- Biển số
- OF-451932
- Ngày cấp bằng
- 9/9/16
- Số km
- 4,468
- Động cơ
- 232,230 Mã lực
- Tuổi
- 38
Năm 1423, xuất hiện “Thư thỉnh hàng” nhân danh Lê Lợi gửi quân Minh xin tạm hoãn chiến tranh. Đây là văn bản sớm nhất của tập “Quân trung từ mệnh”. Trần Trí, Sơn Thọ nhận lời, gửi tặng viên đầu mục nhiều phẩm vật, được quân khởi nghĩa đáp lễ bằng vàng bạc. Bề ngoài Lê Lợi giao thiệp thân thiện, nhưng bên trong vẫn âm thầm phòng ngự. Đoán biết ý định đối thủ, phe Trần Trí bắt giữ sứ giả Lê Trăn. Chúa Lam Sơn nổi giận cắt đứt quan hệ.
Tháng 7 ta năm 1424, vua Minh Vĩnh Lạc băng trên đường hành quân đánh Mông Cổ. Tháng 9 ta cùng năm, nghĩa quân đánh úp đồn Đa Căng (Thanh Hóa) khiến Lương Nhữ Hốt bỏ chạy. Tiếp đó đánh bại luôn viện binh chỉ huy bởi Nguyễn Suất Anh.
Lê Lợi sửa sang khí giới, rèn luyện đội ngũ tiến thẳng vào Nghệ An. Sau nhiều dằng co, quân Lam Sơn dùng phục binh thắng quân Minh một trận lớn tại Bồ Ải (huyện Anh Sơn, Nghệ An nay), buộc Trần Trí lui vào thành cố thủ. Năm 1425, nghĩa quân thu phục được thủ lĩnh châu Ngọc Ma Cầm Quý, lấn chiếm các châu huyện, vây bức trấn thành. Tướng Minh Lý An chỉ huy thủy binh từ Đông Quan đến cứu, thừa dịp, Trần Trí mang hết quân phản công nhưng thất bại. Từ đó, giặc không dám ra ngoài.
Lê Lợi lại sai Lê Lễ dẫn quân phát triển thế lực sang Diễn châu. Tại đây, Lễ phá tan đạo quân chuyển lương của Trương Hùng, đuổi sát gót Hùng về tận Tây Đô. Lê Lợi điều tiếp các vị Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Triện, Lê Bị…hỗ trợ Lễ đánh úp thành. Tuy chưa hạ được nhưng các tướng phủ dụ thành công dân chúng xung quanh. Tây Đô bị cô lập. Lúc ấy, vua Hồng Hy mất. Nhân cơ hội, nghĩa quân giải phóng luôn các châu huyện thuộc Tân Bình, Thuận Hóa. Như vậy, giặc Minh chỉ còn duy trì thủ phủ Tây Đô, Diễn châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa. Dân cư bên ngoài đều theo kháng chiến.
Thành tựu lớn đạt được trong thời gian cực ngắn có thể do các yếu tố sau:
– Quan Tổng binh tài năng Lý Bân mất.
– Nguyễn Trãi mang đến thông tin quý giá về nội tình Tam ty, về cách bố trí lực lượng và phương pháp tác chiến của người Minh.
– Nguyễn Chích, dựa vào thông tin từ Nguyễn Trãi, đề xuất chiến lược hướng Nam đúng đắn giúp tiềm lực hậu cần nghĩa quân tăng vọt.
– Hai vua Vĩnh Lạc, Hồng Hy liên tục qua đời khiến tinh thần bộ máy thuộc địa dao động.
– Lê Lợi đánh giá đúng tương quan hai bên.
Mùa thu năm 1426, Lê Lợi sai các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Bị, Lê Khuyển bắc tiến nhằm chế ngự đường tiếp viện của quân Minh từ Vân Nam và Lưỡng Quảng. Hỗ trợ phía sau có Lê Lễ, Lê Xí. Riêng tướng Lê Triện mang 3.000 quân áp sát Đông Quan. Bình Định vương tiến ra Lỗi giang (sông Mã) để trợ thanh thế. Sau nhiều trận giao phong; Lê Lễ, Lê Triện cả phá Vương Thông tại Tốt Động, chém Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng. Chúa Lam Sơn lập tức hành quân gấp đến Lũng giang (sông Đáy).
Bài này có thể ra đời nhân dịp nhà thơ theo Lê Lợi tiến vào đồng bằng sông Hồng.
神符海口
故國歸心落雁邊
秋風一葉海門船
鯨噴浪吼雷南北
槊擁山連玉後前
天地多情恢巨浸
勳名此會想當年
日斜倚棹滄茫立
冉冉寒江起暮煙
Thần Phù hải khẩu
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền
Kình phôn lãng hống lôi nam bắc
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm
Huân danh thử hội tưởng đương niên
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên
Cửa biển Thần Phù
Lòng về quê cũ gửi theo cánh nhạn,
Thuyền ra cửa biển tựa chiếc lá trong gió thu.
Sóng gào như cá kình rống đôi bờ nam bắc,
Núi liền giống giáo ngọc dựng hai phía trước sau.
Trời đất đa tình, khôi phục dòng nước lớn,
Huân danh gặp hội, chợt nhớ năm nào!
Bóng xế, dựa chèo đứng giữa cảnh mênh mông,
Khói chiều mơ hồ dậy lên trên sông lạnh.
Ý, từ ôm đồm cả Niệm nô kiều của Tô Thức lẫn Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu.
Cuộc hành binh hướng đến Đông Quan khiến tác giả mơ ngày về rất gần. Lê Lợi khôi phục gần như đầy đủ uy nghi nước cũ, cái Nguyễn gọi là “cự tẩm 巨浸”, dòng chảy lớn. Trong thâm tâm, ông thấy trời đã trao “mệnh” cho vị thủ lĩnh khởi nghĩa. Hội “huân danh”, tức việc phong quan tước kèm ban thưởng trước khi vào chiến dịch, có thể khiến Nguyễn Trãi liên tưởng thời được vua Hồ tuyển chọn và cất nhắc. Cuộc đời đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt đã giúp Nguyễn tham gia hai lần lập nước.
Sau khi tổ chức bộ máy hành chánh trên các vùng đất thu lại được, Lê Lợi đóng dinh ở Đông Phù Liệt, trực tiếp điều khiển quân chủ lực Hải Tây bao vây Đông Quan.
Tháng 11 năm Tuyên Đức I (1426), Trần Cảo được nghĩa quân Lam Sơn lập làm vua, niên hiệu Thiên Khánh. Vương Thông định xin hòa, sau đó nghe lời bàn của thổ quan lại đổi ý. Lê Lợi chia quân vây hãm các thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang, Xương Giang, Khâu Ôn.
Mùa xuân năm Tuyên Đức II (1427), Lê Lợi chuyển hành dinh đến bờ Bắc sông Hồng, vây đánh Đông Quan ráo riết. Ngài ban chức hỏa thủ cho chỉ huy quân đội, bổ nhiệm thuộc lại tại Hàn lâm viện và chính quyền địa phương bốn đạo. Dịp này, lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu, Nhập nội Hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Lê Lợi dựng lầu cao ngang tháp Báo Thiên để quan sát động tĩnh của Vương Thông, Nguyễn Trãi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại với giặc.(Toàn Thư II, 282)
Tháng 7 ta năm 1424, vua Minh Vĩnh Lạc băng trên đường hành quân đánh Mông Cổ. Tháng 9 ta cùng năm, nghĩa quân đánh úp đồn Đa Căng (Thanh Hóa) khiến Lương Nhữ Hốt bỏ chạy. Tiếp đó đánh bại luôn viện binh chỉ huy bởi Nguyễn Suất Anh.
Lê Lợi sửa sang khí giới, rèn luyện đội ngũ tiến thẳng vào Nghệ An. Sau nhiều dằng co, quân Lam Sơn dùng phục binh thắng quân Minh một trận lớn tại Bồ Ải (huyện Anh Sơn, Nghệ An nay), buộc Trần Trí lui vào thành cố thủ. Năm 1425, nghĩa quân thu phục được thủ lĩnh châu Ngọc Ma Cầm Quý, lấn chiếm các châu huyện, vây bức trấn thành. Tướng Minh Lý An chỉ huy thủy binh từ Đông Quan đến cứu, thừa dịp, Trần Trí mang hết quân phản công nhưng thất bại. Từ đó, giặc không dám ra ngoài.
Lê Lợi lại sai Lê Lễ dẫn quân phát triển thế lực sang Diễn châu. Tại đây, Lễ phá tan đạo quân chuyển lương của Trương Hùng, đuổi sát gót Hùng về tận Tây Đô. Lê Lợi điều tiếp các vị Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Triện, Lê Bị…hỗ trợ Lễ đánh úp thành. Tuy chưa hạ được nhưng các tướng phủ dụ thành công dân chúng xung quanh. Tây Đô bị cô lập. Lúc ấy, vua Hồng Hy mất. Nhân cơ hội, nghĩa quân giải phóng luôn các châu huyện thuộc Tân Bình, Thuận Hóa. Như vậy, giặc Minh chỉ còn duy trì thủ phủ Tây Đô, Diễn châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa. Dân cư bên ngoài đều theo kháng chiến.
Thành tựu lớn đạt được trong thời gian cực ngắn có thể do các yếu tố sau:
– Quan Tổng binh tài năng Lý Bân mất.
– Nguyễn Trãi mang đến thông tin quý giá về nội tình Tam ty, về cách bố trí lực lượng và phương pháp tác chiến của người Minh.
– Nguyễn Chích, dựa vào thông tin từ Nguyễn Trãi, đề xuất chiến lược hướng Nam đúng đắn giúp tiềm lực hậu cần nghĩa quân tăng vọt.
– Hai vua Vĩnh Lạc, Hồng Hy liên tục qua đời khiến tinh thần bộ máy thuộc địa dao động.
– Lê Lợi đánh giá đúng tương quan hai bên.
Mùa thu năm 1426, Lê Lợi sai các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Bị, Lê Khuyển bắc tiến nhằm chế ngự đường tiếp viện của quân Minh từ Vân Nam và Lưỡng Quảng. Hỗ trợ phía sau có Lê Lễ, Lê Xí. Riêng tướng Lê Triện mang 3.000 quân áp sát Đông Quan. Bình Định vương tiến ra Lỗi giang (sông Mã) để trợ thanh thế. Sau nhiều trận giao phong; Lê Lễ, Lê Triện cả phá Vương Thông tại Tốt Động, chém Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng. Chúa Lam Sơn lập tức hành quân gấp đến Lũng giang (sông Đáy).
Bài này có thể ra đời nhân dịp nhà thơ theo Lê Lợi tiến vào đồng bằng sông Hồng.
神符海口
故國歸心落雁邊
秋風一葉海門船
鯨噴浪吼雷南北
槊擁山連玉後前
天地多情恢巨浸
勳名此會想當年
日斜倚棹滄茫立
冉冉寒江起暮煙
Thần Phù hải khẩu
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền
Kình phôn lãng hống lôi nam bắc
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm
Huân danh thử hội tưởng đương niên
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên
Cửa biển Thần Phù
Lòng về quê cũ gửi theo cánh nhạn,
Thuyền ra cửa biển tựa chiếc lá trong gió thu.
Sóng gào như cá kình rống đôi bờ nam bắc,
Núi liền giống giáo ngọc dựng hai phía trước sau.
Trời đất đa tình, khôi phục dòng nước lớn,
Huân danh gặp hội, chợt nhớ năm nào!
Bóng xế, dựa chèo đứng giữa cảnh mênh mông,
Khói chiều mơ hồ dậy lên trên sông lạnh.
Ý, từ ôm đồm cả Niệm nô kiều của Tô Thức lẫn Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu.
Cuộc hành binh hướng đến Đông Quan khiến tác giả mơ ngày về rất gần. Lê Lợi khôi phục gần như đầy đủ uy nghi nước cũ, cái Nguyễn gọi là “cự tẩm 巨浸”, dòng chảy lớn. Trong thâm tâm, ông thấy trời đã trao “mệnh” cho vị thủ lĩnh khởi nghĩa. Hội “huân danh”, tức việc phong quan tước kèm ban thưởng trước khi vào chiến dịch, có thể khiến Nguyễn Trãi liên tưởng thời được vua Hồ tuyển chọn và cất nhắc. Cuộc đời đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt đã giúp Nguyễn tham gia hai lần lập nước.
Sau khi tổ chức bộ máy hành chánh trên các vùng đất thu lại được, Lê Lợi đóng dinh ở Đông Phù Liệt, trực tiếp điều khiển quân chủ lực Hải Tây bao vây Đông Quan.
Tháng 11 năm Tuyên Đức I (1426), Trần Cảo được nghĩa quân Lam Sơn lập làm vua, niên hiệu Thiên Khánh. Vương Thông định xin hòa, sau đó nghe lời bàn của thổ quan lại đổi ý. Lê Lợi chia quân vây hãm các thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang, Xương Giang, Khâu Ôn.
Mùa xuân năm Tuyên Đức II (1427), Lê Lợi chuyển hành dinh đến bờ Bắc sông Hồng, vây đánh Đông Quan ráo riết. Ngài ban chức hỏa thủ cho chỉ huy quân đội, bổ nhiệm thuộc lại tại Hàn lâm viện và chính quyền địa phương bốn đạo. Dịp này, lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu, Nhập nội Hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Lê Lợi dựng lầu cao ngang tháp Báo Thiên để quan sát động tĩnh của Vương Thông, Nguyễn Trãi hầu ở tầng hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ qua lại với giặc.(Toàn Thư II, 282)