(Tiếp)
Năng lực của đảo đá ngầm so với năng lực của Hải quân
Năng lực tiến công và phòng thủ được tạo ra trên các tiền đồn của QĐTQ sẽ bổ sung, chứ không độc lập với, những năng lực tiến công khác của QĐTQ trong và xung quanh Biển Đông. Xét về số lượng tuyệt đối, lực lượng tác chiến của hải quân Trung Quốc có thể tạo ra hỏa lực tức thời mạnh hơn đáng kể so với các đảo đá ngầm. Việc xem xét cơ sở hạ tầng ở các tiền đồn của nghiên cứu này cho thấy khả năng triển khai tám TEL ASCM và tám TEL SAM trên mỗi tiền đồn - tương đương 72 ASCM và 96 SAM có thể sử dụng ngay lập tức. Những TEL bổ sung có thể được dự trữ cho đến khi cần thiết, và những hệ thống trên bộ có thể được nạp lại tương đối nhanh chóng, ngay cả khi việc nạp đạn được thực hiện trong khi bị địch tiến công. Các tàu của HQTQ với số lượng ống tên lửa của hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) nhiều hơn đáng kể không thể nạp đạn trên biển và sẽ phải quay trở lại cảng hoặc dừng lại ở một đảo đá ngầm trên Biển Đông của Trung Quốc để nạp đạn bên cầu tàu.
Tuy nhiên hỏa lực tức thời chỉ ba tàu của HQTQ - tổng số 216 tên lửa - đã vượt quá sức mạnh của tất cả các TEL tên lửa cộng lại có thể được bố trí trong các nhà chứa TEL trên các tiền đồn (tổng cộng 168 tên lửa). Tàu chiến mới nhất của HQTQ , tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường Type 055 Renhai (CG), có 112 ống VLS có thể mang hỗn hợp ASCM và SAM, bên cạnh các loại vũ khí khác, như tên lửa chống tàu ngầm hoặc LACM.
Type 055 Renhai
Cũng có suy đoán rằng các ống VLS quá khổ của CG, lớn hơn khoảng 60% so với các ống của các tàu chiến Hải quân Mỹ, có thể cho phép Type 055 mang các ASBM phóng từ tàu. Tàu Type 052D DDG của HQTQ có 64 ống VLS, cũng có thể mang một hỗn hợp các loại vũ khí khác nhau. Khinh hạm mang tên lửa dẫn đường Type 054A (FFG) trang bị vũ khí tầm ngắn hơn, như YJ-62 ASCM, được phóng từ các hộp gắn trên boong và SAM HHQ-16 tầm trung được phóng từ 32 ống VLS. Tỷ lệ tương đương của ASCM và SAM trên tàu được mô tả trong Hình 26, nhưng các ống VLS có thể chứa nhiều loại vũ khí khác nhau, tùy thuộc vào nhiệm vụ của mỗi con tàu.
Năng lực của tên lửa của các tiền đồn thấp hơn so với năng lực của những nhóm đặc nhiệm HQTQ có thể triển khai tới Biển Đông. Hình 27 cho thấy các đội hình HQTQ trên danh nghĩa bao gồm 17 tàu tác chiến mặt nước, một tàu sân bay và tàu ngầm có thể mang hơn 1.000 tên lửa đến vùng chiến sự ở Biển Đông. 24 máy bay chiến đấu đột kích trên tàu sân bay cung cấp thêm năng lực phòng không và đối hải với ASCM và AAM phóng từ trên không.
Khả năng đột kích và tiến công phòng thủ quan trọng nhất của các đảo đá ngầm có thể là 72 máy bay chiến đấu được triển khai tới các sân bay trên đảo đá ngầm. Các máy bay này, được đặt trong 24 nhà chứa máy bay chiến đấu trên mỗi tiền đồn, có thể sẽ được trang bị AAM để cung cấp khả năng phòng không tầm xa cho đảo đá ngầm hoặc phòng không cho các tàu mặt nước của HQTQ hoạt động trong khu vực. Ngoài ra, các máy bay này sẽ được trang bị ASCM hoặc LACM để tiến hành các cuộc đột kích tầm xa.
J-11B
Máy bay đặc nhiệm hoạt động trên đảo đá ngầm có thể là lực lượng hỗ trợ tốt nhất cho bất kỳ nhiệm vụ đột kích hoặc phòng không nào của QĐTQ. Trong nhiều trường hợp, các nền tảng hoả lực trên biển hoặc trên không không thể cảm nhận được không gian chiến trường và tìm thấy mục tiêu trong phạm vi tối đa của vũ khí mà chúng mang theo. Các nền tảng ra đa cảnh giới, chỉ huy và điều khiển, tiến công điện tử hoặc tình báo tín hiệu (SIGINT) được phóng từ các sân bay trên đảo đá ngầm có thể tìm kiếm hiệu quả ở khu vực trên không và vùng biển lớn hơn nhiều; chuyển tiếp dữ liệu mục tiêu, bao gồm dữ liệu ISR dựa trên không gian; và phối hợp hành động chiến đấu trên hầu hết Biển Đông. Thế năng động của việc kiểm soát thông tin chiến trường và cách chúng biểu hiện với những năng lực trên các tiền đồn được xem xét trong phần cuối cùng của nghiên cứu này, “Thực hiện chiến dịch quân sự ở Biển Đông”.
......
Năng lực của đảo đá ngầm so với năng lực của Hải quân
Năng lực tiến công và phòng thủ được tạo ra trên các tiền đồn của QĐTQ sẽ bổ sung, chứ không độc lập với, những năng lực tiến công khác của QĐTQ trong và xung quanh Biển Đông. Xét về số lượng tuyệt đối, lực lượng tác chiến của hải quân Trung Quốc có thể tạo ra hỏa lực tức thời mạnh hơn đáng kể so với các đảo đá ngầm. Việc xem xét cơ sở hạ tầng ở các tiền đồn của nghiên cứu này cho thấy khả năng triển khai tám TEL ASCM và tám TEL SAM trên mỗi tiền đồn - tương đương 72 ASCM và 96 SAM có thể sử dụng ngay lập tức. Những TEL bổ sung có thể được dự trữ cho đến khi cần thiết, và những hệ thống trên bộ có thể được nạp lại tương đối nhanh chóng, ngay cả khi việc nạp đạn được thực hiện trong khi bị địch tiến công. Các tàu của HQTQ với số lượng ống tên lửa của hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) nhiều hơn đáng kể không thể nạp đạn trên biển và sẽ phải quay trở lại cảng hoặc dừng lại ở một đảo đá ngầm trên Biển Đông của Trung Quốc để nạp đạn bên cầu tàu.
Tuy nhiên hỏa lực tức thời chỉ ba tàu của HQTQ - tổng số 216 tên lửa - đã vượt quá sức mạnh của tất cả các TEL tên lửa cộng lại có thể được bố trí trong các nhà chứa TEL trên các tiền đồn (tổng cộng 168 tên lửa). Tàu chiến mới nhất của HQTQ , tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường Type 055 Renhai (CG), có 112 ống VLS có thể mang hỗn hợp ASCM và SAM, bên cạnh các loại vũ khí khác, như tên lửa chống tàu ngầm hoặc LACM.
Type 055 Renhai
Cũng có suy đoán rằng các ống VLS quá khổ của CG, lớn hơn khoảng 60% so với các ống của các tàu chiến Hải quân Mỹ, có thể cho phép Type 055 mang các ASBM phóng từ tàu. Tàu Type 052D DDG của HQTQ có 64 ống VLS, cũng có thể mang một hỗn hợp các loại vũ khí khác nhau. Khinh hạm mang tên lửa dẫn đường Type 054A (FFG) trang bị vũ khí tầm ngắn hơn, như YJ-62 ASCM, được phóng từ các hộp gắn trên boong và SAM HHQ-16 tầm trung được phóng từ 32 ống VLS. Tỷ lệ tương đương của ASCM và SAM trên tàu được mô tả trong Hình 26, nhưng các ống VLS có thể chứa nhiều loại vũ khí khác nhau, tùy thuộc vào nhiệm vụ của mỗi con tàu.
Năng lực của tên lửa của các tiền đồn thấp hơn so với năng lực của những nhóm đặc nhiệm HQTQ có thể triển khai tới Biển Đông. Hình 27 cho thấy các đội hình HQTQ trên danh nghĩa bao gồm 17 tàu tác chiến mặt nước, một tàu sân bay và tàu ngầm có thể mang hơn 1.000 tên lửa đến vùng chiến sự ở Biển Đông. 24 máy bay chiến đấu đột kích trên tàu sân bay cung cấp thêm năng lực phòng không và đối hải với ASCM và AAM phóng từ trên không.
Khả năng đột kích và tiến công phòng thủ quan trọng nhất của các đảo đá ngầm có thể là 72 máy bay chiến đấu được triển khai tới các sân bay trên đảo đá ngầm. Các máy bay này, được đặt trong 24 nhà chứa máy bay chiến đấu trên mỗi tiền đồn, có thể sẽ được trang bị AAM để cung cấp khả năng phòng không tầm xa cho đảo đá ngầm hoặc phòng không cho các tàu mặt nước của HQTQ hoạt động trong khu vực. Ngoài ra, các máy bay này sẽ được trang bị ASCM hoặc LACM để tiến hành các cuộc đột kích tầm xa.
J-11B
Máy bay đặc nhiệm hoạt động trên đảo đá ngầm có thể là lực lượng hỗ trợ tốt nhất cho bất kỳ nhiệm vụ đột kích hoặc phòng không nào của QĐTQ. Trong nhiều trường hợp, các nền tảng hoả lực trên biển hoặc trên không không thể cảm nhận được không gian chiến trường và tìm thấy mục tiêu trong phạm vi tối đa của vũ khí mà chúng mang theo. Các nền tảng ra đa cảnh giới, chỉ huy và điều khiển, tiến công điện tử hoặc tình báo tín hiệu (SIGINT) được phóng từ các sân bay trên đảo đá ngầm có thể tìm kiếm hiệu quả ở khu vực trên không và vùng biển lớn hơn nhiều; chuyển tiếp dữ liệu mục tiêu, bao gồm dữ liệu ISR dựa trên không gian; và phối hợp hành động chiến đấu trên hầu hết Biển Đông. Thế năng động của việc kiểm soát thông tin chiến trường và cách chúng biểu hiện với những năng lực trên các tiền đồn được xem xét trong phần cuối cùng của nghiên cứu này, “Thực hiện chiến dịch quân sự ở Biển Đông”.
......