựa cỡ nhỏ, loại xe mà tùy tùng có thể khiêng qua những đoạn gập ghềnh.

Năm 1790, sứ giả Tây Sơn Phan Huy Ích (1751 – 1822) qua Đại Dữu đã sáng tác bài “Du Mai lĩnh 踰梅嶺” với cặp kết tình cờ gần giống hệt hai câu kết của Ức Trai trong bài “Thiều châu Văn Hiến miếu”. Để nổi rõ tâm tình Nguyễn Trãi, chúng tôi chép lại nguyên văn bài “Du Mai lĩnh” của Phan Huy Ích dưới đây để so sánh.

踰梅嶺[18]


舆志傳聞大庾梅

迂途今擁使旌來

痼根蔥蔚漫林長

寒磴岧嶢截嶺開

泉石生涼猿叫晚

海天渺望鴈飛迴

曲江風度高千古

思繹碑銘鎖綠苔

Du mai lĩnh


Dư chí truyền văn đại dữu mai

Vu đồ kim ủng sứ tinh lai

Cố căn thông uất mạn lâm trưởng

Hàn đặng thiều nghiêu tiệt lĩnh khai

Tuyền thạch sinh lương viên khiếu vãn

Hải thiên diểu vọng nhạn phi hồi

Khúc giang phong độ cao thiên cổ

Tư dịch bi minh tỏa lục đài

Vượt Đèo Mai

Từng nghe sách địa dư nói về mai Đại Dữu,

Nay cầm cờ sứ vượt đường xa đến đây.

Cây lưu niên sinh trưởng tươi tốt khắp rừng,

Bậc đá lạnh vươn cao cắt xuyên qua núi.

Đá suối tỏa hơi mát, vượn kêu trong chiều,

Trời biển mênh mang, nhạn bay trở lại.

Phong độ Khúc giang nêu cao thiên cổ,

Lần dò đọc bài minh trên bia đá rêu phong.

Cụ Phan bình thản vượt đèo, có phần hãnh diện vì đến cửa ải nổi tiếng dưới cờ sứ giả. Ông chỉ hiếu kỳ tìm dấu vết vị tể tướng nhà thơ chứ không nghĩ ngợi nhiều. Tống Chi Vấn buộc phải qua đèo, cảm thấy vào cảnh khổ nên tâm tư chuyên chú ngày về. Nguyễn Trãi nửa mừng vì gần đến Kim Lăng, nửa hoài nhớ quê cũ nhưng chẳng tơ tưởng chuyện quay lui, có lẽ vì cuộc khởi nghĩa Hậu Trần đang nóng bỏng vào lúc đó. Phan Huy Ích thuộc về Đại Việt, ông miêu tả cảnh sắc bằng con mắt du lãm. Tống Chi Vấn thuộc Trung Nguyên, ông òa khóc khi thấy loài hoa mọc rẽ về phương Bắc : “Lệ tận bắc chi hoa 淚盡北枝花”.[19] Nguyễn Trãi không thuộc đâu cả, ông nhớ An Nam nhưng mong tới Trường An. Lờ mờ nhận ra kiếp người uổng phí nhưng phải trôi theo thời cuộc, như một cánh bèo.

Động lực nào giúp Nguyễn kiên trì đi tới? Hai lần nhắc Trương Cửu Linh, Ức Trai tiết lộ giấc mơ Đại Minh của nhà du thuyết. Về già, cụ Nguyễn nhắc lại khát vọng xưa : “Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng, Đương niên thác tỷ bắc minh bằng 九萬摶風記昔曾當年錯比北溟鵬,” Nhớ xưa từng cưỡi gió bay cao chín vạn dặm, Bấy giờ nhầm so mình với chim bằng biển bắc.

Bên kia đèo Mai không xa lắm là thành phố Giang Tây danh tiếng.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
江西


自古鴻都稱勝地

今朝客裡暫相過

煙收南浦晴光好

日落西山暮景佳

告訐成風憐俗薄

詞章有學中科多

旌揚鐵柱今猶在

碑刻千年蘚已花

Giang Tây


Tự cổ hồng đô(78) xưng thắng địa

Kim triêu khách lý tạm tương qua

Yên thu nam phố(79) tình quang hảo

Nhật lạc tây sơn(80) mộ cảnh gia

Cáo kiết thành phong liên tục bạc

Từ chương hữu học trúng khoa đa

Tinh dương(81) thiết trụ(82) kim do tại

Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa

Giang Tây

Từ xưa, Hồng đô nổi tiếng là xứ của danh thắng,

Sáng nay, trên đường đi tạm ghé qua.

Khói ngừng trên Nam Phố, phong quang trong trẻo,

Mặt trời xuống Tây Sơn, đẹp cảnh hoàng hôn.

Kiện cáo thành thói quen, thương phong tục bạc!

Nghiệp từ chương theo đuổi, nhiều người khoa cử thành danh.

Nay hãy còn trụ sắt Tinh Dương,

Bia khắc nghìn năm rêu lốm đốm.

Danh thắng bậc nhất của Hồng đô đối với văn nhân như Nguyễn Trãi là gác Đằng vương. Tiếng tăm tòa lầu truyền xa nhờ kiệt tác “Đằng vương các tự 滕王閣序” của Vương Bột (650 – 676), trong đó có hai câu “Họa đống triêu phi nam phố vân, Châu liêm mộ quyển tây sơn vũ 畫棟朝飛南浦雲珠簾暮捲西山雨,”[20] Sáng sớm, mây từ bến nam bay vờn mái lầu chạm trổ; Chiều tối, cuốn rèm châu ngắm mưa núi tây. Lầu xưa chỉ còn phế tích vào thời điểm tác giả ghé Nam Xương. “Giang Tây” vắng bóng cả Vương Bột lẫn tòa lầu, riêng “tây sơn – nam phố” vẫn như cũ. Nguyễn miêu tả sức thời gian công phá theo cách rất đặc thù.

Tương tự Nguyễn Trãi, dân Trung Hoa hiện đại vẫn chê người Giang Tây hay cãi cọ. Thói quen kỳ khôi có thể là hậu quả dai dẳng của mâu thuẫn giữa những nhóm dân di cư về phương nam qua từng giai đoạn khác nhau. Ham cãi vã nhưng lại dựa vào luật pháp bởi dân chúng Giang Tây thấm đẫm truyền thống văn hóa đáng nể. Đây là quê quán, nơi quy ẩn hay làm việc của nhiều danh sĩ như Đào Tiềm (365-427), Lý Bột (? – 831), Âu Dương Tu (1007 – 1072), Vương An Thạch (1021 – 1086), Chu Hy (1130 – 1200), Văn Thiên Tường (1236 – 1283)… Lý Bột là người khai sinh Bạch Lộc động, một trường học địa phương thuộc khu vực Lư Sơn, huyện Cửu Giang. Đời Nam Đường (937 – 975), tại địa điểm này, triều đình thành lập Bạch Lộc quốc tường, tức Lư Sơn quốc học. Sang thời Bắc Tống (960 – 1127), Thái tông (976 – 997) nâng cấp Bạch Lộc quốc tường thành Bạch Lộc động thư viện, một trong 6 trung tâm giáo dục lớn nhất Trung Hoa thời bấy giờ. Tuy nhiên, khi Bắc Tống suy yếu, thư viện bị bỏ bê. Đời Nam Tống, nhân dịp nhậm chức tại Nam Xương giai đoạn 1179 – 1181, Chu Hy cho tu sửa Bạch Lộc động thư viện. Thư viện không chỉ tàng trữ thư tịch mà còn là nơi tế lễ, nghiên cứu giáo dục, và là điểm giảng thuyết của nhiều tên tuổi lớn như Lục Cửu Uyên (1139 – 1192), Lữ Tổ Khiêm (1137 – 1181)…. Nhờ nền móng đặt bởi thầy Chu, Tống nho hùng cứ Giang Tây suốt tám thế kỷ. Nhiều thư sinh thành công khoa cử là hoa trái sản sinh từ vùng đất của danh sư, danh tường.

Ngoài Nho học, Đạo giáo cũng rất xương thịnh tại Hồng châu. Hứa Tinh Dương là tổ sư chi phái Đạo giáo khởi thủy mang tên Hiếu Đạo. Tương truyền, ông thành tiên rồi bay lên trời cùng toàn bộ gia đình, nhiều đệ tử và cả gia súc trong nhà. Một người cháu dựng ngôi đền tên Du Duy dưới chân Tây sơn, trên nền nhà cũ, để tưởng niệm ông. Hiếu Đạo được nhiều đời vua Đường-Tống bảo trợ. Năm 1010, Tống Chân tông đổi tên “Du Duy quán” thành “Ngọc Long cung”. Năm 1116, Tống Huy tông, ban thêm mỹ tự Vạn Thọ nên ngôi đền trở thành “Ngọc Long Vạn Thọ cung”. Về sau, giáo lý Hiếu đạo được bổ sung thêm khái niệm “trung” để hình thành Tịnh Minh Trung Hiếu đạo.[21] Thời điểm Nguyễn Trãi du hành Giang Tây, Ninh vương Chu Quyền (1378 – 1448), em trai Minh Thành tổ Chu Đệ, người góp công sức đáng kể giúp Yên vương tranh đoạt ngôi vua của Kiến Văn đế, đã nhận Nam Xương làm thực ấp. Ninh vương mến mộ Đạo giáo từ trẻ, về cuối đời, ông trở thành tín đồ của Tịnh Minh đạo và dành nhiều thời gian tu luyện tại Thiên Bảo động thuộc khu vực Tây sơn. [22]
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Chúng ta đã cùng Nguyễn Trãi ghé thuyền vào 5 dịch trạm trên đất Trung Hoa. Thông thường vào thời điểm bắt đầu mỗi chuyến phiêu lưu, tâm trạng con người rất phấn khích. Như vậy, khi vượt mười ba trạm dịch từ Đông quan đến Hoành châu trước đó ít lâu, Nguyễn Trãi có phóng bút tác phẩm nào không? Xét kỹ tập hợp thơ chữ Hán Ức Trai, chúng tôi thấy có. Các bài “Quan hải 關海”, “Bạch Đằng hải khẩu 白藤海口”, “Vân Đồn 雲屯” đều được viết ra nhân chuyến hành trình này. Chúng rất quan trọng vì lúc rời An Nam, Nguyễn tổng kết những gì vừa trải nghiệm để dứt áo hướng về chọn lựa mới.

關海


樁木重重海浪前

沉江鐵鎖亦徒然

覆舟始信民猶水

恃險難憑命在天

禍福有媒非一日

英雄遺恨幾千年

乾坤今古無窮意

卻在滄浪遠樹煙

Quan hải


Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền

Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên

Phúc chu thủy tín dân do thủy(83)

Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên

Họa phúc hữu môi phi nhất nhật

Anh hùng di hận kỷ thiên niên

Càn khôn kim cổ vô cùng ý

Khước tại thương lang viễn thụ yên

Đóng cửa biển

Trước sóng biển, đóng cọc gỗ hết lớp này đến lớp khác,

Lại đặt ngầm xích sắt dưới sông, đều uổng công thôi!

Bị lật thuyền mới biết dân như nước,

Đã cậy thế hiểm thì khó tựa mệnh trời.

Họa phúc có duyên đâu phải chợt đến trong ngày,

Anh hùng đành lưu hận mấy nghìn năm.

Ý vô cùng của thiên địa xưa nay,

Hiện ra nơi sương khói trên hàng cây xa bên dòng nước.

Theo lộ trình đề xuất bởi Hoàng Phúc, có thể suy đoán Nguyễn Trãi đã ra biển theo tuyến sông Hồng – sông Đuống – sông Kinh Thầy – sông Giá (hoặc Đá Bạc) – sông Bạch Đằng.(84) Chuyến đi được thực hiện chưa lâu sau trận chiến năm 1407 lúc dấu tích công trình phòng thủ còn rõ nét. Bốn câu đầu, Nguyễn khẳng định “địa lợi” chỉ là một yếu tố để tiến hành chiến tranh, nhà Hồ thiếu quan tâm “nhân hòa” và “thiên thời” nên thất bại. Trước kia, qua Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu từng khẳng định tương tự khi cho rằng quân Trần đại thắng không chỉ do “quan hà chi hiểm 關河之險” tức địa thế hiểm trở, mà còn do “ý đức chi mạc kinh 懿德之莫京” tức đức độ lớn lao của lãnh đạo. Trong kết luận, ngoài “quan hà” Trương nhắc “ý đức” thay vì nhắc “trời” hay “người”; có lẽ theo ông, đức lớn khiến hai vua Trần thuận lòng trời, được lòng người. Ý tứ và ngôn từ bài Quan hải cho thấy Nguyễn Trãi liên tưởng bài phú Thăng Phủ, nhưng ông nhấn mạnh trục thiên-địa-nhân hơn. Vì sao? Vì Nguyễn muốn biện minh hành động của mình. Ông phải tìm lối đi khác bởi nhà Hồ thờ ơ với dân mà đánh mất “thiên mệnh”. Ai cấm nhà nho từ bỏ một triều đại như thế?

Trình diện người Minh, Nguyễn Trãi hội nhập trở lại với cộng đồng ưu tú tại Đông Quan. Có lẽ nhờ tận mắt chứng kiến cảnh gần như toàn bộ nho sĩ An Nam hợp tác với chính quyền mới, Nguyễn đã nhận thức lại hoạt động của họ Hồ. Cải cách cấp tốc thiếu cơ sở ủng hộ từ các tầng lớp xã hội, đặc biệt từ địa chủ hào trưởng và trí thức, khiến Đại Ngu đổ vỡ nhanh chóng dưới áp lực bên ngoài lẫn bên trong. Sau chiến bại, dân trại chỉ nhớ nhà Trần, dân kinh lộ ngả theo Hoàng Phúc. Lòng trung từng giữ với họ Hồ dần biến thành hoài niệm. Chính Phi Khanh đã quay lưng với chủ trong giờ phút nguy cấp nhất, hành động của phụ thân ít nhiều tác động đến tinh thần người con hiếu thảo. Dùng danh hiệu “anh hùng” tôn vinh Hồ Quý Ly, trong thực chất Nguyễn xác định chúa cũ chưa xứng bậc vương giả. Nhà nho giữ lòng trung với một hoàng đế thụ mệnh trời, ai lại trung với vị anh hùng trơ vơ trên đầu dân chúng? Phê phán họ Hồ tích họa, Nguyễn hành động như nhân vật chịu báng trong “Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra!”. Nhưng thay đổi nhận thức có gì sai? Trời đất ngụ ý vô cùng trong làn khói. Không-có-hợp-tan, biến chuyển thiên hình vạn trạng chỉ là vận động bình thường của vũ trụ, gồm cả tâm lý con người.

白藤海口


朔風吹海氣凌凌

輕起吟帆過白藤

鱷斷鯨刳山曲曲

戈沉戟折岸層層

關河百二由天設

豪傑功名此地曾

往事回頭嗟已矣

臨流撫景意難勝

Bạch Đằng hải khẩu


Sóc phong xung hải khí lăng lăng(85)

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng

Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng

Quan hà bách nhị(86) do thiên thiết

Hào kiệt công danh thử địa tằng

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ

Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng.

Cửa biển Bạch Đằng

Gió bấc dậy biển, khí thế lồng lộng,

Nhẹ dương buồm thơ lướt qua Bạch Đằng.

Núi khúc khuỷu như sấu bị chặt, kình bị mổ,

Bờ lau trùng điệp tựa kích gãy, giáo chìm.

Trời đặt chỗ hiểm, hai người chống được trăm người,

(Nên) Đất này từng là chỗ hào kiệt lập công danh.

Quay đầu lại, than ôi, việc cũ qua rồi!

Đến dòng nước viếng cảnh, ý khôn tả xiết……

Bài này có thể ví như “Bạch Đằng giang phú” thu nhỏ. Để rõ hơn nguồn hứng của Nguyễn, xin ghi lại nguyên văn các đoạn tương quan dưới đây. Trương Hán Siêu tả cảnh hai bên bờ : “Chử địch ngạn lô sắt sắt sưu sưu, chiết kích trầm giang khô cốt doanh khâu 渚获岸蘆瑟瑟颼颼折戟沉江枯骨盈邱,”[24] bãi lách bờ lau rì rào xào xạc, giáo gãy chìm xuống sông, xương khô đầy gò. Nguyễn hình dung đồi núi như đống xác giặc hay xác thuyền, bờ lau lách tiêu điều như đống thương chìm giáo gãy chồng chất. So sánh như thế hoàn toàn giống ý Hán Siêu. Về nguyên nhân chiến thắng của Hưng Đạo vương, Trương cho rằng : “Tín thiên tiệm(87) chi thiết hiểm, Lại nhân kiệt dĩ điện an 信天塹之設險 賴人傑以奠安,”[25] thật là: hào trời tạo hiểm, lại nhờ: người tài định an. Hai câu 5, 6 tương ứng của Nguyễn Trãi dẫn đến câu hỏi lớn: Trần thành công nhờ khai thác thế hiểm tự nhiên, tại sao Hồ thất bại?

Với Hán Siêu, dĩ vãng chiến thắng còn mãi : “Anh phong khả tưởng, khẩu bi bất san. Hoài cổ nhân hề vẫn thế, lâm giang lưu hề hậu nhan 英風可想口碑不刊懷古人兮隕涕臨江流兮厚顏,”[26] Anh hùng đáng tưởng, bia miệng chăng mòn. Nhớ người xưa mà lệ rơi, nhìn dòng sông mà ủ mặt. Với Ức Trai thì ngược lại, vãng sự thành-bại vĩnh viễn trôi qua. Muốn hiểu hai chữ “dĩ hĩ 已矣” trọng lượng đến mức nào hãy đọc Nguyễn Du : “Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy, Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti 覆盆已矣難收水斷藕傷哉未絕絲,”[27] Nước đổ rồi, vét làm sao? Ngó sen dù đứt tơ nào còn vương! Nhóm Hậu Trần ở Thanh Nghệ làm được gì? Họ chưa giết hết người Minh đã quay sang giết người Việt. Nhóm tinh hoa đồng bằng làm được gì? Họ lũ lượt kéo sang Kim Lăng khiến cả nước hầu như trống rỗng. Bản thân Nguyễn làm được gì? Lặng lẽ lên thuyền đến Trung Hoa như nhiều trí thức khác! Người Nam còn cơ may nào khẳng định vận mệnh riêng của mình? Nguyễn không diễn tả bằng lời, nhưng hành động phát đi tín hiệu rằng: theo ông, lịch sử đã sang trang.

雲屯


路入雲屯山復山

天恢地設付奇觀

一盤藍碧澄明鏡

萬斛鴉青鬌翠鬟

宇宙頓清塵海岳

風波不動鐵心肝

望中岸草萋萋綠

道是藩人駐舶灣

Vân đồn


Lộ nhập vân đồn san phục san
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan
Nhất bàn lam bích trừng minh kính
Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc
Phong ba bất động thiết tâm can
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục
Đạo thị phiên nhân trú bạc loan

Vân Đồn

Đường vào Vân Đồn núi lại tiếp núi,

Đất trời mênh mông ban tặng cảnh quan diệu kỳ.

(Mặt biển) tựa cái mâm màu biếc trong vắt như gương,

(Hòn đảo) xanh đen to vạn hộc trông giống búi tóc màu thúy.

Vũ trụ hốt nhiên quét sạch biển núi bụi bặm,

Sóng gió không lay động tâm can kiên cường.

Nhìn vào bờ thấy cỏ xanh tươi tốt,

Nghe nói đó là vụng đỗ thuyền của người Phiên.

Văn khí “Quan hải”, “Bạch Đằng hải khẩu” và “Vân Đồn” là như nhau. Ngôn từ rắn rỏi, nhẹ nhõm, ngẫm nghĩ quá khứ nhưng hướng đến ngày mai cho thấy tác giả đương tuổi cường tráng. Dựa vào thông tin nghèo nàn lưu lại, có thể suy đoán Nguyễn theo dòng Bạch Đằng ra biển vào các dịp : lẩn tránh Hậu Trần ở Đông Triều (1407 – 1410), sang Kim Lăng trình diện (khoảng 1410 – 1411), vua Thái tông phục chức (1439 – 1442). Tâm thức bình an, tận hưởng thú vị du hành cho phép loại trừ thời điểm sáng tác trong ray rứt sợ sệt quãng 1407 – 1410. Ngoài khí văn cứng cỏi, các yếu tố như cọc gỗ cản đường thủy quân Minh còn trùng điệp ngay cửa biển, ký ức xốn xang về nhà Hồ hãy tươi rói, kiến thức non nớt về vị trí đậu thuyền nước ngoài ở Vân Đồn… cho phép bỏ qua thời điểm sáng tác trong quãng 1439 – 1442. Tự nhủ sóng gió không lay động được tim gan bằng sắt thể hiện chí cương quyết tìm cơ hội từ triều đình nhà Minh của Nguyễn. Lựa chọn như thế vì lộ trình trước mặt nhà thơ không có ngã ba.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
5. Về An Nam, làm lại viên cho người Minh: 1417 – 1422

Nguyễn Trãi là nho sĩ, ông được giáo dục để phục vụ một minh chủ nhất định. Nhà nho không có ý niệm tự mình lãnh vai đầu đàn mà hoàn toàn dựa vào vị vua hay lãnh chúa do họ chọn để làm việc và cống hiến. Xét thời điểm xuất hiện những văn bản do Nguyễn Trãi viết khi quay lại An Nam, ta thấy sớm nhất là những bài thơ nhắc đi nhắc lại mười năm loạn lạc xa nhà tức được viết vào năm 1417. Các tác phẩm tiếp theo thể hiện một Nguyễn Trãi đi lại tự do đồng thời có nhiều quan hệ với giới quyền thế, gồm cả quan Minh lẫn thổ quan. Mãi đến năm 1423 mới xuất hiện văn bản đầu tiên ông viết nhân danh Lê Lợi là “Thư tố oan” gửi Trần Trí xin hòa hoãn chiến tranh.

Quãng 1417 – 1423 gần trùng với giai đoạn Lý Bân nắm quyền Tổng binh, Trần Hiệp trông coi hai Ty Bố Chính và Án Sát. Dường như Nguyễn Trãi đã theo Lý Bân về nước (1417); khi Lý Bân bệnh mất năm 1422, ông mới bỏ người Minh tìm đến Lê Lợi. Trãi có thể cùng làm việc với Lý Bân – Trần Hiệp, nhưng không hợp cặp Trương Phụ – Hoàng Phúc. Lý Bân nhiều khả năng là minh chủ một thời của ông.

Bân nhận lệnh Minh Thành tổ sang thay Trương Phụ do vua nghe lời tâu của nội quan Mã Kỳ, cho rằng Phụ có ý định gây vây cánh tại địa phương. Họ Lý mang theo chương trình cải tổ việc cai trị. Ông thực hiện yêu cầu từ bộ Lại, đưa quan chức địa phương sang Nam Kinh triều cận. Lại thẩm tra dân số, đất đai, lương thực làm thành sổ “tu tri” báo về trung ương. Bên cạnh Tổng binh mới, nhà vua còn tăng cường quản lý phương xa bằng biện pháp bố trí chức Ngự Sử để bổ sung tai mắt. Nhân sự bộ máy cai trị vì thế phình ra. Ngày 24/2/1418, thêm chức “thừa sai” tại ba ty tổng cộng 100 người. Nguyễn Trãi có thể là một trong số thư lại nói trên.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Bài thơ “Thanh Minh” dưới đây thể hiện tâm trạng bồn chồn khi Nguyễn sắp về đến Giao Chỉ. Thời gian “mười năm” giúp chúng ta xác định tác phẩm ra đời cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 ta năm Vĩnh Lạc XV (1417).

清明


一從淪洛他鄉去
屈扺清明幾度過
千里墳塋違拜掃
十年親舊盡消磨
乍晴天氣模稜雨
過半春光廝句花
聊把一杯還自彊
莫教日日苦思家

Thanh Minh


Nhất tòng luân lạc tha hương khứ
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua
Thiên lý phần oanh vi bái tảo
Thập niên thân cựu tận tiêu ma
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ
Quá bán xuân quang tê cú hoa
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cuỡng
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia

Thanh Minh

Từ lúc phải luân lạc quê người,
Bấm đốt biết thanh minh đã trôi qua mấy bận.
Cách nghìn dặm, không được cúng dọn mộ phần.
Trải mười năm, quyến thuộc hao mòn hết.
Trời chợt sáng sau cơn mưa bóng mây,
Quá nửa chừng xuân rộ trà mi nở.
Lại tạm gắng gượng nâng cốc rượu,
Không để ngày ngày dằn vặt nỗi nhớ nhà.

Chắc chắn Nguyễn Trãi không quay lại An Nam nếu cuộc nổi dậy Hậu Trần chưa bị tận diệt. Ngày 16/8/1414, Minh Thực lục ghi nhận Trần Quý Khoáng và Nguyễn Súy chịu tội chết ở kinh đô (Minh Thực lục II, 12). Thông tin như vậy dĩ nhiên lan truyền nhanh trong cộng đồng An Nam tại Trung Nguyên. Có thể dự định trở về nhen nhóm nơi Ức Trai chỉ trở thành quyết định sau khi ông tiếp xúc với các phái đoàn thổ quan sang Nam Kinh triều cống. Một đoàn quan lại bản xứ do Nguyễn Huân cầm đầu đã sang Minh năm 1416, thời điểm lý tưởng cho Nguyễn tìm hiểu tin tức trước quyết tâm sau cùng. Huân là người địa phương mang chức vụ cao nhất trong Bố chính ty, nắm rõ nội tình thuộc địa.

Xét hoạt động của Lý Bân, ta thấy Bân nhận mệnh trấn Giao Chỉ vào ngày 26/2/1417 (Minh Thực lục II, 41). Báo cáo đầu tiên của Tổng binh từ nhiệm sở mới được ghi nhận vào ngày 25/6/1417 (Minh Thực lục II, 43). Như vậy, Bân rời Trung Hoa đầu xuân, đến An Nam vừa quá đầu mùa hạ, thuận mùa gió đông bắc trên vịnh Bắc bộ. So với các tác phẩm lập đi lập lại chi tiết “mười năm” của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy khoảng tháng 4 năm 1417, ông gần đến An Nam nên bần thần nôn nóng (bài Thanh Minh). Khi ngụ tại nhà khách Đông Quan tiếp quan chức địa phương đến thăm, Nguyễn ca ngợi ngày xuân như dài mãi, tức đầu hè (bài Họa Tân Trai vận). Nhiều chỉ dấu cho thấy Nguyễn đã theo chân họ Lý trở về.

Nhớ quê, ý nghĩ đầu tiên đập vào tâm trí Ức Trai là mồ mả tổ tiên hoang phế, thân quyến tiêu tan. Luân lạc tới mức bỏ lễ tục quan trọng trong nhiều năm chỉ có thể là luân lạc tại Trung Hoa. Nguyên nhân bất khả kháng là phải tránh cùng chung số phận bi thảm với nhiều thành viên gia tộc. Năm lần bảy lượt Nguyễn phát biểu như thế, nên cần chấp nhận sự thật như thế. Toàn Thư chép rõ trường hợp đại gia đình Trần Thúc Dao bị thảm sát dưới tay Giản Định. Do hoàn cảnh bức bách, Nguyễn đã trở thành tôi con Đại Minh. Ông suy nghĩ hồn nhiên tựa người Minh. Chấm dứt tha phương giống như vượt thoát cơn mưa ảm đạm. Dẫu nền cai trị dị tính đè nặng An Nam, Nguyễn vẫn thấy trời lại sáng, hoa lại nở.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Rất nhiều người Giao Chỉ giữ chức vụ quan trọng trong hệ thống tam ty. Dưới đây là bài thơ đối đáp với nhân vật đứng đầu một địa phương, nhiều khả năng là địa phương có khách xá của Ty Bố chính Giao Chỉ, đến thăm Ông tại nơi tạm trú. Người này biết rõ thân thế Nguyễn Trãi.

和新齋韻


風流郡守文章伯
喬木能忴我故家
信美江山詩易就
無情歲月眼將花
干戈十載親朋少
宇宙千年變故多
客舍香塵春晝永
騰騰清夢繞煙波

Họa Tân Trai vận


Phong lưu quận thú(89) văn chương bá
Kiều mộc(90) năng linh ngã cố gia
Tín mỹ giang sơn thi dị tựu
Vô tình tuế nguyệt nhãn tương hoa
Can qua thập tải thân bằng thiểu
Vũ trụ thiên niên biến cố đa
Khách xá hương trần(91) xuân trú vĩnh
Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba

Họa vần Tân Trai

Quận thú phong nhã là bậc cự phách trong giới văn học,
(Như) cây cao bóng cả nên thương đến tôi là con nhà xưa.
Thơ dễ thành trước núi sông thật đẹp,
Mắt sắp lòa qua năm tháng vô tình.
Mười năm binh lửa, thân bằng còn chẳng mấy,
Ngàn năm vũ trụ, biến cố xảy ra nhiều.
Nhà khách nồng bụi thơm, ngày xuân như dài mãi,
Vờn quanh khói sóng mộng an bình lâng lâng.

Đã 10 năm từ khi binh lửa dấy lên đến lúc Nguyễn Trãi về tạm nghỉ nơi nhà khách, tức cuộc gặp vị thổ quan xảy ra năm 1417. Khi đó, Đỗ Hy Vọng giữ chức Tri phủ Giao châu, Trãi gặp Vọng chăng?

Quê nhà luôn đẹp, chỉ người lão suy. Nguyễn lại nhắc hai thảm kịch đeo đẳng. Cuộc tàn sát chi tộc Trần Nguyên Đán là có thật, Nguyễn trốn tránh mười năm cũng có thật. Người chung huyết thống tàn hại nhau, người làm quan thuộc địa để tâm an ủi. Tình cảm ấm áp kéo mùa xuân yên lành dài mãi… Phải thực vậy không?

Tách hết ngôn từ giao tiếp trang trọng, đọng lại còn đôi mắt sắp lòa. Ở đây, “mắt lòa” mang nghĩa gì khi Nguyễn không than vãn sức nhìn kém lần nào nữa, cho đến một bài thơ sáng tác lúc gần cuối đời? Cuộc đàm đạo thơ ca nơi khách xá ngập hương thơm mang nội dung cốt lõi thế nào? Vị Quận thú ngưỡng mộ thanh danh Đại tư đồ nhà Trần chăng? Ngài thương Nguyễn vốn con nhà thư hương xưa chăng? Chưa chắc! Dựa vào trình bày của tác giả ta thấy viên lãnh đạo địa phương muốn thăm dò vì sao ông ra đi, và quan trọng hơn là mục đích chuyến trở về. Như chim từng bị tên, Nguyễn thông báo ngay mình sắp trở thành vô dụng. Gã trung niên mắt mũi kèm nhèm mơ cuộc sống thanh nhàn hẳn dễ được dung chấp hơn tay quý tộc dày dạn ôm tham vọng khó đoán.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
歸昆山舟中作


十年飄轉嘆蓬萍
歸思搖搖日似旌
幾托夢魂尋故里
空將血淚洗先塋
兵餘斤斧嗟難禁
客裡江山只此情
鬱鬱寸懷無奈處
船窗推枕到天明

Quy Côn Sơn chu trung tác


Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Qui tứ dao dao nhật tự tinh(92)
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lí
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lí giang sơn(93) chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh

Thơ làm trong thuyền về Côn Sơn

Mười năm trôi dạt chẳng khác cánh bèo!
Lòng muốn về như cờ tinh ngày ngày xao động.
Đã bao lần nhờ hồn mộng tìm về làng cũ,
Chỉ để rỏ lệ máu rửa mồ mả tổ tiên.
Sau binh lửa, sao ngăn được rìu búa!
Nơi đất khách, vẹn giữ tình này với non sông.
Tấc lòng uất ức không chịu nổi,Trằn trọc bên cửa sổ thuyền đến khi trời sáng.

Quê hương trong tâm Nguyễn chính là nhà ngoại tổ, nơi ông trải tuổi thiếu thời. Tầm quan trọng của dòng mẹ đối với dân An Nam thế kỷ XV rất đáng để ý. Trưởng nam Hồ Nguyên Trừng phải nhường ngôi vua cho em trai Hồ Hán Thương vì mẹ Thương họ Trần.

Nằm thuyền về Côn Sơn, Nguyễn buông thả tâm tình bục vỡ. Mười năm bập bềnh theo ý người khác, Nguyễn tạm tồn tại trong lòng Trung Hoa nhưng Trương Nghi – Phạm Thư là ước vọng chưa thành. Không rửa được hận riêng bằng địa vị cao hơn, Nguyễn đành thanh tẩy mộ phần tổ tiên bằng nước mắt. Dường như căm giận từ Giản Định giáng lên chi tộc Nguyên Đán tàn nhẫn hơn ta tưởng. Ngoài giết người, phía nổi dậy xúc phạm cả nơi an nghỉ của phe từ chối ủng hộ họ. Câu 5 giải thích nguyên nhân buộc Nguyễn phải ly hương, ý tưởng vướng vất lời Trang Tử.(94) Rìu búa chẳng chấp nếu cội cây vô tích sự. Phân trần mang điều gì đó như nuối tiếc. Giữa mớ hỗn độn di chứng kháng Minh thất bại, Nguyễn gặp tai họa bởi thuộc thành phần thế gia, thành phần mười năm sau chính ông gọi là “cố gia”. Đó là các gia tộc lớn mà quyết định chọn phe của họ góp phần định kết quả ván cờ chính trị. Nguyễn thuộc bên thua cuộc, bỏ đi chủ yếu nhằm giữ gìn mạng sống. Từ nơi xa khuất, nguyện vọng ấp ủ duy nhất là trở về. Ông thổ lộ uất ức chỉ một lần này trong toàn bộ tác phẩm của mình
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
亂後到崑山感作


一別家山恰十年
歸來松匊半翛然
林泉有約那堪負
塵土低頭只自憐
鄕里纔過如夢到
干戈未息幸身全
何時結屋雲峰下
汲澗烹茶枕石眠

Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác


Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lý tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên

Cảm tác khi vềđến Côn Sơn sau buổi loạn ly

Từ lúc lìa quê đến nay gần trọn mười năm
Trở về, thông cúc nửa phần hoang rậm.
Có hẹn với suối rừng sao đành phụ ước!
Cúi đầu giữa bụi đất chỉ biết thương mình.
Vừa ngang qua xóm làng thấy như đi trong mộng,
Chiến tranh chưa dứt mừng thân vẫn vẹn toàn.
Biết chừng nào mới được dựng nhà dưới núi cao?
Lấy nước suối pha trà, lấy đá làm gối ngủ.

Chúng ta quay lại với “Đề Đông sơn tự 題東山寺”, tác phẩm trình bày co kéo trong lòng Nguyễn Trãi năm ngoài ba mươi tuổi, thời điểm ngay trước khi trình diện người Minh:








Đề Đông Sơn tự
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.



Dịch nghĩa
Một niềm (trung hiếu) nhớ mãi đối với vua và cha
Thẹn với núi rừng vì đã sai lời nguyền xưa
Ba chục năm thừa mộng ở cõi trần
Vài tiếng chim kêu thức tỉnh lại như trước.


Nguyễn Trãi sinh năm 1380, cộng “tam thập dư niên” thì thời điểm xuất hiện bài thơ nằm quãng cuối 1409 đầu 1410. Năm đó, “quân 君” của Nguyễn chẳng ai khác hơn là Hồ Hán Thương. Thương cùng phụ hoàng đã bị an trí tại phương Bắc. “Thân 親” Phi Khanh đầu hàng sớm, có lẽ cũng đang trên đất Trung Hoa vì theo báo cáo đứng tên Trương Phụ, nhóm nhân sự khả dụng gồm 9.000 người lần lượt sang Kim Lăng từ tháng 11 năm 1407. Tuy Giản Định đế bị bắt vào nửa sau năm 1409 nhưng Nguyễn Sư Cối vẫn dọc ngang Đông Triều, Trần Quý Khoáng vẫn khổ chiến ở Thanh Nghệ. Vua và cha đều trong tay người Minh, hoàn cảnh xã hội Giao Chỉ rối rắm tiềm ẩn nguy cơ bất chợt, chẳng ai màng thành lập lực lượng “phản Minh phục Hồ” vì Thái thượng hoàng chấp nhận đời lính thú ở Quảng Tây, hoàng huynh Hồ Nguyên Trừng âm thầm cộng tác… nhiều lý do đưa Nguyễn đến quyết định ra đầu thú. Qua “Đề Đông Sơn tự”, Nguyễn xác định phải bỏ suối-rừng vì lòng trung-hiếu. Đây là lời từ tạ quê hương trước khi hàng giặc. Theo Ức Trai, ông hành động như vậy để tròn nghĩa vụ với vua và cha.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Vừa trở lại Côn Sơn, Nguyễn nhắc ngay đến nguyện ước cũ. Lầm lũi xuyên tháng ngày bụi bặm, ông tiếc cuộc sống bị bỏ lỡ. Tái sử dụng đúng hai khái niệm rừng và suối trong bài thơ xưa, Nguyễn thể hiện ám ảnh thường trực bởi lối sống chưa có cơ may theo đuổi. Cuộc sống nhàn tản, như cội cây vô hại ngoài tầm búa rìu, khoác ý nghĩa nào trong tâm trí tác giả? Đi suốt sự nghiệp Ức Trai, chúng ta chứng kiến sở thích tiêu dao nổi lên chỉ khi ông gặp vấn đề thế cuộc nan giải. Sống ẩn dật rất khác kiểu xuất gia nhà Phật, nhiều khi nó chỉ là quãng dừng giữa các chuyến hành trình. Tuy nhiên, tha thiết thoái lui trên mức bình thường cũng cho thấy phần nào tính chất miễn cưỡng trong hợp tác với người Minh. Chủ động thích nghi hoàn cảnh, chòi đạp vượt thoát sự tầm thường là nhận thức. Miễn cưỡng lại ngự trị tiềm thức. Quãng đời tha hương còn ban cho Nguyễn sự lão luyện giữa cuộc nhân sinh. Với kinh nghiệm hơn năm năm làm việc ở Trung Nguyên, dựa vào căn bản học vấn và lý lịch gia đình, Nguyễn dư biết người Minh chẳng vội buông “con nhà cũ” khỏi tầm quan sát.

夏日漫成
傳家舊業只青氈
離亂如今命苟全
浮世百年真似夢
人生萬事總關天
一壺白酒消塵慮
半榻清風足午眠
唯有故山心未斷
何時結屋向梅邊 Hạ nhật mạn thành


Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên(95)
Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền
Phù thế bách niên chân tự mộng
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên
Nhất bầu bạch tửu tiêu trần lự
Bán tháp thanh phong túc ngọ miên
Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn
Hà thời kết ốc hướng mai biên

Tùy bút ngày hè
Nghiệp cũ gia truyền chỉ độc tấm chăn xanh,
Từ ly loạn đến nay, tạm được toàn mạng.
Trăm năm phù thế thực như giấc mộng,
Muôn việc đời người đều xếp đặt bởi trời.
Rượu trắng một bầu xua tan lo âu trần tục,
Gió mát nửa giường đủ qua giấc ngủ trưa.
Chỉ lấn cấn lòng nhớ hoài núi cũ,
Dựng nhà bên cội mai biết đến chừng nào?

Bài này tiếp lời “Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác”. Nguyễn tổng kết thành quả đạt được sau mười năm xáo trộn: ông còn sống nhưng chưa hoàn toàn tự do. Có vẻ tác phẩm được viết tại nhà khách phía nam thành, sau chuyến về Côn Sơn.

Tác giả rơi vào tình cảnh cha mình ngày xưa, cũng vật vờ khách xá chờ sắp xếp từ trên, cũng mượn rượu cùng giấc ngủ đẩy đưa ngày tháng. So với hoàn cảnh vật chất cùng cực mô tả qua “Thủ vĩ ngâm” hay “Ký hữu” bảy năm trước thì nay ông thoải mái hơn nhiều. Ông có đệm để ngồi, rượu để nhắm, khác hẳn những ngày no nước uống hoặc xơi cơm thiếu rau mục túc. Ước thúc từ chính quyền bề ngoài là “lễ” nhưng đủ chặt chẽ khiến Nguyễn cảm thấy mất quyền đối với bản thân. Một số phận khác bi đát hơn Nguyễn, từng sang Trung Hoa dưới tư cách tù nhân đã gọi ràng buộc đó là “lễ la 禮羅”, cái lưới lịch sự. Người tù Lê Cảnh Tuân (? – 1416) vừa đi vừa làm thơ cạnh khóe nhà cầm quyền.[32] Tuân mơ “phục Trần” lại rất lắm lời nên người Minh dè bĩu chê bai, nhưng ông chưa hề than vãn bản thân bị ngược đãi hay bạo hành. Đại Minh khá xứng đáng với tên gọi của nó, vua Minh tôn trọng phẩm giá trí thức dù họ suy nghĩ thế nào đi nữa.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Lý Bân vừa đến Giao Chỉ đã hút ngay vào việc chinh tiễu ở Lục Na (Bắc Giang nay), châu Thuận (Quảng Trị, Huế nay), châu Nam Linh (Quảng Bình nay). Như đề cập bên trên, việc bổ sung 100 thư lại vào bộ máy xảy ra vào tháng 2/1418 nên có vẻ Nguyễn rảnh rỗi trong lúc chờ đợi Tổng binh phê duyệt công tác tái tổ chức. Ông được nuôi ăn chứ chưa nhận lương bổng, không tiền mua rượu nhưng sẵn lòng vui.

Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác

Trùng dương(96) mấy phát(97) khách thiên nha(98),
Kịp phen này được đỗ(99) nhà.
Túi đã không tiền khôn chác(100) rượu,
Vườn tuy có cúc chửa đơm hoa.
Phong sương đã bén biên(101) thi khách,
Tang tử(102) còn thương tích cố gia(103).
Ngày khác hay đâu còn việc khác,
Tiết lành mựa nỡ(104) để cho qua.

Tạm hiểu như sau: Nhiều bận gặp tiết Trùng Dương trên đất khách, Hôm nay may mắn thưởng lễ ở nhà. Túi không tiền nên khó mua rượu, Vườn có cúc nhưng chưa đơm hoa. Gió sương đã bám tóc người thơ, Chạnh thương dấu vết danh gia nơi quê cũ. Mỗi ngày đều có công việc khác nhau, Nên hãy tận hưởng hiện tại, chớ bỏ qua tiết lành.

Cặp đề giúp ta ước định tác phẩm ra đời vào tháng 9 ta năm 1417. Cặp trạng nhắc Đào Tiềm, ẩn sĩ thích uống rượu ngâm hoa cúc. Nguyễn thiếu cả rượu lẫn cúc nghĩa là hoàn toàn thiếu điều kiện sống theo sở nguyện như cụ Đào. Ông ngao du trong ràng buộc vô hình. Bên cạnh ý nghĩa bóng bẩy, sự túng bấn giúp chúng ta biết tình trạng mới hồi hương của Nguyễn; do chờ phân bổ công việc nên chưa có thu nhập. Tết Trùng cửu rất đặc biệt đối với gia tộc Trần Nguyên Đán. Vào tiết này, cụ Tư Đồ thường mời thân hữu cùng các con rễ đến phủ thự để thưởng ngoạn rượu, thơ, hoa cúc và mùa thu. “Song viết” tao nhã định hình phong độ “cố gia”. Bên Trung Hoa, mọi người không rõ Nguyễn là ai; về Giao Chỉ, Nguyễn gần như sờ nắn được uy thế xã hội của mình. Ông nhắc hai chữ “cố gia” nhiều lần. Đó là cơ sở hỗ trợ Nguyễn thăng tiến nhanh trong xã hội Đại Việt, cũng chính là căn cội những thảm kịch phá hủy cuộc đời ông. Bóng ngoại tổ vẫn che phủ lên người cháu nay đầu chớm bạc.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Tầm vóc Nguyễn Trãi trong Giao Chỉ Bố chính sứ ty khó so được với nhóm hàng thần đợt đầu như Đồng Ngạn Dực, Mạc Viễn, Đỗ Hy Vọng…..nhưng cũng không quá thấp kém. Thi tập còn lưu vài bài thơ tác giả đối đáp với các nhân vật đứng đầu địa phương. Qua đó, chúng ta hiểu được phần nào thái độ của Ức Trai đối với chính quyền thuộc địa.

次韻陳尚書題阮布政草堂


一心報國尚桓桓
小構茆亭且自寬
薇省退歸花影轉
金門夢覺漏聲殘
琴詩雅趣真堪尚
松菊歡盟亦未寒
後樂想知終有意
好將事業百年看

Thứ vận Trần Thượng thư đề Nguyễn Bố chính thảo đường
Nhất tâm báo quốc thượng hoàn hoàn
Tiểu cấu mao đình thả tự khoan
Vi tỉnh(105) thối quy hoa ảnh chuyển
Kim môn(106) mộng giác lậu thanh tàn
Cầm thi nhã thú chân kham thượng
Tùng cúc hoan minh diệc vị hàn
Hậu lạc(107) tưởng tri chung hữu ý
Hảo tương sự nghiệp bách niên khan
Họa vần Trần Thượng thưđề nhà tranh của Nguyễn Bố chính

Lòng đền ơn nước còn hăng hái,
Dựng tạm gian nhà tranh để tự tìm khuây.
Từ tòa tử vi trở về, bóng hoa đã ngã,
Mộng kim môn tỉnh lại, sắp lặng tiếng đồng hồ.
Thú đàn thơ tao nhã quả thật đáng chuộng,
Hẹn thề vui vầy với thông cúc cũng chưa nguôi.
Đoán biết rằng rốt cuộc ông ấp ủ cái ý lo trước thiên hạ,
Sự nghiệp một đời rất đáng chiêm ngưỡng.

Trần Thượng thư: Binh bộ Thượng thư Trần Hiệp (1370 – 1426) chịu trách nhiệm trông coi hai ty Bố chính và Án sát từ khi Lý Bân sang thay Trương Phụ trấn thủ An Nam (1417). Ông còn kiêm tham mưu quân vụ cho Lý Tổng binh. Dường như Trần Thượng thư giao việc lại cho Hoàng Phúc khi Lý Bân bệnh chết năm 1422. Trần Hiệp tái nhận nhiệm vụ năm 1424 khi Hoàng Phúc được gọi về Bắc. Ông bị nghĩa quân Lam Sơn giết trong trận Tốt Động năm 1426.

Nguyễn Bố chính: Nguyễn Huân, nhận chức Hữu Bố chính sứ năm 1416, thăng Tả Bố chính sứ năm 1426. Mất tích khi theo Liễu Thăng tiến vào An Nam năm 1427. Trong trận đánh cuối cùng tại Xương Giang, Toàn Thư chỉ ghi lại việc bắt sống các chỉ huy Thôi Tụ và Hoàng Phúc, không đề cập Nguyễn Huân.

Ngày 4/7/1416 Huân còn ở Kim Lăng nhận chức Hữu Bố chính sứ. Ông là người đứng đầu đoàn đi cống đông đến 139 người. Rất có thể Nguyễn Trãi đã gặp Nguyễn Huân cùng nhóm quan lại địa phương từ bên Trung quốc. Huân vốn quê Nam Sách, Hải Dương nên nếu làm việc tại Ty Bố chính thì phải lưu trú khách xá như Nguyễn Trãi. Có vẻ với chức vụ quan trọng mới nhận, Huân đã làm nhà riêng, sinh hoạt tách biệt với thuộc cấp. Quan Bố chính có sức khỏe phi thường. Ban ngày, ông chỉ về nhà khi nắng ngả xiên; ban đêm, có thể nhân việc cần kíp, say sưa chờ mệnh không biết đồng hồ đã cạn.

Nếu các câu 3,4,5,6 văn vẻ kiểu xã giao, thì các câu 1,2,7,8 đưa đến vài thông tin đáng chú ý.

Đối tượng hành động “báo quốc 報國”, đền ơn nước là hoàng đế Đại Minh. Nguyễn Trãi khâm phục tinh thần phụng sự mẫu quốc của Huân. Nhận xét này khá giống lời Tuyên Đức về sau tóm tắt thành tích quan Tả Bố chính (1426): “Ngươi, Nguyễn Huân, một lòng ngay thực, suy lự thuần lương, đạt thời cơ biết đạo trời; lòng thành hăng hái qui hướng triều đình, dốc tâm cần lao đảm nhiệm chức vụ, vỗ về người thuận theo, diệt trừ kẻ nghịch, giúp ích rất nhiều, trải qua năm tháng tấm lòng trung không suy hao.”(108)

Để sinh hoạt riêng, viên quan to thuộc Ty Bố chính chỉ dựng gian nhà cỏ. Nếu không phải vì liêm khiết hay quy định ngặt nghèo của trung ương, có thể nói mức sống tại Đại Việt-An Nam từ cuối Trần đến Minh thuộc cực kỳ thấp. Khách xá hay nhà quan đều dựng bằng tranh lá. Dù sống thanh đạm, Huân vẫn ôm lòng “tiên ưu hậu lạc 先憂後樂”, đây cũng là tấm lòng Nguyễn Trãi khi phục vụ nhà Lê. Theo Ức Trai, lòng trung với vua Minh và tinh thần trách nhiệm với dân Việt của Huân đáng nêu gương lâu dài.

Ứng xử của Nguyễn với viên thổ quan đứng đầu bộ máy hành chính Giao Chỉ mang vẻ tôn kính nhưng e dè. Huân đậm phong thái quan lại hơn văn nhân. Khoảng cách giữa Nguyễn và giới cai trị thuộc địa thu hẹp nhanh chóng khi đối tượng là đệ tử Khổng Mạnh. Bài trường luật tặng Giám sát Ngự sử Hoàng Tông Tái dưới đây có lẽ nằm trong số những tuyệt phẩm của Ức Trai.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
題黃御史梅雪軒


豸冠巇巇面似鐵
不獨愛梅兼愛雪
愛梅愛雪愛緣何
愛絼雪白梅芳潔
天然梅雪自兩奇
更添臺柏真三絕
羅浮仙子冰為魂
頃刻能今瓊作屑
夜深琪樹碎玲瓏
月戶風窗寒凜烈
若非風遞暗香來
紛紛一色何由別
巡詹不怕玉樓寒
銀海搖光更清徹
九重軫念及遐氓
萬里錦衣遙駐節
霜風捲地簡橫秋
身在炎荒心魏闕
交南十月煖如春
夢中只有花堪折
將心托物古有之
高躅深期蹈前哲
東玻謂竹不可無
漮溪愛蓮亦有說
乾坤萬古一清致
灞橋詩思西湖月

Đề Hoàng Ngự sử mai tuyết hiên


Trãi quan(109) nga nga diện tự thiết
Bất độc ái mai kiêm ái tuyết
Ái mai ái tuyết ái duyên hà
Ái duyên tuyết bạch mai phương khiết
Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kỳ
Cánh thiêm đài bách(110) chân tam tuyệt
La phù tiên tử(111) băng vi hồn
Khoảnh khắc năng linh quỳnh tác tiết
Dạ thâm kỳ thụ toái linh lung
Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt
Nhược phi phong đệ ám hương(112) lai
Phân phân nhất sắc hà do biệt
Tuần thiềm bất phạ ngọc lâu(113) hàn
Ngân hải(114) dao quang cánh thanh triệt
Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh
Vạn lý cẩm y dao trú tiết
Sương phong quyển địa giản(115) hoành thu
Thân tại viêm bang tâm ngụy khuyết(116)Giao nam thập nguyệt noãn như xuân
Mộng trung chỉ hữu hoa kham chiết
Tương tâm thác vật cổ hữu chi
Cao trục thâm kỳ đạo tiên triết
Đông pha(117) vị trúc bất khả vô
Liêm khê(118) ái liên diệc hữu thuyết
Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí
Bá kiều thi tứ(119) tây hồ nguyệt(120)

Đề hiên mai tuyết của Ngự sử họ Hoàng

Đội mũ quan ngự sử cao, gương mặt nghiêm trang,
Không chỉ yêu hoa mai, còn yêu cả tuyết.
Yêu mai, yêu tuyết, yêu vì cớ gì?
Yêu vì tuyết trắng tuyền, mai thanh khiết.
Trời sinh mai và tuyết vốn là hai vật kỳ diệu.
Lại thêm “đài bách” thật đủ “tam tuyệt”.

La Phù tiên tử (hoa mai trắng) linh hồn như giá băng,
Trong khoảnh khắc có thể khiến ngọc quỳnh nát vụn.
Cây ngọc vỡ lấp lánh trong đêm sâu.
Trăng qua cửa, gió luồn song gieo giá rét.
Nếu không có gió đưa thoảng hương thầm,
Thì rối rắm một màu làm sao phân biệt!
Dạo hết hiên nhà không sợ buốt hai vai.
Ánh sáng lung linh càng trong veo trước mắt.

Trăn trở thương xót từ cửu trùng xuống đến dân phương xa,
(Nên) Người áo gấm cầm cờ tiết phải lưu lại ngoài vạn lý.
Phong khí như gió sương cuốn đất, tràn ngập trời thu,
Nơi hoang vu nóng nực tâm vẫn hướng về ngụy khuyết,
Tháng mười Giao Nam ấm như mùa xuân,
Trong giấc mộng, chỉ có hoa là bẻ được.
Tự cổ đã có người gửi tâm vào vật,
Tinh thần cao thâm noi theo hiền nhân xưa,
Đông Pha không thể thiếu trúc,
Liêm Khê có chủ thuyết về yêu sen.
Trời đất vạn đời đều hướng đến thanh cao,
(Như) Trăng hồ Tây, ý thơ cầu Bá.

Như trên đã nói, Thành tổ nghi ngờ Trương Phụ tạo thế lực riêng nên điều Lý Bân sang thay thế. Đồng thời, sai Giám sát Ngự sử bắt đầu tuần xét việc cai trị An Nam.

Bài thơ nhiều khả năng được tặng cho Hoàng Tông Tái khi họ Hoàng mới ổn định chỗ ở tại Giao Nam, tức cuối năm 1417 hay đầu năm 1418.

Minh Thực lục còn lại một ghi chép về Hoàng, khi đó giữ chức Tuần án Giao Chỉ. Ngày 12/01/1420, triều đình nhận báo cáo từ Ngự sử Tông Tái đề nghị rằng các quan chức chưa đỗ đại khoa, đa số người quê Lưỡng Quảng-Vân Nam, sau hai năm phải được khảo hạch bởi Tuần vũ, Án sát, Giám sát Ngự sử sở tại. Ông chê bọn này chăn dân vụng về, xử án sai luật do căn bản học vấn chưa đầy đủ. Vua thuận theo.

Tờ tâu chứng tỏ Hoàng thực sự quan tâm tới hiệu quả việc cai trị. Suy cho cùng, nhiệm vụ của Ngự sử là gìn giữ sao cho chính sách Đại Minh được thực hiện trọn vẹn tại An Nam. Dĩ nhiên, vị vua lịch duyệt như Thành tổ không bao giờ dại dột đè nén dân chúng đến mức họ phải nổi loạn chống triều đình. Điều hòa thu nhập cao nhất cho đế quốc nhưng ở mức dân đen kham nổi là nghệ thuật “muối mơ” tinh xảo. Nếu xảy ra loạn lớn, kinh phí thu được từ địa phương chưa chắc đủ để huy động quân đội từ chính quốc. Hơn nữa, chiến tranh dằng dai sẽ là thảm họa cho chính Trung Hoa.

Sự đồng cảm với công việc Ngự sử khiến cảm xúc của Nguyễn trong bài thất ngôn trường thiên thăng hoa. Bên cạnh “Côn Sơn ca”, đây là thi phẩm hào hứng sảng khoái nhất của ông. Nguyễn đã xếp phẩm cách của Hoàng ngang bằng đặc tính tượng trưng hoa mai và tuyết. Ca ngợi tới mức đó tưởng đã hết lời. Bài hành phảng phất từ ngữ và ý thơ của nhiều danh tài Trung Hoa : Đỗ Phủ (712 – 770), Lâm Bô (967-1028), Tô Đông Pha (1037-1101), Lục Du (1125-1210), Lư Mai Pha (Nam Tống), Trịnh Khải (Đường)…



Mai đọng tuyết (www.shutterstock.com)

Nguyễn nói về mai, tuyết, gió, trăng, giá buốt… những yếu tố không hiện diện vào thời điểm đề thơ nên có thể đoán rằng các câu 7 đến 14 chủ yếu miêu tả cảnh trong tranh vẽ kèm theo cảm tưởng. Tranh thể hiện cội mai đầy hoa, đọng tuyết dưới trăng vào đêm nhiều gió. Hoa mai rụng khiến tuyết rơi tan, tia vỡ lóng lánh giúp người thưởng ngoạn cảm được sức gió, ánh trăng và giá lạnh. Vì là tranh nên thiếu “ám hương”, hương thầm,yếu tố quan trọng khiến nghệ sĩ họ Nguyễn nhanh chóng nhận biết. “Mai tuyết hiên” giống như “art gallery” gia đình, trưng bày toàn tranh mai-tuyết. Hoàng Ngự sử ngầm gửi tín hiệu đến mọi người về cốt cách của mình. Điều này khiến Nguyễn hết sức ngưỡng mộ.

Câu 15 đến 18 khắc họa phong thái Tông Tái bằng ngòi bút hào sảng. Hình ảnh nhà nho Ngự sử nghiêm khắc, uy lực, luôn hướng về phép nước hẳn là mẫu người lý tưởng một thời của nhà thơ khi mới làm quan cho họ Hồ. Viên quan cầm tiết ngoài vạn dặm chính là biểu tượng lòng yêu thương con dân xa xôi của Thiên tử. Trung thành với vua và quan tâm tới dân thường luôn là điều khiến Nguyễn rung động. Ca ngợi Bố chính Huân ông cũng dựa trên tiêu chí này.

Hoàng tự ví mình với mai-tuyết, Nguyễn cho rằng Giao Nam thiếu tuyết nên so quan Ngự sử với trúc-sen. Cuối cùng, Nguyễn vút bổng theo tuyết cầu Bá và chơi vơi giữa mai Tây hồ.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Tương thông văn hóa cực độ giữa nhà nho An Nam với trí thức Đại Minh hé lộ cá tính dễ tạo nên phiền toái khi ông gia nhập tập đoàn Lam Sơn. Nguyễn thiếu hẳn ghi chép thù tạc với quan tướng giàu chất rừng núi dưới trướng Lê Lợi,(121) thay vào đó, bóng dáng những kẻ hẹp hòi, đâm thọt, báng bổ thấp thoáng trong vô số tác phẩm của ông. Thái độ khinh mạn chỉ biết có vua vô tình dựng quanh Nguyễn hàng rào đố kỵ. Cái giá phải trả sẽ đắt quá một đời người.

題何校尉白雲思親


庭闈一別歲花深
愛慕人皆共此心
客裡看雲情易切
公餘披卷意難禁
家山孰不懷桑梓
忠孝何曾有古今
持此贈君還自感
詩成我亦淚沾襟

Đề Hà Hiệu úy bạch vân tư thân


Đình vi nhất biệt tuế hoa thâm
Ái mộ nhân giai cộng thử tâm
Khách lí khán vân tình dị thiết
Công dư phi quyển ý nan câm
Gia sơn thục bất hoài tang tử
Trung hiếu hà tằng hữu cổ câm
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm

Đề tranh “Bạch vân tư thân” của Hà Hiệu úy

Từ khi giã biệt cha mẹ đến nay đã lâu,
Con người ai cũng cùng lòng yêu kính.
Ngắm mây nơi đất khách, tình dễ thiết tha,
Mở tranh khi rỗi việc, ý khôn dằn nén.
Ai chẳng nhớ cây dâu cây thị quê nhà!
Ngày xưa, ngày nay vẫn một niềm trung hiếu.
Cầm bài thơ tặng ông tự tôi cũng xúc động,
Viết vừa xong nước mắt đã đầm vạt áo.

Hà Hiệu úy: có thể là tướng Đả Trung, người trấn thủ Tây Đô cùng Lương Nhữ Hốt đến giờ phút sau cùng của cuộc chiến. Khi Vương Thông giảng hòa với Lê Lợi ông mới dẫn quân về Đông Quan để hồi hương. Minh Thực Lục và Quân trung từ mệnh tập gọi ông là Đả Trung, nhưng Lam Sơn thực lục lại gọi Hà Trung.

Bài thơ giản đơn vì dành tặng võ tướng, điểm đặc biệt duy nhất là giọt nước mắt của Nguyễn. Ông nhắc đến “lệ” ba lần trong văn thơ, một lần khóc Đại Ngu, một lần tẩy uế mồ mả tổ tiên, và lần này chia sẻ tâm tình hiếu thảo với quan Hiệu úy. Mẹ Nguyễn mất sớm, nhớ song thân phương Bắc gợi suy đoán rằng Nguyễn Phi Khanh hiện vẫn sống bên nước Minh. Ức Trai giống ông ngoại, thiếu hào hứng với những gì liên quan đến chiến tranh. Chỉ một điểm chung duy nhất giữa ông và viên tướng Tàu: có cha, mẹ hoặc cha mẹ đang sống ở phương Bắc.

Về khía cạnh văn hóa, ta thấy người Minh thích chơi tranh. Họ dùng tranh để thể hiện nhân cách. Thơ Nguyễn nhiều bài lấy cảm hứng từ hội họa. Có lẽ tranh phong cách Trung Hoa trở nên phổ biến hơn tại Giao Chỉ nhờ thời đô hộ ngắn ngủi này.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Ba bài thơ gửi tặng ba quan viên nghề nghiệp rất khác nhau, Nguyễn Huân đứng đầu Ty Bố Chính sau Thượng thư Trần Hiệp, Hoàng Tông Tái giám sát việc cai trị Giao Chỉ từ Ty Án Sát, Hà Trung phục vụ Đô Ty. Như vậy, bối cảnh ra đời của chúng nhiều khả năng là dịp Nguyễn Trãi ra mắt dàn lãnh đạo Tam ty khi bắt đầu nhiệm vụ tại An Nam.

Nguyễn Trãi ca ngợi quan tướng nhà Minh từ vị trí thấp hơn. Ông buộc lòng làm thế hay thực lòng nghĩ thế?

Ức Trai vốn hiểu thời nên tùy thời. Năm 1417/1418, Hậu Trần đã bị tiêu diệt. Tình hình tương đối ổn định vì các toán nổi dậy rời rạc không đe dọa sự tồn tại của chính quyền Giao Chỉ. Nhóm Lam Sơn chưa trở thành lực lượng có thể gây chấn động nền móng cai trị vững vàng. Qua “Đại Cáo”, Lê Lợi đánh giá thời điểm này là “Chính tặc thế phương trương chi nhật 正賊勢方張之日,” chính lúc quân thù đương mạnh. Điều cốt yếu, phải làm được gì tốt nhất cho dân chúng trong khả năng mình. Ức Trai ca ngợi Nguyễn Huân vì vị Bố chính mang lòng “lo trước vui sau”, ca ngợi Hoàng Tông Tái vì viên Ngự sử thừa mệnh vua chăm sóc dân miền xa, ca ngợi Hà Trung vì quan Hiệu úy là người con yêu thương cha mẹ. Các đức tính được tôn vinh thể hiện ước nguyện nảy sinh từ hoàn cảnh cụ thể. Với quan chức dân sự, ông “nịnh” họ thương dân; với tướng quân đội, ông sẻ chia giọt nước mắt hiếu thảo. Ức Trai có thể đổi chủ theo “thời”, nhưng không thể đổi dân hay đổi cha mẹ. Đối với người Đại Việt luôn xem Minh là giặc, nếu chỉ trích Nguyễn vì những lời tán tụng bên trên sẽ hóa ra hẹp bụng.

Những gì thể hiện qua văn chương có phải lúc nào cũng thật? Chưa hẳn! Nguyễn tuyển ý và từ theo từng trường hợp. Ví dụ như vài chi tiết trong “Băng Hồ di sự lục”. Nguyễn tán thưởng ông ngoại vì quyết định lui nghỉ rất thức thời khi họ Hồ nắm quyền chính; hay miêu tả cụ Trần bình thản từ chối uống thuốc, chấp nhận cái chết. Sự thực, Băng Hồ bị loại khỏi giới quyền lực bởi mánh khóe của Hồ Quý Ly, sau đó cụ buộc phải chấp nhận gầy dựng quan hệ hôn nhân với họ Hồ để bảo vệ gia tộc. Mặt khác, Băng Hồ muốn trường thọ nên từng cầu thọ; Nghệ tông nhìn thấy đàn tinh đẩu ở Côn Sơn trong bài luật “Đề Tư Đồ Trần Nguyên Đán từ đường” : “Tinh đẩu đàn hoang lộ chuyển mê 星斗壇荒路轉迷,”[36] Đàn tinh đẩu bỏ hoang, lối đi mờ dấu. Hai điểm mâu thuẫn thực tế xảy ra vì văn tưởng niệm chỉ được phép nói đến mặt tích cực của người đã khuất. Ức Trai cầm viết trong khuôn thước đó.

Nói vậy, không có nghĩa tác giả mang gian dối vào thi ca để thù tiếp. Ông triệt để đối lập với loại người khôn vặt. Ức Trai chỉ muốn nối chí cổ nhân. Với quan có học, ông khơi gợi tâm nhân nghĩa; với tướng ít học, ông đồng cảm lòng hiếu kính; mà theo Nho giáo, hiếu khởi đầu cho nhân. Ức Trai quan niệm dân là mục đích, vua quan chỉ là phương tiện. Nguyễn nghĩ sâu và xa khi tặng thơ cho giới cầm quyền; nhờ thế, ông khá thành công khi đi trên băng mỏng.

Ngôn chí XVII

Đột xung biếng tới áng can qua,
Địch(122) lều ta dưỡng tính ta.
Song viết(123) hằng lề(124) phiến sách cũ,
Hôm dao(125) đủ bữa bát cơm xoa(126).
Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc,
Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa.
Quân tử hãy lăm bền chí cũ(127),
Chẳng âu(128) ngặt(129) chẳng âu già.

Để đoán bài thơ ra đời thời điểm nào, chúng ta chú ý chữ “can qua”, chiến tranh trong câu một. Nguyễn Trãi chứng kiến nhiều cuộc chiến : nhà Hồ đánh Chiêm Thành; nhà Minh đánh Giao Chỉ; quân khởi nghĩa kháng cự quân chiếm đóng; Lê Lợi đại thắng quân Minh; Lê Thái tổ dẹp phản loạn họ Bế, họ Nông, họ Đèo; Lê Thái tông trấn áp họ Hoàng, họ Cầm, họ Hà…. Thái độ của Nguyễn khác nhau đối với từng cuộc chiến.

Nhà Hồ chinh phạt Chiêm Thành năm 1402, tướng lĩnh chỉ huy quân viễn chinh thuộc lứa tuổi của Nguyễn Phi Khanh nên cha ông từng dùng thơ tiễn chân thân hữu. Qua lời tiễn Nguyễn Bằng Cử, Nhị Khê bày tỏ thái độ vừa bực tức vừa khinh miệt đối với giặc phương Nam bằng các chữ “oán phẫn 怨憤”, căm oán hay “cuồng hồ 狂胡”, man di ngông cuồng. Trần Nguyên Đán cũng dùng ngôn từ bỉ thị như vậy khi tiễn Lê Quý Ly và Trần Ngạc nam tiến (1383), cụ xem kinh đô giặc là “nghĩ điệt 蟻垤” , ổ mối hay “chí 痣”, mụn cơm. Về chiến tranh với Chiêm, không sợ sai nếu cho rằng Nguyễn Trãi có quan điểm giống cha và ông ngoại. Tâm tình đó dễ hiểu vì đến tận bây giờ người Việt vẫn chưa quên những lần Chế Bồng Nga triệt phá Thăng Long.

Quân Minh tiến đánh Giao Chỉ từ 1406 đến 1407. Với người trưởng thành theo dòng ý thức hệ Nho giáo như Nguyễn Trãi, sự biến đó thật chạnh lòng. Ông thảng thốt, chịu đựng, khốn khổ… nhưng tuyệt không lời nào kết án giặc. Để bung thoát tình trạng tiến thoái lưỡng nan, Nguyễn thường xuyên cân nhắc việc trình diện người Minh. Như thế, ông chấp nhận quy trình và động tác thiên triều trừng phạt chư hầu, nếu chư hầu phạm lỗi. Đã có lúc Nguyễn tin vào tính phổ quát của hệ thống Hoa tâm.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Người truyền cho Ức Trai ý thức về bầu trời khác ngoài bầu trời Trung nguyên chính là Lê Lợi. Dưới mắt ngài, vua Minh chỉ là đứa trẻ giảo quyệt, quân tướng Minh chỉ là chuột lũ cáo bầy đánh giết dễ dàng. Cách diễn đạt hoa mỹ, phấn hứng ý tưởng thô lỗ của chủ tướng về bọn giặc qua Đại cáo thể hiện đồng cảm sâu của Nguyễn. Trải bao va chạm với Minh triều, từ lo âu, đầu phục, hợp tác (1410 – 1419) đến ngờ vực, thất vọng (1420 – 1422); rốt cục, Nguyễn ủng hộ quan điểm Lê Lợi, nhìn giặc Bắc như đám người tham, ác, cư trú nhầm nơi (1423 – 1428).

Nguyễn đứng ngoài các trận bình dẹp Nông Đắc Thái, Bế Văn Thiệu, Đèo Cát Hãn (1430 – 1432) nhưng vỗ tay rất lớn bằng bốn khổ thơ mừng chiến công “Hạ tiệp”. Trừ Trung Hoa, nhà nho Ức Trai quan niệm bọn man tù phải thần phục vua Đại Việt. Có thể suy luận được rằng Nguyễn cũng áp dụng quan niệm Hoa-Di cho các đám thổ tù họ Hoàng (1434), họ Cầm, giặc Ai Lao (1435-1436-1439), họ Hà (1440), Đạo Mông (1441) đời Thái tông.

Đặc biệt, Nguyễn chưa bao giờ bộc lộ cảm xúc về những cuộc chiến giữa người địa phương với quân chiếm đóng. Từ Đại Minh về, gặp giặc cỏ nổi như ong chào mừng Trương Phụ rời An Nam, Nguyễn chỉ phán bốn chữ “can qua vị tức”, chiến tranh chưa dứt. “Can qua” trong bài này cũng chẳng khiến được Nguyễn có ý kiến gì, nó nhiều khả năng chính là một trong vô số trận dằng dai mệt mỏi giữa Minh và nghĩa quân Việt. Ông phục vụ giặc nhưng bàng quang với vận số chính quyền tạm chiếm. Nhà thơ an phận cơm hẩm, đọc sách xưa, ngắm trăng, trúc, chim, hoa chờ ngày được tha về quê cũ. Như vậy, Ngôn chí XVII được làm ra trong khoảng 1418 – 1422.

Ghi nhận của Minh Thực lục về việc tránh kình chống nhau giữa người Việt và tình trạng thức ăn khan hiếm giống như phản ánh trong bài thơ trên:

Ngày 28/6/1421: “…quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu rằng đất nội phụ Giao Chỉ xa xôi, không dễ dàng vận chuyển lương thực; xin cho các ty, vệ, sở chia lính lập đồn điền để cung cấp… Quân lính người bản xứ tuy được liệt vào sổ binh, nhưng lúc đánh nhau còn lưỡng lự hai lòng, thường không liều chết; nay bàn định tỷ số đồn điền phần nhiều là lính bản xứ, quan quân ít.” (Minh Thực lục II, 86)(130)

Ngôn chí XXI

Chăng hay rắp rắp đã tư mươi,
Ngày tháng bằng thoi một phút cười.
Thế sự người no ổi tiết bảy,
(131)Nhân tình ai ủ(132) cúc mồng mười.
(133)Thuyền chèo đêm nguyệt sông biếc,
Cây đến ngày xuân lá tươi.
Phú quý chẳng tham thanh tựa nước,
Lòng nào vạy vọ(134) hơi hơi.

Nguyễn Trãi tròn bốn mươi vào năm 1419. Chưa tới hai năm làm việc tại An Nam, ông nhìn thấy ngay vị thế bản thân trong hệ thống cai trị thuộc địa. Hai câu 3, 4 diễn tả hoàn cảnh của cựu quan tiền triều, nó tương tự hoàn cảnh trí thức Việt Nam Cộng Hòa lưu dụng sau 1975. Nguyễn sẽ không bao giờ được cơ cấu vào thành phần nhân sự chủ chốt hay nhân sự dự trữ. Tìm an ủi từ thiên nhiên, Ức Trai tin nguyên lý xoay vần của trời đất. Nhưng nếu giữ mãi lòng thanh bạch liệu Nguyễn có phù hợp với cái chính quyền đang mưu tìm nguồn lợi tương xứng với máu và tiền đã đổ ra?
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Dù bị hạn chế nhiều về phương diện chính trị, Nguyễn chưa hẳn bế tắc đường tiến thân. Còn đường khác, kết quả nhanh chóng hơn, là đường mua quan tước. Ta thấy thổ quan giữ chức vụ nào đó phải dâng của cải cho người Minh như một thông lệ. Các quan phủ, châu chính thức cống đồ dùng quý giá đến Nam kinh, thổ tù Phan Liêu phải tiến vàng bạc cho nội quan Mã Kỳ. Bản thân phụ đạo Khả Lam Lê Lợi cũng bị hạch sách quá đáng đến mức gần sạch gia sản. Các thú mục, hào trưởng nắm lực lượng sản xuất có thể phần nào thỏa mãn nhu cầu bề trên, quan lại cấp thấp như Nguyễn chỉ một cách duy nhất là bóp nặn đám dân đen có liên quan đến công việc của mình.

Từ năm 1417, Lý Bân đã tiến hành làm sổ tu tri để thống kê tài nguyên trong thiên nhiên cũng như trong xã hội. Năm 1418, chính quyền An Nam tiến hành khai thác ngọc trai, tìm kiếm hương liệu, săn bắt thú hoang dã quý hiếm…. ở quy mô lớn. Công việc đại trà cần nhiều nhân lực nên năm 1419 họ tổ chức dân chúng thành đơn vị giáp 10 hộ và lý 110 hộ. Giáp thủ, lý trưởng đại diện dân chúng đứng ra nhận lao dịch. Yêu cầu luôn quá sức cung phụng nên các người phụ trách thường bị đánh đập tàn nhẫn. Thuộc địa viễn nam quá xa mặt trời trở thành môi trường lý tưởng cho bọn ô lại tâng công. Lòng Nguyễn không chịu cong vênh dù chỉ hơi hơi thì biết thế nào? Ông sẽ mãi làm “khách” trong bộ máy Tam ty Giao Chỉ.

Tự thuật IX

Ở thế nhiều phen thấy khóc cười,
Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi.
Lòng người một sự yêm(135) chưng(136) một,
Đèn khách mười thu lạnh hết mười.
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,(137)Hoa thì hay héo cỏ thường tươi.
Ai ai đều có hai con mắt,
Xanh bạc(138) dầu chưng(139) mặt chúng ngươi.

Nguyễn Trãi ngoài 40 vào khoảng 1420-1421. Lúc này, trông ai cũng thấy chán, ông đã hoàn toàn trở thành người lạ tại nơi làm việc. Mười năm đèn lạnh, khoảng 1411 – 1420/1421, là mười năm Nguyễn cộng tác với người Minh. Hệ thống cai trị áp đặt không có chỗ dành cho chim phượng, hoa và bản thân Nguyễn, nó màu mỡ cho cú diều và cỏ. Trước đó chưa lâu, Nguyễn ca ngợi lòng trung của các quan Bố chính, Tuần án, Hiệu úy. Ông nói khéo với người trên nhưng cũng phơi bày ruột gan để tránh cái vạ bị nghi ngờ. Ức Trai thực sự muốn thích nghi hoàn cảnh. Vậy điều gì khiến Nguyễn sổ toẹt quá trình hợp tác với giặc ? Vì sao ngọn đèn suốt mười năm vừa lạnh, vừa lạc loài?
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Nguyên nhân trực tiếp tác động tâm tư Nguyễn là do người Minh sử dụng ông không xứng năng lực. Chim phượng phải náu mình dưới bóng cú diều. Nguyễn giống như Tiền Khởi (710 – 782), tự đánh giá mức độ thành đạt sau mốc mười năm. Thời gian đã đủ, không thăng tiến được thì tìm việc khác. Cảm giác làm “khách” trong bộ máy điều hành bởi người Minh kém thi vị hơn làm “khách” ở những địa điểm ngoài Nhị Khê hay Côn Sơn. Bao quanh bởi cú diều, có lẽ Nguyễn phải dùng toàn “mắt bạc”. Ông cau có với thân phận. Mặt khác, cần nhìn nhận Nguyễn không mang tâm vị kỷ, để thực hiện hoài bão an dân nên ước mong vị trí cao hơn. Khổng tử và đa số môn đồ luôn muốn chức to để thể hiện năng lực quản lý xã hội.

Ngôn chí XIII [38]

Tà dương bóng ngả khuở(140) giang lâu,
Thế giới(141) đông(142) nên ngọc một bầu.
Tuyết sóc treo, cây điểm phấn,
Quỹ đông(143) giãi(144), nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên(145) phẳng,
Nhạn triện(146) hư không gió thâu.(147)Thuyền mọn còn chèo chăng khứng(148) đỗ,
Trời ban tối ước(149) về đâu.

Tạm hiểu như sau: Trời ngả chiều khi đang ở tòa lầu ven sông. Vũ trụ đông lại thành một bầu ngọc. Cây lác đác hoa trắng như điểm tuyết đất bắc. Trăng móc câu tỏ rạng từ phương đông. Nước phẳng lặng – khói chìm bên dưới. Gió hun hút – bóng nhạn nổi bật nền trời. Thuyền nhỏ chèo mãi chưa ngừng lại! Định về đâu lúc ban tối?

Bài thơ được sáng tác vào cuối thu khi chim di trú, như vậy tuyết trong thơ đậm chất tượng trưng. Tuyết có thể rơi trên cao nguyên ôn đới lúc chuyển mùa, tuy nhiên, mặt nước trong thơ còn mềm mại nên giả định tuyết mang tính nghệ thuật thích đáng hơn. Sẽ hiểu rõ ý Nguyễn khi so câu này với “Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên 梅花如雪照晴川,”[39] Hoa mai trắng như tuyết soi mình xuống sông lặng của Trần Quang Khải (1241 – 1294); hoặc với câu “Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm 澗邊梅影負清吟,” Đành phụ thú ngâm nga cảnh mai soi bóng bên dòng suối của chính ông. Trăng hạ huyền chỉ mọc quãng nửa đêm nên trăng xuất hiện lúc chiều muộn như trong thơ là trăng non trước thượng huyền. Cảnh quan hết sức trong trẻo, muôn vật dường như rõ mồn một vì sương khói hoàng hôn chìm trong nước. “Triện” có nghĩa “khắc, trổ”, một từ tuyệt diệu mô tả bầy nhạn giữa trời quang mây tạnh. Nên chú ý “triện 篆” hay dãi chữ triện đều không phải đội hình chim bay. Chim luôn bay theo hình chữ V phù hợp nguyên tắc khí động học. Hơn nữa, “triện” câu 6 đối với “chìm” câu 5, hai chữ đều là động từ.

Mười ba năm trước, Ức Trai chẳng biết đi đường nào vì chế độ Hồ đổ sụp. Bây giờ, ông nhất thiết phải đi đâu đó vì đang ở thời điểm cuối cùng của niềm tin. Nguyễn cần thay đổi. Bờ nước, mai trắng, ánh trăng tạo nên phong vị rất Tô Đông Pha. Dù vạn vật đẹp đẽ, tĩnh lặng, nhưng dường như áp thấp đang hình thành.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
6. Kháng chiến cùng Lê Lợi 1423 – 1428

Năm 1420, Đông Quan rúng động bởi các cuộc dấy loạn của Lộ Văn Luật (ở Thạch Thất, Hà Nội nay), Dương Cung (ở An Bang, Xương Giang; Quảng Ninh, Bắc Giang nay). Lý Bân huy động đại quân đánh dẹp được. Thừa thắng, Bân đưa quân vào nam tấn công Lê Lợi, buộc nghĩa quân lui về Mường Thôi (Thanh Hóa nay). Bân dùng 10 vạn quân theo chỉ điểm của Đồng tri châu Quỳ châu Cầm Quý tiếp đánh Mường Thôi. Phe Lam Sơn phục kích Bân tại Thi Lang (Thanh Hóa nay), thắng một trận rất lớn. Lý Bân, Phương Chính lui chạy bỏ cả quân đội. Từ đó, Trần Trí thay Bân làm tướng, có vẻ họ Lý đã bắt đầu phát bệnh. Kiểu “can qua” khó bình luận như thế đã vọng vào tác phẩm Ngôn chí XVII của Ức Trai.

Đại bại Thi Lang gây bối rối cho chính quyền Giao Chỉ, họ không còn lực càn quét để bắt bằng được đầu lĩnh nổi loạn Dương Cung nên phải ép học sinh Phạm Luận người Giáp Sơn (Hải Dương nay) sang kinh đô nhận tội thay. Sự kiện tai tiếng gây bất đồng nội bộ đồng thời bộc lộ suy yếu từ bên trong.

Mùa đông năm 1421, mười vạn quân Trần Trí phối hợp ba vạn quân Ai Lao tái chiến nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi đánh bại cả hai đạo tại đèo Ống (xã Bá Thước, Thanh Hóa nay). Võ công lừng lẫy Thi Lang, Đèo Ống hẳn đã kích thích trí tưởng tượng của nhà nho Nguyễn Trãi.

Mùa xuân năm 1422, Lý Bân qua đời. Tận dụng tình thế, Lê Lợi tiến quân ra Quan Du (Quan Hóa, Thanh Hóa nay) vào cuối năm. Người Minh phối hợp cùng Ai Lao chặn đánh cả mặt trước lẫn mặt sau. Quân Lam Sơn lui về sách Khôi (giữa Ninh Bình-Thanh Hóa), bị đại quân giặc bủa theo bao vây. Nghĩa quân tận lực đột phá, lui tiếp về núi Chí Linh (Lang Chánh, Thanh Hóa nay). Các trận đánh chứng tỏ nhóm khởi nghĩa chưa đủ sức tấn công ra khỏi địa bàn dù người Minh đã mất khả năng tiêu diệt họ. Thế trận trở nên cân bằng.

Lúc đó, có một người Đông Quan đi tìm vị Phụ đạo Khả Lam.

林港夜泊


港口聽潮暫繫舠
韽韽隔岸響蒲牢
船窗客夜三更雨
海曲秋風十丈濤
膜外虛名身是幻
夢中浮俗事堪拋
一生習氣渾如昨
不為羈愁損舊豪

Lâm cảng(150) dạ bạc


Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao
Am am cách ngạn hưởng bồ lao(151)Thuyền song khách dạ tam canh vũ
Hải khúc thu phong thập trượng đào
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn
Mộng trung phù tục sự kham phao
Nhất sinh tập khí hồn như tạc
Bất vị ki sầu tổn cựu hào

Đêm đậu thuyền ở Lâm cảng

Nghe tiếng thủy triều, tạm buộc thuyền con nơi bến cảng,
Chuông chùa văng vẳng bên kia bờ.
Ngoài cửa sổ, mưa suốt ba canh trên đất khách,
Góc biển hiu quạnh, gió thu thổi sóng mười trượng cao.
Thân là huyễn ảo, hư danh để ngoài lòng,
Cuộc sống phàm trong mộng, thật đáng bỏ đi
Thói quen cả đời vẫn y như cũ,
Không vì buồn xa nhà mà sa sút hào khí.
Khổng tử ba tháng không phò vua, lòng rất bất an. Dựa vào cảm giác vô dụng của tác giả, có thể đoán thời điểm này ông tạm không có vua. Nhớ lại, Nguyễn từng cho rằng cuộc đời hư huyễn khi nhà Hồ mất. Lần này, nỗi buồn “chó nhà tang” nặng nề được thay thế chỉ bằng chút ngậm ngùi. Dù đã 44 tuổi, Ức Trai mới lần đầu kiếm tìm cuộc sống của chính mình. Nguyễn thừa độ chín chắn tham gia tạo thời cuộc thay vì bị thời cuộc cuốn trôi. Câu 8 cung cấp thông tin về chuyến đi tới một nơi không dễ quay lại thăm nhà, địa điểm đến nhiều khả năng chính là hành dinh phía đối địch. Ức Trai rất trung thành, chỉ khi nào chúa cũ mất thiên mệnh ông mới lần dò lối khác. Dịp này thì sao? Dù người Minh không trọng dụng Nguyễn, họ vẫn cư xử phải chăng. Lực huyền bí nào đã giục giã, xui Nguyễn từ bỏ người bảo trợ ? Về già, nhà thơ giải thích nguyên nhân như sau : “Trượng sách hà tòng quy Hán thất,(152) Bão cầm không tự tháo Nam âm 杖策何從歸漢室抱琴空自操南音”, Chống roi ngựa, tại sao theo về nhàHán? (Vì) Ôm đàn, chỉ biết gãy điệu Nam. Rất nhiều sĩ phu ngộ độc thuyết Hoa tâm, khả năng quý giá nhất của Ức Trai chính là khả năng tự giải độc mình.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top