[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

PHẦN 2: HỆ THỐNG RA ĐA TRUNG QUỐC TRIỂN KHAI TRÊN CÁC THỰC THỂ NHÂN TẠO Ở BIỂN ĐÔNG

Các tổ hợp ra đa trên các thực thể Trung Quốc chiếm đóng dường như khá đa dạng và có số lượng lớn, bao quát một dải rộng của phổ tần, kết hợp một dải hiện tượng học của cảm biến (sensor phenomenology). Tổng cộng đã phát hiện được hơn 2 chục tổ hợp khí tài, có thể là ra đa, trên các thực thể do Trung Quốc chiếm giữ và bồi đắp. Những tổ hợp ra đa này có thể gồm ra đa sục sạo trên không và mặt biển, ra đa bám mục tiêu, ra đa siêu cao tần tầm xa ngoài đường chân trời, có khả năng bám các mục tiêu mặt biển ở tầm xa, và một ra đa độc đáo tần số thấp trên đá Subi, được dự đoán là có những khả năng quan trọng “chống tàng hình”.

1. Các tổ hợp ra đa

1681175994619.png


Các tổ hợp ra đa được bố trí trên các căn cứ tiên tiêu của Trung Quốc trên biển Đông bao quát phổ tần từ siêu cao tần VHF (30-300 MHz) lên tới băng X (8- 12GHz). Những mối đe dọa từ các tàu và máy bay quân sự nước ngoài phát hiện được bằng mạng lưới ra đa của Quân đội Trung Quốc, không thuộc sức mạnh của bất kỳ một tổ hợp ra đa nào. Mối đe dọa ra đa trên các căn cứ tiền tiêu của Trung Quốc được phát hiện, khá đa dạng, dư thừa và bao quát chống lấn tần số. Đây chính là những đặc trưng về những khả năng của Trung Quốc, tập trung vào kiểm soát thông tin không gian chiến trường.

1681175823537.png


Có tới 27 tổ hợp ra đa với mái vòm an ten lớn, cung cấp sự giám sát trên không và mặt biển, phục vụ cho các căn cứ tiền tiêu của Quân đội Trung Quốc.
Trên mỗi thực thể quan trọng, có 7 tổ hợp ra đa lớn, được hỗ trợ bởi các ra đa khác trên các căn cứ tiền tiêu nhỏ hơn.

1681175878549.png


Các mái vòm an ten được đặt trên tháp có thể chứa các ra đa giám sát trên không lớn, công suất mạnh, làm việc trong các băng tần số khác nhau. Một vài mái vòm an ten có thể là các ra đa đa chức năng hoặc ra đa sục sạo mặt biển lớn. Nhiều ra đa mặt biển tầm nhìn có hạn, tương tự như ra đa dẫn đường của tàu mặt nước, có kích thước tương đối nhỏ nên không dễ nhận biết trong bức ảnh vệ tinh.
Độ cao bố trí ra đa làm giảm tạm địa vật và mở rộng tầm nhìn của ra đa, đặc biệt là chống các mục tiêu bay thấp. Tháp cao nhất trên thực thể của Trung Quốc cao tới 36 m với một mái vòm 16 m, đã được phát hiện trên đá Chữ Thập, Vành Khăn và Châu Viên.

1681176071149.png


Một tập hợp 3 tháp có mái vòm an ten cao từ 26 m đến 30 m đã được phát hiện trên mỗi thực thể quan trọng. Những tháp mái vòm an ten này có thể là hỗn hợp các ra đa giám sát trên không và mặt biển, hoạt động ở các băng tần số khác nhau.

1681176136611.png


2. Ra đa kiểm soát không lưu

Các ra đa kiểm soát không lưu cũng có thể được bố trí trên các tháp gần các tòa nhà điều hành hoạt động đường không, trên các đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn. Những ra đa này có thể cung cấp bức tranh tình huống trên không được dùng để điều khiển máy bay quân sự, và có thể còn góp phần vào mạng lưới kiểm soát không lưu rộng lớn hơn của Trung Quốc, nhằm giám sát các máy bay quân sự và máy bay chở khách dân sự của nước ngoài, bay qua biển Đông.

1681176209177.png


3. Ra đa bám mục tiêu hay ra đa giám sát trên không tầm thấp

Ra đa bám mục tiêu hoặc ra đa giám sát trên không tầm thấp, có thể được bố trí cùng địa điểm với các trận địa tên lửa đất đối không (SAM), trên mỗi căn cứ tiền tiêu chủ chốt của Trung Quốc. Những ra đa lắp trên tháp này có thể truyền tải dữ liệu chỉ thị mục tiêu liên quan đến các mục tiêu bay thấp như tên lửa hành trình, máy bay và trực thăng, trực tiếp đến các đơn vị hỏa lực SAM. Các ra đa còn có thể là các ra đa điều khiển bắn được dùng để điều khiển SAM, cho phép các ra đa điều khiển bắn thực sự thường có trong các trận địa SAM, giữ im lặng không phát sóng.

1681176283757.png


.......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

4. Mái vòm an ten lớn trên đá Vành Khăn

Một mái vòm an ten đường kính 28 m được bố trí ở đầu Đông của đá Vành Khăn và có thể chứa một ra đa siêu cao tần VHF hoặc UHF cực lớn. Mái vòm che phủ rộng tới 11 m lớn hơn bất kỳ đường kính mái vòm an ten đi kèm với ra đa nào khác trên các thực thể. Ước tính độ cao của mái vòm hình tròn từ bức ảnh từ phía trên là rất khó, nhưng khoảng trống bên trong khoảng 20 và 22 m

1681267789477.png


5. Ra đa chống tàng hình trên đá Subi

Một mạng ra đa lớn, hình tròn được các nhà nghiên cứu Trung Quốc phân loại là ra đa xung và mặt mở tổng hợp (SIAR – Synthetic Impulse and Aperture Radar) được bố trí trên đá Subi. Ra đa băng VHF này được dự đoán có các khả năng quan trọng là “chống tàng hình”.

1681267863894.png


6. Tầm phát hiện của ra đa

Vùng phủ sóng ra đa tính theo đường thẳng, từ các thực thể Trung Quốc chiếm đóng trên biển Đông. Vùng phủ sóng ra đa chống các mục tiêu trên không và mặt biển, thường được biểu thị một cách đơn giản là một đường thẳng trực tiếp tới mục tiêu, chỉ bị giới hạn bời về mặt cong của trái đất. Việc xác định tầm phát hiện thực tế của ra đa, liên quan đến các phương trình đã được tính toán cho tần số của ra đa, tiết diện phản xạ ra đa của mục tiêu ở tần số đó, công suất bức xạ của ra đa, hệ số khuếch đại an ten, xử lý tín hiệu, sự suy giảm bởi khí quyển và các yếu tố khác. Vận hành nhiều kiểu ra đa khác nhau với các dạng sóng khác nhau, trong các băng tần số khác nhau, có thể hạn chế những ảnh hưởng của thời tiết hoặc các biện pháp đối phó như tàng hình hay gây nhiễu điện tử.

1681267951072.png


Các ra đa với công suất, hệ số khuếch đại an ten, và năng lực xử lý đủ mạnh như những ra đa có thể được bố trí trong các mái vòm, tại căn cứ tiền tiêu, sẽ có tầm phát hiện hàng trăm ki lô mét trước mục tiêu có tiết diện phản xạ ra đa tương đối nhỏ. Mạng lưới ra đa này sẽ cung cấp thông tin nắm bắt tình hình rõ ràng trước các mục tiêu lớn hơn, như các máy bay chở khách dân dụng hoặc máy bay tuần thám biển, như máy bay P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ.

7. Ra đa tầm xa ngoài tầm nhìn/ngoài đường chân trời

Bảy mái vòm được bố trí ở tất cả các thực thể có thể là các ra đa tầm xa ngoài đường chân trời, cung cấp khả năng phát hiện các mục tiêu trên mặt biển ở tầm xa tới 450 km. Hình 14 cho thấy những vị trí có thể là các đài ra đa tầm xa ngoài đường chân trời. Ba cặp cấu trúc công trình giống nhau, kích thước 9 x 15 m, trên đỉnh có một mái vòm hình trụ duy nhất, đã được xây dựng ở mãi rìa ngoài cùng của các thực thể nhằm tạo ra sự cách biệt tối đa, có thể cải thiện khả năng tính toán tam giác đạc các tín hiệu của các cặp mái vòm an ten. Đá Châu viên (Cuarteron) có một cấu trúc duy nhất thuộc thể loại này. Các cấu trúc công trình, tất cả đều được bố trí gần bờ, với tầm nhìn ra hướng biển không bị che chắn (xem Hình 15). Với sự xuất hiện của các cấu trúc, các vị trí có liên quan, trường nhìn, và độ cao so với mặt biển, những mái vòm an ten này có thể chứa các tổ hợp ra đa ngoài đường chân trời chủ động – thụ động, tương tự như chức năng và thiết kế của tổ hợp ra đa Mineral-ME hoặc Monolit –B của Nga. Các kỹ sư Trung Quốc đề cập đến những ra đa tầm xa ngoài đường chân trời này là “ra đa tầm xa ngoài đường chân trời siêu cao tần”.

1681268162348.png


Trung Quốc đã có được công nghệ ra đa Mineral-ME của Nga thông qua thương vụ mua 2 tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển Sovremenny do Nga xuất khầu vào những năm 1990. Kể từ đó, theo báo cáo, công nghệ ra đa Mineral-ME đã tiến hóa thành ra đa ngoài đường chân trời “thế hệ thứ 4”do Trung Quốc thiết kế, được gọi là ra đa H/LJQ-366 hoặc Type-366. Phần lớn tàu mặt nước trong hạm đội tàu mặt nước của Quân đội Trung Quốc đều được trang bị tổ hợp ra đa ngoài đường chân trời H/LJQ-366.

1681268112767.png

Ra đa Mineral-ME

Ra đa tầm xa ngoài đường chân trời của Nga được thiết kế là tổ hợp khí tài lắp đặt trên bờ (Monolit-B) hoặc trên tàu (Mineral-ME) để giám sát hàng hải/biển và chỉ thị mục tiêu tên lửa hành trình. Tổ hợp khí tài gồm 3 thành phần: một ra đa chủ động hoạt động ở băng X thấp hơn (8-10GHz), một “ra đa thụ động” hay tổ hợp khí tài tình báo điện tử, có thể phát hiện các tín hiệu nằm trong dải tần số 1 và 12 GHz, và một đường truyền dữ liệu chỉ thị mục tiêu. Tổ hợp ra đa có tầm phát hiện chủ động theo quảng cáo là 250 km và tầm phát hiện thụ động xa tới 450 km.

1681268239298.png

Ra đa H/LJQ-366

Ra đa H/LJQ-366 của Trung Quốc có khả năng phát hiện các mục tiêu cũng ở những khoảng cách xa như vậy, nhờ khai thác một hiện tượng được gọi là luồng dẫn (ducting) khí quyển. Đặc biệt, những tổ hợp khí tài này dựa vào phát hiện các sóng điện từ bị chặn lại trong luồng hơi nước biển được hình thành bởi gra-đi-ăng hơi ẩm lớn ở ngay trên mặt biển. Ra đa tầm xa ngoài đường chân trời chủ động được bố trí nằm trong độ cao của luồng hơi nước và sóng ra đa bị khúc xạ hoàn toàn xuống phía dưới, đặc biệt, nó sẽ uốn theo bề mặt cong của Trái đất. Các phản xạ của tín hiệu ra đa hoặc điện tử do các mục tiêu phát ra, có thể còn được giữ lại trong luồng hơi nước biển dẫn điện và sẽ truyền lan trên những khoảng cách dài, trở về máy thu thụ động của ra đa.

Đường truyền dữ liệu đi kèm với các ra đa tầm xa ngoài đường chân trời này cho phép các trạm thu trên các thực thể cũng như các tàu hải quân của Trung Quốc được trang bị ra đa H/LJQ-366 tính toán tam giác đạc và xác định vị trí các mục tiêu bằng việc trao đổi những tín hiệu trở về ra đa và các phát hiện tín hiệu điện tử.

Vị trí và hướng của 7 cấu trúc công trình được phát hiện trên các căn cứ tiền tiêu của Trung Quốc trên Biển Đông là lý tưởng, đạt được sự tách biệt tối đa để xác định tọa độ giao cắt các đường xác định hướng mục tiêu. Mặc dù đường truyền dữ liệu của ra đa Mineral-ME trên tàu được thông báo là bị giới hạn bởi chân trời/tầm nhìn mặt biển (khoảng 35 km), nhưng các tổ hợp ra đa của Trung Quốc có thể truyền/kết nối thông tin mục tiêu giữa các ra đa trên căn cứ tiền tiêu bằng các khí tài truyền tin giữa các đảo.

1681268312688.png


Dự báo về thủy văn và thời tiết chính xác cao,tăng cường rất lớn cho kiểu ra đa tầm xa ngoài đường chân trời này, thông qua khai thác luồng dẫn khí quyền. Các trạm khí tượng của các căn cứ tiền tiêu trên biển Đông có thể cung cấp những dữ liệu này. Để nắm bắt thêm thông tin về các cơ sở khí tượng trên các căn cứ tiền tiêu của Trung Quốc, tham khảo tài liệu có tựa đề: “Cơ sở hạ tầng kiên cố, Quản lý môi trường không gian trận chiến và Chống trinh sát”.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

PHẦN 3: NĂNG LỰC TÁC CHIẾN ĐIỆN TỬ CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

Quân đội Trung Quốc đã tập trung nỗ lực lớn nhằm phát triển các tổ hợp khí tài TCĐT, kiểm soát phổ điện từ, và hoạt động trong điều kiện mà Trung Quốc gọi là “môi trường điện từ phức tạp - ECME”. Chiến lược tác lấy thông tin làm trung tâm của Quân đội Trung Quốc phản ánh sự tập trung chủ yếu vào các hoạt động trong CEME và kiểm soát phổ điện từ bằng việc sử dụng một loạt các khả năng tiến công điện tử và tình báo/trinh sát tín hiệu (SIGINT).

Trên Biển Đông, các xe khí tài TCĐT triển khai trên mặt đất đã được phát hiện trong bức ảnh vệ tinh thương mại ở những nơi như các đá Subi và đá Vành Khăn. Các tổ hợp khí tài đặt trên xe tải được phát hiện, có thể là những xe tiến công điện tử (gây nhiễu) hoặc thu thập thông tin tình báo điện tử (ELINT). Độ phân giải ảnh vệ tinh và việc chùm lưới ngụy trang trên các tổ hợp khí tài triển khai, không cho phép đánh giá một cách chi tiết hơn.

1681468477363.png


Đầu năm 2018, các bản tin trích dẫn nguồn tin tình báo Mỹ và của các quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ cho thấy khí tài TCĐT của Quân đội Trung Quốc đang được triển khai trên các đá Chữ Thập và đá Vành Khăn. Các bài báo còn đăng ảnh vệ tinh thương mại cho thấy có thể khí tài gây nhiễu đã được triển khai ở bờ phía Tây của đảo đá Vành Khăn. Ba xe khí tài TCĐT nổi tiếng đã được phát hiện trong ảnh vào tháng 4/2018 vẫn hiện hữu trong bức ảnh vệ tinh chụp tháng 6/2018.

1681468513384.png


Khu vực này trên đá Vành Khăn dường như là khu vực triển khai các tổ hợp khí tài cơ động trên đường. Bức ảnh vệ tinh thương mại công khai sẵn có, có thể tiếp cận qua các nền tảng như Google Earth, cho thấy một số xe khí tài khác đang đậu tại vị trí trên trong thời gian dài. Địa điểm này có thể phục vụ số lượng bất kỳ các tổ hợp khí tài cơ động gồm các tổ hợp ra đa hay tên lửa, nhưng vị trí tương đối cách biệt khiến cho đây là nơi này lý tưởng cho hoạt động thu thập các tín hiệu điện từ riêng biệt hoặc phát tín hiệu gây nhiễu điện từ. Khu vực gồm các mảng sân bê tông khác nhau để phục vụ cho các xe có kích thước xe vận tải. Hoạt động từ một vị trí cố định dường như có thể làm mất đi sự bảo vệ vốn có của các tổ hợp khí tài cơ động trước đòn tiến công. Những tổ hợp khí tài TCĐT này chắc chắn sẽ được bố trí ở những nơi khác tại các căn cứ tiền đồn của Quân đội Trung Quốc trong thời gian xảy ra xung đột. Tuy nhiên, trong các hoạt động thời xuyên, những mảng/sân bê tông là vị trí được chuẩn bị trước, phục vụ cho các hoạt động thời gian dài và có thể sử dụng nguồn điện trên đảo, để tránh phải dùng các máy phát điện. Những vị trí được chuẩn bị này còn có thể có các kết nối thông tin liên lạc (ví dụ như cáp sợi quang), loại bỏ nhu cầu truyền tải không dây để phối hợp các hoạt động TCĐT trên hoặc giữa các căn cứ tiền đồn của Trung Quốc.

1681468608632.png


Vị trí triển khai trên đá Vành Khăn gồm cả những nơi dường như là một vành đai với các điểm thả neo hoặc các cảng, cách các sân bê tông trung tâm 36,5m. Chức năng của những cơ sở này chưa được biết đến, nhưng nếu các điểm hình tròn là an ten, thì chúng có thể được sử dụng cho mục đích điều chỉnh/kiểm tra của khí tài TCĐT hoặc phục vụ cho mục đích liên quan đến việc dò hướng tín hiệu. Tại vị trí triển khai tương tự trên đá Subi còn có một mảng sân hình tròn đường kính tới 73m giống như vậy. Ví trí triển khai trên đá Subi không có nhiều mảng sân bê tông giống như trên đá Vành Khăn. Một xe khí tài TCĐT được che phủ bằng lưới ngụy trang chiếm gọn một trong các mảng sân bê tông trong bức ảnh chụp tháng 6/2018.

1681468652004.png


Mạng lưới trinh sát điện tử

Bốn vòm an ten bố trí trên đá Chữ Thập và đá Vành Khăn có thể là mạng an ten tình báo/trinh sát điện tử (ELINT) hoặc một kiểu tổ hợp ISR thụ động nào khác. Một vòm an ten được bố trí ở mãi bờ phía Bắc và phía Nam của mỗi một căn cứ tiền đồn. Các mạng an ten riêng rẽ, mỗi mạng có một vòm an ten nhỏ hơn (đường kính cỡ 4 m) nằm ở phía trước một vòm an ten lớn hơn (đường kính 19,5m). Các vòm an ten trên từng căn cứ tiền đồn đều được tính toán về các hướng tương hỗ.

1681468712036.png


Bức ảnh cho thấy những vòm an ten này với các chân đế hình lục giác được xây dựng vào đầu năm 2016; tuy nhiên, vòm an ten phía Bắc đá Chữ Thập đã được di chuyển sang phía Đông Bắc, có thể do tòa nhà cao 18 m được xây dựng vào đầu năm 2017, chắn trường nhìn của vị trí ban đầu. Có thể có một an ten được đặt trên đỉnh của một bệ xây dựng từ trước trên đá Chữ Thập cho thấy đây là an ten cố định đối diện với một an ten quay, có thể nằm bên trong các mái vòm. Các bức ảnh vệ tinh thương mại chụp vào tháng 11/2017 cho thấy an ten đang xây dựng trước khi mái vòm được dựng lên. Bức ảnh còn cho thấy 2 vật thể góc cạnh mầu tối được định vị ở phía trước của mái vòm.

1681468769033.png


Các mái vòm, từng chiếc đều được bố trí trên bệ tương đối thấp, có thể chứa ra đa mạng pha công suất cao, cố định. Trong trường hợp này, an ten phía Bắc đã được di chuyển để giảm bớt tác hại của bức xạ mà ra đa tạo ra đối với con người và trang thiết bị trong tòa nhà, xây dựng gần đó. Tuy nhiên, sự hiện diện các tòa nhà thấp tầng ở phía trước vị trí đài an ten trên đá Chữ Thập ở phía Nam cho thấy bức xạ điện từ có thể không phải là mối quan tâm và trên thực tế, các mái vòm này được dùng để che chắn một tổ hợp máy thu, thụ động bên trong.

Xem xét tổng thể, những đặc điểm của các vị trí mái vòm cho thấy chúng có thể chứa tổ hợp khí tài ELINT hoặc một kiểu tổ hợp khí tài ISR nào khác. An ten nhỏ phía trước có thể bổ sung thông tin dò hướng tín hiệu hoặc cung cấp sự phát hiện và điều khiển đối với an ten lớn hơn. Hướng tương hỗ cho thấy các mạng an ten được bố trí cho mục đích phối hợp nào đó. Giả thiết trường nhìn 180o đối với mỗi an ten, thì vùng phủ sóng tính theo đường thẳng đối với 4 mạng an ten sẽ cung cấp vùng phủ chồng lấn đối với các đảo đá do Trung Quốc chiếm giữ. Hình 14 mô tả vùng phủ sóng tính theo đường thẳng từ mỗi một vòm an ten tới các độ cao khác nhau.

Tóm lại, chức năng của các tổ hợp vòm an ten này không thể xác định một cách chắc chắn dựa trên những thông tin có hạn sẵn có. Bất kể là một tổ hợp khí tài chủ động hay thụ động, 4 tập hợp vòm an ten rất có thể là một tổ hợp ISR cung cấp sự bao phủ diện rộng, chồng lấn trên Biển Đông.


1681468837229.png


......
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
5. Máy bay tác chiến điện tử

Khả năng TCĐT của Quân đội Trung Quốc tung ra từ các đảo đá ngầm bồi đắp không bị bó hẹp theo các đơn vị triển khai trên mặt đất hoặc các thành phần khí tài triển khai cố định, mà còn gồm cả các máy bay TCĐT đã triển khai. Máy bay có khả năng nhất trong số những phương tiện mang kể trên, trong các hoạt động trinh sát điện tử trên mặt nước là máy bay Y-9JB tương đối mới.

1681530307315.png


Những máy bay tiến công điện từ có thể được triển khai trên các đảo của Trung Quốc gồm máy bay Y- 8G và biến thể kế tiếp của nó Y-9G. Máy bay Y-8G có các an ten nhô ra ở bên trái và bên phải thân phía trước máy bay ). Trong vai trò gây nhiễu từ xa, Y-8G có thể phát tín hiệu can nhiễu điện tử trên một dải tần rộng. Máy bay có kích thước như một máy bay tiêm kích được triển khai tới các sân bay trên đảo nhân tạo có thể mang theo các thùng khí tài gây nhiễu KG-600 hoặc KG-800 để thực hiện các nhiệm vụ tiến công điện tử/gây nhiễu từ xa.

1681529819054.png

Y-9JB

Theo tài liệu quảng bá công nghiệp quốc phòng Trung Quốc, dường như tất cả các phương tiện bay không người lái (UAV) cỡ lớn của Trung Quốc đều có khả năng mang các thùng khí tài gây nhiễu hoặc các gói khí tài trinh sát tín hiệu. Các thùng khí tài COMINT, ELINT hay tiến công điện tử đều có một dải rộng những khả năng TCĐT bố trí trên UAV, linh hoạt. UAV Wing Long II của Trung Quốc, tương tự như UAV Predator của Mỹ, theo thông báo, đã được trang bị một “hệ thống nhiệm vụ TCĐT tích hợp”.

1681529900708.png

UAV Wing Long II

Giống như các tổ hợp khí tài đặt trên mặt đất, hiệu quả gây nhiễu TCĐT hoặc phát hiện trinh sát điện tử nói chung bị giới hạn theo cự ly, tính theo đường thẳng từ máy gây nhiễu hoặc từ xen xơ đến mục tiêu. Tầm hiệu quả sẽ còn bị giới hạn hơn nữa bởi các yếu tố như công suất bức xạ và hình học của máy bay TCĐT đến mục tiêu.

1681529956645.png


Việc xác định những khả năng TCĐT đặc thù, hiện diện tại các căn cứ tiền tiêu trên Biển Đông của Quân đội Trung Quốc gặp khó khăn, bởi vì những khả năng này được che giấu trong một mạng an ten duy nhất, tương đối nhỏ, khó thể hiện được hết từ bức ảnh vệ tinh thương mại. Dựa vào nhu cầu bắt buộc kiểm soát phổ điện từ, một số khả năng TCĐT dường như đã được bố trí trên các đảo đá nhân tạo do Trung Quốc thiết lập. Những khả năng này bao gồm một mạng đa dạng các phương tiện/xe triển khai trên mặt đất cơ động đặc chủng tại các đảo nhân tạo để đáp ứng một loạt các yêu cầu gây nhiễu điện tử hoặc thu thập tình báo tín hiệu (SIGINT).

1681530223591.png

Ảnh chụp từ trên không ngày 25 tháng 10 năm 2022 này, các tòa nhà, đường băng và cấu trúc thông tin liên lạc được nhìn thấy trên đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng ở Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa, Biển Đông.

Những cơ sở thu thập tình báo tín hiệu cố định gồm những vị trí triển khai có thể được dùng để giám sát, định vị hoặc gây nhiễu các tín hiệu SATCOM nước ngoài và vị trí triển khai khí tài dò hướng cao tần (HFDF) nhằm tăng cường các khả năng tính toán tam giác đạc sóng cao tần (HF) khu vực của Quân đội Trung Quốc. Một mạng lưới khí tài ELINT quan trọng hay một dạng tổ hợp khí tài ISR thụ động nào đó gồm một cặp an ten mái vòm được lặp dựng ở các hướng tương hỗ đã được phát hiện trên đá Chữ Thập và đá Vành Khăn. Máy bay hoặc phương tiện bay không người lái bay từ các sân bay trên đảo còn đem lại những khả năng TCĐT đáng kể để bổ trợ cho các tổ hợp khí tài đặt trên mặt đất ở các đảo nhân tạo.

1681530093136.png

Ảnh chụp từ trên không ngày 25 tháng 10 năm 2022 này, các tòa nhà và cấu trúc thông tin liên lạc được nhìn thấy trên đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng tại Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa, Biển Đông.

Những đầu tư của quân đội Trung Quốc vào các tổ hợp khí tài TCĐT đa dạng và rất nhiều minh chứng cho chiến lược tác chiến thông tin hóa của Trung Quốc, nhấn mạnh đến sự kiểm soát thông tin không gian chiến trường. Mối đe dọa gây nhiễu hoặc phát hiện trinh sát điện tử đối với quân đội nước ngoài hoạt động trên Biển Đông không chỉ từ một tổ hợp khí tài TCĐT duy nhất, mà từ một tập hợp gồm toàn bộ các hệ thống khí tài TCĐT khác nhau, triển khai trên mặt đất, trên không hoặc trên tàu. Gây nhiễu điện tử có thể được đồng bộ với hoạt động phát hiện ELINT và tiến công động năng. Đối phó với các mạng lưới TCĐT phức tạp của Trung Quốc sẽ cần một cách tiếp cận hệ thống của các hệ thống tích hợp, nhằm liên kết các phương tiện động năng và phi động năng để ngăn chặn các ý đồ của Quân đội Trung Quốc giành và duy trì ưu thế thông tin không gian chiến trường.

1681530156158.png

Ảnh chụp từ trên không vào ngày 25 tháng 10 năm 2022, một chiếc máy bay được nhìn thấy trên đường băng của đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng tại Đá Vành Khăn thuộc Quần đảo Trường Sa, Biển Đông.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

PHẦN 4: CÁC MÁY BAY NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT VÀ HỆ THỐNG KHÔNG NGƯỜI LÁI CỦA TRUNG QUỐC HOẠT ĐỘNG TRÊN BIỂN ĐÔNG

Quân đội Trung Quốc vận hành nhiều loại máy bay nhiệm vụ đặc biệt và những hệ thống không người lái có thể được triển khai tới các tiền đồn ở Biển Đông của Trung Quốc. Các nền tảng giám sát và thông tin liên lạc đa dạng sẽ được sử dụng cùng với những năng lực thông tin trên thực thể ngầm và trên tàu khác để nâng cao nhận thức về không gian chiến trường của QĐTQ. Đặc biệt, những nền tảng đường không là nhân tố gia tăng ưu thế thông tin chủ chốt. Vận hành những máy bay nhiệm vụ đặc biệt và hệ thống không người lái từ các tiền đồn ở Biển Đông trong hoặc trước khi xảy ra xung đột giúp QĐTQ giành được không gian và thời gian lớn hơn trong vùng biển Đông Nam Á ở phạm vi không thể tiếp cận từ những căn cứ ở lục địa Trung Quốc.

Cơ sở hạ tầng sân bay trên thực thể ngầm ở Biển Đông

QĐTQ đã phát triển cơ sở hạ tầng đáng kể để hỗ trợ hoạt động của máy bay từ các thực thể ngầm ở Biển Đông. Đá Chữ Thập và đá Subi đều có đường băng dài 3.000 mét. đá Vành Khăn có đường băng dài 2.700 mét. Những đường băng dài và những nhà chứa máy bay lớn trên các thực thể ngầm có thể hỗ trợ bất kỳ máy bay nào của QĐTQ.

1681614037980.png


Việc bố trí các máy bay hỗ trợ chiến lược tập trung vào chiến tranh thông tin của Trung Quốc trên các thực thể ngầm nhiều khả năng là sử dụng cơ sở hạ tầng hỗ trợ một số máy bay cỡ lớn. QĐTQ có thể triển khai các máy bay khả năng chỉ huy, điều khiển và thông tin liên lạc (C3); tình báo, giám sát và trinh sát (ISR); hoặc tác chiến điện tử, thường được gọi là máy bay nhiệm vụ đặc biệt trên các thực thể này. Để phù hợp với chiến lược chiến tranh trong điều kiện thông tin hóa của Trung Quốc, những nền tảng này là những năng lực quan trọng nhất trong cuộc xung đột ở Biển Đông, trong đó QĐTQ sẽ tìm cách đạt được quyền kiểm soát thông tin trên không gian chiến trường. Những máy bay C3 và ISR hoạt động từ thực thể ngầm phản ứng nhanh hơn và có được nhiều hơn từ ba đến bốn giờ trực chiến ở Biển Đông so với những máy bay nhiệm vụ đặc biệt được triển khai từ lục địa Trung Quốc.

1681614065561.png


Không gian cho máy bay lớn rất hạn chế trên các thực thể ngầm chính của Trung Quốc. Phân tích đường hạ cánh, khu vực đỗ và nhà chứa máy bay chỉ ra rằng có chỗ đỗ cho từ ba đến bốn máy bay cỡ Y-8 hoặc Y-9, có thể là máy bay vận tải hoặc máy bay nhiệm vụ đặc biệt. Ngoài ra, còn có các chỗ đỗ cho một máy bay rất lớn cỡ như Y-20 hoặc IL-76 trên đá Vành Khăn và đá Chữ Thập. Mỗi sân bay trên thực thể ngầm có bốn hoặc năm nhà chứa máy bay lớn có thể chứa các máy bay nhiệm vụ đặc biệt, máy bay vận tải hoặc máy bay ném bom.

1681614114944.png


Những đường băng trên các tiền đồn của Trung Quốc cũng có thể chứa bất kỳ máy bay không người lái (UAV) nào hiện có hoặc đang được phát triển của QĐTQ. Những hệ thống UAV Trung Quốc được tiếp thị xuất khẩu trên thị trường cùng với hệ thống chỉ huy và điều khiển UAV (CCS) bao gồm thiết bị điều khiển bay UAV, hệ thống xử lý thông tin tình báo, liên lạc đường ngắm (LOS) và liên lạc vệ tinh (SATCOM). Vào giữa năm 2020, những UAV được triển khai chưa thấy có trong hình ảnh vệ tinh thương mại chụp các sân bay ở Biển Đông. Tuy nhiên, những tiền đồn của QĐTQ có thể có những hệ thống C3 để hỗ trợ hoạt động của UAV. Những vật thể trông rất giống với xe chở hệ thống chỉ huy và điều khiển UAV được bố trí cạnh mỗi tòa nhà điều khiển sân bay trên thực thể ngầm.

1681614176615.png


KQHQTQ vận hành máy bay và trực thăng hoạt động từ đất liền, cánh cố định, cũng như trực thăng trên tàu. Gần đây hơn, với sự ra đời của chương trình tàu sân bay Trung Quốc, KQHQTQ cũng bắt đầu vận hành máy bay cánh cố định trên tàu sân bay. Trong khi một số máy bay của KQTQ có thể hoạt động từ những căn cứ trên thực thể ngầm, nhiều khả năng những máy bay hải quân là ứng cử viên cho việc triển khai tới Biển Đông. Từ năm 2015 đến năm 2020, KQHQTQ đã tăng đáng kể số lượng máy bay nhiệm vụ đặc biệt Y-9 trên đất liền.

1681614424874.png

Y-9

Năm 2016, bộ phận hải quân của Chiến khu miền Nam đã thành lập một sư đoàn máy bay nhiệm vụ đặc biệt mới. Máy bay nhiệm vụ đặc biệt của KQHQTQ, bao gồm máy bay KJ-500 AEW&C, máy bay KQ-200 ASW/MARPAT và máy bay Y-9JB SIGINT/ELINT, có khả năng được triển khai từ sư đoàn máy bay nhiệm vụ đặc biệt KQHQTQ Chiến khu miền Nam mới này đến các tiền đồn ở Biển Đông. Vào tháng 4/2020, các máy bay KJ-500 AEW&C và KQ-200 ASW/MARPAT, cả hai đều có khả năng thuộc KQHQTQ, được phát hiện bằng hình ảnh vệ tinh thương mại tại sân bay trên đá Chữ Thập trong lần triển khai ở Biển Đông đầu tiên của chúng.

1681614497856.png


QĐTQ vận hành một số UAV, từ UAV chiến thuật cỡ nhỏ đến UAV bay ở độ cao trung có thời gian hoạt động lâu (MALE) và UAV bay ở độ cao lớn, có thời gian hoạt động lâu (HALE). Các UAV có thời gian hoạt động lâu có thể trải toàn bộ Biển Đông từ các sân bay trên đảo Hải Nam hoặc lục địa Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu hết các UAV đều bay với tốc độ tương đối chậm. Vận hành các UAV có thời gian hoạt động lâu từ các tiền đồn ở Biển Đông của QĐTQ sẽ tối đa hóa khả năng phản hồi và thời gian trực chiến, đồng thời cho phép QĐTQ duy trì liên lạc đường ngắm để kiểm soát đáng tin cậy hơn. Một số UAV của QĐTQ có thể mang tên lửa cho các nhiệm vụ tiến công vũ trang. Tuy nhiên, để phù hợp với những khái niệm tác chiến trong điều kiện thông tin hóa của QĐTQ, các UAV phóng từ các sân bay trên thực thể ở Biển Đông nhiều khả năng sẽ được sử dụng cho ISR tầm xa, lâu dài, đặc biệt là trong thời bình hoặc giai đoạn đầu của một cuộc xung đột. Ngoài ra, nếu vệ tinh hoặc các thông tin liên lạc đường dài khác bị mất, UAV có thể thiết lập "lớp liên lạc đường không", hoạt động như bộ phận chuyển tiếp để thiết lập lại các liên kết liên lạc giữa những tiền đồn ở Biển Đông của QĐTQ và với các tàu Hải quân Trung Quốc hoạt động gần đó.

1681614674281.png


........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các căn cứ trên thực thể ngầm do Trung Quốc nắm giữ mang đến cho QĐTQ sự gia tăng cả về phạm vi lẫn thời gian hoạt động để tiến hành giám sát có người lái và không người lái. Một máy bay nhiệm vụ đặc biệt Y-9 với tốc độ bay 550 km/h (297 hải lý) có thể hoạt động trong 5–8 giờ ở cự ly tới 750 km (400 hải lý) từ những tiền đồn của QĐTQ ở Biển Đông. Máy bay Y-9 có thể tuần tra trong 3-5 giờ ở các vùng biển xa của Biển Đông và Vịnh Thái Lan hoặc Biển Celebes. Từ các sân bay ở Biển Đông, một chiếc Y-9 với phạm vi hoạt động 5.000 km (2.700 hải lý) có thể bay vòng quanh đảo Borneo, khảo sát các hướng tiếp cận phía nam ở Biển Đông từ Eo biển Malacca đến Java, Celebes và Biển Sulu. Các cuộc tuần tra như vậy sẽ không thể thực hiện được từ các sân bay trên lục địa Trung Quốc vì quãng đường bay kéo dài thêm 2.000 km (1.080 hải lý).

1681637085419.png


Tương tự, những chuyến bay của UAV xuất phát từ những sân bay trên thực thể ngầm ở Biển Đông được hưởng lợi về tầm bay và thời gian hoạt động. Các UAV dẫn động bằng cánh quạt thực hiện bay trong thời gian dài với tốc độ hành trình tương đối chậm và hiệu quả khoảng 150 km/giờ (81 hải lý/giờ). Sử dụng tốc độ này để tính toán, một UAV/UCAV MALE như BZK-005 hoặc Wing Loong ID có thể hoạt động tới 750 km (400 hải lý) từ các tiền đồn của QĐTQ ở Biển Đông trong khoảng từ 18–28 giờ. Một UAV chiến đấu như G-2 ở tốc độ hành trình có tầm hoạt động lên tới 1.500 km (810 hải lý), cho phép nó có thể bay đến Vịnh Thái Lan, Eo biển Malacca hoặc Biển Celebes từ các tiền đồn ở Biển Đông.

1681637147085.png


Nhiều khả năng các UAV sẽ tham gia vào các hoạt động của QĐTQ trong tương lai từ các căn cứ trên thực thể ở Biển Đông. Vị trí tương đối xa của các sân bay trên thực thể ngầm ở Biển Đông kết hợp với cơ sở hạ tầng sân bay, nhà chứa máy bay, đường băng dài và khả năng liên lạc khiến các tiền đồn của QĐTQ trở nên lý tưởng cho những thử nghiệm và hoạt động của UAV/UCAV trong tương lai, bao gồm các cuộc tập trận tích hợp với máy bay có người lái và đội hình hải quân lớn. Những tiền đồn ở Biển Đông của Trung Quốc cung cấp nhiên liệu và hậu cần, cũng như thông tin liên lạc LOS, cho phép QĐTQ kiểm soát và vận hành các hệ thống không người lái sâu trong Biển Đông ngay cả trong môi trường bị SATCOM từ chối. Một số UAV hậu cần của Trung Quốc cũng đang được phát triển có thể được sử dụng để vận chuyển hàng hóa thường xuyên đến các thực thể ngầm xa xôi ở Biển Đông.

Các máy bay nhiệm vụ đặc biệt và hệ thống không người lái được triển khai tới các thực thể ngầm ở Biển Đông của Trung Quốc sẽ là những yếu tố kiểm soát thông tin quan trọng được sử dụng cùng với những năng lực thông tin trên thực thể ngầm và trên tàu khác. Khi QĐTQ bắt đầu triển khai quy mô lớn những máy bay nhiệm vụ đặc biệt Y-9 vào năm 2018, một bài viết của truyền hình nhà nước Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố táo bạo. Với những máy bay như KJ-500, “lực lượng không quân có thể tăng hiệu quả phòng không lên 15 đến 30 lần, tăng số lượng máy bay địch bị đánh chặn và bị bắn hạ lên từ 35 đến 150%, và giảm số lượng những cuộc tiến công của máy bay địch vào các khu vực phía sau hơn một nửa”.

1681637414422.png

KJ-500

Các khoản đầu tư của QĐTQ vào một loạt máy bay nhiệm vụ đặc biệt và hệ thống không người lái thể hiện chiến lược chiến tranh trong điều kiện thông tin hóa của Trung Quốc nhấn mạnh vào việc kiểm soát thông tin trên không gian chiến trường. Những ví dụ về khả năng C3 và ISR linh hoạt này đại diện cho các lớp hệ thống chủ động và thụ động - dự phòng cho phép thực hiện những khái niệm hoạt động lấy thông tin làm trung tâm của QĐTQ. Các khả năng này sẽ được đồng bộ hóa với các năng lực thông tin trên đất liền và trên tàu của QĐTQ để tạo ra một hệ thống chỉ huy, điều khiển, liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát (C4ISR) phức tạp, tích hợp. Để chống lại hệ thống C4ISR phức tạp này của Trung Quốc sẽ đòi hỏi phương pháp tiếp cận hệ thống của các hệ thống tích hợp, kết hợp với cả các phương tiện động năng và phi động năng để ngăn không cho phép những thiết kế của QĐTQ đạt được và duy trì ưu thế thông tin trên không gian chiến trường.


......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
PHẦN 5: CƠ SỞ HẠ TẦNG KIÊN CỐ, NĂNG LỰC CHỐNG TRINH SÁT VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

QĐTQ đã đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng được kiên cố hóa và chống trinh sát để che giấu và bảo vệ các cơ sở quân sự quan trọng ở Biển Đông. Các biện pháp che giấu, ngụy trang và nghi binh là những yếu tố chính của hệ thống quân sự tích hợp của Trung Quốc được thiết kế để đạt được và duy trì ưu thế thông tin trong bất kỳ cuộc xung đột nào trên Biển Đông. Việc gia cố vật lý là cần thiết để bảo vệ cơ sở hạ tầng trên đảo đá ngầm trước môi trường biển khắc nghiệt và các thảm họa thiên nhiên như bão hoặc để bảo vệ chúng trước các cuộc tấn công. Mục đích chính của cơ sở hạ tầng được gia cố là giảm thiểu khả năng bị tổn thương. Tuy nhiên, việc gia cố cũng có thể nhằm mục đích tăng cường năng lực chiến tranh thông tin của QĐTQ, che giấu các hoạt động và chống lại hoạt động thu thập thông tin của đối phương nhằm tìm hiểu các ý định và thực trạng các hệ thống trên thực thể ngầm của Trung Quốc.

1681781954718.png


Các công trình ngầm

Hệ thống công trình ngầm (HTCTN) được xây dựng trên mỗi tiền đồn trong số ba tiền đồn chính. Những HTCTN này có thể là kho chứa đạn, che giấu hoạt động nạp vũ khí và lưu trữ một lượng lớn nhiên liệu và nước. Các hình ảnh vệ tinh thương mại từ năm 2016 đến năm 2017 về các khu phức hợp đường hầm và boongke đang được xây dựng vào thời điểm đó cho thấy sơ đồ bố trí của các cấu trúc ngầm hiện nay.

1681782018269.png


Các đảo san hô chính có các tổ hợp boongke thuộc HTCTN giống hệt nhau. Kho chứa đạn dược của các HTCTN bao gồm năm đường hầm được che phủ bởi cát và đá nằm ngang hoặc thấp hơn một chút so với mực nước biển. Các đường hầm có thể được tách riêng rẽ để giảm nhẹ tai nạn hoặc tác động của các cuộc không kích và các vụ cháy nổ đạn được cất giữ bên trong ngoài ý muốn. Các HTCTN này tạo ra hơn 25.000 mét vuông không gian được bảo vệ. Có lối vào dành cho các loại xe lớn. Ba tòa nhà nằm phía trên tổ hợp đường hầm có thể tạo ra thêm lối vào các boongke bằng thang bộ hoặc thang máy. Một khu nhà xưởng liền kề với mỗi HTCTN có thể cho phép bảo trì và nạp các bệ phóng tên lửa hoặc các hệ thống vũ khí lớn khác. Hình sau đánh số các tòa nhà giống hệt nhau tại mỗi cơ sở và phác họa các cấu trúc đi ngầm.

1681782124465.png


Mỗi thực thể chính cũng có các bể ngầm có khả năng chứa nhiên liệu và nước. Hình ảnh vệ tinh thương mại từ năm 2016 cho thấy mỗi bể lớn nhất có kích cỡ khoảng 48 mét x 48 mét. Những bể chứa lớn hơn này có thể dự trữ nhiều loại nhiên liệu khác nhau cho xe, máy bay, tàu thủy và các nhà máy phát điện diesel trên đảo. Giả sử với độ sâu tương đối là 5 mét, thì mỗi bể lớn có thể chứa được tương đương 11,5 triệu lít và tổng dung tích chứa là khoảng 150 triệu lít trên mỗi đảo san hô lớn. Dự trữ nhiên liệu và nước có thể hỗ trợ duy trì các hoạt động mà không cần tiếp tế trong nhiều tuần.

1681782186703.png

1681782217344.png


Sản xuất và phân bổ nguồn điện

Các nhà máy điện chạy bằng dầu điêzen có thể cung cấp năng lượng cho các thực thể nhân tạo. Hình ảnh vệ tinh thương mại cho thấy có hai nhà máy điện trên mỗi tiền đồn chính. Mỗi nhà máy nằm liền kề với các hầm chứa nhiên liệu dưới lòng đất. Nhà máy thứ hai được đặt cách đó vài km, có thể là để giảm thiểu khả năng bị phá hủy của cả hai nhà máy trong một cuộc tấn công hoặc thảm họa khác. Vệt khí thải dầu điêzen cho thấy rõ rằng các nhà máy điện ở đá Chữ Thập vận hành sáu máy phát điện chạy dầu điêzen cho mỗi nhà máy. Các nhà máy ở đá Subi cũng vận hành sáu máy phát điện chạy dầu điêzen nhưng dường như có thêm ba máy phát điện bổ sung. Các nhà máy điện ở Đá Vành Khăn có thể vận hành tối đa tám máy phát điện, và có thêm 2 máy bổ sung. Mỗi máy phát điện chạy dầu điêzen được lắp đặt trong khoang rộng 6 mét của nhà máy điện có khả năng tạo ra từ 2 đến 4 megawatt điện. Giả sử mỗi máy phát có công suất 2 megawatt, thì hai nhà máy trên đá Chữ Thập và đá Subi có khả năng tạo ra 24 megawatt điện cho mỗi rạn san hô trong khi hai nhà máy ở đá Vành Khăn có thể tạo ra 32 megawatt điện.

1681782313200.png


Các tấm pin mặt trời và tuabin gió đã xuất hiện trên đá Gạc Ma, nhưng không thấy xuất hiện trên các đá san hô ngầm do Trung Quốc chiếm giữ. Tóm lại, tất cả các tiền đồn trên Biển Đông có thể kết hợp năng lượng mặt trời và năng lượng gió trong các “lưới điện vi mô” trên từ đảo riêng lẻ để tăng tính hiệu quả và tạo thêm nguồn cung cấp nhiên liệu trên đảo. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đưa tin rằng đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đã thu được hiệu quả đáng kể nhờ sự ra đời của lưới điện thông minh được điều tiết từ đất liền. Các nhà bình luận lưu ý rằng mô hình lưới điện vi mô có thể sẽ được sử dụng tại các đảo đá ngầm khác trên Biển Đông.

1681782379987.png


.......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Chống do thám

Ngụy trang, che giấu và nghi binh lừa địch sẽ là một phần không thể thiếu trong các hoạt động quân sự của QĐTQ trên Biển Đông. Để đề phòng một cuộc tấn công, QĐTQ cũng có thể ngụy trang nguồn cung nhiên liệu. Lớp bê tông và cát phủ trên bể chứa có thể ngăn cản các cảm biến tình báo, giám sát và trinh sát phát hiện ra mức lưu trữ của bể chứa, không cho phép đối phương do thám và phát hiện các hoạt động của QĐTQ.

QĐTQ đã áp dụng kế sách ngụy trang, che giấu và nghi binh lừa địch vào việc xây dựng các đảo nhân tạo của họ do các rạn san hô có diện tích tương đối nhỏ và thiếu thảm thực vật. Các tiền đồn có rất nhiều cấu trúc che giấu sự hiện diện của các hệ thống quân sự và làm xáo trộn thực trạng bố trí các vị trí chiến đấu. Ngay cả khi kẻ thù phát hiện ra sự xuất hiện hoặc hiện diện của một hệ thống vũ khí hoặc đơn vị cụ thể, các tòa nhà và nơi trú ẩn trên các tiền đồn của QĐTQ ngăn cản đối phương thu thập thêm thông tin để xác định vị trí chính xác và trạng thái sẵn sàng chiến đấu của các hệ thống đó.

Đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn đều có trận địa tên lửa đất đối không (SAM) có thể chứa một tiểu đoàn SAM gồm tám thiết bị vận chuyển-lắp dựng-phóng (TEL) cũng như radar liên kết và các phương tiện hỗ trợ. Có hai khoang chứa trong mỗi hệ thống “ga ra” SAM TEL (20 mét x 22 mét). Các tòa nhà dường như có mái cơ động có thể thu vào cho phép thiết bị vận chuyển-lắp dựngphóng tên lửa theo phương thẳng đứng, chẳng hạn như tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9, di chuyển vào khoang chứa và sau đó dựng các ống phóng tên lửa. Các ga ra này được che phủ nhằm tránh việc phát hiện và tình trạng hoạt động của hệ thống SAM. Một radar theo dõi mục tiêu hoặc tầm soát không lưu dường như được bố trí trong một tháp radar gần đó nhằm ngăn cản sự theo dõi tình trạng sẵn sàng của tiểu đoàn SAM hoặc ý định sử dụng các tên lửa này.

1681981055369.png


Những cơ sở hạng tầng có vẻ như là để bố trí các tên lửa đất đối đất (SSM) cũng xuất hiện trên mỗi tiền đồn chính của Trung Quốc. Các cơ sở này là nơi triển khai các tên lửa đối đất, chẳng hạn như tên lửa hành trình chống hạm YJ-12 được cho là đã được triển khai tại các căn cứ của QĐTQ. Mỗi cơ sở được bố trí tên lửa đất đối đất bao gồm một nhà bốn khoang chứa xe vận chuyển-lắp dựng-phóng tên lửa (42 x 22 mét) và một nhà để xe nhỏ hơn có một khoang. Tương tự như các cơ sở tên lửa đất đối không SAM, tên lửa đất đối đất trong các nhà để xe này có thể được phóng từ bên trong các tòa nhà, nhìn bên ngoài sẽ không thấy được bất kỳ dấu hiệu nào về sự hiện diện của chúng.

1681981142923.png

1681981171115.png


Trong một kịch bản chiến đấu, các cuộc không kích gần như chắc chắn sẽ nhắm vào các tòa nhà chứa tên lửa đất đối đất SSM và đất đối không SAM của QĐTQ, điều đó cho thấy tính dễ bị tổn thương của các cơ sở cố định này. Các tòa nhà này giúp bảo vệ các hệ thống tên lửa được triển khai chống lại môi trường biển khắc nghiệt tại Biển Đông. QĐTQ cũng tin rằng việc ngụy trang thường xuyên sẽ giúp mang lại lợi thế khi xung đột xảy ra. Trước khi xảy ra xung đột, trinh sát của đối phương sẽ không thể xác định được các loại vũ khí được đặt trong các tòa nhà, liệu mỗi nhà để xe có thực sự chứa một xe vận chuyển-lắp dựng-phóng tên lửa TEL hoặc các hệ thống đó đã sẵn sàng khai hỏa hay không. Trong trường hợp không có thông tin chính xác, đối phương có thể đành phải đi đến giả thuyết rằng mỗi nhà để xe phải được trang bị một hệ thống đã ở trạng thái nạp đạn sẵn sàng chiến đấu, có uy lực nhất và tầm bắn xa nhất. Ngoài ra, các hệ thống tên lửa SAM và SSM có thể được phân tán, các tòa nhà để không. Tất cả những điều này được thiết kế để khiến đối thủ khó có thể dự đoán được và khó khăn trong việc tấn công.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Học thuyết quân sự của Trung Quốc, chẳng hạn như tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch của Học viện Khoa học Quân sự,Trung Quốc, công khai kêu gọi một kế hoạch toàn diện để ngụy trang, che giấu và phân tán trong việc thực hiện “chiến dịch phòng thủ căn cứ hải quân”. Trong một chiến dịch phòng thủ như vậy, QĐTQ có thể sẽ phân tán các phương ISR cơ động, hệ thống tên lửa và các hệ thống vũ khí khác được cất giấu trong các cơ sở dưới lòng đất hoặc những nơi khác trong khu đất bồi đắp có diện tích vài km vuông. Nếu các đảo đá ngầm mà Trung Quốc chiếm đóng bị đe dọa tấn công, chắc chắn các lực lượng cơ động mặt đất được triển khai tại các tiền đồn sẽ được phân tán với các biện pháp ngụy trang, đánh lừa, nghi binh tăng cường.

Các biện pháp ngụy trang, đánh lừa, nghi binh đặc trưng ở cấp chiến thuật được QĐTQ thực hành diễn tập nhằm ngăn chặn hoạt động trinh sát của đối phương bao gồm sử dụng lưới ngụy trang, khói, vật che khuất và mồi nhử. QĐTQ thường sử dụng thiết bị mồi nhử bơm hơi hoặc vật cứng để đánh lừa hoạt động ISR của đối phương. Việc ngụy trang của QĐTQ có thể sẽ tác động lớn nhất đến việc trinh thám bằng khí tài quang điện của đối phương, vốn đã dễ bị ảnh hưởng bởi mây hoặc thời tiết xấu. Những công-ten-nơ chứa hàng và các tòa nhà nằm rải rác trên các rạn đảo san hô cũng có thể là thách thức với hệ thống radar khẩu độ tổng hợp trong không gian hoặc trong việc xác định ra các thiết bị quân sự của QĐTQ. QĐTQ cũng sử dụng ngụy trang phản xạ radar để vô hiệu hóa các cảm biến quang điện.

Hình bên dưới cho thấy có thể đây là một trận địa tác chiến điện tử hoặc tình báo, trinh sát và do thám trên đá Vành Khăn. Ngay cả khi những phương tiện này bị để lộ rõ ràng như vậy, QĐTQ vẫn sử dụng lưới ngụy trang để ngăn chặn việc nhận dạng chủ động kiểu loại hệ thống cơ động và chức năng của nó. Ngoài ra, hãy lưu ý hàng chục công-ten-nơ hàng tại tòa nhà của căn cứ nằm ở phía dưới bên phải của hình ảnh. Hàng trăm công-ten-nơ được sử dụng cho việc xây dựng nằm rải rác khắp các tiền đồn lớn của Trung Quốc và chúng có thể tạo ra lớp vỏ bảo vệ cho các lực lượng cơ động được triển khai sẵn sàng chống lại sự do thám hoặc các cuộc không kích.

1681981515833.png


Máy bay chiến đấu, máy bay ISR và máy bay trực thăng được triển khai đến các đảo này có thể được cất giữ bên trong hàng chục nhà chứa máy bay tại các sân bay nhằm mục đích chống quan sát. Mỗi sân bay trên thực thể ngầm có 24 nhà chứa máy bay chiến đấu để chứa 24 máy bay thuộc biên chế của một trung đoàn không quân hoặc trung đoàn máy bay chiến đấu hải quân tiêu chuẩn. Ngoài việc bảo vệ máy bay khỏi độ ẩm và không khí mặn của Biển Đông, các nhà chứa máy bay còn chống lại việc do thám từ trên cao trạng thái chiến đấu của lực lượng phòng không hoặc máy bay chiến đấu. Nếu có ít hơn 24 máy bay được triển khai tới bất kỳ tiền đồn nào, các nhà chứa máy bay cũng cho phép QĐTQ gây khó khăn cho hoạt động ISR của đối phương. Các phân đội nhỏ hơn của các loại máy bay khác nhau có thể được bố trí phân tán và trải đều trong số 72 nhà chứa máy bay cỡ máy bay chiến đấu trên Biển Đông. Việc bố trí nhiều loại máy bay và nhà chứa khác nhau ở các sân bay làm cho đối phương gặp khó khăn hơn trong việc xác định mục tiêu và tăng cơ hội sống sót cho máy bay khi QĐTQ đối mặt với các cuộc tấn công.

1681981661207.png

J-16 của TQ trên Biển Đông

Tương tự, các máy bay lớn, như máy bay ném bom H-6, máy bay hỗ trợ như máy bay tình báo, giám sát và trinh sát và tác chiến điện tử, hoặc máy bay vận tải có thể được đặt trong bốn nhà chứa máy bay cỡ lớn trên đá Chữ Thập và đá Subi hoặc năm nhà chứa cỡ lớn trên đá Vành Khăn. Các nhà chứa máy bay lớn nhất có kích cỡ 68 mét x 64 mét, đủ lớn để chứa máy bay vận tải Y-20; các nhà chứa máy bay nhỏ hơn có kích cỡ 52 mét x 56 mét, đủ lớn để chứa bất kỳ máy bay loại Y-9 nào. Các nhà chứa máy bay này có đủ không gian để bốc dỡ hàng từ máy bay vận tải mà không bị đối phương quan sát. Các phương tiện bay không người lái (UAV) cỡ lớn, có thời gian hoạt động lâu không thể đưa vào các nhà chứa máy bay chiến đấu do sải cánh của chúng quá dài và cần phải được đưa vào các nhà chứa lớn hơn.

1681981774699.png

Máy bay Trung Quốc trên Biển Đông

Máy bay trực thăng có thể sử dụng các nhà chứa lớn hoặc nhỏ để bí mật chuẩn bị và tải quân cho một cuộc đột kích vào một hòn đảo gần đó trên Biển Đông, giảm thời gian cảnh báo cho tiền đồn mục tiêu hoặc lực lượng bảo vệ đảo của đối phương. Máy bay trực thăng quân sự lớn nhất của Trung Quốc, phiên bản Hải quân, Z-8, có cánh quạt gấp và dễ dàng bố trí trong các nhà chứa máy bay chiến đấu.

1681981825351.png


......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Kiểm soát môi trường chiến trường

Các đảo san hô do Trung Quốc chiếm giữ cũng cung cấp nguồn thông tin đầy đủ về định vị, dẫn đường và xác định thời gian được thu thập ngay trên thực địa. Các dịch vụ này có thể kiểm chứng hoặc bổ sung cơ sở dữ liệu cho Hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu bao gồm các thiết bị định vị, dẫn đường và xác định thời gian được tích hợp trong các mối liên kết dữ liệu của Trung Quốc hoặc hệ thống truyền thông di động 4G/5G. Mỗi sân bay trên các thực thể ngầm lớn cũng có các radar Doppler tần số rất cao (VHF) đảm nhiệm việc dẫn đường đa hướng (DVOR) (xem Hình 12). Ngay cả trong điều kiện môi trường mà ở đó vệ tinh định vị bị vô hiệu hóa, các đèn hiệu DVOR băng tần VHF này vẫn cho phép dẫn đường tương đối chính xác cho máy bay và phương tiện bay không người lái ở khoảng cách trên 185 km (100 hải lý) từ mỗi đảo đá ngầm chính.

1682222599249.png

Các vị trí đặt thiết bị Dẫn đường Đa hướng Tiếp giáp với Đường băng trên đá Chữ Thập (Trái), đá Subi (ở giữa) và đá Vành Khăn (Phải)

Đối đầu thông tin không chỉ giới hạn ở sự cạnh tranh giữa các thiết bị tác chiến điện tử hoặc hệ thống thông tin máy tính. Các biện pháp đối phó vật lý gồm cơ sở hạ tầng được gia cố, ngụy trang, che giấu và nghi binh cũng góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng lực tác chiến thông tin của QĐTQ bằng cách vô hiệu hóa một cách hiệu quả việc xâm nhập của đối thủ vào nguồn thông tin về không gian chiến trường và khả năng và ý định tác chiến của QĐTQ.

Các cơ sở được gia cố, như kho chứa ngầm tại các đảo trên Biển Đông là nơi bảo vệ cho các hệ thống vũ khí và đạn dược. Chúng cũng nhằm đối phó với việc do thám của đối phương muốn thu thập thông tin về số lượng và các loại khí tài quân sự có thể được cất giấu bên trong. Các bồn thép trên mặt đất sẽ là một phương án tương đối rẻ và hiệu quả để dự trữ nhiên liệu và nước trên các tiền đồn của QĐTQ. Tuy nhiên, việc gia cố kho chứa chất lỏng bằng bê tông và đặt ngầm dưới lòng đất để chống lại các cuộc tấn công tiềm tàng lại phục vụ cho việc che giấu thông tin về việc QĐTQ có bao nhiêu nhiên liệu và nước dự trữ trên đảo. Trong trường hợp không có địa hình và thảm thực vật trên các đảo nhân tạo, QĐTQ có nhiều biện pháp ngụy trang, che giấu, và nghi binh khác có thể bao gồm việc đặt các công-tennơ ở trong hoặc giữa các tòa nhà, sử dụng ngụy trang hoặc triển khai mồi nhử.

1682222728482.png


Giám sát không gian chiến trường vật lý và thu thập dữ liệu thời tiết và thủy văn từ các tiền đồn trên Biển Đông cũng mang lại lợi thế về thông tin cho QĐTQ. Việc liên tục thu thập dữ liệu liên quan đến thời tiết có thể nâng cao đáng kể khả năng chi phối và kiểm soát lĩnh vực tác chiến điện từ của QĐTQ. Bảy căn cứ của Trung Quốc trên Biển Đông cũng có khả năng cung cấp các thông tin về định vị, dẫn đường và xác định thời gian tại thực địa nhằm giảm thiểu các mối đe dọa đối với định vị vệ tinh của Trung Quốc hoặc cho phép QĐTQ vẫn hoạt động được trong một môi trường mà hệ thống vệ tinh định vị, dẫn đường và xác định thời gian đã bị vô hiệu hóa.

1682222771350.png


Các khoản đầu tư của QĐTQ nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng, ngụy trang, che giấu, nghi binh và giám sát môi trường thể hiện một chiến lược chiến tranh trong điều kiện thông tin hóa của Trung Quốc với mục đích kiểm soát thông tin trong không gian chiến trường. Để chống lại hệ thống của các hệ thống phức tạp của Trung Quốc được thiết kế để kiểm soát môi trường thông tin vật lý và ảo đòi hỏi phải có một cách tiếp cận mang tính hệ thống của các hệ thống tích hợp để vô hiệu hóa các biện pháp đối phó của QĐTQ nhằm giành được và duy trì ưu thế thông tin trong bất kỳ cuộc xung đột trên Biển Đông nào trong tương lai.

1682222843539.png



....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

PHẦN 6: NĂNG LỰC TIẾN CÔNG VÀ PHÒNG THỦ CỦA TRUNG QUỐC TỪ CÁC ĐẢO NHÂN TẠO TRÊN BIỂN ĐÔNG

Năng lực tiến công và phòng thủ trên các thực thể nhân tạo có thể được mô tả là có tính chất "mô-đun". Cơ sở hạ tầng trên những tiền đồn của QĐTQ được xây dựng để chứa các tổ hợp vũ khí tầm gần (CIWS), tên lửa đất đối không (SAM), tên lửa đất đối đất (SSM), máy bay cỡ lớn, máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng. Phần lớn các hệ thống vũ khí của QĐTQ là cơ động đường bộ hoặc có thể di dời. Những đảo đá ngầm chính - đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn - đủ lớn để chứa hầu như bất kỳ hệ thống vũ khí hoặc máy bay cơ động nào trong kho vũ khí của QĐTQ. Được vận chuyển bằng tàu hoặc máy bay, việc triển khai các năng lực tiến công hoặc phòng thủ trong tương lai tới những đảo đá ngầm ở Biển Đông có thể xảy ra mà không có dấu hiệu cảnh báo nào.

1682222999510.png


QĐTQ có một loạt những hệ thống vũ khí có thể được triển khai tới những tiền đồn ở Biển Đông của họ. Theo truyền thông phương Tây dẫn nguồn tin của Bộ Quốc phòng Mỹ, tại quần đảo Trường Sa, những tên lửa hành trình chống hạm (ASCM) HQ-9 và YJ-12 đã được triển khai tới đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn vào năm 2018. Gần đây hơn, vào năm 2020, những máy bay làm nhiệm vụ đặc biệt, chẳng hạn như máy bay kiểm soát và cảnh báo đường không sớm KJ-500 (AEW&C) và máy bay tác chiến chống ngầm KQ-200 (ASW), đã được triển khai tới những đảo đá ngầm ở Biển Đông.

1682223077699.png

HQ-9

Kích cỡ của các thực thể nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông - hơn 12 km2 - cho phép QĐTQ triển khai bất kỳ hệ thống vũ khí nào. Vì Trung Quốc coi trọng tính cơ động và khả năng sống còn của lực lượng nên hầu hết vũ khí, thiết bị tác chiến điện tử (EW) và hệ thống C4ISR của QĐTQ đều có thể cơ động đường bộ hoặc ít nhất là có thể di dời. Các loại vũ khí từ tên lửa hành trình đến hệ thống phòng không đến tên lửa đường đạn đều có thể triển khai trên thiết bị vận chuyểnlắp thẳng đứng-phóng di động (TEL) được thiết lập, khai hỏa và di chuyển, đôi khi chỉ trong vòng vài phút. Bỏ qua những nhạy cảm về địa chính trị có thể ngăn cản Bắc Kinh đặt một số vũ khí chiến lược nhất định ở Biển Đông, không có giới hạn vật lý hoặc thực tế nào đối với các loại hệ thống vũ khí được triển khai tới những tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông.

1682223181591.png

KQ-200 (ASW)

Ngoài những cơ sở có thể chứa hầu như bất kỳ hệ thống vũ khí mặt đất nào, các sân bay trên các đảo đá ngầm lớn có thể chứa bất kỳ máy bay nào trong kho vũ khí hiện tại của Lực lượng Không quân, Không quân Hải quân hay Lục quân Trung Quốc, cũng như bất kỳ máy bay hoặc máy bay ném bom hạng nặng nào trong tương lai. Những căn cứ hải quân ở những tiền đồn này dường như có bến tàu đủ để tiếp nhận, tiếp tế và tái trang bị cho hầu hết các tàu của Hải quân Trung Quốc hoặc Cảnh sát biển Trung Quốc. Tuy nhiên, các tàu có mớn nước sâu, chẳng hạn như tàu sân bay, có lẽ không thể đi vào những vũng tương đối nông quanh các thực thể nhân tạo.

1682223357878.png
 

ubisapro

Xe trâu
Biển số
OF-335434
Ngày cấp bằng
19/9/14
Số km
31,178
Động cơ
970,358 Mã lực
E chả có lòng tin vào sức mạnh của a hàng xóm lắm. Tất nhiên khè nước nhỏ thì ok, chứ gặp cường quốc khéo chạy mất dép :D
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
E chả có lòng tin vào sức mạnh của a hàng xóm lắm. Tất nhiên khè nước nhỏ thì ok, chứ gặp cường quốc khéo chạy mất dép :D
Họ cứ lấn ép hàng xóm là mình mệt rồi cụ

1682388766554.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Một loạt những hệ thống vũ khí của QĐTQ có thể được triển khai tới các đảo đá ngầm kết hợp cả xác định mục tiêu thụ động và chủ động cũng như những công nghệ động cơ và cấu hình tên lửa khác nhau, tạo ra cách thức tiến công đa dạng, thách thức đáng kể khả năng phòng thủ của bất kỳ đối thủ nào.

1682389204123.png

HQ- 9

Đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành Khăn đều có những cơ sở có thể chứa một tiểu đoàn tên lửa đất đối không (SAM) điển hình của Không quân hoặc Hải quân Trung Quốc, bao gồm tám bệ phóng thẳng đứng, cơ động và những phương tiện hỗ trợ, ra đa liên quan. Mỗi tòa nhà chứa bệ phóng thẳng đứng (20 × 22 mét) có mái có thể thu vào cho phép phóng vũ khí thẳng đứng, chẳng hạn như SAM tầm xa HQ- 9 hoặc SAM tầm trung HQ-16, được lái vào ga-ra và nâng các ống tên lửa ở bên trong. Những ga-ra này che giấu sự hiện diện và tình trạng hoạt động của hệ thống SAM của QĐTQ. Một ra đa liên kết với SAM dường như được đặt trong một tháp tại cơ sở SAM cũng ngăn chặn việc trinh sát về tình trạng sẵn sàng của tiểu đoàn SAM hoặc ý định sử dụng những tên lửa này (xem Hình 4). Những ga-ra chứa bệ phóng dựng đứng cơ động mang tên lửa đất đối đất (SSM) được bố trí cùng với những cơ sở SAM trên đá Chữ Thập và đá Vành Khăn.

1682389331344.png

HQ-16

1682389359000.png

Các cơ sở SAM trên đá Chữ Thập (bên trái), đá Vành Khăn (phía trên bên phải), và đá Subi (phía dưới bên phải)

Hệ thống phòng không tầm xa.

Theo báo cáo của giới truyền thông, các hệ thống SAM HQ-9B đã được triển khai tới các đảo đá ngầm chính từ năm 2018. HQ-9B (红旗 -9B) là biến thể dã chiến mới nhất trong loạt SAM HQ-9 của QĐTQ. Tổ hợp SAM cơ động trên bộ này gồm 4 ống phóng tên lửa trên mỗi bệ phóng, dựa trên hệ thống SAM S-300 (SA-20) của Nga. Tên lửa HQ-9B được cho là tích hợp thiết bị tìm kiếm hồng ngoại thụ động với ra đa bán chủ động của HQ-9. Biến thể trên tàu của SAM này, HHQ-9 (海 红旗 - 9B), được cho là đã được trang bị trên những lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường (DDG) và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường (CG) của HQTQ. Trong khi các phiên bản trước của hệ thống tên lửa này có tầm bắn tối đa là 200 km (108 hải lý), thì HQ-9B được cho là có tầm bắn lên tới 300 km (162 hải lý).

1682389439876.png

HQ-9B

Phòng không tầm trung.

Ngoài các tổ hợp SAM tầm xa, QĐTQ có thể sẽ triển khai các hệ thống tầm gần hơn, chẳng hạn như HQ-16 (红旗 -16), tới các đảo đá ngầm. HQ-16 được cho là dựa trên tên lửa Buk (SA-11) của Nga. Giống như HQ-9, HQ-16 là hệ thống cơ động đường bộ và nâng bệ phóng lên thẳng đứng để phóng tên lửa từ 6 ống chứa tên lửa. HQ-16 cung cấp khả năng phòng không trong khu vực cho những khí tài quan trọng và được tối ưu hóa để đánh chặn máy bay, máy bay không người lái (UAV), tên lửa hành trình bay thấp và vũ khí không đối đất với tầm bắn tối đa 40 km (21,6 hải lý).

1682389514007.png

HQ-16

Phòng thủ tầm gần.

Hơn ba mươi trạm quan sát và bệ súng cung cấp khả năng giám sát bằng hình ảnh và phòng thủ tầm gần cho những tiền đồn ở Biển Đông của Trung Quốc. Các tiền đồn phòng thủ này có thể được trang bị ra đa tìm kiếm trên biển, ra đa điều khiển hỏa lực đối với bệ súng và quang điện tầm xa và camera hồng ngoại.

1682389578607.png

Trạm quan sát loại lớn và giá súng trên đá Chữ Thập (bên trái phía trên) và trạm quan sát loại nhỏ và giá súng trên đá Vành Khăn (bên phải phía trên) và CIWS LD2000 (bên trái).

Cùng với đó, các trạm quan sát với những cảm biến và vũ khí của chúng tạo ra khả năng bảo vệ 360 độ cho từng tiền đồn trước sự xâm nhập của tàu mặt nước và những mục tiêu bay thấp, chẳng hạn như tên lửa hành trình hoặc trực thăng. Các trạm quan sát loại lớn được đặt những vòm ra đa nhỏ ở trên, trừ trạm quan sát trên đá Chữ Thập là không thấy có vòm ra đa trong hình ảnh vệ tinh thương mại. Bệ súng dường như cũng được đặt ra đa tìm kiếm trên biển/dẫn đường có thể cung cấp hình ảnh giám sát mặt biển và độ cao thấp tích hợp cho mỗi đảo đá ngầm. Những bệ súng cỡ lớn hiện diện rõ ràng trên những trạm quan sát loại lớn được bổ sung bởi một tổ hợp vũ khí đánh gần (CIWS), chẳng hạn như súng Gatling dẫn hướng bằng ra đa LD2000. LD2000 là một biến thể lắp trên mặt đất của CIWS Type-730 lắp trên tàu của HQTQ.

1682389659735.png

Tổ hợp súng Gatling dẫn hướng bằng ra đa LD2000

Chống xâm nhập.

Các trạm quan sát cũng có thể có hệ thống phòng thủ chống thợ lặn. Năm 2017, chính quyền Trung Quốc thông báo rằng QĐTQ đã lắp đặt bệ phóng rốc két chống người nhái 55mm CS-AR1 Norinco trên đá Chữ Thập, với mục đích phòng thủ chống đặc công. Để hỗ trợ cho hệ thống phòng thủ dưới nước sử dụng đạn chìm cỡ lựu đạn này, các đảo đá ngầm có thể kết hợp các rào cản vật lý, một ra đa mảng thủy âm hoặc sonar cao tần để phát hiện thợ lặn tiếp cận hoặc các phương tiện dưới nước.

1682389757701.png

Rốc két chống người nhái 55mm CS-AR1

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Phòng không và máy bay cường kích

Cơ sở hạ tầng sân bay. Những đường băng trên ba đảo đá ngầm lớn nhất của Trung Quốc có thể tiếp nhận hầu như bất kỳ máy bay nào của Trung Quốc, kể cả máy bay ném bom H-6 của KQTQ hoặc KQHQTQ. Đá Chữ Thập và đá Subi có đường băng dài 3.000 mét, trong khi đá Vành Khăn có đường băng dài 2.700 mét.

1682390330744.png

Sân bay trên đá Chữ Thập

Không thể loại trừ việc triển khai máy bay ném bom tới các tiền đồn; tuy nhiên, như một vấn đề thực tế, những máy bay tầm xa với tải trọng vũ khí nặng như vậy có thể sẽ xuất kích từ những căn cứ trên đảo Hải Nam của Trung Quốc hoặc trên đất liền. Về ảnh hưởng địa chính trị, việc triển khai máy bay ném bom tới các đảo đá ngầm có thể được sử dụng để gửi thông điệp mạnh mẽ tới kẻ thù. Tuy nhiên, một trong những trở ngại đối với việc triển khai số lượng lớn máy bay ném bom đến Biển Đông là việc thiếu chỗ đậu máy bay lớn tại mỗi sân bay.

1682390361057.png

Sân bay trên đá Vành Khăn

Máy bay chiến đấu có nhiều khả năng được triển khai tới các đảo đá ngầm bao gồm máy bay ném bom chiến đấu tầm ngắn hoặc máy bay chiếm ưu thế trên không. Mỗi sân bay trên những đảo đá ngầm của Trung Quốc có 24 nhà chứa máy bay chiến đấu cỡ lớn. Thông thường, mỗi trung đoàn máy bay chiến đấu hoặc máy bay ném bom chiến đấu của KQTQ hoặc KQHQTQ có 24 chiếc. Về mặt hậu cần và nhân viên bảo trì máy bay, sẽ là thực tế nếu duy trì trên mỗi tiền đồn một trung đoàn với riêng từng loại máy bay (ví dụ: tất cả các máy bay JH-7 tại một sân bay, tất cả các máy bay J-11 ở một sân bay khác). Tuy nhiên, những máy bay này có thể được bố trí kết hợp trên ba sân bay tùy thuộc vào nhu cầu hoạt động. Tổ hợp 72 nhà chứa máy bay có thể được triển khai theo kiểu "trò chơi vỏ bọc", di chuyển một số ít máy bay trong số hàng chục nhà chứa, làm phức tạp việc xác định mục tiêu của kẻ thù.

1682390431700.png

Bố trí nhà chứa máy bay trên Đá Subi

Máy bay chiến đấu.

Những đợt triển khai tới tiền đồn ở Biển Đông có thể bao gồm các máy bay chiến đấu đa năng của KQTQ hoặc KQHQTQ như J-10 thế hệ thứ tư. Những máy bay được triển khai trên đảo đá ngầm nhiều khả năng là các phiên bản Su-27 Flankers của Nga, J-11 hoặc J-16, hoặc máy bay trên tàu sân bay J-15 do Trung Quốc sản xuất. Các đảo đá ngầm cũng có thể chứa những máy bay chiến đấu chiếm ưu thế trên không của KQTQ như máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm J-20

1682390561232.png

J-11 TQ tại đá Subi

1682390746520.png

J-16

Máy bay chiến đấu có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ tiến công và phòng thủ, bao gồm cả đột kích chống lại tàu địch hoặc tiến công những lực lượng trên các đảo đá ngầm lân cận hoặc những mục tiêu mặt đất khác ở Đông Nam Á. Máy bay chiến đấu cũng có thể tiến hành tuần tra phòng thủ đường không (DCA), bảo vệ chống lại máy bay địch tiến công hoặc nhiệm vụ phản công đường không (OCA), nhắm mục tiêu máy bay đối phương như một phần của hành động tiến công.

Tên lửa không đối không (AAM).

Trong vai trò DCA, các AAM từ máy bay chiến đấu bổ sung cho hệ thống phòng thủ SAM bằng cách mở rộng phạm vi giao tranh chống lại máy bay đối phương ngoài phạm vi các trận địa SAM trên mặt đất, cung cấp khả năng tác chiến ở độ cao thấp (đó là "nhìn xuống, bắn hạ" từ trên cao, không bị giới hạn bởi giới hạn đường chân trời của ra đa mặt đất). Trong vai trò OCA, AAM tầm xa có thể được sử dụng để tiêu diệt DCA của đối phương hoặc để tiến công máy bay chỉ huy, điều khiển và ra đa cũng như máy bay tình báo, giám sát và trinh sát (ISR) hoặc máy bay tuần thám biển. Sự đe dọa các khí tài lớn, cố định, có giá trị cao (HVAA) này bằng tên lửa tầm xa có thể lái máy bay ISR của đối phương ra đủ xa khỏi những căn cứ và đội tàu của QĐTQ để chúng sẽ không thể cung cấp bất kỳ thông tin có ý nghĩa nào về hoạt động hoặc ý định của QĐTQ.

1682390919954.png


AAM PL-12 lớn hơn một chút so với tên lửa không đối không tầm trung tiên tiến AIM-120 của Mỹ (AMRAAM) và được cho là có tầm bắn tương tự, 100 km. AAM PL-15 là loại AAM mới nhất và tầm xa nhất của Trung Quốc có thể được mang theo bởi hầu hết các máy bay chiến đấu của KQTQ/KQHQTQ. J-20 dường như được chế tạo nhằm mục đích mang theo 4 quả AAM PL-15 tầm xa ở khoang chứa vũ khí bên trong. PL-15 có tầm bắn dự kiến là 150 km và có thể lên tới 200 km. Mối đe dọa từ AAM tầm xa của Trung Quốc đã dẫn đến bình luận vào năm 2015 từ người đứng đầu Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ khi đó, Tướng Herbert J. “Hawk” Carlisle rằng phát triển năng lực vượt xa PL-15 là một trong những ưu tiên cao nhất đối với Lực lượng Không quân Mỹ

1682391065685.png

AAM PL-12

1682390999422.png

AAM PL-15

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay ném bom/máy bay chiến đấu-ném bom.

Việc triển khai máy bay ném bom hạng nặng của KQTQ hoặc KQHQTQ tới các đảo đá ngầm là có thể nhưng lại có thể là động thái nhằm gây ảnh hưởng đến các bên trong khu vực hơn là nỗ lực mở rộng phạm vi hoạt động của các máy bay vốn đã có tầm hoạt động xa. Mặc dù bị hạn chế bởi nhà chứa máy bay và không gian đậu hạn chế cho các máy bay lớn khác, nhưng các máy bay ném bom có thể triển khai đến những sân bay trên đảo đá ngầm bao gồm máy bay ném bom đột kích hàng hải H-6G của KQHQTQ hoặc H-6K cải tiến của KQTQ. H-6J được cho là phiên bản đột kích trên biển của H-6K.

1682681087448.png

H-6J

Máy bay ném bom chiến đấu hoặc máy bay chiến đấu đột kích có thể triển khai đến các sân bay trên đảo đá ngầm ở Biển Đông bao gồm JH-7 mang vũ khí tiến công mặt đất hoặc chống hạm hoặc máy bay chiến đấu đột kích J-16 đa năng, hoạt động trong mọi thời tiết, được mô phỏng theo Su-30 Flanker của Nga. J-16 có khả năng mang vũ khí không đối đất, ASCM và AAM tầm xa. Những máy bay này có thể sẽ thay thế những máy bay JH-7 đã cũ của KQTQ và KQHQTQ, cũng như những máy bay Su-30MKK do Nga sản xuất của KQHQTQ.

1682681187785.png

JH-7

Máy bay tiếp nhiên liệu trên không.

Máy bay tiếp nhiên liệu trên đảo có thể mở rộng phạm vi hoạt động và thời gian tuần tra của máy bay chiến đấu trên đảo, hỗ trợ tiếp nhiên liệu cho máy bay chiến đấu trên tàu sân bay hoạt động ở Biển Đông hoặc tăng thời gian trực chiến cho máy bay C4ISR, chẳng hạn như những máy bay KJ-500 AEW&C. Tính đến năm 2020, QĐTQ có tương đối ít máy bay tiếp nhiên liệu trên không, bao gồm một số máy bay tiếp nhiên liệu Il-78 do Nga chế tạo, cũng như 20 máy bay ném bom được chuyển đổi thành máy bay tiếp nhiên liệu, được đặt ký hiệu H-6U.

1682681282473.png

1682681433109.png

H-6U

Những báo cáo gần đây cho biết một số máy bay vận tải mới nhất của QĐTQ, chẳng hạn như Y-20, có thể đã được chuyển đổi để tiếp nhiên liệu trên không. Tháng 12/2020, một chiếc Y-20 đã được thấy trên đường băng tại Đá Chữ Thập, là chuyến bay đầu tiên của một máy bay Y-20 đến một tiền đồn ở Biển Đông được phát hiện bằng hình ảnh vệ tinh thương mại. Tải trọng vũ khí nặng có thể dễ dàng giảm 50% phạm vi tối đa đạt được khi không có vũ khí của máy bay chiến đấu.

Tác chiến chống tàu ngầm

Các rào cản về vận hành và kỹ thuật liên quan đến ASW sẽ tiếp tục thách thức HQTQ và KQHQTQ trong thời gian tới. Phát hiện, xác định mục tiêu và tiến công tàu ngầm đối phương trong môi trường dưới nước là một trong những nhiệm vụ quân sự khó khăn nhất. HQTQ được cho là đã đạt được nhiều tiến bộ trong chiến tranh phòng không và chiến tranh chống tàu mặt nước, mặc dù có những dấu hiệu cho thấy ASW đã đạt được những tiến bộ nhất định trong vài năm qua.

1682681501475.png


Trung Quốc hiện đang tham gia vào nỗ lực phối hợp nhằm tăng cường năng lực của HQTQ trong môi trường dưới biển và thực hiện trinh sát âm thanh từ những ra đa mảng cố định, máy bay ASW và tàu mặt nước. Tuy nhiên, ngay cả khi HQTQ có thể phát hiện tàu ngầm đối phương ở tầm xa, vũ khí dưới nước, như ngư lôi hoặc đương lượng nổ ngầm, có tầm hoạt động rất ngắn. Nói chung, một khi được phát hiện thông qua các thiết bị thu âm thanh hoặc phi âm thanh, tàu ngầm vẫn phải được xác định vị trí bằng một tàu ngầm khác, một tàu hoặc một máy bay ASW trước khi tàu/máy bay đó có thể tiến công mục tiêu bằng vũ khí dưới nước tầm ngắn.

1682681583875.png


Kiểm soát thông tin chiến trường cục bộ - loại hình được cung cấp bởi năng lực C4ISR trên đảo đá ngầm - kết hợp với năng lực tác chiến phòng không tầm xa và tác chiến chống tàu mặt nước, có thể đối trọng với những thiếu sót của QĐTQ về ASW và những thách thức cố hữu trong việc xử lý những mục tiêu dưới nước. Ưu thế thông tin hỗ trợ ưu thế trên không và trên mặt nước tạo điều kiện cho các hoạt động ASW và mang lại không gian và thời gian cho lực lượng ASW của QĐTQ. Ưu thế trên không và trên biển ở một khu vực hạn chế như ở Biển Đông cũng sẽ loại trừ máy bay và tàu ASW của đối phương, từ đó bảo vệ tàu ngầm Trung Quốc khỏi tất cả các loại vũ khí truy đuổi trừ tàu ngầm của địch.

Máy bay ASW.

Hoạt động từ những sân bay trên đảo đá ngầm, thay vì từ lục địa Trung Quốc hoặc đảo Hải Nam, cho phép các máy bay ASW cánh cố định của HQTQ thực hiện các cuộc tuần tra lâu hơn ở vùng biển phía nam của Biển Đông. Các máy bay trực thăng có thể hoạt động từ các đảo đá ngầm cũng sẽ cho phép tìm kiếm và truy đuổi ASW trong vùng lân cận của các đảo đá ngầm.

1682681672257.png

KQ-200

KQ-200, còn được biết đến là Y-9Q hoặc GX-6, là máy bay tuần thám biển (MARPAT)/ASW của KQHQTQ . KQ-200 có khoang vũ khí bên trong cho ngư lôi và đương lượng nổ ngầm để tiến công tàu ngầm địch. Máy bay ASW/MARPAT này được thiết kế để mang ASCM bên trong thân máy bay hoặc ở các móc gắn trên cánh, nhưng điều này chưa được xác nhận.

1682681753941.png

Z-18F

Các máy bay trực thăng ASW có thể hoạt động từ đảo đá ngầm bao gồm Z- 9C, nhưng nhiều khả năng sẽ có thêm Z-18F là phiên bản dựa trên trực thăng vận tải hạng trung Z-8. Z-18F quá lớn trong các hoạt động của HQTQ nhưng sẽ là lý tưởng để tiến hành các hoạt động ASW cách các đảo đá ngầm vài trăm km. Z-18F có một ra đa tìm kiếm tàu mặt nước, một sonar nhúng và mang ngư lôi Yu-7 hạng nhẹ để tiến công các mục tiêu dưới nước. Tháng 4/2020, một máy bay ASW/MARPAT KQ-200 và một chiếc trực thăng Z-8 hoặc Z-18, cả hai khả năng đều thuộc KQHQTQ, đã được thấy trong hình ảnh vệ tinh thương mại tại sân bay trên đá Chữ Thập trong lần triển khai ở Biển Đông đầu tiên của chúng. Máy bay trực thăng ASW trong tương lai có thể hoạt động từ các đảo đá ngầm bao gồm Z- 20F, một loại trực thăng quân sự mới của Trung Quốc có thể là bản sao máy bay trực thăng MH-60 Seahawk của Mỹ.

1682681803087.png

Z- 20F

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tác chiến chống tàu mặt nước

Cơ sở hạ tầng tên lửa hành trình chống hạm.

Mỗi tiền đồn chính của Trung Quốc có thể bố trí hai cơ sở tên lửa bờ đối hạm (SSM). Một bãi bê tông lớn được đặt ở phía tây nam đá Subi có thể hữu ích cho các việc phóng tên lửa. Cơ sở SSM phía Đông trên đá Vành Khăn và cơ sở SSM phía Đông Nam trên đá Chữ Thập nằm cùng với các cơ sở SAM. Các cơ sở SSM có thể là nơi chứa các TEL ASCM YJ-12 được cho là đã được triển khai tới các đảo đá ngầm. Tuy nhiên, những cơ sở này cũng có thể chứa các loại vũ khí đất đối đất khác, chẳng hạn như LACM.

Mỗi cơ sở SSM bao gồm một nhà chứa TEL bốn ống phóng (42 × 22 mét). Giống như nhà chứa TEL SAM, mỗi nhà chứa TEL SSM có một cửa nhỏ để một TEL có thể vào. Đối diện với lối vào, nhà chứa có những cánh cửa rất lớn mở ra cho phép TEL SSM bắn tên lửa ở góc cao từ bên trong nhà chứa. Các cửa có chiều cao từ mặt đất đến trần nhà này đều hướng ra mặt biển và có thể được thấy trong những hình ảnh vệ tinh thương mại.

1682742629623.png


ASCM YJ-12. ASCM YJ-12 là tên lửa hành trình lướt trên mặt biển, siêu thanh có thể được phóng từ tàu, máy bay hoặc TEL đặt trên xe tải. YJ-12E, còn được biết đến với tên chỉ định xuất khẩu CM-302, lần đầu tiên được ra mắt từ một TEL trong hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm Hàng không Trung Quốc 2016 (xem Hình 18). YJ-12E/CM-302 ASCM có tầm hoạt động tối đa được quảng cáo là 290 km (157 hải lý). Theo một số nguồn tin của Trung Quốc, phiên bản xuất khẩu của tên lửa này bị giới hạn tầm bắn dưới 300km để tuân thủ những hạn chế xuất khẩu do Chế độ kiểm soát công nghệ tên lửa quốc tế (MTCR) đặt ra. Phiên bản QĐTQ của YJ-12 lớn hơn, dài 7 mét (23 feet) và có thể có tầm bắn xa hơn nhiều, trên 500 km (270 hải lý)

1682742684631.png


1682742778400.png

YJ-12B

Tên lửa đường đạn chống hạm (ASBM).

ASBM CM-401 được Tập đoàn Công nghiệp và Khoa học Hàng không Vũ trụ Trung Quốc (CASIC) quảng cáo là một ASBM siêu vượt âm, cơ động. Tên lửa chưa được biết đến trước đây này lần đầu tiên xuất hiện tại Triển lãm Hàng không Trung Quốc 2018. Tầm bắn phiên bản xuất khẩu của tên lửa đường đạn nhỏ gọn này tương đối khiêm tốn, khoảng 290 km (157 hải lý), một lần nữa, có thể là để tuân thủ các hạn chế xuất khẩu của MTCR. Đường cắt của hình nón mũi tên lửa cho thấy một An ten mảng pha được mô tả như một thiết bị tìm kiếm chủ động để dẫn đường đến mục tiêu. Những hộp kép ASBM được thấy trên TEL cơ động đường bộ, phóng theo chiều ngang và ở bệ trên boong tàu. Những ASBM tầm ngắn, như CM-401, có thể được triển khai tới các tiền đồn ở Biển Đông của Trung Quốc với phạm vi có thể trên 300 km. ASBM, dù được phóng từ tàu hay từ các đảo đá ngầm, có thể tạo ra những mối đe dọa phức tạp khác mà các tàu hoạt động trên Biển Đông phải đối mặt.

1682742848986.png

1682742877983.png

ASBM CM-401

Tên lửa chống tàu mặt nước khác. Ngoài các vũ khí như YJ-12 và CM-401, QĐTQ còn đầu tư vào một số vũ khí chống hạm khác có thể được sử dụng ở Biển Đông. Những vũ khí này có thể được phóng từ các tàu trên Biển Đông hoặc máy bay hoạt động từ các đảo đá ngầm, được các tiền đồn của Trung Quốc hỗ trợ ISR, nhắm mục tiêu và chỉ huy, điều khiển. Các ASCM đáng chú ý có thể được phóng từ tàu và máy bay bao gồm YJ-62, YJ-82 và YJ-83. Lớp tàu khu trục mới nhất của Trung Quốc, Type-052D Luyang III và tàu tuần dương Type-055 Renhai cũng mang theo ASCM tầm xa YJ-18 được phóng thẳng đứng có tính năng hành trình cận âm với phương tiện tăng tốc siêu thanh về đích. YJ -18 cũng có thể được triển khai trên một số lớp tàu ngầm của Trung Quốc, thay thế cho những chiếc YJ-82 cũ.

1682743087786.png

1682743103669.png

YJ-18

Những cuộc tiến công tích hợp phức tạp.

Một loạt các hệ thống vũ khí chống hạm đa dạng của Trung Quốc được phóng từ tàu, máy bay và các đảo đá ngầm mang lại sự linh hoạt trong tác chiến của QĐTQ và cũng tạo ra những thách thức gia tăng đối với hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không của đối phương. Hệ thống chống hạm của QĐTQ kết hợp một số loại tên lửa khác nhau được thiết kế để áp đảo những hệ thống giám sát và thông tin có thể phát hiện, theo dõi và tiến công các tên lửa đang lao tới của đối phương. YJ-12s, YJ-62s, YJ- 82s, YJ-83s và CM-401s tập trung vào một nhóm tiến công tàu sân bay đối phương trong một cuộc tiến công đồng thời, nhiều hướng từ các độ cao khác nhau và ở các tốc độ khác nhau để áp đảo hiệu quả sự phòng thủ chống tên lửa của tàu này. Trong một kịch bản quân sự ở Biển Đông, những năng lực được mô tả có thể sẽ được kết hợp với những tên lửa YJ-18 tầm xa lắp trên tàu hoặc ASBM trong đất liền, như DF-21D, để gây khó khăn thêm cho khả năng phòng thủ chống tên lửa.

1682743207463.png


......
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Pháo và rocket tầm xa

Pháo binh và rocket của QĐTQ có thể đóng một vai trò quan trọng trong cuộc tiến công quân sự chống lại các đảo đá ngầm do nước ngoài chiếm giữ. Những vũ khí mạnh này thường không được xem xét khi đánh giá cán cân sức mạnh quân sự ở Biển Đông. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là báo cáo về vũ khí đầu tiên được QĐTQ triển khai tới Biển Đông vào năm 2015 là về hai khẩu pháo tự hành trên một đảo đá ngầm do Trung Quốc nắm giữ. Theo các báo cáo vào thời điểm đó, pháo này có khả năng tiến công những tiền đồn gần đó của Việt Nam. Năm 2016, các nguồn tin giấu tên của phương Tây chỉ ra rằng Việt Nam đã triển khai rocket tầm xa tới năm tiền đồn trên Biển Đông của mình như một biện pháp chống lại sự tăng cường quân sự của Trung Quốc. Trả lời về việc này, Chính phủ Việt Nam chỉ nói rằng thông tin về vũ khí này là không chính xác. Tuy nhiên, nhiều báo cáo nêu rõ khả năng xảy ra những cuộc đấu pháo tầm xa giữa những tiền đồn ở Biển Đông.

Một số đảo đá ngầm do nước ngoài chiếm giữ nằm trong tầm bắn của pháo tầm xa từ những tiền đồn của Trung Quốc. Những tiền đồn lớn của nước ngoài như đảo Thị Tứ do Philippines chiếm giữ hoặc đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm giữ nằm trong phạm vi 25 km (13,5 hải lý) lần lượt từ đá Subi và đá Gaven. Ở những khoảng cách này, pháo hoặc rocket tầm xa có thể tạo ra những màn đạn pháo dày đặc - đạn công phá, đạn xuyên giáp, đạn cháy - với những tác động có khả năng hủy diệt. Rocket cũng có thể phát tán hàng trăm loại đạn con sát thương/chống tăng. Trong những loạt tiến công như vậy, một số đạn con thường vẫn chưa được kích nổ, điều này có thể biến các đảo đá ngầm được nhắm mục tiêu thành bãi mìn cần được rà phá trước khi những tiền đồn này có thể được tái chiếm đóng.

1682765138704.png

Tầm bắn của các loại pháp và rốc két triển khai trên các đảo đá

Ví dụ về pháo rocket của QĐTQ bao gồm tên lửa 122 mm, chẳng hạn như Fire Dragon 40, với tầm bắn tối đa 40km (22 hải lý). Loạt tên lửa Fire Dragon sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính được cập nhật bằng định vị vệ tinh, chẳng hạn như Beidou hoặc GPS, để đạt độ chính xác được quảng cáo là dưới 20 mét.

1682765278620.png

Fire Dragon 70 122mm

Phiên bản 300 mm của tên lửa này, Fire Dragon 70 hoặc Fire Dragon 140, có tầm bắn tối đa được công bố là 130km (70 hải lý). Sử dụng rocket lớn hơn, tầm xa hơn có thể sẽ không thực tế ở Biển Đông. Pháo rocket thường được bắn từ hệ thống rocket phóng loạt gắn trên xe tải (MLRS). Không có dấu hiệu bên ngoài nào cho thấy QĐTQ đã triển khai những loại vũ khí như vậy ở Biển Đông. Tuy nhiên, một tổ hợp MLRS sẽ tương đối dễ dàng che giấu trong những tòa nhà hoặc nhà chứa ở tiền đồn. Với ít hoặc không có cảnh báo, một tổ hợp MLRS có thể xuất hiện và phóng loạt rocket chống lại tiền đồn nước ngoài như một hình phạt trong cuộc khủng hoảng hoặc như một màn hỏa lực trấn áp trước một chiến dịch chiếm đảo.

1682765338743.png

1682765367522.png

Fire Dragon 140 300mm

Trực thăng tiến công và đột kích

Các tiền đồn của Trung Quốc nằm trong phạm vi 100 km (54 hải lý) của hầu hết những đảo đá ngầm do nước ngoài chiếm giữ ở Biển Đông. Sự gần gũi này làm cho các sân bay của QĐTQ trở thành khu vực lý tưởng cho việc sử dụng các trực thăng tiến công hoặc trực thăng đột kích trong chiến dịch chiếm đảo đá ngầm. Trực thăng có thể cất cánh từ những tàu đổ bộ triển khai từ lục địa của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc dàn dựng và phát động một cuộc tiến công bằng trực thăng từ những sân bay trên đảo đá ngầm sẽ cho phép QĐTQ che giấu ý định của mình cho đến khi cuộc tiến công được tiến hành. Trong vòng chưa đầy một giờ, binh sĩ hải quân đánh bộ HQTQ có thể được vận chuyển từ tiền đồn của Trung Quốc đến một đảo đá ngầm do nước ngoài chiếm giữ bằng trực thăng như Z-8, một bản sao của SA 321 Super Frelon do Trung Quốc sản xuất. Mỗi trực thăng vận tải hạng trung này có khả năng chở tới 27 binh sĩ được trang bị đầy đủ.

1682765589664.png

Z-8

Cuộc đột kích bằng trực thăng có thể được hỗ trợ bởi những trực thăng tiến công như Z-10 hoặc Z-19 để hỗ trợ hỏa lực chính xác. Z-10 có thể được trang bị pháo 23 mm, tên lửa chống tăng và PL-90 AAM là tên lửa tầm nhiệt được thiết kế để nhắm mục tiêu vào các máy bay trực thăng, máy bay nhỏ hoặc UAV khác. Hiện tại, trực thăng tiến công chuyên dụng chỉ có trong KQTQ. Tuy nhiên, vào đầu năm 2021, hình ảnh trên Internet cho thấy máy bay trực thăng Z-20 của Trung Quốc, bản sao của loạt máy bay H-60 Blackhawk/Seahawk của Mỹ, có thể đang được phát triển cho Hải quân đánh bộ HQTQ sử dụng. Z-20 được chụp ảnh đáng chú ý với vũ khí chống tăng nhưng cũng có thể vận chuyển 10 binh sĩ chiến đấu. Ngoài năng lực tiến công trên bộ, máy bay trực thăng tiến công có thể sử dụng vũ khí tầm ngắn để tiến công và tiêu diệt các tàu thuyền hoạt động gần các đảo đá ngầm vốn quá nhỏ đối với những ASCM lớn.

1682765648356.png

1682765712053.png

Z-10


.....
 

anhdung1

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-605412
Ngày cấp bằng
27/12/18
Số km
2,039
Động cơ
146,500 Mã lực
Hành trình hồi hương 'nghẹt thở' của cha đẻ tên lửa, ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc
https://www.otofun.net/javasctip%3Avoid(0);
icon
Trung Quốc - "Cha đẻ ngành tên lửa và hàng không vũ trụ" Trung Quốc Tiền Học Sâm là một nhà khoa học nổi tiếng. Những đóng góp của ông đã có tác động sâu sắc đến sự phát triển khoa học và công nghệ của nước này.
Tiền Học Sâm (còn được gọi là Tsien Hsue-shen hoặc Hsue-Shen Tsien) là một nhà khoa học có những đóng góp to lớn cho ngành khoa học tên lửa và hàng không.
Sinh năm 1911 tại Hàng Châu, Trung Quốc, ông là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng khoa học Trung Quốc cũng như đóng vai trò then chốt trong việc phát triển các chương trình tên lửa và không gian của quốc gia này.
Tiền Học Sâm được mệnh danh là "Cha đẻ của ngành tên lửa và vũ trụ hàng không" của Trung Quốc.
Được trọng dụng trên đất Mỹ
Tiền Học Sâm sinh ra trong một gia đình tri thức ở thành phố Hàng Châu. Cha ông là giáo sư toán học, mẹ là nhà ngôn ngữ học. Lớn lên, cậu bé Tiền say mê khoa học-công nghệ và bộc lộ tài năng thiên bẩm về toán học và vật lý.
Sau khi học xong trung học, Tiền theo học tại Đại học Giao thông Thượng Hải và lấy bằng đại học Kỹ thuật cơ khí. Sau đó, ông tiếp tục theo đuổi nghiên cứu sau đại học tại Mỹ, nhận bằng Tiến sĩ Kỹ thuật Hàng không của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) danh tiếng vào năm 1939.
Ông Tiền được đánh giá là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về động cơ phản lực ở thế kỷ 20.
Sau khi hoàn thành bằng Tiến sĩ, Tiền Học Sâm làm việc tại Viện Công nghệ California (Caltech), sau đó gia nhập Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) ở thành phố Pasadena (bang California). Ông nhanh chóng khẳng định mình là một chuyên gia hàng đầu về khoa học tên lửa và có những đóng góp đáng kể cho việc phát triển tên lửa dẫn đường và hệ thống đẩy tên lửa.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã nghiên cứu phát triển nhiều loại vũ khí để Mỹ thử nghiệm và sử dụng trong một số chiến trường. Giai đoạn này, ông được đánh già là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về động cơ phản lực.
Gian nan trở về quê hương
Tiền Học Sâm là một học giả yêu nước. Năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, ông cùng vợ là Tưởng Anh vui mừng, bàn chuyện sớm trở về nước. Tuy nhiên, ông Tiền đã bị giữ lại, bởi theo một thứ trưởng Bộ Hải quân Mỹ nhận định: “Tiền Học Sâm nắm được tất cả các bí mật của công trình tên lửa Mỹ, ông ấy có giá trị ngang với mấy sư đoàn lính thuỷ đánh bộ", theo tạp chí Foreign Policy.
Ông bị tước giấy thông hành an ninh và quản thúc tại gia. Các đồng nghiệp tại Caltech đã viết thư cho chính phủ Mỹ khẳng định sự trong sạch của ông nhưng vô ích.
Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng lúc bấy giờ là Chu Ân Lai đứng đầu đã tổ chức một chiến dịch ngoại giao để "giải cứu" Tiền Học Sâm. Phía Mỹ nhất quyết không muốn "trả" ông Tiền cho Trung Quốc. Trải qua nhiều vòng đàm phán, thương lượng và thỏa hiệp, mãi năm 1955, ông Tiền đã được trở về Trung Quốc, sau 5 năm bị quản thúc.
Phóng vệ tinh đầu tiên vào không gian
"Một mất mát lớn của Mỹ trong khi Trung Quốc thắng lợi lớn", tờ The Guardian nhận định và gọi Tiền Học Sâm là nhà khoa học thiên tài.
Ông Tiền ngay lập tức được phép thành lập Viện Cơ học ở Bắc Kinh, làm việc trong Viện Khoa học Trung Quốc và được cử làm lãnh đạo Viện Công nghệ vũ trụ của Bộ Quốc phòng chuyên trách nghiên cứu chế tạo tên lửa và máy bay.
Tượng bán thân của Tiền Học Sâm được đặt tại một bảo tàng ở thành phố Thượng Hải ghi nhận những cống hiến của ông.
Năm 1970, 15 năm kể từ khi về quê hương, ông đã giám sát việc phóng vệ tinh đầu tiên của Trung Quốc mang tên Đông Phương Hồng I vào không gian. Trong những năm sau, vệ tinh Đông Phương Hồng II cũng được phóng lên quỹ đạo và có tính năng không thua kém các vệ tinh thương mại của các nước phương Tây.
Trong những thập niên sau đó, Tiền Học Sâm đã đào tạo ra một thế hệ nhà khoa học mới kế cận và công việc của ông đã đặt nền móng cho các thành tựu vũ trụ của Trung Quốc như phóng thành công tàu vũ trụ chở người Thần Châu 5 trở về trái đất an toàn (2003), phóng vệ tinh Hằng Nga bay vòng quanh mặt trăng (2008), phóng thành công 2 trạm không gian Thiên Cung (2011, 2016) hay phóng tàu vũ trụ hạ cánh thành công xuống bề mặt không nhìn thấy của Mặt Trăng (2019).
Những đóng góp của Tiền Học Sâm cho khoa học tên lửa và hàng không đã có tác động sâu sắc đến sự phát triển khoa học và công nghệ của Trung Quốc. Ông được nhiều người coi là "Cha đẻ của ngành tên lửa và vũ trụ hàng không Trung Quốc" và được tôn sùng như một tượng đài trong cộng đồng khoa học nước này.
Cuộc đời của Tiền Học Sâm kéo dài gần một thế kỷ, ông mất ở tuổi 97. Trong khoảng thời gian đó, Trung Quốc đã phát triển trở thành một siêu cường trên mọi lĩnh vực, trong đó có không gian. Ông Sâm đóng góp một phần đáng kể cho sự biến đổi đó.
Tử Huy (theo Foreign Polic, The Guardian)

 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
NĂNG LỰC QUÂN SỰ TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

(Tiếp)

Hỗ trợ từ tiền đồn đối với hoạt động tàu sân bay

Những sân bay ở các đảo đá ngầm của Trung Quốc có thể đóng vai trò quan trọng trong những hoạt động của tàu sân bay HQTQ ở Biển Đông. Các sân bay là nơi dự phòng cho các máy bay hoạt động từ tàu sân bay khi không thể quay trở lại tàu của chúng. Chúng cũng cung cấp căn cứ cho những máy bay lớn tiến hành ISR đường không và những chức năng điều khiển mà các tàu sân bay của HQTQ hiện không thể đáp ứng được.

1682851805174.png

J-15

Hư hỏng trong chiến đấu, lỗi kỹ thuật và thời tiết xấu là những lý do khiến máy bay không thể quay trở lại tàu sân bay. Tác chiến "biển xanh", việc bay mà không có sân bay gần đó để sử dụng cho việc tiếp nhiên liệu thì nguy cơ mất máy bay khi nó không thể hạ cánh trở lại tàu sân bay là rất lớn. Hải quân Mỹ đã giải quyết nhu cầu sân bay chuyển tiếp với các căn cứ ở nước ngoài và đạt được thỏa thuận với các quốc gia thân thiện để sử dụng các sân bay khi cần thiết. Tuy nhiên, tại Biển Đông, Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ với các bên tranh chấp khác. Philippines, Việt Nam, Malaysia và Indonesia khó có khả năng cung cấp hỗ trợ cho máy bay hải quân của Trung Quốc, đặc biệt là trong khủng hoảng quân sự. Brunei hoặc các đồng minh của Mỹ là Thái Lan và Singapore cũng có thể sẽ từ chối cho sử dụng các sân bay của họ. Những sân bay chuyển tiếp ở Biển Đông được giới hạn ở ba tiền đồn của Trung Quốc và Campuchia, nơi Trung Quốc tài trợ và xây dựng một sân bay trên Vịnh Thái Lan có thể được sử dụng để hỗ trợ máy bay quân sự. Khu vực hoạt động của tàu sân bay HQTQ trên phạm vi chuyển tiếp 750 km (~ 400 hải lý) đối với máy bay hoạt động trên tàu sân bay đến sân bay thân thiện.

1682851887820.png


Các máy bay lớn, chẳng hạn như máy bay KJ-500 AEW&C, hoạt động từ các sân bay ở Biển Đông của Trung Quốc sẽ rất quan trọng đối với những hoạt động của tàu sân bay ở Biển Đông, đặc biệt là trong thời gian tới. Ra đa của máy bay chiến đấu có phạm vi quan sát hẹp và dựa vào phạm vi bao phủ ra đa 360 độ từ ra đa của tàu hoặc máy bay AEW&C để tìm kiếm những mối đe dọa và mục tiêu trên bầu trời và biển. Đường ngắm của ra đa trên tàu truyền bị giới hạn bởi đường chân trời. Tuy nhiên, máy bay AEW&C ở độ cao có thể tìm kiếm máy bay bay thấp và tàu mặt nước. Trong ví dụ minh họa ở Hình 25, một chiếc KJ-500 được phóng từ quỹ đạo sân bay tiền đồn trước lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay 6-8 giờ, cung cấp khả năng nhận biết chiến trường cho lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, cũng như khả năng bao phủ và kiểm soát ra đa cho máy bay chiến đấu của tàu sân bay hoạt động xa hàng trăm km. Những khu vực hoạt động danh nghĩa được mô tả cho thấy mối quan hệ kiểm soát - thông tin cần thiết giữa máy bay AEW&C và máy bay chiến đấu trên tàu sân bay.

1682851967507.png


KQHQTQ có một số KJ-500, độc lập với các đơn vị KJ-500 của không quân, để tham gia vào các nhiệm vụ trên biển. KQHQTQ cũng được cho là đã phát triển một máy bay AEW&C nhỏ hơn, KJ-600, có hình dáng tương tự như E-2 Hawkeye của Hải quân Mỹ. Thế hệ tàu sân bay hiện tại của Trung Quốc có dốc ở mũi để phóng máy bay nhưng có lẽ không thể đáp ứng được KJ-600. Máy bay này gần như chắc chắn dành cho một tàu sân bay tương lai của Trung Quốc được trang bị máy phóng máy bay. Các tàu sân bay Trung Quốc hiện đang hoạt động với một máy bay trực thăng AEW, Z-18J. Ra đa từ trực thăng phía trên có thể cung cấp phạm vi phủ sóng ra đa tương tự như máy bay AEW&C, nhưng máy bay trực thăng bị hạn chế về tốc độ, độ cao và độ bền so với máy bay cánh cố định.

1682852064220.png

KJ-600

Cho đến khi thế hệ tàu sân bay thứ ba của Trung Quốc đi vào hoạt động, các lực lượng đặc nhiệm trên tàu sân bay của HQTQ có thể sẽ cần được bổ sung những máy bay AEW&C hoạt động từ những đảo đá ngầm để hỗ trợ tác chiến tầm xa, ngoài đường chân trời ở Biển Đông. KQHQTQ có thể tích hợp các máy bay KJ- 600 bay từ những sân bay trên đảo đá ngầm trước khi tích hợp chúng trên tàu sân bay.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top