Bài dưới đây có lẽ được sáng tác khi Nguyễn nằm trong tay người Minh, chờ sang Trung quốc.
寄友
半生世路嘆屯邅
萬事惟應付老天
寸舌但存空自信
一寒如故亦堪憐
光陰焂忽時難再
客舍凄涼夜似年
十載讀書貧到骨
盤無苜蓿坐無氈
Ký hữu
Bán sinh thế lộ thán truân chiên
Vạn sự duy ưng phó lão thiên
Thốn thiệt đãn tồn(48) không tự tín
Nhất hàn như cố(49) diệc kham liên
Quang âm thúc hốt thời nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên
Thập tải độc thư bần đáo cốt
Bàn vô mục túc(50) tọa vô chiên
Gửi bạn
Nửa đời người, sao đường trần quá khổ nhọc!
Mọi sự đành phó mặc trời già.
Hễ tấc lưỡi còn thì vẫn tự tin,
Chỉ đáng thương tội vẫn nghèo như cũ.
Tháng ngày trôi chớp nhoáng, thời không quay lại,
Nhà khách lạnh buồn, đêm đằng đẳng như năm.
Đọc sách mười năm, nghèo đến tận xương.
Chỗ ngồi không tấm lót, mâm cơm không rau mục túc.
Ông khó làm Quản Ninh mãi với nghề đọc sách vì sẽ rơi vào bế tắc khi tiền bạc dự trữ cạn kiệt. Không có phương tiện sinh nhai, bị phe Giản Định tìm diệt, cứu tinh duy nhất của Nguyễn chính là người Minh. Hãy để ý hai chữ “khách xá
客舍” ở câu 6. Khác với “lữ xá
旅舍” là quán trọ, khách xá thuộc diện triều đình quản lý. Cũng như Ứng Long ngày trước phải lưu lại “thành nam khách xá” chờ quyết định tổ chức từ Đế Hiện, Nguyễn Trãi ở nhà khách phía Nam Đông Quan chờ sắp xếp của Ty Bố chính. Xét tình trạng sinh hoạt hết sức đạm bạc, có thể đoán bài “Thủ vĩ ngâm” chữ Nôm nổi tiếng cũng ra đời vào thời điểm này. Đây là lúc Nguyễn chưa làm việc chính thức cho Minh, nhưng mất danh xử sĩ. Ông chưa nhận lương bổng trong khi tiền dành dụm được từ thời gian làm quan cho nhà Hồ đã hết.
Nửa đời người Nguyễn Trãi tức vào khoảng các năm 1409, 1410. Lối thoát mịt mờ khiến nhà thơ phó mặc số phận. Thoáng buông xuôi cho thấy Nguyễn đã nản cuộc sống lẩn trốn vô vọng. Nhưng noi dấu Trương Nghi hay Phạm Thư, Ông nuôi ước ao tồn tại trong môi trường mới bằng tài năng biện luận của chính mình. Nhắc trường hợp Trương-Phạm kèm ý niệm “thời nan tái
時難再”,
thời không quay lại báo hiệu biến chuyển tinh thần thầm kín. Nguyễn ngẫm ngợi nhiều về “thời” trên căn bản Chu Dịch, ông luôn ứng xử theo “thời”. Nhiều “đêm đằng đẳng như năm” đã đưa Nguyễn đến bến bờ chính trị khác.
Trương Nghi (? – 309TCN),[9] chính khách sáng giá thời Chiến quốc, vốn người nước Ngụy. Thuở hàn vi tìm công danh ở Sở, do ngoại hình nghèo khó, bị thuộc hạ quan Lệnh Doãn Chiêu Dương nghi lấy cắp ngọc họ Hòa trong một buổi tiệc và nọc ra đánh đòn. Người vợ xót xa trách móc. Trương hỏi vợ: “Đầu lưỡi ta còn không?”. Bà đáp: “Còn”. Ông bảo: “Thế thì được.”
Về sau, Tần Huệ Văn Vương dùng Trương làm thừa tướng để thi hành chính sách liên hoành. Phục vụ vua Tần, Nghi gây nhiều thiệt hại cho chính nước Ngụy, quê hương ông.
Phạm Thư (? – 255TCN),[10] tự Thúc, người nước Ngụy. Ông nhà nghèo, làm môn khách của đại phu Tu Giả. Khi Giả được cử đi sứ Tề, Thư theo hầu. Tề Tương Vương thấy Thư ứng đối trôi chảy nên ban thưởng hậu, muốn giữ lại làm khách khanh. Thư từ tạ xin về. Tu Giả ganh giận Thư, báo tướng quốc Ngụy Tề rằng Thư tiết lộ tin mật cho vua Tề biết. Phạm Thư bị đánh đập đến gần chết. Về sau, Thư làm tướng quốc nước Tần, xui Tần Chiêu Tương Vương đánh phá Ngụy. Lúc Tu Giả đại diện Ngụy đến cầu hòa, Thư giả ăn mặc rách rưới yết kiến sứ thần. Giả thương xót hỏi: “Phạm Thúc vẫn nghèo như cũ ư ?”
Nhân tiệc chia tay Tu Giả, Thư yêu cầu Ngụy phải nộp tướng quốc Ngụy Tề cho Tần. Biết tin, Ngụy Tề sợ hãi chạy sang Triệu. Sau cùng, vua Tần buộc được Triệu nộp đầu Ngụy Tề.
Trương Nghi và Phạm Thư, hai người nhờ làm tướng nước Tần mà rửa được hận riêng, không nệ gây hại quê hương Ngụy. Nhắc đến họ, phải chăng Nguyễn Trãi bộc lộ oán thù với nhóm Hậu Trần, thủ phạm khiến Ông luôn tháo chạy trong tình trạng “vạn tử nhất sinh 萬死一生”,
mười nghìn cửa chết một cửa sống, phải chịu cảnh “thân bằng lạc diệp không
親朋落葉空”,
thân bằng như lá rụng sạch? Qua bài thơ, Nguyễn Trãi ngầm tin cho bạn biết ông sẽ dựa vào Minh để cởi giận, điểm khởi đầu là hai bàn tay trắng. Sức chịu đựng của Nguyễn đã tới hạn, ông biết “quyền mưu” mới phù hợp lối sống thời loạn. Đây là lựa chọn lớn, Trương-Phạm thuộc dòng chảy “Tung hoành gia”, một trong chín trường phái học thuật Trung Quốc cổ. “Quốc” trong quan niệm của các nhà du thuyết là phần hợp thành của “thiên hạ”, việc từ bỏ “quốc” này để phục vụ “quốc” khác không liên quan đến đạo đức. Vua Hậu Trần đối xử với ông và thân tộc bằng bạo ngược, vua Minh dùng lễ đối xử với trí thức An Nam. Việc Nguyễn chọn thờ vua Minh không mâu thuẫn giáo huấn Khổng Mạnh nếu xem Đại Việt là thành viên của thế giới Hoa Hạ.(51) Đó cũng là lựa chọn chung của hầu hết nho sĩ đương thời.
Ức Trai rất hăm hở thực hiện dự định của mình