[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Đối với Nga, việc ngăn chặn Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) mở rộng về phía Đông và từng bước khôi phục bản đồ quyền lực của Liên Xô trước đây là động lực chính thúc đẩy nước này hành động dứt khoát ở các nước láng giềng. Trong khi đó, đối với Trung Quốc, việc duy trì ổn định ở khu vực biên giới, tạo môi trường an ninh hòa bình cho công cuộc cải cách và phát triển trong nước là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu. Do đó, trong bối cảnh hỗn loạn ở Ukraine và Trung Á, Trung Quốc chọn đứng về phía Nga.

1677056206802.png

1677056233997.png


Kazakhstan cũng có rất nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO). Theo Tổng thống Kassym-Jomart Tokayev, nhiều thành viên của các tổ chức có vũ trang, bao gồm cả tổ chức có ảnh hưởng lớn Sự lựa chọn dân chủ của Kazakhstan, đã có mặt trong cuộc bạo động. Trong những ngày qua, lãnh đạo của tổ chức này đã thông qua mạng Internet ở Ukraine đưa ra tuyên bố muốn lật đổ chính quyền hiện tại ở Kazakhstan và thành lập một chính quyền mới theo mô hình của Mỹ và châu Âu. Điều này khiến chính phủ Kazakhstan lo ngại rằng tình trạng hỗn loạn ở Ukraine sẽ lan sang nước họ.

Tổng thống đương nhiệm nỗ lực vượt qua khủng hoảng

Theo giới truyền thông hôm 9/1, sau khi trải qua thời kỳ biến động nghiêm trọng, Tổng thống đương nhiệm Kassym-Jomart Tokayev đã kiểm soát được cục diện, trật tự hiến pháp trên cả nước về cơ bản đã được khôi phục, các chính quyền địa phương trung thành với Tổng thống đã giành lại các cơ sở hành chính bị chiếm đóng và kiểm soát tình hình, các cơ sở công cộng và hệ thống y tế của các thành phố chủ chốt trên cả nước đã trở lại hoạt động bình thường, mạng Internet đang trong quá trình hồi phục.

1677056275373.png

Tổng thống Kassym-Jomart Tokayev

Vấn đề cần đề cập là Kazakhstan từng là quốc gia khai thác tiền ảo lớn thứ hai thế giới, nên việc mạng Internet ở nước này bị gián đoạn đã trực tiếp ảnh hưởng đến thị trường giao dịch Bitcoin. Cuộc bạo loạn ở Kazakhstan rất giống với sự kiện 4/6 (sự kiện Thiên An Môn) ở Bắc Kinh trước đây. Xét về nguồn gốc, cuộc bạo loạn xuất phát từ các yếu tố kinh tế như giá nhiên liệu tăng nhanh trong kỳ nghỉ năm mới và sự xuất hiện sau đó của các yêu cầu chính trị như yêu cầu chống tham nhũng nhắm trực tiếp vào cựu Tổng thống Nursultan Nazarbayev, người đã cai trị Kazakhstan bằng chính sách cứng rắn trong 30 năm, và gia đình ông, dẫn tới việc những người biểu tình lật đổ tượng của ông ở một số thành phố.

1677056363599.png

Cựu tổng thống Nursultan Nazarbayev

Trên thực tế, sau khi nghỉ hưu, Nursultan Nazarbayev vẫn kiểm soát Ủy ban an ninh quốc gia để duy trì quyền kiểm soát của gia đình ông đối với các lĩnh vực năng lượng, tài chính khoáng sản và kim loại. Đây cũng là lý do khiến Tổng thống đương nhiệm Kassym-Jomart Tokayev khi phát biểu trên đài truyền hình quốc gia hôm 5/1 đã tuyên bố sẽ đích thân tiếp quản Ủy ban an ninh quốc gia và giải tán chính phủ. Ông nhấn mạnh chính phủ phải chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình và cam kết sẽ tiến hành cải cách sau khi ổn định tình hình.

Ngày 8/1, Kassym-Jomart Tokayev đã thông qua Ủy ban an ninh quốc gia bắt giam cựu Chủ tịch Ủy ban Karim Massimov, người từng hai lần giữ chức Thủ tướng Kazakhstan, do bị nghi ngờ phản quốc. Có thể xem sắc lệnh tổng thống được ký ngày 9/1 là mũi tên bắn ba con chim: Một là loại bỏ các nhân vật thân tín của cựu Tổng thống trong Ủy ban an ninh quốc gia, bao gồm hai Phó Chủ tịch Osipov Marat Saparovich và Ergozhin Daulet Edilovich. Hai là giới thiệu các ứng cử viên cho các vị trí đứng đầu chính phủ mới vào ngày 11/1. Ba là khởi động chương trình chống khủng bố toàn quốc. Hai mục tiêu đầu có thể được coi là kết quả của các cuộc biểu tình, giúp Tổng thống đương nhiệm xóa bỏ thế lực của cựu Tổng thống, xoa dịu lòng dân và mở rộng thế lực.

1677056407754.png

1677056434623.png


Theo kết quả khảo sát của công ty kiểm toán KPMG, 162 người giàu nhất Kazakhstan, trong đó có 5 người nằm trong danh sách những người giàu nhất thế giới, chiếm giữ 55% tổng tài sản của nước này. Nhiều người trong số này là thành viên của gia đình cựu Tổng thống. Đây là lý do giải thích vì sao những người biểu tình hô vang khẩu hiệu “Lão khốn, biến đi!”. Về mục tiêu thứ ba là chương trình chống khủng bố, chính phủ rõ ràng muốn phòng bị trước nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của những kẻ bạo loạn và những biến động xã hội trước sự kích động của các thế lực bên ngoài nhằm tạo ra cuộc “cách mạng màu” để lật đổ chính quyền hiện nay.

1677056521723.png


Theo các chuyên gia Nga và Trung Quốc, sự lan rộng của các khẩu hiệu ph...ản đ...ộng trên khắp cả nước trong một thời gian ngắn, kể cả trên mạng truyền thông xã hội, khiến cuộc bạo loạn này mang đặc trưng của một cuộc “cách mạng màu”. Trong khi đó, tờ New York Times lại cho rằng cuộc bạo loạn này là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa hai phe – phe của Tổng thống đương nhiệm 68 tuổi Kassym-Jomart Tokayev và phe của cựu Tổng thống 81 tuổi Nursultan Nazarbayev. Tờ New York Times cũng dẫn lời của chuyên gia Nga nhấn mạnh mục đích của cuộc bạo loạn, do cháu trai cựu Tổng thống đứng sau chỉ đạo các băng nhóm tội phạm thực hiện, là nhằm xoay chuyển tình thế của cuộc tranh giành quyền lực nói trên. Tóm lại, khi mô tả tình trạng bạo loạn ở các quốc gia dân chủ không thuộc phương Tây, các phương tiện truyền thông tiếng Anh thường áp dụng cách tiếp cận quan sát vấn đề từ góc độ cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực cũ và mới. Đương nhiên, xét trong bối cảnh hiện nay, Tổng thống đương nhiệm Kassym-Jomart Tokayev đã chiếm thế thượng phong khi nắm quyền kiểm soát bộ máy nhà nước và loại bỏ các thành viên của gia đình cựu Tổng thống khỏi những vị trí quan trọng ở một số bộ ngành then chốt. Nếu điều này là đúng, thì chính phủ mới được bổ nhiệm sẽ tiếp tục một cuộc thanh trừng trên quy mô lớn.

1677056560929.png

1677056591564.png


.........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Toan tính chính trị của Putin khi đưa quân đến Kazakhstan

Nếu Kassym-Jomart Tokayev không khẩn trương tìm kiếm sự hỗ trợ quân sự của Moskva khi xảy ra bạo loạn và nếu TT Putin không nắm bắt cơ hội điều quân để ổn định tình hình, thì kết cục của cuộc bạo loạn có thể sẽ khác. Kazakhstan vốn là một nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây và cựu Bí thư thứ nhất Đ C S Kazakhstan Nursultan Nazarbayev đã liên tục giữ chức Tổng thống Kazakhstan trong 30 năm kể từ khi nước này giành được độc lập cho đến khi ông tự nghỉ hưu vào năm 2019. Đối với Putin, việc ngăn chặn 5 nước Trung Á tách khỏi sự kiểm soát của Nga là tiền đề cần thiết để duy trì và phục hưng đế chế Nga. Do đó, việc ngăn chặn Mỹ và các nước phương Tây khác lợi dụng triệt để Kazakhstan trong cuộc bạo loạn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Moskva. Vì vậy, khi chính quyền Kazakhstan tuyên bố các lực lượng nước ngoài đang tìm cách kiểm soát sân bay Almaty và 5 máy bay nước ngoài đang bị lực lượng khủng bố cướp giữ, Moskva lập tức cho rằng đây là hành động bạo loạn lật đổ do Mỹ giật dây nhằm tiến hành một cuộc “cách mạng màu” ở Trung Á, đồng thời muốn bao vây nơi này để giải cứu nơi khác, đẩy Nga vào tình thế lưỡng bề thọ địch ở Ukraine và Kazakhstan.

1677289887814.png

1677289968178.png

Lực lượng gìn giữ hòa bình Nga được chào đón tại sân bay Chkalovsky, Almaty, Kazakhstan, vào ngày 13/1/2022.

Về vấn đề này, trong buổi họp báo ngày 5/1, người phát ngôn Nhà Trắng Jen Psaki đã chỉ trích Nga vu khống Mỹ có dính líu đến cuộc bạo loạn ở Kazakhstan, đồng thời cho biết Chính quyền Biden đang theo dõi chặt chẽ vụ việc này và kêu gọi Chính phủ Kazakhstan kiềm chế. Tuy nhiên, ngày 6/1, Tổng thống Kassym-Jomart Tokayev đã yêu cầu Nga điều quân đến Kazakhstan, thể hiện sự thành tâm của chính phủ hiện tại đối với Moskva. Putin ngay sau đó đã sử dụng danh nghĩa quốc gia thành viên của CSTO để điều động đơn vị lính dù thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình nhanh chóng kiểm soát hai sân bay của Kazakhstan, trong đó có sân bay Almaty, cùng các cơ sở chiến lược quan trọng của nước này như các cơ sở năng lượng hạt nhân, trạm giám sát không gian, bãi phóng tàu vũ trụ Baikonur và khu huấn luyện Sary Shagan. Tính đến ngày 7/1, tổng cộng 2.500 binh lính thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình của 5 nước Nga, Belarus, Kyrgyzstan, Armenia và Tajikistan đã được điều động đến Kazakhstan, đánh dấu lần xuất quân đầu tiên của tổ chức an ninh khu vực này kể từ khi thành lập để hỗ trợ một quốc gia thành viên duy trì ổn định, khiến Mỹ hết sức lo ngại. Ngoại trưởng Mỹ Tony Blinken chua chát nói rằng kinh nghiệm lịch sử cận đại cho thấy một khi người Nga xuất hiện, thì khó có thể khiến họ rời đi.

1677290023856.png


Ngoài mục đích duy trì quyền kiểm soát địa chính trị, việc Putin nhanh chóng điều quân đến Kazakhstan còn nhằm mục đích kiềm chế sự phát triển chính trị-kinh tế của nước này. Trên thực tế, cựu Tổng thống Nursultan Nazarbayev thuộc phe thân Nga và 20% dân số Kazakhstan là người gốc Nga. Tuy nhiên, sau khi lên cầm quyền, ông đã đẩy mạnh phát triển kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thị trường của Kazakhstan so với Nga trong ngành năng lượng và công nghiệp hóa dầu.

Nga vừa đề phòng Mỹ vừa lo ngại Trung Quốc

Sau khi đẩy mạnh phát triển kinh tế, Kazakhstan bắt đầu sử dụng chiến thuật cân bằng nước lớn một cách tinh tế với xu hướng nhanh chóng xích lại gần Trung Quốc thông qua BRI. Mặc dù Nga và Trung Quốc phối hợp chống lại Mỹ trong chiến lược toàn cầu, nhưng ở góc độ địa chính trị, Nga vừa chủ động đề phòng Mỹ tiến hành “cách mạng màu” ở Trung Á và mở rộng NATO về phía Đông, vừa tìm cách ngăn chặn Trung Quốc thông qua hội nhập kinh tế làm suy yếu sức ảnh hưởng của họ ở khu vực Trung Á.

1677290106058.png


Do đó, khi chính phủ mới lợi dụng dư luận để chống tham nhũng, Nga đương nhiên sẽ không sẵn sàng tiếp tục hậu thuẫn cho cựu Tổng thống. Và khi Kassym-Jomart Tokayev không chú ý đến việc duy trì sự độc lập mà sẵn sàng mở rộng cửa cho Nga, thì hiển nhiên Nga sẽ một lần nữa chọn bên trong cuộc tranh giành quyền lực ở Kazakhstan, quyết tâm điều quân đến hỗ trợ chính quyền đương nhiệm dẹp loạn và lập lại trật tự nhằm tăng cường sức ảnh hưởng mang tính quyết định của mình ở Kazakhstan.

Động thái của Putin ở Kazakhstan một lần nữa chứng minh phong cách lãnh đạo mạnh mẽ và khả năng nắm bắt chính xác tình hình của TT Putin. Trước sức ép từ việc NATO tăng cường mở rộng về phía Đông và nguy cơ xảy ra “cách mạng màu”, Putin vẫn có thể xoay chuyển tình thế, sẵn sàng ra tay hành động, khai thác tối đa cuộc đọ sức Mỹ-Trung và lợi thế địa chính trị để không ngừng khôi phục lợi ích bị mất khi Liên Xô tan rã. Việc Putin ra tay giải cứu Kazakhstan đã cho Mỹ và NATO thấy rõ quyết tâm của Nga trong việc ngăn chặn “cách mạng màu”. Dư luận cho rằng cuối cùng Chính quyền Biden sẽ nhượng bộ trong vấn đề Ukraine, từ chối để Ukraine gia nhập NATO hòng đối lấy việc Nga không tấn công Ukraine.

1677290169845.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Nguyên nhân và hậu quả của cuộc khủng hoảng ở Kazakhstan

Trang mạng của Trung tâm Nghiên cứu Chính trị Carnegie Moskva ngày 7/1 nhận định các cuộc biểu tình ở Kazakhstan đã cho thấy rằng mô hình hiện tại ở nước này có nhiều sai sót, dẫn đến sự bất bình của hàng triệu người – những người bị tước mất miếng bánh tài nguyên. Nhưng mô hình này đã ăn sâu vào cấu trúc của nền kinh tế và đời sống chính trị đến nỗi nhà lãnh đạo mới khó có thể thay đổi nó, ngay cả khi ông ta đột nhiên muốn làm điều đó.

Năm 2021, Kazakhstan được coi là một chế độ chuyên quyền tiên tiến, tương đương với các nước cộng hoà khác thuộc Liên Xô cũ, và hình thức chuyển giao quyền lực của Kazakhstan đã thu hút sự quan tâm lớn ở Moskva. Nhưng tất cả đã thay đổi trong những ngày đầu tiên của năm 2022: chế độ cầm quyền đã phải đối mặt với các cuộc bạo loạn quy mô lớn nhất kể từ khi đất nước độc lập, và buộc phải nhờ tới sự giúp đỡ của Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (CSTO), tức là nhờ đến Nga. Trong sự hỗn loạn này, rất khó để đưa ra những chi tiết quan trọng, nhưng điều quan trọng rõ ràng nhất là thời đại của Nursultan Nazarbayev ở Kazakhstan đã kết thúc.

1677326313963.png

1677326346308.png


Bùng nổ vì khí đốt

Các cuộc biểu tình đã bắt đầu với những yêu cầu không hề liên quan đến chính trị. Trong những ngày đầu tiên của năm 2022, ở Zhanaozen, phía Tây Kazakhstan (tại đây, 10 năm trước, vào tháng 12/2011, chính quyền đã đàn áp cứng rắn đối với cuộc biểu tình của các công nhân dầu mỏ) và một số thành phố khác của khu vực Mangistau, người dân đã tràn xuống các con phố để yêu cầu giảm giá khí đốt. Từ đầu năm mới, giá khí đốt đã tăng gấp đôi do nhà chức trách tiến hành cải cách thị trường tự do, chứ không phải chính phủ bắt đầu điều tiết giá. Khí đốt là một chủ đề nhạy cảm ở các vùng phía Tây của Kazakhstan, nơi có đến hơn 90% các phương tiện giao thông chạy bằng khí hoá lỏng và 70% các hộ gia đình sử dụng khí này để phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Trên thực tế, quốc gia này đã bị đe doạ bởi một cuộc khủng hoảng nhiên liệu xuất hiện ngay từ trước khi các cuộc biểu tình nổ ra – ví dụ, Tổng thống Kassym-Zhomart Tokayev đã nói về điều này vào mùa hè năm 2021 và chỉ thị các bộ ngành thực hiện các biện pháp cần thiết.

Từ ngày 3/1, chỉ trong 1 ngày, với sự hỗ trợ của các mạng xã hội, các cuộc biểu tình đã lan rộng từ phía Tây đến toàn bộ đất nước. Điều này cũng có thể dự đoán được – ví dụ, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc vào mùa thu năm 2019 nổ ra ở khu vực giáp biên giới với Trung Quốc, nhưng nhanh chóng lan rộng khắp cả nước và các khẩu hiệu chống Trung Quốc lại được bổ sung thêm các khẩu hiệu mang tính chính trị. Vì vậy, giờ đây các cuộc bạo động khí đốt ở vùng Mangistau hoá ra chỉ là cái cớ cho sự bùng nổ sự bất bình trên khắp cả nước.

1677326451478.png

1677326509673.png


Nguyên nhân sâu xa của các cuộc biểu tình là trong 2 năm qua, tình hình tài chính của đa số người dân trong xã hội Kazakhstan đã xấu đi nghiêm trọng. Chỉ cần nhìn vào số liệu lạm phát chính thức: năm 2020 đã ở mức 7,5%, còn năm 2021 lên tới 8,9%. Lạm phát lương thực thậm chí còn cao hơn: 11,3% vào năm 2020 và 10,9% trong 11 tháng đầu năm ngoái. Cũng trong năm 2020, khối lượng các khoản vay cá nhân đạt kỷ lục: so với năm trước đại dịch 2019, nợ trong nhân dân tăng 12,3% vào năm 2020.

Đại dịch đã tác động tiêu cực đến thị trường lao động. Theo số liệu Khảo sát nhanh của Liên minh kinh tế Á-Âu, số người thất nghiệp đăng ký chính thức trong năm 2021 đã tăng 12%. Nhóm chịu tác động tồi tệ nhất là lao động di cư trong nước - chủ yếu là giới trẻ (độ tuổi trung bình của người dân Kazakhstan là dưới 32), những người rời bỏ quê nhà để tìm kiếm việc làm ở các thành phố lớn. Rất nhiều người trong số họ vì các biện pháp giãn cách xã hội nên đã mất đi phần lớn thu nhập. Đồng thời, việc giá dầu giảm trong nửa đầu năm 2020 đã làm giảm ngân sách nhà nước, do đó, Chính phủ bị hạn chế năng lực trong việc giải quyết những bất mãn trong người dân về thu nhập.

1677326550519.png

1677326632779.png


Điểm đến chính đối với những người di cư trong nước ở Kazakhstan, ngoài thủ đô Nur-Sultan còn là thành phố Alma-Ata. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi chính thành phố này trở thành trung tâm của các cuộc bạo loạn. Ngoài ra, thành phố này trước đây cũng đã có tiếng về sự phản đối. Thành phố có nhiều sinh viên với tư tưởng tự do và ít có công dân trung thành với chế độ hơn so với ở Nur-Sultan – thành phố của quan chức, an ninh và nhân viên các công ty nhà nước. Kể từ năm 2018 đến tháng 6/2021, hơn 1.300 hoạt động phản đối đã diễn ra ở Kazakhstan, và phần lớn trong số đó xuất phát ở Alma-Ata. Không chỉ bị ảnh hưởng do các cuộc biểu tình, tội phạm ở đây gia tăng đáng kể khi lượng du khách đổ về thành phố trong 10 năm (2007-2017) số lượng tội phạm thống kê ở Almaty đã tăng gấp 4 lần.

Có vẻ như trong số những người biểu tình có nhiều nam thanh niên, những người không có gì để mất, điều đó giải thích cho sự cực đoan hóa nhanh chóng và chuyển sang bạo lực. Trong khi Tổng thống Tokayev thuyết phục người dân Zhanaozen và hứa sẽ giải quyết các vấn đề của họ thì ở Alma-Ata căng thẳng vẫn tăng lên. Trong thành phố đã xảy ra ẩu đả giữa lực lượng an ninh với đám đông.

1677326672845.png

1677326758759.png


Rất khó để theo dõi diễn biến của sự kiện khi nhà chức trách định kỳ cắt internet và liên lạc di động trên khắp cả nước, như các nhà khai thác mạng di động thông báo “vì lý do ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố”. Vào thời điểm này, đám đông người dân ở Alma-Ata đã phóng hoả đốt ô tô, thu giữ xe bọc thép của quân đội. Đám đông đã xông vào akimat (toà nhà hành chính), văn phòng công tố, các toà nhà của đài truyền hình và nhiều cơ quan khác (nhiều nơi hiện đã bị cướp bóc, phá huỷ và đốt cháy). Sân bay Almaty cũng bị chiếm giữ trong nhiều giờ.

Những kẻ cực đoan chỉ chiếm số ít – hầu hết những người biểu tình cố gắng ngăn chặn bạo lực (không chỉ ở Almaty, mà còn ở nhiều thành phố khác). Tuy nhiên, chính những kẻ cực đoan lại trở thành những gương mặt đại diện cho cuộc biểu tình, điều không có gì đáng ngạc nhiên khi vũ khí tấn công ở trên tay họ. Có rất nhiều video trên mạng xã hội ghi lại cảnh những người biểu tình được phát vũ khí từ các thùng xe ô tô. Không phải không có người chết, mà là hàng chục người đã chết.

1677326825210.png


..............
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(TIếp)

Tổng thống Tokayev tuyên bố những kẻ cực đoan được nước ngoài tài trợ, mặc dù ông không đổ lỗi cho một quốc gia cụ thể. Vào ngày 6/1, một Uỷ ban được thành lập để điều tra các sự kiện hiện tại, nhưng khó có thể đưa ra câu trả lời khách quan cho câu hỏi liệu các cuộc biểu tình là hoàn toàn tự phát hay do các thế lực tổ chức bên trong hay bên ngoài đứng đằng sau. Bài phát biểu của Tổng thống trước nhân dân trong ngày 7/1 đã dự đoán trước về những kết luận điều tra, trong đó đưa ra cáo buộc 1 trung tâm chỉ huy thống nhất và các lực lượng nước ngoài đã có sự phối hợp tốt trong bạo loạn ở Kazakhstan. Kết luận điều tra này là thuận lợi cho chế độ, hay đúng hơn là cho chính ông Tokayev, người mà trong thời điểm này vai trò quyền lực đã có sự thay đổi lớn trong hệ thống cầm quyền tại Kazakhstan.

Thuận nước đẩy thuyền

Tình hình ở Kazakhstan có thể vẫn diễn biến theo các hướng khác nhau, nhưng cho đến nay có vẻ như Tổng thống Tokayev là người đã giành được nhiều lợi ích nhất từ cuộc khủng hoảng hiện tại. Vài ngày trước, ông chỉ là một thành viên cấp dưới trong nhóm cai trị Kazakhtan, trong đó nhà lãnh đạo là Tổng thống đầu tiên của đất nước, ông Nursultan Nazarbayev, 81 tuổi. Ông Tokayev, 68 tuổi, đã leo lên đỉnh của kim tự tháp quyền lực chính thức vào năm 2019 nhờ trở thành “người kế vị” ở Kazakhstan, được Nazarbayev quyết định ngay sau cái chết của Tổng thống nước láng giềng Uzbekistan Islam Karimov vào năm 2016.

Tận mắt chứng kiến cái chết đột ngột của một nhà lãnh đạo đã thay đổi hoàn toàn những di sản và gia đình của ông ta, Nazarbayev bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chuyển giao quyền lực có kiểm soát. Bước đầu tiên là bổ nhiệm ông Karim Massimov - thành viên đáng tin cậy và có năng lực nhất trong đội ngũ của Tổng thống vào vị trí người đứng đầu Uỷ ban An ninh quốc gia (KNB).

1677494239686.png

Karim Massimov

Bất chấp sự tin tưởng của Nazarbayev nhưng Massimov vẫn không được coi là người kế nhiệm, bởi vì dư luận Kazakhstan cho rằng ông này là người Duy Ngô Nhĩ chứ không phải 100% là người Kazakhstan. Điều này khiến ông ta trở thành một ứng cử viên lý tưởng cho vai trò giám sát chuyển tiếp với cương vị là người đứng đầu cơ quan đặc biệt quyền lực nhất của đất nước (KNB ở Kazakhstan gần như một bản sao hoàn toàn của Ủy ban An ninh quốc gia của Liên Xô (KGB)).

Sau nhiều đắn đo, ông Nazarbayev đã chọn ông Tokayev, một nhà ngoại giao để kế nhiệm. Cũng hoàn toàn trung thành và thông minh, ông Tokayev đã trải qua nhiều năm xa Kazakhstan, và do đó, không có đội ngũ quyền lực của riêng mình nên khó có thể gây ra mối đe doạ nào cho Nazarbayev.

Gây chấn động cả nước với việc rời khỏi vị trí Tổng thống vào năm 2019, ông Nazarbayev vẫn giữ các đòn bẩy quyền lực cả chính thức và không chính thức. Luật về tư cách Tổng thống đầu tiên đã cho phép đảm bảo an toàn cá nhân cho ông. Vai trò Chủ tịch Hội đồng An ninh đã cho phép ông có quyền lực to lớn – trên thực tế, Nazarbayev không chỉ có thể đề ra đường lối chiến lược mà còn phủ quyết nhiều quyết định của người kế nhiệm. Cấu trúc này còn được bổ sung thêm Massimov, người đứng đầu KNB và một nhóm gồm những người được đề cử khác của Nazarbayev để giữ các vị trí quan trọng trong chính quyền.

Kazakhstan đã hoạt động như vậy mà các nhà quan sát bên ngoài không nhận ra khủng hoảng. Mặc dù những người trong cuộc nhận ra căng thẳng ngày càng tăng giữa Ak-Orda, nơi đóng trụ sở của Tổng thống Tokayev và chính quyền của ông với thư viện của Nazarbayev, trụ sở hoạt động của các các trợ lý thân cận nhất của ông.

1677494454817.png

Thủ tướng Askar Mamin

Các cuộc biểu tình hiện hay đã thay đổi hoàn toàn cục diện này. Trong vài ngày, Tổng thống Tokayev đã phá vỡ các trụ cột hỗ trợ của hệ thống quyền lực kép. Đầu tiên là chính phủ của Thủ tướng Askar Mamin, một trong những ứng cử viên nặng ký dưới thời Nazarbayev, đã bị sa thải. Ông ta bị yêu cầu từ chức ở Kazakhstan từ rất lâu nhưng Nazarbayev đã chống lại điều này để bảo vệ người của mình. Sau đó, đích thân Tokayev đã tiếp quản vị trí đứng đầu Hội đồng An ninh từ Nazarbayev. Khi gửi thông điệp khẩn cấp đến người dân, ông Tokayev tuyên bố: “Với tư cách là nguyên thủ quốc gia và kể từ hôm nay là Chủ tịch Hội đồng An ninh, tôi sẽ hành động cứng rắn nhất có thể”.

Ngày 5/1 là thời điểm diễn ra đòn cuối cùng giáng xuống cấu trúc quyền lực cũ, khi Karim Massimov bị cách chức. Chủ tịch mới của KNB là người đứng đầu Lực lượng bảo vệ nhà nước Yermek Sagimbayev, người trước đó đứng đầu Cơ quan An ninh của Tổng thống Tokayev. Phó Chủ tịch KNB rất có ảnh hưởng là Thiếu tướng Samat Abish, cháu trai của Nazarbayev, cũng bị cách chức.

Sau khi loại bỏ tất cả các nhân vật chủ chốt, ông Tokayev tiếp tục thanh lọc các quan chức của Nazarbayev. Ngày 6/1, Kairat Kelimbetov, Chủ tịch Cơ quan Hoạch định chiến lược và cải cách Kazakhstan, người trước đây đứng đầu Quỹ Samruk-Kazyna, Văn phòng Tổng thống và Ngân hàng Trung ương và trong những năm gần đây đang nỗ lực thực hiện ước mơ của Nazarbayev là xây dựng Singapore kiểu Kazakhstan, đã bị mất chức. Cũng trong những ngày này, một số máy bay tư nhân đã rời khỏi Kazakhstan. Bản thân cựu Tổng thống vẫn chưa xuất hiện trước công chúng. Ông ta được nhìn thấy lần cuối vào ngày 28/12 tại St-Peterburg trong cuộc gặp với Tổng thống Nga Vladimir Putin với tư cách Chủ tịch danh dự của Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU).

1677496588817.png


Trên thực tế, Tokayev có thể trở thành người hưởng lợi chính từ cuộc khủng hoảng nhưng điều này không có nghĩa ông ta là người tổ chức nó. Đúng hơn, Tổng thống Tokayev đã tận dụng cơ hội bất ngờ để củng cố quyền lực trong tay mình. Ngoài ra, ông Tokayev đã loại bỏ các yếu tố của thời Nazarbayev, điều có thể đã kéo cả chế độ cầm quyền và nhà nước xuống vực. Một trong những điều chứng minh cuộc khủng hoảng hiện tại gây bất ngờ cho các nhà chức trách là quyết định của ông Tokayev kêu gọi sự giúp đỡ từ các đồng minh CSTO, chủ yếu là các quan chức an ninh Nga để đưa mọi thứ trở lại trật tự.

1677496615623.png

1677496656237.png

...............
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Một Kazakhstan mới

Chính quyền Kazakhstan không thể khôi phục trật tự ở các thành phố lớn bằng sức của mình do đó đã đổ lỗi cho những kẻ khủng bố và cấp tiến đã được “các thế lực bên ngoài” huấn luyện. Điều này cho phép ông Tokayev đưa ra đề nghị CSTO giúp đỡ và vào đêm ngày 6/1. Tổ chức này đã chấp thuận đề nghị. Trong vòng vài giờ, chiếc máy bay đầu tiên của quân đội Nga, Belarus, Tajikistan và Armenia đã khởi hành đến Kazakhstan.

1677669651099.png

1677669697479.png

Lực lượng CSTO tại Kazakhstan

Kêu gọi sự hỗ trợ từ bên ngoài để giải quyết xung đột trong nước trên thực tế ẩn chứa rủi ro khá lớn. Các quan điểm dân tộc chủ nghĩa đang leo thang tại Kazakhstan qua từng năm. Những người chống đối tổng thống có thể đệ trình chỉ trích việc Tổng thống Tokayev mời quân đội Nga vào Kazakhstan để bảo vệ chế độ của ông là hành động “rước hổ vào nhà”. Các chỉ trích tương tự đã dấy lên ở Kazakhstan và thậm chí trong cộng đồng người Kazakh tại Nga.

1677669720066.png

Lực lượng CSTO tại Kazakhstan

Có thể hiểu được điều gì đã đẩy Tokayev đi đến quyết định đầy rủi ro này. Khi nhìn các quan chức an ninh và quân đội mất tinh thần, chính quyền Tokayev không tin rằng họ có đủ các quan chức trung thành và có khả năng để đưa mọi thứ về trật tự ban đầu, đặc biệt là khi có sự thay đổi lớn trong ban lãnh đạo của các cơ quan đặc biệt. Trong bối cảnh đó, việc tìm kiếm sự giúp đỡ từ CSTO dường như gây ra rủi ro thấp hơn mối đe dọa chính quyền mất kiểm soát Alma-Ata và các thành phố lớn khác.

1677669790564.png


Giờ đây, có vẻ như lực lượng an ninh Kazakhstan đang phải tự mình đương đầu với các cuộc biểu tình. Trong vài ngày gần đây, đám đông biểu tình đã thưa dần – do sợ hãi bạo lực, mọi người đã lánh trong nhà và chỉ còn lại những kẻ côn đồ tuyệt vọng trên đường phố. Lực lượng an ninh dễ dàng hơn nhiều khi đối phó với ít người biểu tình có vũ trang so với việc chống lại đám đông cả phụ nữ và thanh niên không vũ trang do ảnh hưởng cả về mặt tâm lý và kỹ thuật. Đến tối ngày 5/1, các nhà chức trách đã chiếm lại các mục tiêu trọng yếu trên khắp đất nước và thực hiện các cuộc truy quét có mục tiêu ở Almaty và các trung tâm biểu tình lớn khác.

1677669853651.png

1677669899557.png


Có khả năng nếu được thực hiện chậm hơn một chút, sự hỗ trợ ủa CSTO sẽ không còn cần thiết nữa. Nếu xu hướng thiết lập trật tự từ ngày 6/1 tiếp tục được củng cố và các lực lượng an ninh địa phương giành lại sự kiểm soát đất nước cho chính quyền với sự hỗ trợ ở mức tối thiểu từ các đồng minh CSTO, chắc chắn rằng Nga và các nước đồng minh trong CSTO sẽ nhanh chóng rời khỏi Kazakhstan. Ít nhất, vào ngày 7/1, Tokayev đã tuyên bố rằng nhiệm vụ đối đầu với “các phần tử khủng bố và cướp bóc” chỉ do lực lượng an ninh Kazakhstan thực hiện và rằng quân đội của CSTO sẽ chỉ thực hiện các nhiệm vụ như bảo vệ và hỗ trợ.

1677669921032.png


Trong tình huống này, cả tổng thống Tokayev và Moskva đều được hưởng lợi. Tổng thống Tokayev sẽ thể hiện trước công chúng, giới tinh hoa, các nước láng giềng và thế giới rằng ông có thể xây dựng mối quan hệ thực dụng với điện Kremlin, tức là sẽ không chỉ có được sự hỗ trợ của quan chức an ninh Nga mà còn đưa được họ trở lại Kazakhstan.

1677669977341.png


Về phần mình, việc Nga đưa lực lượng gìn giữ hoà bình đến hỗ trợ Kazakhstan sẽ thực hiện đồng thời nhiều mục đích. Thứ nhất, nhằm duy trì một chế độ thân thiện với Nga ở Kazakhstan, một trong những lợi ích cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nga. Nếu vì điều này mà không phải trả giá bằng mạng sống nào của quân nhân Nga thì còn là điều tốt hơn nữa. Thứ hai, nó sẽ nâng cao thẩm quyền của CSTO, vốn đã bị lung lay sau các sự kiện gần đây ở Kyrgyzstan và Karabakh. Cho tới gần đây, nhiều người nghĩ rằng tổ chức và lực lượng phản ứng nhanh tập thể chỉ tồn tại trên giấy, nhưng lần này họ sẽ thể hiện mình bằng hành động. Về mặt hình thức, tính chất đa phương của hoạt động lần này thậm chí còn có lợi hơn so với việc quân đội Nga chỉ hành động một mình.

1677669950331.png


Thứ ba, sự hỗ trợ liên minh hiệu quả và rút quân nhanh chóng sẽ củng cố vị thế của Nga đối với thế hệ quan chức Kazakhstan mới mà Tổng thống Tokayev sẽ ngày càng dựa vào nhiều hơn. Nhiều quan chức hiện nay dưới 50 tuổi được nuôi dưỡng trong khuôn khổ văn hoá hậu Xô Viết, nhưng đã du học ở phương Tây hoặc ở châu Á, và do đó họ không coi Moskva là đối tác ưu tiên duy nhất. Cuối cùng, một hoạt động thành công sẽ cho thấy chỉ có Nga mới có thể đóng vai trò là người đảm bảo an ninh ở Trung Á, và các chuyến thăm mà các tướng lĩnh Mỹ đi tới khu vực này, cũng như những tiền đồn xa xôi của người Trung Quốc ở Tajikistan sẽ không thay đổi được thực tế này./.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
KHẢ NĂNG CƠ ĐỘNG, TÁC CHIẾN CỦA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC

Sau nhiều thập kỷ hiện đại hóa được hỗ trợ bởi việc tăng ngân sách quốc phòng ổn định và các chính sách khác thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật quân sự, Quân đội Trung Quốc đã không ngừng lớn mạnh với năng lực tác chiến, khả năng cơ động, chi viện hỏa lực, tiến công tầm xa ngày càng hiện đại và mạnh hơn. Bên cạnh lực lượng có quân số đông nhất thế giới, được huấn luyện tác chiến bài bản hơn, Quân đội Trung Quốc cũng đã được trang bị rất nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại để vươn lên trở thành một trong những quân đội hàng đầu thế giới. Tài liệu này tập trung giới thiệu một số năng lực tác chiến chính của các lực lượng Lục quân, Không quân, Hải quân, Lực lượng tên lửa của Quân đội Trung Quốc.

I. NĂNG LỰC TÁC CHIẾN LỤC QUÂN TRUNG QUỐC (LQTQ)

Lục quân Trung Quốc (LQTQ) là lực lượng thường trực lớn nhất thế giới, với khoảng 915.000 quân nhân tại ngũ trong các đơn vị chiến đấu. LQTQ là lực lượng chiến đấu trên bộ chính của Quân đội Trung Quốc. Lục quân Trung Quốc đang nỗ lực chuyển đổi thành một lực lượng trên bộ hiện đại, cơ động và hiệu quả tác chiến cao hơn thông qua việc trang bị các hệ thống tác chiến được nâng
cấp và tích hợp các thiết bị thông tin liên lạc và các công nghệ khác, nhằm cải thiện khả năng tung phóng sức mạnh và tiến hành các chiến dịch liên quân trong điều kiện xung đột cường độ cao phù hợp với các mục tiêu hiện đại hóa của Trung Quốc.

1677670429784.png


Lục quân Trung Quốc hiện vẫn đang theo đuổi cải cách và hoàn thiện các đội hình ở cấp thấp, linh hoạt hơn về mặt tác chiến và phù hợp hơn để tiến hành và quản lý các chiến dịch liên quân và binh chủng hợp thành phức tạp. Lực lượng của LQTQ được tổ chức thành 05 Bộ tư lệnh chiến khu, cùng các Bộ Tư lệnh Tân Cương và Bộ Tư lệnh Tây Tạng. Để cải thiện khả năng cơ động cuẩ
mình, Lục quân Trung Quốc đã sắp xếp lại, giảm số lượng tập đoàn quân từ 18 xuống còn 13. Mỗi tập đoàn quân hiện bao gồm nhiều lữ đoàn binh chủng hợp thành có khả năng cơ động cao.
Tổng cộng, 78 lữ đoàn binh chủng hợp thành này đóng vai trò là lực lượng cơ động chính của Lục quân Trung Quốc. Các lữ đoàn binh chủng hợp thành được chia thành ba loại: hạng nặng (xe bọc thép bánh xích), hạng trung (xe bọc thép bánh lốp) và hạng nhẹ (cơ động cao, sơn cước, tiến công đường không và cơ giới) và có thể biên chế tới 5.000 quân mỗi lữ đoàn. Mỗi tập đoàn quân chỉ huy 06 lữ đoàn đảm trách mọi chức năng tác chiến: một lữ đoàn pháo binh, một lữ đoàn phòng không, một lữ đoàn không quân lục quân (hoặc cường kích), một lữ đoàn tác chiến đặc biệt (SOF), một lữ đoàn công binh và phòng hóa, và một lữ đoàn hậu cần. Mặc dù LQTQ đã tiêu chuẩn hóa các tập đoàn của mình, nhưng lực lượng này vẫn giữ lại một số sư đoàn và lữ đoàn độc lập bên ngoài các tập đoàn quân. Các đơn vị này thường được bố trí tại các khu vực mà Trung Quốc coi là nhạy cảm bao gồm Tân Cương, Tây Tạng, Hồng Kông và Bắc Kinh.

1677670499542.png

Quân đội TQ tại Hongkong

Các lữ đoàn binh chủng hợp thành với các nhiệm vụ quan trọng hơn hoặc trong các khu vực chiến lược quan trọng hơn sẽ được nhận thiết bị mới hơn và tốt hơn, với các thiết bị cũ hơn được chuyển xuống các đơn vị ít quan trọng hơn. PAP sử dụng nhiều loại thiết bị khác nhau, thường thiên về lực lượng cơ giới hạng nhẹ cùng với súng cối rẻ tiền, súng trường không giật, xe bọc thép chở quân (APC) và một số máy bay trực thăng.

1677670586375.png

1677670600978.png


..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Khả năng cơ động của Lục quân Trung Quốc

Lục quân Trung Quốc sử dụng nhiều loại xe tăng, xe chiến đấu bộ binh (IFV) và xe bọc thép chở quân, từ các hệ thống hiện đại cao cấp đến các di sản thời Chiến tranh Lạnh. Trong lịch sử, Lục quân Trung Quốc luôn kín tiếng trong việc loại bỏ bất cứ trang bị gì. Khi các thiết bị mới đến, các thiết bị cũ hơn được chuyển giao cho các đơn vị có mức độ sẵn sàng thấp hơn, sau đó là lực lượng dự bị, rồi đến lực lượng dân quân, và cuối cùng là các kho niêm cất đồ sộ. Tuy nhiên, một loạt các cải cách gần đây của Lục quân Trung Quốc đã rời bỏ mô hình này, tìm kiếm sự đồng nhất hơn thông qua một lực lượng được trang bị hoàn toàn bằng thiết bị hiện đại. Điều này giúp giảm quy mô tổng thể của quân đội, và nó hứa hẹn tiết kiệm đáng kể chi phí dành cho việc bảo trì và vận hành các thiết bị lỗi thời.

1677755610653.png

IVF Type 85

Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, Lục quân Trung Quốc vẫn sử dụng nhiều loại xe bọc thép khác nhau, với hầu hết các lữ đoàn BCHT vẫn được trang bị các loại xe cũ hoặc lỗi thời. Do sự khác biệt lớn về khả năng giữa các hệ thống đang sử dụng, điều quan trọng là thiết bị của các đơn vị Lục quân Trung Quốc phải được đánh giá cẩn thận trên cơ sở riêng lẻ, thay vì chung chung.

1677755664756.png

IVF Type 86

Xe tăng

Lục quân Trung Quốc trang bị nhiều loại xe tăng, hầu hết trong đó là các xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT), với một số xe tăng hạng nhẹ và xe đổ bộ. Lực lượng MBT hiện có hơn 6.500 xe – hơn gấp đôi số lượng biên chế của bất kỳ quốc gia nào khác. Tuy nhiên, nhiều trong số này là di sản thời Chiến tranh Lạnh và hiệu quả của chúng trên chiến trường hiện đại vẫn là dấu hỏi. Xe tăng Trung Quốc thời kỳ đầu là bản sao trực tiếp hoặc chịu ảnh hưởng nhiều từ thiết kế của Liên Xô, nhưng các xe tăng hiện đại hơn hoàn toàn là bản địa và cho thấy nhiều điểm tương đồng về thiết kế với xe tăng phương Tây hơn so với xe tăng của Nga.

1677755766847.png

Xe tăng Type-59

Bất chấp tuổi đời của nó, xe tăng Type 59 vẫn được trang bị với số lượng hạn chế trong các đơn vị chủ lực và số lượng lớn được duy trì ở trạng thái dự trữ hoặc niêm cất. Type 59 có nguồn gốc từ xe tăng T-54/55 phổ biến của Liên Xô và có hầu hết các đặc điểm thiết kế của nó. Giáp của nó là thép đồng nhất, và khẩu pháo 100 mm đời đầu của nó không đủ sức chống lại các loại MBT hiện đại. Tuy nhiên, Lục quân Trung Quốc đã nâng cấp định kỳ số xe Type 59 của mình, bổ sung các kính ngắm hình ảnh nhiệt hiện đại, một khẩu pháo lớn hơn, cải tiến bộ ổn định pháo, giáp phản ứng nổ (ERA) và cải thiện hệ thống sống còn cho kíp xe. Xe tăng Type 59 hiện đại hóa có trọng lượng nhẹ, khả năng cơ động hợp lý, sở hữu hệ thống điều khiển hỏa lực tương đối hiện đại, vận hành và bảo dưỡng đơn giản. Tuy nhiên, khả năng bảo vệ của chúng - ngay cả khi được nâng cấp với ERA - vẫn kém so với các tiêu chuẩn hiện đại. Mặc dù các xe tăng sử dụng một bản sao của pháo chính L7 105 mm nổi tiếng một thời có thể bắn xuyên cả vỏ giáp vonfram và uranium, nhưng hiệu suất của pháo chính kém hơn so với các loại pháo lớn hơn hiện đại.

1677755961527.png

Xe tăng Type-59 hiện đại hóa

Xe tăng Type 80 / Type 88 là thiết kế xe tăng bản địa đầu tiên của Trung Quốc. Lục quân Trung Quốc đã kết hợp các triết lý thiết kế của phương Tây và Liên Xô trong Type 80, sử dụng khung gầm và thiết kế tháp pháo kiểu Liên Xô với cấu hình pháo và kíp xe của phương Tây. Kết quả là MBT này có khả năng cạnh tranh với các thiết kế T-72, T-80 và M1 Abrams đời đầu. Các biến thể đầu tiên được đưa vào sử dụng vào đầu những năm 1980 và chúng đã liên tục được nâng cấp. Những chiếc hiện đang được biên chế về cơ bản có thể so sánh với Type 96 sau này. Các phiên bản nâng cấp có tính năng điều khiển hỏa lực bằng máy tính tiên tiến, hỗn hợp giáp composite đồng nhất, một khẩu pháo nòng trơn 125 mm (mm) có khả năng bắn đạn xuyên giáp, đạn nổ phá uy lực mạnh (HE) và tên lửa, ERA, và một động cơ được nâng cấp đáng kể. Mặc dù có thiết kế cũ hơn, nhưng xe tăng Type 80/88 nâng cấp vẫn cạnh tranh được với các loại MBT cũ hơn của phương Tây và chúng có thể đe dọa ngay cả những thiết kế hiện đại nhất.

1677756055204.png

Xe tăng Type 80 / Type 88

1677756100591.png

Xe tăng Type 80 / Type 88 nâng cấp

Xe tăng Type 96 là loại MBT hiện đại phổ biến nhất trong kho của Lục quân Trung Quốc. Là một thiết kế hoàn toàn bản địa bắt nguồn từ Type 80, Type 96 là xe tăng đầu tiên của Trung Quốc có giáp composite toàn phần và tháp pháo hình mũi tên kiểu phương Tây, trái ngược với tháp pháo hình bát giác của Type 80/88. Type 96 là loại MBT hiện đại tương đối nhẹ với khả năng cơ động tuyệt vời, vì thế Lục quân Trung Quốc đã triển khai hầu hết các xe Type 96 của mình ở các vùng đồi núi và các khu vực có địa hình phức tạp khác. Các thiết bị gây nhiễu laser và ERA tổng hợp đã được bổ sung vào Type 96 ban đầu, cải thiện khả năng sống còn của nó trước các tên lửa dẫn đường chống tăng (ATGM). Type 96 ban đầu chỉ là một bản nâng cấp lặp đi lặp lại và nó không thực sự cạnh tranh với các đối tác phương Tây hoặc Nga khi nó được triển khai lần đầu tiên.
Tuy nhiên, nó được chế tạo với số lượng lớn và các biến thể nâng cấp - bao gồm Type 96A1 và 96B - đã cải thiện khả năng sát thương và khả năng bảo vệ.

1677756234377.png

Xe tăng Type 96

1677756274813.png

Xe tăng Type 96B

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Xe tăng Type 99 là MBT mới nhất của Trung Quốc. Nó thể hiện cam kết mới của Lục quân Trung Quốc trong việc hiện đại hóa và đầu tư vào công nghệ. Sử dụng phương pháp thiết kế tương tự như xe Type 96, Type 99 sử dụng khung gầm kiểu Nga với tháp pháo kiểu phương Tây. Nó có một bộ đầy đủ các hệ thống bảo vệ hiện đại, bao gồm lớp giáp composite được tăng cường với ERA; bảo vệ toàn diện về hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân; nâng cấp khả năng sống còn của kíp xe; và một hệ thống bảo vệ chủ động. Pháo chính 125 mm của nó có thể bắn xuyên dưới cỡ, đạn sức công phá mạnh và tên lửa, đồng thời hệ thống treo tiên tiến và động cơ mạnh mẽ giúp nó có khả năng di chuyển trên nhiều loại địa hình rất tuyệt vời. Một biến thể nâng cấp, Type 99A, tăng cường khả năng bảo vệ với lớp giáp dày hơn và ERA nhiều lớp, động cơ mạnh hơn, cải tiến khả năng tác chiến điện tử và mạng. Do chi phí cao, Khó có khả năng Type 99 sẽ thay thế hoàn toàn xe Type 96 và Type 99A sẽ chỉ phục vụ trong các đơn vị “số hóa” hiện đại.

1677897072641.png

Type-99

Type 62 là sự phát triển của xe tăng thời Chiến tranh Lạnh đã được sửa đổi và hiện đại hóa thành nền tảng xe tăng hạng nhẹ. Được phát triển đặc biệt để hoạt động ở những vùng núi và rừng rậm đầy thử thách ở miền nam Trung Quốc, Type 62 về cơ bản là Type 59 thu nhỏ, được trang bị pháo 85 mm và một bộ giáp nhẹ. Với trọng lượng khoảng 30 tấn, Type 62 lấp đầy khoảng cách giữa các MBT hạng nặng và các xe tăng đổ bộ đường không và đường biển có trọng lượng rất nhẹ. Các biến thể hiện đại có lớp giáp nâng cấp và các gói chỉ thị mục tiêu, nhưng chúng được trang bị kém và hầu như không có khả năng tấn công chống lại MBT hiện đại. Những chiếc xe tăng này vẫn đang được sử dụng hạn chế ở các khu vực địa lý cụ thể, nhưng chúng đang dần được loại biên và thay thế bằng xe tăng hạng nhẹ Type 15.

1677897158949.png

Type-62

Type 15 là loại xe tăng hạng nhẹ hoàn toàn mới được phát triển để đảm nhiệm vai trò của Type 62. Nó được trang bị pháo 105 mm phổ biến và giáp composite, cùng với một tổ hợp vũ khí điều khiển từ xa tiên tiến và bộ nạp đạn tự động. Type 15 có thể không nhằm mục đích cạnh tranh trực tiếp với các loại MBT hiện đại, mà là nhằm tăng cường sức mạnh hỏa lực của các đơn vị rừng núi và rừng rậm. Nó cũng có khả năng được thiết kế riêng cho thị trường xuất khẩu - nhiều quân đội cấp thấp hơn trên thế giới đang tìm cách thay thế thiết bị từ thời Liên Xô của họ và một chiếc xe tăng hiện đại loại 30 tấn đáp ứng yêu cầu của họ. Type 15 mới được Lục quân Trung Quốc chấp nhận gần đây và nó chỉ được sử dụng hạn chế bởi các đơn vị tác chiến.

1677897186230.png

Type-15

Type 63 là một loại xe tăng hạng nhẹ lội nước được sử dụng rộng rãi. Các mẫu Type 63 ban đầu được chế tạo chủ yếu để cung cấp cho lực lượng Lục quân Trung Quốc một loại xe bọc thép có khả năng vượt sông và các vùng nước nhỏ khác. Những phương tiện này vẫn còn hạn chế ở các vùng miền xuôi. Type 63A nâng cấp được chế tạo đặc biệt cho Lực lượng Hải quân đánh bộ Quân đội Trung Quốc (PLANMC), và nó có khả năng vượt qua các khu vực biển mở. Cả hai loại đều có khả năng bắn trong khi di chuyển, mặc dù Type 63A có khả năng di chuyển được cải tiến rất nhiều. Cả hai xe tăng đều chỉ có lớp giáp đồng nhất nhẹ và chúng không nhằm mục đích chống lại các cuộc tấn công từ các loại ATGM hiện đại hoặc xe tăng của đối phương. Dù vẫn được Lục quân và Hải quân Trung Quốc sử dụng, nhưng những chiếc Type 63 đang bị loại biên dần và thay thế bằng các hệ thống xe tăng lội nước hiện đại hơn.

1677897310725.png

Type-63

Xe tăng lội nước ZLT-05 là nền tảng lai ghép giữa xe chiến đấu bộ binh (IFV), xe tăng và xe đột kích với khả năng hoạt động ấn tượng trên các vùng nước có diện tích lớn. Một khẩu pháo 105 mm hiện đại sử dụng xuyên dưới cỡ, các loại đạn có sức công phá lớn và ATGM trên bộ hoặc dưới nước, sử dụng máy tính điều khiển hỏa lực hiện đại và khả năng ổn định tăng cường. Mặc dù nặng hơn Type 63, ZLT-05 vẫn chỉ có lớp giáp nhẹ và nó chỉ nhằm mục đích bảo vệ chống lại đạn phá mảnh và vũ khí hạng nhẹ. ZLT-05 được dự định trở thành xe tăng lội nước tiêu chuẩn trong Hải quân đánh bộ Trung Quốc và do đó, nó là xương sống của khả năng đổ bộ tầm gần của PLA.

1677897458552.png

ZLT-05

Xe chiến đấu bộ binh (IFV)

Mặc dù là một trong những lực lượng sớm sử dụng IFV, nhưng Lục quân Trung Quốc sử dụng với số lượng ít hơn so với các quân đội lớn khác, đặc biệt là so với Nga. Có rất nhiều loại và cấu hình của IFV Trung Quốc và việc phân loại chúng có thể phức tạp: trọng lượng, cấu hình và hỏa lực không thể kết luận được, giống như đối với quân đội Mỹ. Thay vào đó, người ta phải xem xét tổ chức của đơn vị được đề cập: một lữ đoàn BCHT được cơ giới hóa (hạng trung) sử dụng các phương tiện bọc thép của mình gồm cả IFV và APC, trong khi lữ đoàn BCHT cơ giới (hạng nhẹ) sử dụng phương tiện của họ hầu như chỉ là APC. Các thiết kế IFV của Trung Quốc nhìn chung đã phản ánh các thiết kế của Liên Xô và Nga từ BMP-1 của những năm 1960, mặc dù các sở thích của Lục quân Trung Quốc hiện nay dường như đang có xu hướng thiên về xe bánh hơi thay vì xe bánh xích. Lục quân Trung Quốc tích cực trang bị khoảng 4.000 IFV các loại, cộng với một số lượng lớn các phương tiện cũ trong tình trạng niêm cất.

1677897589667.png

IVF WZ501 type 86/BMP-1

IFV Type 86 là bản sao của BMP-1 phổ biến và nó vẫn được sử dụng rộng rãi bởi các đơn vị chủ lực của Lục quân Trung Quốc. Type 86 ban đầu có pháo 100 mm, trong khi Type 86A mới hơn được chế tạo với pháo tự động 30 mm. Các biến thể bao gồm vận chuyển quân (với sức chứa tám binh sĩ), trinh sát, công binh, mang ATGM, phòng không, đổ bộ và xe chỉ huy. Type 86 là loại xe bánh xích, có khả năng cơ động trên nhiều loại địa hình và hỏa lực khá mạnh so với trọng lượng của nó. Tuy nhiên, khả năng bảo vệ của nó rất kém, chỉ bao gồm thép mỏng đồng nhất và những cải tiến về khả năng sống sót tối thiểu.

1677897721642.png

IVF WZ501 type 86A

FV ZBD-04 là loại xe bánh xích hạng nặng rất giống BMP-3 của Nga. Nó có động cơ mạnh mẽ, khả năng bảo vệ được cải thiện và hỏa lực ấn tượng, mặc dù nó nặng gần gấp đôi so với các Type 86 và 86A mà nó được chế tạo để thay thế. ZBD-04 gần giống với M2 Bradley về cấu hình, kích thước và khả năng. Nó sử dụng cả pháo chính 100 mm sơ tốc cao và một súng 30 mm, cùng với ATGM và súng máy - một lượng hỏa lực đáng kể cho IFV.

1677898922433.png

IVF ZBD-04

Nó có thể chở 7 binh sĩ và có thể lội nước hoàn toàn, mặc dù nó không thể vượt qua vùng nước ven biển. Lớp giáp của nó được thiết kế dạng mô-đun - từ thân xe bằng thép đồng nhất đến vật liệu composite và các tiện ích bổ sung ERA - giúp nó có khả năng bảo vệ phía trước chống lại hỏa lực pháo bên cạnh khả năng bảo vệ toàn diện từ súng máy và đạn phá mảnh. Các biến thể khác của ZBD-04 bao gồm diệt tăng (thay thế binh sĩ bằng tên lửa), diệt tăng hạng nặng (thay thế HJ-8 ATGM thông thường bằng HJ-10 ATGM hạng nặng), xe chỉ huy và xe trinh sát. Biến thể trinh sát là nền tảng trinh sát nặng nhất và mạnh nhất trong Lục quân Trung Quốc. Một biến thể cải tiến, ZBD-04A, bổ sung thêm lớp giáp bảo vệ và cải thiện khả năng kiểm soát hỏa lực và mạng, mặc dù phải chấp nhận thêm trọng lượng.

1677899174440.png

IVF ZBD-04A

..............
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

IFV ZBD-03 là nền tảng bọc thép đường không chính của Không quân Trung Quốc. ZBD-03 rất nhỏ so với các đối thủ cùng thời - chỉ nặng 8 tấn so với 24 tấn của xe ZBD-04 và gần 30 của xe M2 Bradley. Mặc dù có kích thước nhỏ, nhưng nó có hỏa lực cực tốt. Một khẩu pháo tự động 30 mm và một bệ phóng ATGM nhẹ mang lại cho ZBD-03 uy lực tương tự như các IFV lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khả năng bảo vệ của nó rất nhẹ, và nó có chỉ khả năng chống lại các loại vũ khí nhỏ và đạn phá mảnh.

1677929995610.png

IFV ZBD-03

Khả năng di chuyển của IFV này rất nổi bật nhờ trọng lượng nhẹ, tỷ lệ công suất trên trọng lượng cao và hệ thống treo tiên tiến. ZBD-03 vừa có khả năng được chuyên chở bằng máy bay vừa có thể thả từ trên không xuống, và nó là thành phần thiết giáp chính của quân đoàn đổ bộ đường không của Không quân Trung Quốc. Nó được coi là khả năng tấn công chính của quân đoàn dù, và nó có mục đích tấn công các lực lượng khu vực hậu phương của đối phương, lực lượng đồn trú và các mục tiêu mềm khác như một phần của các hoạt động đường không. IFV này không được thiết kế để đối đầu với lực lượng cơ giới hóa hạng nặng. Các biến thể bao gồm xe chỉ huy và biến thể diệt xe tăng với bệ phóng ATGM lớn hơn thay vì một khẩu pháo.

1677930116302.png

IFV ZBD-03 thực hành đổ bộ thả dù

IFV ZBD-05 là phương tiện chiến đấu lội nước của Hải quân đánh bộ Trung Quốc. Nó có chung khung gầm và máy như xe tăng lội nước hạng nhẹ ZLT-05, điểm khác biệt cơ bản là IFV này chở được 8 binh sĩ và sử dụng pháo tự động 30 mm thay vì pháo chính 105 mm. ZBD-05 có thể băng qua đại dương với tốc độ và độ an toàn tương đối, đồng thời nó có thể tấn công mục tiêu khi đang di chuyển nhờ khả năng ổn định tiên tiến của súng và bệ phóng tên lửa. Khả năng bảo vệ của ZBD-05 tương tự như của ZLT-05. Nó nhất thiết phải có trọng lượng nhẹ và chỉ có thể chống lại những loại vũ khí nhỏ và đạn phá mảnh. ZBD-05 được sử dụng rộng rãi trong các lữ đoàn đổ bộ của Lục quân và Hải quân đánh bộ Trung Quốc; sự phổ biến của loại xe có thể sẽ tăng lên đáng kể khi việc Hải quân đánh bộ Trung Quốc tiếp tục phát triển về lực lượng.

1677930205733.png

IFV ZBD-05

ZBL-08 là IFV được chế tạo trên khung gầm xe bánh lốp Type 08 8 x 8 tương đối mới. Khung gầm của Type 08 gần giống với Stryker của Mỹ hoặc BTR của Nga, mặc dù nó là một thiết kế bản địa của Trung Quốc và nó có phần nặng hơn một trong hai loại xe cùng thời. Biến thể ZBL-08 chở được 7 binh sĩ và nó sử dụng pháo tự động 30 mm cộng với ATGM. Nó có khả năng di chuyển vượt mọi loại địa hình tốt và đặc biệt là tốc độ rất nhanh trên những con đường có chất lượng tốt, khiến nó trở thành lựa chọn hàng đầu cho các tình huống chiến đấu trong đô thị. Lớp giáp của nó có khả năng chống lại hỏa lực súng máy hạng nặng và đạn phá mảnh, mặc dù nó có thể có khả năng bảo vệ hạn chế trước pháo hạng nhẹ từ một số hướng. Các biến thể IFV được sử dụng theo cách tương tự như các loại xe bánh xích cùng loại của chúng - như chi viện hỏa lực cho bộ binh đã xuống xe. Một biến thể trinh sát được trang bị bộ cảm biến hiện đại bao gồm radar, cảm biến nhiệt, cảm biến điện quang và bộ chỉ định laser, ngoài súng và tên lửa của IFV.

1677930303876.png

ZBL-08

Xe bọc thép chở quân

Cũng như với IFV, Lục quân Trung Quốc sử dụng không nhiều xe bọc thép chở quân (APC) so với các quân đội lớn khác. Các APC là thành phần cơ động chính của các lữ đoàn BCHT hạng nhẹ, cung cấp cho bộ binh hạng nhẹ khả năng cơ động và khả năng bảo vệ tăng cường nhưng chỉ tạo ra hỏa lực tấn công hạn chế. Hầu hết các APC của Lục quân Trung Quốc đều là xe bánh xích, nhưng số lượng ngày càng tăng là các xe bánh hơi 8 x 8. Ngoài lực lượng APC của Lục quân Trung Quốc, PAP sử dụng một số lượng đáng kể các APC để hỗ trợ các vai trò an ninh, ổn định trong nước và chống khủng bố.

APC Type 63 là một trong những thiết kế xe chiến đấu bọc thép bản địa (AFV) đầu tiên của Trung Quốc và nó rất giống với M113 của Mỹ về kích thước, khả năng và vai trò. Đơn giản, nhẹ và có khả năng lội nước, nó có tuổi thọ lâu và rất hữu ích - giống như M113. Nó sử dụng lớp giáp thép nhẹ để chống lại vũ khí nhỏ và đạn phá mảnh, và nó có thể chở tối đa 10 binh sĩ. Thiết kế của Type 63 bao gồm một số biến thể khác nhau, bao gồm xe chỉ huy, xe cứu thương và xe mang súng cối hoặc pháo. Nó đã được nâng cấp định kỳ với động cơ mạnh hơn và hệ thống treo tốt hơn, và nó sẽ tiếp tục phục vụ trong Lục quân Trung Quốc trong tương lai gần.

1677930412463.png

APC Type 63

APC ZSD-89 được phát triển như một nhánh của sản phẩm xuất khẩu. Lục quân Trung Quốc đã rất ấn tượng với khả năng chuyên chở và tính cơ động của nó và đã đặt hàng nó hoạt động cùng với những chiếc Type 63 đã có trong biên chế. ZSD-89 là một trong những APC lớn nhất thế giới về sức chứa, có thể chở 13 binh sĩ hoặc một số lượng lớn ATGM, đạn pháo hoặc mìn ở các biến thể khác. Nó có khả năng lội nước và được bảo vệ chống lại đạn phá mảnh và đạn súng máy hạng nặng. Giống như Type 63, ZSD-89 đã được phát triển thành nhiều biến thể khác nhau, bao gồm loại mang súng cối và pháo, xe chỉ huy, xe trinh sát, xe tiếp tế và thu hồi, xe diệt tăng và IFV.

1677930495323.png

APC ZSD-89

.............
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Type 08 là biến thể APC của AFV bánh lốp ZBL-08 8 x 8. Nó có thể chở tối đa 10 binh sĩ và nó có lợi thế đáng kể về cả tốc độ và phạm vi so với xe bánh xích. Type 08 sử dụng một số tính năng tiên tiến, chẳng hạn như bệ vũ khí điều khiển từ xa và hệ thống treo tiên tiến, và nó có khả năng là lựa chọn APC của Lục quân Trung Quốc để thay thế cho các xe cũ đã ngừng hoạt động, đặc biệt là trong các lữ đoàn BCHT hạng trung. Khung gầm của Type 08 lớn và phù hợp với nhiều vai trò, bao gồm chỉ huy, liên lạc, xe chở pháo và súng cối, súng phòng không, trinh sát, cứu thương, tác chiến điện tử, hỗ trợ kỹ thuật và súng tấn công. PAP cũng sử dụng Type 08 trong các vai trò an ninh nội địa và chống khủng bố. Đây là phương tiện lớn nhất và mạnh mẽ nhất mà PAP sử dụng.

1678008965043.png

APC Type 08

ZSL-92 là một APC hạng nhẹ sử dụng hai khung gầm bánh hơi 6 x 6 khác nhau được gọi chung là WZ-551. Mặc dù trải qua một thời gian phát triển dài và đầy khó khăn, ZSL-92 vẫn được phổ biến rộng rãi trong Lục quân, lực lượng vũ cảnh Trung Quốc và cả các nước khác. Biến thể IFV được trang bị pháo tự động 25 mm và nó có thể chở 9 binh sĩ, trong khi biến thể APC trang bị súng máy hạng nặng có thể chở tối đa 11 binh sĩ. Tuy nhiên, do được trang bị lớp giáp nhẹ, nên không có khả năng Lục quân Trung Quốc sẽ sử dụng ZSL-92 trong vai trò tấn công. Trọng lượng nhẹ và khả năng di chuyển trên đường của ZSL- 92 khiến nó trở thành lựa chọn tự nhiên cho PAP và số lượng lớn được sử dụng trong các vai trò kỹ thuật, kiểm soát đám đông và an ninh.

1678009078679.png

APC ZSL-92

Xe diệt xe tăng, pháo tự hành và xe mang tên lửa chống tăng có điều khiển

Lục quân Trung Quốc đặt ưu tiên rất cao cho hỏa lực chống tăng trong các đội hình chiến thuật. Do đó, lực lượng này điều chỉnh hầu như tất cả các xe AFV có trong biên chế để tăng cường hỏa lực chống tăng, chống bộ binh và chống vật cản. Hai cách tiếp cận phổ biến nhất đối với những điều chỉnh này là thay thế súng máy hoặc pháo nhỏ bằng pháo xe tăng (thường là loại 105 mm) hoặc bổ sung thêm các bệ phóng ATGM và thay thế khoang tổ lái bằng khoảng trống để chứa thêm ATGM. Các hệ thống này cung cấp hỏa lực tăng cường cho các lữ đoàn BCHT hạng nhẹ và hạng trung, thường được biên chế một đại đội trong một tiểu đoàn.

1678009913318.png


Các loại pháo tự hành chống tăng và pháo tự hành nhìn chung có tính năng và hình thức tương tự nhau. Gần như tất cả đều sử dụng khung gầm APC hoặc IFV, với khoang kíp xe được trang bị máy móc và đạn dược để hỗ trợ pháo chính 105 mm và tháp pháo. Gần như tất cả các khẩu pháo 105 mm của Lục quân Trung Quốc đều có nguồn gốc từ pháo L7 của Anh được phổ biến rộng rãi trong những năm 1960. Những khẩu pháo này vẫn là mối đe dọa đối với ngay cả các loại áo giáp hiện đại vì những nâng cấp về vận tốc đầu nòng và cơ số đạn của chúng. Ngoài vai trò chống tăng cơ động, những khẩu pháo này còn có khả năng chống bộ binh và chống vật cản hữu ích, và chúng được sử dụng bởi các chỉ huy tiểu đoàn hoặc cụm bất cứ khi nào cần tăng cường hỏa lực. Trong số các loại pháo tự hành phổ biến nhất là ZTL-11 (một APC Type 08 được sửa đổi) và PTL-02, dựa trên APC ZSL-92.

1678009245653.png

ZTL-11

1678009282973.png

PTL-02

Các loại xe mang ATGM được biên chế rộng rãi trong các đơn vị của Lục quân Trung Quốc với tất cả các loại. Hầu như mỗi đơn vị cấp tiểu đoàn sử dụng ít nhất một trung đội xe ATGM. Đối với các đơn vị nhẹ hơn, những xe này là hỏa lực chống tăng cơ động chính. Do có lớp giáp mỏng, các xe ATGM được sử dụng tốt nhất trong các cuộc phục kích hoặc các cuộc tấn công tầm xa, nơi chúng không thể bị xe tăng hoặc IFV của đối phương nhắm mục tiêu. Chúng hầu như chỉ là một vũ khí phòng thủ, mặc dù chúng có thể sử dụng tên lửa của mình để nhắm mục tiêu vào boongke hoặc các công sự khác nếu được yêu cầu. Hầu như mọi mẫu APC của Lục quân Trung Quốc đều được điều chỉnh để trở thành xe ATGM.

Xe thiết giáp nhẹ và xe bánh hơi

Hầu hết các phương tiện chiến thuật hạng nhẹ của Lục quân Trung Quốc đều thuộc họ Mengshi, một nhóm phương tiện có nguồn gốc từ chiếc Hummer H1 của Mỹ, là phiên bản dân sự của xe đa dụng cơ động cao M998 của Mỹ. Giống như M998, dòng xe Mengshi đã được nâng cấp định kỳ, bắt đầu chủ yếu là xe tiện ích vỏ mềm và giờ đây được gia cố thêm lớp vỏ giáp, khung gầm chống mìn và các bệ vũ khí điều khiển từ xa. Những xe này thực hiện nhiều vai trò khác nhau, từ vận tải đơn thuần, cứu thương, chỉ huy và bảo trì, thực hiện mọi vai trò có sẵn cho một chiếc xe tải chiến thuật bánh hơi hạng nhẹ. Lục quân Trung Quốc, theo dõi sát sao các hoạt động của liên quân ở Iraq và Afghanistan, cũng đã phát triển xe Mengshi thành các xe tuần tra, xe trinh sát và chi viện hỏa lực cục bộ dưới dạng loạt xe CSK. Các xe Mengshi mới nhất lớn hơn đáng kể so với các xe tiền nhiệm Hummer của chúng, rất giống các phương tiện chiến thuật hạng nhẹ liên quân của Mỹ về cả kích thước và khả năng. Những phương tiện này có mặt khắp nơi trong Lục quân và Cảnh sát vũ trang Trung Quốc, cung cấp nhiều hỗ trợ cơ giới hóa cho các lực lượng mặt đất cùng với hệ thống bảo vệ và hỏa lực ngày càng tăng

1678009386448.png

1678009568596.png

Mengshi

Lục quân Trung Quốc sử dụng nhiều loại phương tiện bánh lốp hạng nặng, khác nhau về kích thước và trọng tải. MV3 là loại xe tải hạng trung thông thường, thường được vận hành theo cấu hình 6 x 6. Nó cơ bản có thể so sánh với xe M939 của Mỹ hoặc xe chiến thuật hạng trung, mặc dù nó là một thiết kế mới hơn. Nhiều mô hình của xe tải lớn hơn cung cấp tải trọng lớn hơn. Các loại lớn nhất có cấu hình lên đến 10 x 10 và đóng vai trò là thiết bị vận chuyển- dựng phóng cho tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) và hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) tầm xa. Số lượng xe tải chở hàng - đặc biệt là xe tải chở hàng hạng trung là xương sống của hậu cần chiến thuật - trong PLA tương đối thấp và nó ảnh hưởng đến khả năng của Trung Quốc trong việc tiến hành các hoạt động viễn chinh hoặc các hoạt động ở một khoảng cách đáng kể so với cấu trúc hậu cần nội bộ của nước này.

1678009656038.png

Xe vận tải MV3

1678009741248.png

1678009789148.png

Xe vận tải hạng nặng

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Vũ khí nhỏ và vũ khí hỏa lực trực tiếp

Sự độc lập quân sự của Trung Quốc khỏi Liên Xô có thể được nhìn thấy qua sự phát triển của ngành công nghiệp vũ khí nhỏ của nước này. Trong khi Quân đội Trung Quốc ban đầu phụ thuộc hoàn toàn vào các loại vũ khí có nguồn gốc từ Liên Xô, thì sau nhiều năm đầu tư đã xây dựng ngành công nghiệp vũ khí nhỏ của Trung Quốc trở thành một trong những ngành công nghiệp lớn nhất và hiện đại nhất thế giới. Sự phát triển này diễn ra song song với sự tiến bộ của súng trường của Lục quân Trung Quốc: trong 50 năm qua, nó đã chuyển từ một bản sao đơn giản của khẩu SKS của Liên Xô sang sự phát triển của các biến thể dựa trên AK 47, AKM và AK-74, sang hoàn toàn bản địa với những thiết kế đương đại.

1678089760406.png

Súng AK

QBZ-95 là súng trường biên chế chính của Lục quân Trung Quốc ngày nay. Thiết kế kiểu bullpup, QBZ-95 được tối ưu hóa để dễ sử dụng và số lượng phát bắn. Nó cũng được coi là một vũ khí đơn giản, chắc chắn và tiện dụng. Đạn 5,8 mm x 42 mm của nó cung cấp nhiều sức mạnh hơn và hiệu suất đạn đạo tốt hơn so với đạn 5,56 mm tiêu chuẩn của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), mặc dù trọng lượng và độ giật tăng lên một chút. Nó kém chính xác hơn hầu hết các đối thủ phương Tây và thiếu khả năng nâng cấp theo mô-đun — chẳng hạn như hệ thống ray trượt (rail system) - được hầu hết các súng trường tấn công hiện đại ưa chuộng. Thế hệ tiếp theo của QBZ-95 được cho là sẽ bao gồm một hệ thống đường ray trên đỉnh phẳng thay vì các ống ngắm bằng sắt đơn giản. QBZ-95 đã được sửa đổi thành các biến thể súng phóng lựu, súng carbine và vũ khí hỗ trợ hạng nhẹ. Các loại súng trường cũ hơn - hầu hết là các biến thể AKM và AK-74 - vẫn đang được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị dân quân và dự bị.

1678089849252.png

Súng QBZ-95

Giống như hầu hết các Quân đội phương Tây, lực lượng Lục quân Trung Quốc sử dụng ba loại súng máy: vũ khí tự động tiểu đội, chủ yếu là biến thể súng máy hạng nhẹ QBB-95 của QBZ-95; súng máy đa dụng - hỗn hợp vũ khí cũ có nguồn gốc từ Liên Xô và súng máy đa dụng kiểu phương Tây mới hơn; và súng máy hạng nặng cỡ nòng 12,7 mm, bao gồm cả bản sao trực tiếp của khẩu M2HB của Mỹ. Ngoài ra, súng máy hạng nặng 14,5 mm được sử dụng làm vũ khí phòng không trong các đội hình chiến thuật. Súng máy đa dụng được vận hành bởi các tổ súng máy và lắp trên các loại xe; súng máy hạng nặng thường được gắn trên xe bọc thép. Súng máy phòng không hạng nặng được trang bị trong mỗi đại đội hỏa khí đi cùng của tiểu đoàn binh chủng hợp thành (CA-BN). Nói chung, súng máy của Lục quân Trung Quốc có thể được coi là tương đương - và trong nhiều trường hợp, thực tế giống hệt - với các phiên bản tương tự ở phương Tây.

1678089967719.png

Súng máy QBB-95

1678090098001.png

Súng máy 12,7mm

Tên lửa vác vai và rốc két

Lục quân Trung Quốc sử dụng rất nhiều tên lửa chống tăng vác vai trong toàn bộ các cấp đơn vị của mình, nhấn mạnh một cách tổng quát vào khả năng chống tăng có thể nhìn thấy trong toàn tổ chức. Cách tiếp cận lịch sử của Lục quân Trung Quốc đối với chiến tranh chống tăng vác vai là số lượng nhiều, biên chế các đơn vị với số lượng lớn tên lửa không điều khiển - chủ yếu dựa trên súng phóng lựu RPG-7 phổ biến của Liên Xô - và các ATGM đơn giản, chủ yếu là HJ-73, một bản sao của tên lửa AT-3 Sagger của Liên Xô. Các hệ thống này vẫn đang được sử dụng và vẫn là mối đe dọa đối với nhiều loại xe bọc thép do được nâng cấp định kỳ và mật độ triển khai của chúng.

1678090477433.png

Súng phóng lựu RPG-7

1678091267696.png

Tên lửa HJ-73

Tuy nhiên, Lục quân Trung Quốc cũng bắt đầu áp dụng cách tiếp cận chất lượng hơn số lượng đối với các ATGM của họ, dễ thấy nhất trong quá trình phát triển và trang bị HJ-12. Được phát triển đặc biệt để cạnh tranh với tên lửa FGM-148 Javelin của Mỹ, HJ-12 sử dụng hầu hết các phát triển mới nhất của ATGM, bao gồm cấu hình tấn công từ trên xuống, đầu nổ lõm, phóng mềm và khả năng nhắm mục tiêu bắn và quên. Tuy nhiên, những hệ thống này đắt tiền và phức tạp và số lượng của chúng bị giới hạn bởi giá thành.

1678091315641.png

Tên lửa HJ-12

Năng lực cơ động và những hạn chế

Chỉ trong vòng hơn 20 năm, khả năng cơ động của Lục quân Trung Quốc đã phát triển từ một lực lượng hỗn hợp gồm lính bộ binh hạng nhẹ và xe tăng lỗi thời thành lực lượng cơ giới hóa và được trang bị nhiều loại xe bọc thép và đạn dẫn đường hiện đại. Tuy nhiên, sự tiến hóa này không hoàn chỉnh. Một số lượng đáng kể các lữ đoàn BCHT vẫn được trang bị các hệ thống cũ hơn, và chúng có khả năng vẫn như vậy trong tương lai gần. Vì vậy, sự phát triển hướng tới chuyên nghiệp hóa trong lực lượng cơ động cũng tạo ra nhiều kết quả khác nhau. Dù chất lượng của cả tân binh và hạ sĩ quan (NCO) đã tăng lên đáng kể, nhưng Lục quân Trung Quốc vẫn phải vật lộn với việc phân quyền lập kế hoạch và tác chiến ở các cấp chiến thuật thấp hơn. Lực lượng cơ động cũng đã phải vật lộn với sự phức tạp của chiến trường thông tin hóa và lực lượng cơ giới hóa hiện đại. Nhu cầu kỹ thuật của người lính được tin học hóa cao hơn nhiều so với lính nghĩa vụ của các thế hệ trước, và nhu cầu bảo trì và hậu cần của lực lượng cơ giới hóa lớn hơn nhiều so với lực lượng bộ binh hạng nhẹ.

1678091447408.png


Sự cải tiến năng lực quan trọng nhất trong PLA là phát triển khả năng viễn chinh hiệu quả. Các lực lượng PLA trước đây chỉ được lập kế hoạch hoạt động trong lãnh thổ Trung Quốc, các lãnh thổ lân cận và lãnh hải Trung Quốc. Tuy nhiên, để khẳng định mình là một cường quốc, Trung Quốc tin rằng cần phải có một khả năng viễn chinh trên bộ mạnh mẽ. Đây là động lực chính đằng sau việc phát triển lực lượng Hải quân đánh bộ Trung Quốc. Đây có thể là nỗ lực quan trọng nhất trong PLA để đáp ứng các yêu cầu viễn chinh mới. Bất chấp những nỗ lực này, PLA vẫn không thể triển khai hoặc duy trì một lực lượng cơ giới hạng nặng bên ngoài biên giới đất liền và lãnh hải của mình, điều này làm hạn chế sức mạnh chiến đấu của lực lượng viễn chinh.

1678091495060.png


Các chỉ huy ở các cấp chiến thuật của Lục quân Trung Quốc có năng lực về kỹ thuật và chiến thuật, được đào tạo khá thường xuyên về các chức năng tham mưu và chỉ huy. Đội ngũ sĩ quan được chuyên nghiệp hóa và đào tạo bài bản, trong đó có nhiều sĩ quan hoàn thành cả trình độ học vấn cao cấp và đào tạo quân sự cấp cao. Nhiều sĩ quan Lục quân Trung Quốc là các quân nhân nhập ngũ. Lục quân Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ sĩ quan của mình cho các chức năng lãnh đạo. Một đội ngũ hạ sĩ quan (NCO) là một bước phát triển tương đối mới. Các NCO của Lục quân Trung Quốc trước đây chỉ là lính nghĩa vụ với vài năm kinh nghiệm, nhưng bắt đầu từ cuối những năm 1990, Lục quân Trung Quốc đã bắt đầu khám phá ý tưởng về NCO chuyên nghiệp. Lực lượng này này vẫn còn kém phát triển so với của Lục quân Mỹ, với kinh nghiệm tham mưu không nhiều và không có kinh nghiệm chỉ huy, nhưng niềm tin của Lục quân Trung Quốc vào hệ thống mới này được phản ánh trong việc giảm tuyển dụng sĩ quan và tiếp tục mở rộng đội ngũ NCO.

1678091562936.png


Bất chấp những cải cách này và sự chú trọng nhiều hơn vào tính độc lập và chủ động ở các cấp chiến thuật thấp hơn, các đội hình của Lục quân Trung Quốc vẫn phải vật lộn với các hành động độc lập. Chỉ huy các đơn vị nhỏ ngại đưa ra quyết định do văn hóa không dung thứ và các sĩ quan vẫn do dự trong việc trao quyền cho cấp dưới vì sợ họ làm việc kém hiệu quả và vì thế sẽ làm liên lụy khiến sĩ quan bị coi là không giỏi. Ngoại trừ các đơn vị tinh nhuệ như lực lượng tác chiến đặc biệt hoặc trinh sát, tiểu đoàn có khả năng là cấp thấp nhất có khả năng hoạt động độc lập trong bất kỳ khoảng thời gian đáng kể nào, và ngay cả tính độc lập của tiểu đoàn cũng bị hạn chế bởi không có nhiều sĩ quan tham mưu và số lượng vũ khí trang bị chi viện hạn chế. Tuy nhiên, những nguồn lực đáng kể đang được dành để giảm thiểu những khoảng cách này, chẳng hạn như việc thành lập các cơ sở đào tạo theo kiểu các Trung tâm Huấn luyện Chiến đấu của Lục quân Mỹ và phát triển một lực lượng đối lập chuyên dụng, chuyên nghiệp.

1678091643007.png



.................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Việc phát triển đô thị hóa và cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội của Trung Quốc đang nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và chất lượng chung của binh lính nghĩa vụ của nước này. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo rất khác nhau. Một số đơn vị nhận được các nguồn huấn luyện đáng kể, chẳng hạn như các bài tập cơ động chống lại lực lượng chống đối chuyên nghiệp, trong khi những đơn vị khác thậm chí có thể không nhận được đầy đủ đạn dược để luyện tập xạ kích thường xuyên. Việc đánh giá hiệu quả mức độ sẵn sàng huấn luyện của một đơn vị là một thách thức đối với những người bên ngoài do sự khác biệt lớn giữa các lữ đoàn, ngay cả trong cùng các tập đoàn quân. Mức độ sẵn sàng còn khác nhau giữa các đơn vị dự bị động viên và dân quân.

1678614229036.png


Một số duy trì lịch huấn luyện và tập hợp thường xuyên, trong khi những đơn vị khác thực tế chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Quân nhân dự bị hầu hết được lấy từ những binh sĩ tại ngũ trước đây và như vậy, đã có kinh nghiệm huấn luyện cơ bản, nhưng một đơn vị dự bị hoặc dân quân, nếu được kích hoạt, sẽ mất một thời gian dài để đạt được mức độ sẵn sàng huấn luyện hữu ích. Ngược lại, các thành phần ưu tú của lực lượng tác chiến đặc biệt PLA, các lữ đoàn BCHT danh tiến, lực lượng đổ bộ đường không và đường biển, cùng những lực lượng khác - được hưởng các nguồn lực huấn luyện đáng kể và có khả năng tương đương với các đội hình được đào tạo bài bản của phương Tây.

2. Khả năng chi viện hỏa lực

Tổng quan chức năng chi viện hỏa lực


Không có lĩnh vực năng lực nào khác trong Lục quân Trung Quốc (PLAA) được chú trọng nhiều hơn trong giai đoạn cải tổ gần đây hơn là chi viện hỏa lực. Chỉ trong hơn hai thập kỷ, chi viện hỏa lực của PLAA đã phát triển từ một tập hợp các thiết bị cũ kỹ có nguồn gốc từ Liên Xô thành một bộ sưu tập chủ yếu là bản địa, hiện đại, đa dạng và nhiều hệ thống pháo và rốc két. Lục quân Trung Quốc sử dụng kết hợp súng cối, pháo và rốc két làm nền tảng cho chi viện hỏa lực, bao gồm số lượng lớn các hệ thống rốc két được hiện đại hóa có khả năng sử dụng các loại đạn dẫn đường chính xác và gần chính xác.

1678614296697.png


Sự chú trọng của Lục quân Trung Quốc đối với hỏa lực thể hiện rõ nhất qua việc đầu tư hiện đại hóa khả năng chi viện hỏa lực của lực lượng này. Kinh nghiệm và qua quan sát đã khiến các nhà lãnh đạo Lục quân Trung Quốc kết luận rằng các đơn vị cơ động của họ phải đối mặt với những thách thức đáng kể khi đối đầu với lực lượng tương đương trong quân đội Mỹ và Nga, vì vậy quyết định theo đuổi hỏa lực tăng cường như một công cụ bù đắp khoảng cách năng lực đó đã được đưa ra. Chi viện hỏa lực liên hợp - từ máy bay cánh cố định hoặc cánh quạt, hoặc từ tàu nổi hoặc tàu ngầm - kém phát triển hơn nhiều. Khả năng hỗ trợ trên không gần như không tồn tại và Lục quân Trung Quốc sử dụng số lượng trực thăng tấn công rất thấp, mặc dù con số này được xác định sẽ gia tăng. Tương tự, hỏa lực hải quân hầu như không có trong danh mục của PLA, mặc dù các lực lượng đổ bộ có thể cung cấp đáng kể chi viện hỏa lực của riêng họ thông qua xe tăng đổ bộ, pháo tự hành và súng cối.

1678614684610.png


Lục quân Trung Quốc trang bị chi viện hỏa lực trên mặt đất với mật độ rất cao trong toàn bộ đội hình của mình. Các tiểu đoàn thuộc tất cả các loại đều được biên chế súng cối hạng trung, trong khi các lữ đoàn BCHT (CA-BDE) biên chế súng cối hạng nặng, pháo phản lực và rốc két (rốc két phóng loạt - MRL) trong các tiểu đoàn chi viện hỏa lực cơ hữu của họ. Lữ đoàn pháo binh của tập đoàn quân cũng có sự kết hợp giữa pháo và rốc két, bổ sung thêm một tiểu đoàn rốc két hạng nặng. Các đơn vị này có thể được tập đoàn quân giữ lại để khai hỏa hàng loạt vào một mục tiêu quan trọng hoặc chúng có thể được tổ chức theo nhiệm vụ cho lữ đoàn BCHT để tăng cường hỏa lực của lữ đoàn.

1678614374577.png


Hỏa lực có trong biên chế của lữ đoàn BCHT gần tương đương với đội chiến đấu cấp lữ đoàn Mỹ (BCT): 27 khẩu pháo, cùng với một khẩu đội rốc két hạng nhẹ. Hầu hết các loại pháo của lữ đoàn BCHT là 122 mm (mm) so với các loại pháo chủ yếu là 155 mm của BCT, nhưng BCT không được biên chế năng lực rốc két. Lữ đoàn BCHT sở hữu nhiều pháo hơn và khả năng cơ động của hệ thống hỏa lực tốt hơn, trong khi BCT có tầm bắn và sức công phá lớn hơn với các hệ thống pháo lớn hơn, cỡ nòng lớn hơn. Mật độ và hỏa lực hủy diệt của các hỏa lực tăng cường là mối quan tâm lớn của Lục quân Trung Quốc. Lữ đoàn pháo binh bao gồm 72 khẩu pháo, cộng với 40 tổ hợp rốc két phóng loạt với cỡ nòng khác nhau. Các hệ thống này mang lại cho tập đoàn quân lợi thế đáng kể về cả tầm bắn và hỏa lực so với các đội hình tương đương của phương Tây.

1678614603817.png


............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hướng hỏa lực, việc xác định mục tiêu và quan sát phía trước cũng là những lĩnh vực đầu tư chính của Lục quân Trung Quốc. Trung Quốc là nước dẫn đầu thế giới về sản xuất và phát triển hệ thống máy bay không người lái, và Lục quân Trung Quốc là lực lượng sớm triển khai máy bay không người lái làm nền tảng tình báo, giám sát và trinh sát hỗ trợ cho pháo binh - đặc biệt là rốc két tầm xa. Các tiểu đoàn pháo binh thuộc lữ đoàn BCHT được trang bị radar phát hiện hỏa lực, radar giám sát chiến trường, cảm biến điện quang và hồng ngoại tầm xa, và thiết bị đo âm thanh, cùng với các thiết bị quan sát phía trước được trang bị tốt, cả gắn trên xe và không gắn trên xe. Lục quân Trung Quốc dành nguồn lực huấn luyện đáng kể cho nhiệm vụ giám sát và xác định mục tiêu trên chiến trường. Nhân viên quan sát thuộc mọi loại có khả năng được đào tạo bài bản và việc tích hợp giữa cảm biến và xạ thủ có thể rất đáng tin cậy, có số lượng lớn và bền vững.

Tổng quan trang bị chi viện hỏa lực

Lục quân Trung Quốc sử dụng rất nhiều loại súng, súng cối và rốc két. Trung Quốc sản xuất nhiều loại hệ thống này để xuất khẩu. Điều này làm cho việc đánh giá thiết bị của Lục quân Trung Quốc trở nên khó khăn. Tương tự như xe bọc thép, các đơn vị cùng loại có thể sở hữu các hệ thống có khả năng rất khác nhau. Một xu hướng đáng chú ý là cách Lục quân Trung Quốc ưu tiên hiện
đại hóa các hệ thống pháo binh của mình. Pháo tự hành (SPG) và rốc két phóng loạt đã nhận được những khoản đầu tư lớn và có các hệ thống được hiện đại hóa phần lớn, trong khi nhiều hệ thống súng cối và xe kéo có thể có từ ít nhất là những năm 1960.

Súng cối

Cối Type 87 là loại súng cối hạng nhẹ tiêu chuẩn được sử dụng trong Lục quân, các đơn vị dự bị và dân quân Trung Quốc. Với thiết kế đơn giản tương tự như súng cối hạng nhẹ của Mỹ và Liên Xô hoặc Nga, nó bắn được nhiều loại đạn, bao gồm đạn nổ có sức công phá mạnh (HE), đạn khói và pháo sáng, trong phạm vi khoảng 4.000 mét. Những khẩu súng cối này là hỏa lực gián tiếp cơ bản
của tiểu đoàn BCHT hạng nhẹ (CA-BN), với mỗi tiểu đoàn biên chế một khẩu đội cối (12 đến 16 khẩu) trong đại đội hỏa lực. Type 87 là loại mang vác, mặc dù nó có trọng lượng khá nặng như cối tiêu chuẩn 81 hoặc 82 mm.

1678677465036.png

Súng cối Type 87

Súng cối W-99 trông giống như sự lai tạo giữa súng cối và lựu pháo hạng nhẹ. Hệ thống kéo, được Lục quân Trung Quốc gọi là súng cối bắn nhanh và có tốc độ bắn ấn tượng, vượt xa so với các loại cối 81 hoặc 82 mm do binh sĩ triển khai. Tuy nhiên, nó yêu cầu nhiều hỗ trợ hơn đáng kể, bao gồm một xe kéo chính và nhiều đạn dược hơn. Nó không phải là loại mang vác, nhưng nó giúp gia tăng đáng kể về hỏa lực cho tiểu đoàn bộ binh. Khả năng này không có trong các đơn vị của Mỹ.

1678677565410.png

Súng cối W-99

Lựu pháo xe kéo

Lựu pháo Type 54 là một khẩu pháo cỡ nòng 122 mm đơn giản có nguồn gốc từ khẩu M-30 của Liên Xô thời Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Mặc dù đã được sản xuất từ lâu, M-30 / Type 54 vẫn được sử dụng rộng rãi và gần như chắc chắn là thiết kế lựu pháo hạng nhẹ nhiều nhất trên thế giới hiện nay.

1678677720748.png

Type 54 122mm

Các thiết kế của Trung Quốc được nâng cấp định kỳ trong những năm qua, trở nên nhẹ hơn, tăng độ tin cậy và tốc độ bắn, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục hành quân và chuyển quân. Mặc dù đã cũ, nhưng hiệu suất của Type 54 gần tương đương với các loại pháo 105 mm hiện đại, mặc dù nó có phần nặng hơn hầu hết các loại pháo hạng nhẹ hiện đại. Nó cung cấp hỏa lực pháo binh đáng kể cho các lữ đoàn BCHT hạng nhẹ, và nó vẫn được trang bị cho nhiều tiểu đoàn lựu pháo xe kéo của các lữ đoàn pháo binh. Các phiên bản cải tiến phổ biến nhất của Type 54 là Type 83 và Type 86, cả hai đều được tái phát triển từ những năm 1980 với công nghệ khung gầm vượt trội và tốc độ bắn tăng. Họ Type 54 là một hệ thống đa năng. Nó có thể cung cấp cả hỏa lực gián tiếp hoặc trực tiếp, và lực lượng Lục quân Trung Quốc được huấn luyện để sử dụng các hệ thống này như súng chống tăng bắn trực tiếp bên cạnh vai trò pháo binh của chúng.

1678677790674.png

Type-86 122mm

Lựu pháo Type 66 là một thiết kế khác của Liên Xô, dựa trên lựu pháo D-20 152-mm. Hệ thống này có từ những năm 1960 và nó vẫn là khả năng pháo hạng nặng cơ bản của Lục quân Trung Quốc. Type 66 là loại pháo lớn và hạng nặng với hiệu suất hoạt động từ trung bình đến kém nếu tính theo tiêu chuẩn hiện đại, nhưng khi được sử dụng thành thạo và đại trà, nó vẫn có thể tạo ra hỏa lực mang tính quyết định. Hệ thống này đơn giản và mạnh mẽ, có thể hoạt động trong môi trường khắc nghiệt với sự hỗ trợ bảo trì tối thiểu. Tốc độ bắn của nó tương đương với các loại pháo hiện đại hơn, nhưng tầm bắn và độ chính xác kém hơn đáng kể khi bắn các loại đạn thông thường. Đạn tăng tầm và đạn dẫn đường chính xác đã phần nào bù đắp những hạn chế này, nhưng khả năng sẵn có của chúng còn hạn chế. Type 66 được trang bị cho các khẩu đội pháo xe kéo hạng nặng của các lữ đoàn pháo binh Lục quân Trung Quốc, và nó được sử dụng để hỗ trợ hỏa lực hạng nặng cho các chiến dịch cơ động.

1678677884436.png

Type 66 152mm

.........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Pháo tự hành PLZ-89 là loại pháo tự hành được sử dụng rộng rãi nhất trong Lục quân Trung QUỐC. Nó kết hợp pháo 122 mm Type 54/83/86 phổ biến với khung gầm của xe tăng hạng nhẹ Type 63, tạo ra một hệ thống pháo tự hành cơ động, nhẹ, đơn giản. Hiệu suất và khả năng bảo vệ của PLZ-89 đều không có gì nổi bật, nhưng hệ thống này rất mạnh mẽ và dễ triển khai. Lục quân Trung Quốc sử dụng khoảng 700 pháo tự hành PLZ-89 trong các đơn vị của mình; gần như tất cả đều nằm trong các tiểu đoàn pháo binh của lữ đoàn BCHT hạng trung hoặc hạng nặng. Các hệ thống này cung cấp hỗ trợ hỏa lực tầm gần cho các chiến dịch cơ động của lữ đoàn BCHT, thường được kéo theo sau các tiểu đoàn cơ động. Mặc dù lạc hậu và lép vế hơn so với pháo tự hành SPG 155 mm hiện đại hơn, nhưng tính cơ động và đơn giản của pháo PLZ-89 khiến nó không thể thiếu đối với Lục quân Trung Quốc. SH-3 là một biến thể được hiện đại hóa gần đây, cung cấp khả năng kiểm soát hỏa lực và tính cơ động được cải thiện.

1679114911816.png

PLZ-89

PLZ-07 là pháo tự hành 122 mm mới nhất của Lục quân Trung Quốc. Nó sử dụng phiên bản hiện đại hóa của pháo PLZ-89, bản thân nó có nguồn gốc từ loại D-30 lỗi thời của Liên Xô, mặc dù hiệu suất của nó được cải thiện với khả năng kiểm soát hỏa lực hiện đại và đạn dược tiên tiến. Bước tiến chính của PLZ-07 là việc sử dụng khung gầm xe bọc thép chở quân ZBD-04 (APC) hiện đại, giúp nó cải thiện hiệu suất cơ động và đổ bộ, tầm hoạt động lớn hơn và độ tin cậy được cải thiện so với các pháo tự hành cũ hơn. PLZ-07 có thể sẽ được sản xuất với số lượng lớn, cuối cùng sẽ thay thế tất cả các pháo PLZ-89 cũ hơn trong Lục quân Trung Quốc. Giống như hệ thống cũ hơn, PLZ-07 có hỏa lực kém hơn các hệ thống 155 mm, nhưng tính cơ động và đơn giản của nó khiến nó thích nghi rất tốt để chi viện tầm gần cho các đội hình cơ động.

1679115007401.png


PLZ-83 là pháo tự hành bánh xích hạng nặng đầu tiên của Lục quân Trung Quốc, kết hợp giữa lựu pháo Type 66 với khung gầm xe chiến đấu bọc thép hạng nặng (AFV) của Liên Xô. Mặc dù pháo 152 mm cung cấp hỏa lực uy lực hơn so với các mẫu 122 mm được trang bị rộng rãi, nhưng Lục quân Trung Quốc không hài lòng với tính cơ động và độ tin cậy của PLZ-83. Hiệu suất đạn đạo của pháo cũng kém. Số lượng tương đối nhỏ đã được đưa vào trang bị, ban đầu Lục quân Trung Quốc trang bị pháo cho các đơn vị pháo binh sư đoàn, và ngày nay trang bị cho các khẩu đội riêng lẻ trong các lữ đoàn pháo binh. Các hệ thống này vẫn đang được biên chế, mặc dù chúng có kế hoạch sẽ được thay thế bằng các hệ thống hiện đại hơn.

1679115089562.png

PLZ-83

PLZ-05 là pháo tự hành hạng nặng mới của Lục quân Trung Quốc, kết hợp giữa pháo 155 mm mới với khung AFV hạng nhẹ được phát triển đặc biệt. PLZ-05 có thể sử dụng nhiều loại đạn và có tầm bắn và độ chính xác ấn tượng của một hệ thống pháo 155 mm được hiện đại hóa hoàn toàn. Ngoài ra, PLZ-05 sử dụng bộ nạp đạn tự động, tăng tốc độ bắn của nó lên 10 phát mỗi phút, với khả năng bắn 3 phát trong 15 giây. PLZ-05 có thể so sánh với các pháo tự hành tiên tiến khác ở hầu hết các khía cạnh và nó thể hiện sự gia tăng đáng kể về khả năng bắn gián tiếp cho Lục quân Trung Quốc. Có khả năng là tất cả các lữ đoàn pháo binh cuối cùng sẽ biên chế pháo PLZ-05 cho các tiểu đoàn để thay thế dần pháo PLZ-83 cũ hơn. PLZ-05 là một hệ thống rất lớn và nặng với các yêu cầu hỗ trợ đáng kể, nhưng khả năng di chuyển trên nhiều loại địa hình của nó vẫn rất tốt.

1679115141746.png

PLZ-05

Rốc két phóng loạt

PHL-81 là tổ hợp rốc két phóng loạt (MRL) 122 mm được biên chế nhiều nhất trong Lục quân Trung Quốc. Được thiết kế đơn giản gắn trên xe tải có nguồn gốc từ xe BM-21 của Liên Xô, PHL-81 cung cấp cho cả các tiểu đoàn pháo binh của lữ đoàn BCHT và các lữ đoàn pháo binh hỏa lực hủy diệt tầm xa. Mặc dù PHL-81 có nguồn gốc từ thiết kế từ những năm 1960, nhưng nó đã được nâng cấp định kỳ với hệ thống kiểm soát hỏa lực kỹ thuật số và nhiều loại đạn, bao gồm đạn có sức công phá lớn, đạn con chống tăng, đạn nhiệt áp, đạn khói và rải mìn. Các loại đạn chuyên dụng hơn, bao gồm gây nhiễu tần số vô tuyến, gây cháy và hóa học, đã được sản xuất trong quá khứ hoặc ở các quốc gia khác và chúng có thể được cung cấp cho lực lượng Lục quân Trung Quốc. Các loại đạn 122 mm được dẫn đường chính xác cũng có thể có sẵn, mặc dù chi phí và độ phức tạp khiến chúng không được phổ biến rộng rãi.

1679115236070.png

PHL-81

Tầm bắn danh nghĩa của đạn 122 mm hiện đại hóa là khoảng 50 km (km). PHZ-89 về cơ bản là phiên bản bánh xích của PHL-81, được phát triển để hoạt động hỗ trợ lực lượng cơ giới hóa và thiết giáp của Lục quân Trung Quốc. Nó bắn cùng một loạt đạn rốc két 122 mm trong khi cải thiện khả năng bảo vệ và tính cơ động nhưng phải chấp nhận trọng lượng lớn hơn và giá thành cao hơn. Các hệ thống này có khả năng nạp đạn nhanh chóng, cho phép bắn một quả rốc két thứ hai trong vòng vài phút và về cơ bản tăng gấp đôi hỏa lực của khẩu đội chống lại một mục tiêu nhạy cảm về thời gian. Cả PHL-81 và PHZ-89 đều sẽ được thay thế bằng các hệ thống sản xuất trong nước trong tương lai gần. PHL-11 là biến thể bánh lốp mới và PHZ- 11 là phiên bản bánh xích.

1679115291905.png

PHZ-89

1679115331796.png

PHL-11

PHL-03 là phiên bản rốc két phóng loạt BM-30 Smerch của Liên Xô hoặc Nga, một loại MRL hạng nặng (300 mm) được biên chế rộng rãi. Các khẩu đội PHL-03 cung cấp sức mạnh tấn công tầm xa cho các lữ đoàn pháo binh của Lục quân Trung Quốc. Những tiến bộ trong đạn rốc két 300 mm khiến chúng trở thành một trong những loại pháo mạnh nhất và linh hoạt nhất hiện nay. Lục quân Trung Quốc vận hành nhiều loại đạn rốc két 300 mm khác nhau, bao gồm đạn có sức công phá lớn, đạn con chống tăng, đạn nhiệt áp, đạn cháy, đạn gây nhiễu tần số vô tuyến, rải mìn, cận chính xác và chính xác. Các biến thể tầm xa mới giúp gia tăng đáng kể cự ly tiến công lên hơn 150 km trong khi vẫn duy trì độ chính xác hợp lý. Việc nạp lại PHL-03 tương đối chậm. Mỗi ống phải được nạp lại riêng rẽ, thay vì thay đổi toàn bộ các ống phóng. Lục quân Trung Quốc có thể coi lớp rốc két 300 mm là xương sống của khả năng tác chiến trong tương lai, thu hẹp khoảng cách giữa pháo và rốc két hạng nhẹ và lực lượng tên lửa đường đạn của họ, và nó là sự bù đắp chính cho việc thiếu khả năng chi viện đường không tầm gần.

1679115385542.png

PHL-03

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tên lửa đường đạn DF-11 là tên lửa đạn đạo tầm ngắn (SRBM) được sử dụng rộng rãi nhất trong Lực lượng Tên lửa Quân đội Trung Quốc (PLARF). Ban đầu được thiết kế để cung cấp hỏa lực khu vực cấp chiến dịch lên đến 300 km cho các tư lệnh chiến khu, các phiên bản tiếp theo đã tăng tầm lên hơn 700 km. Độ chính xác cũng tăng lên, giảm bán kính sai số chỉ còn 30 mét, mang lại cho tư lệnh chiến khu khả năng tấn công chính xác tầm xa. DF-11 có thể sử dụng cả đầu đạn hạt nhân và thông thường; đầu đạn thông thường có thể là đạn con có sức công phá lớn hoặc đạn nhiệt áp. PLARF có khả năng thực hiện các cuộc tiến công với các tên lửa DF-11 của mình, và loại tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn và các bệ phóng cơ động-dựng thẳng đứng cho phép các hoạt động phóng và nạp đạn nhanh chóng.

1679115476399.png

1679115492259.png

DF-11

DF-15/16 là một họ hệ thống mới hơn cung cấp phần lớn khả năng chi viện hỏa lực ở cấp chiến dịch của PLARF. Các hệ thống này có phạm vi hoạt động từ 600 km đến 1.000 km, và chúng được trang bị các biện pháp đối phó với tên lửa đạn đạo tiên tiến như cơ động giai đoạn cuối và mồi bẫy. Các biến thể ban đầu không đủ chính xác để thực hiện các cuộc tấn công chính xác, nhưng
các biến thể hiện đại hóa có bán kính sai số có thể là 30 mét hoặc ít hơn. Những tên lửa này có thể sử dụng đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường và có trọng tải lớn hơn đáng kể (hơn 600 kg) so với hầu hết các SRBM.

1679115573369.png

1679115554287.png

DF-15/16

B-611 là tổ hợp SRBM mới dường như tìm cách sao chép các khả năng của SS-26 Iskander của Liên Xô. Khả năng của nó bao gồm tầm bắn 500 km, hỗ trợ thâm nhập tiên tiến, khả năng cơ động tốt, nạp đạn nhanh và nhắm mục tiêu chính xác. B-611 có khả năng để bổ sung cho lớp rốc két 300 mm một vũ khí xuyên phá nâng cao, cho phép xác định mục tiêu và tiêu diệt các hệ thống tên lửa chống tên lửa đường đạn trước khi nhắm mục tiêu chung hơn.

1679115619895.png

1679115734806.png

B-611

Năng lực chi viện hỏa lực và những hạn chế

Lục quân Trung Quốc chủ yếu dựa vào chi viện hỏa lực để bù đắp những khiếm khuyết về năng lực trong lực lượng cơ động và sức mạnh không quân của mình. Pháo binh thuộc tất cả các loại - súng cối, lựu pháo và rốc két - được triển khai với mật độ đáng kể trong mọi loại đội hình của Lục quân Trung Quốc. Chi viện hỏa lực được tích hợp hiệu quả với các chiến dịch cơ động. Đặc biệt, các lực lượng pháo tự hành huấn luyện cơ động hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng thiết giáp và cơ giới. Việc nhắm mục tiêu có thể được phân cấp, với các chỉ huy cấp dưới tích hợp máy dò tìm pháo, máy bay không người lái (UA) và các thiết bị cảnh giới khác. Hỏa lực quy mô lớn vẫn được coi là mục tiêu chính của lực lượng pháo binh, và các chỉ huy pháo binh nói chung sẽ tìm cách khai hỏa hàng loạt vào các mục tiêu có giá trị nhất trong tầm bắn của hệ thống của họ.

1679115847447.png


Các hệ thống xe kéo của PLAA cũ hơn và nặng hơn nhiều so với các hệ thống của các đối thủ phương Tây, nhưng chúng vẫn có tính cơ động chiến thuật phù hợp để hoàn thành nhiệm vụ chi viện hỏa lực. Lục quân Trung Quốc dựa vào mật độ và khối lượng để thực hiện những nhiệm vụ này, và hỗ trợ hậu cần cho pháo binh có thể là một trong những hạn chế chính của nó. Lục quân Trung Quốc có mật độ hỗ trợ hậu cần thấp hơn so với quân đội phương Tây - đặc biệt là Quân đội Mỹ - và do đó, việc duy trì các yêu cầu về đạn dược cho các đơn vị pháo binh đang hoạt động có thể là một thách thức đáng kể. Các pháo tự hành của Lục quân Trung Quốc nhẹ hơn đáng kể so với của các quốc gia phương Tây và chúng đều có tầm xa hơn và hỏa lực áp đảo hơn, nhưng chúng có khả năng cơ động tốt trên mọi loại địa hình và các yêu cầu bảo trì đơn giản hơn. Khả năng cơ động theo sát với các đơn vị thiết giáp của những pháo tự hành hạng nhẹ này là yếu tố then chốt trong các hoạt động tác chiến cấp chiến thuật của Lục quân Trung Quốc.

1679115924857.png


Rốc két của Lục quân Trung Quốc rất linh hoạt và hiệu quả. Nó kết hợp nhiều loại hiệu ứng khác nhau thông qua việc sử dụng các loại đạn dược khác nhau, được tích hợp trên khung gầm đơn giản, mạnh mẽ và cơ động. Các hệ thống nhẹ hơn không có sức công phá như các rốc két phóng loạt nặng hơn của phương Tây, nhưng tính năng đơn giản và tính linh hoạt của chúng khiến chúng trở nên không thể thiếu. Rốc két phóng loạt hạng nặng là bộ phận chủ yếu trong hỏa lực của lữ đoàn pháo binh. Các hệ thống này được tích hợp cẩn thận với các trinh sát viên phía trước và các thiết bị giám sát khác để tận dụng tối đa khả năng hủy diệt tiềm năng của chúng.

1679115975221.png


Dù Lục quân Trung Quốc trang bị nhiều loại vũ khí chính xác và gần chính xác cho tất cả các hệ thống chi viện hỏa lực của mình, nhưng chi phí và độ phức tạp của những loại vũ khí này hạn chế việc sử dụng chúng trong các nhiệm vụ ưu tiên cao nhất. Bom, đạn chính xác sử dụng nhiều phương pháp dẫn đường, bao gồm chỉ thị mục tiêu bằng laser, quán tính, vệ tinh, hình ảnh và radar. Tên lửa đường đạn cao cấp sử dụng nhiều phương pháp để cải thiện độ chính xác ở tầm cực xa. Quy trình Lục quân Trung Quốc xác định mục tiêu không được biết đến nhiều, nhưng có vẻ ít chính xác hơn quy trình của Mỹ. Tuy nhiên, quá trình ra quyết định hỗ trợ việc nhắm mục tiêu có thể được thục luyện kỹ lưỡng - một phần là do phản ứng từ vụ máy bay Mỹ ném bom vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999.

1679116017684.png


Giống như các đối tác Nga, các lực lượng chi viện hỏa lực của Lục quân Trung Quốc rất quan tâm đến mối đe dọa phản pháo và đã dành nguồn lực đáng kể cho việc phản pháo. Các đơn vị pháo binh của Lục quân Trung Quốc nhìn chung có khả năng cơ động chiến thuật tốt và thực hành phương pháp đơn giản "bắn và rút chạy" để tránh bị phản pháo, đồng thời che giấu cẩn thận vị trí của họ khỏi các cuộc tấn công và trinh sát đường không. Lục quân Trung Quốc sử dụng nhiều hệ thống phản hỏa lực khác nhau bao gồm định vị âm thanh, radar và phương tiện trực quan, và các nhiệm vụ phản hỏa lực được ưu tiên cao.

1679116220204.png


....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Năng lực phòng không Tổng quan chức năng phòng không Hệ thống phòng không trên bộ có ở khắp các đơn vị Lục quân Trung Quốc (PLAA), cố gắng bù đắp sự thiếu hụt trong sức mạnh đường không liên hợp. Kinh nghiệm từ sức mạnh không quân của Đồng minh trong Chiến tranh Triều Tiên - và quan sát cẩn thận về tác động của không quân liên quân trong Chiến dịch Bão táp sa mạc - đã ảnh hưởng sâu sắc đến niềm tin của Quân đội Trung Quốc (PLA) về khả năng phòng không như một khả năng chiến trường quan trọng. Mọi đơn vị cơ động lớn hơn một đại đội đều có khả năng phòng không phối thuộc, và các tổ chức lớn hơn sử dụng kết hợp các hệ thống phòng không để tạo ra hiệu ứng vũ khí tổng hợp. Số lượng và chiều sâu là những từ mang tính biểu tượng hoạt động của lực lượng phòng không Lục quân Trung Quốc. Hầu hết các hệ thống tầm ngắn của lực lượng này còn tương đối thô sơ và thiếu khả năng chống lại các mối đe dọa trên không hiện đại. Tuy nhiên, chúng được triển khai rất dày đặc và rộng khắp trên chiến trường, tạo ra hiệu ứng răn đe chống lại các mối đe dọa trên không tầm thấp. Các hệ thống tầm trung và tầm xa có khả năng sát thương cao hơn đáng kể, có khả năng chống lại các mối đe dọa từ trên không tiên tiến ở bất kỳ độ cao nào.

1679136332650.png


Hệ thống phòng không vác vai (MANPADS) và súng máy hạng nặng được trang bị cho đại đội hỏa lực của tiểu đoàn, và hỗn hợp pháo phòng không tự hành (SPAAG), pháo kéo và hệ thống tên lửa đất đối không tầm ngắn dẫn đường bằng hồng ngoại (SAM ), một số hệ thống radar tầm trung, và một bộ phận chỉ huy và cảm biến bao gồm tiểu đoàn phòng không của lữ đoàn. Các lữ đoàn phòng không lục quân sử dụng kết hợp các hệ thống pháo, hệ thống tên lửa hồng ngoại tầm ngắn và hệ thống tên lửa radar tầm trung. Các lữ đoàn phòng không cũng bổ sung một tiểu đoàn phòng không điện tử sử dụng nhiều hệ thống tác chiến điện tử tập trung vào việc đánh bại hoặc vô hiệu hóa các mối đe dọa trên không của đối phương. Các hệ thống của Lục quân Trung Quốc có thể được tích hợp hoàn toàn bằng kỹ thuật số vào một hệ thống phòng không tích hợp rộng lớn hơn (IADS). Các đơn vị lục quân có khả năng tích hợp kỹ thuật số cho các khẩu đội pháo hoặc tên lửa riêng lẻ, nhưng không rõ liệu khả năng này có được triển khai hay không. Các biện pháp kiểm soát thủ tục như các biện pháp kiểm soát không phận và kiểm soát tình trạng vũ khí có thể là những phương pháp kiểm soát hỏa lực nổi trội đối với hầu hết các đơn vị phòng không của Lục quân Trung Quốc, ngoại trừ các đơn vị SAM tầm trung.

1679136408593.png


Các hệ thống SAM tầm xa hơn được vận hành bởi Không quân Trung Quốc (PLAAF) như một phần của IADS trên toàn quốc. Các tiểu đoàn SAM tầm xa của PLAAF được tích hợp hoàn toàn bằng kỹ thuật số và có khả năng được điều khiển tập trung bởi các bộ tư lệnh chiến khu kết hợp với các hoạt động phòng không bằng máy bay cánh cố định. Các đơn vị SAM tầm trung cũng được PLAAF vận hành, được sử dụng để bảo vệ các hệ thống tầm xa khỏi các cuộc tấn công xiên chéo hoặc lao thẳng từ bên trên xuống hoặc thu hẹp khoảng trống trong phạm vi bao phủ của SAM. PLAAF xác định các hệ thống SAM tầm xa của mình là vũ khí từ ngăn chặn trên rộng, có thể ngăn chặn việc sử dụng không phận của máy bay đối phương và tạo ra ưu thế trên không, hoặc ít nhất là sự tương đồng giữa trên không và mặt đất. Các hệ thống này sử dụng các loại đạn dược dẫn đường chống chính xác tiên tiến và các biện pháp đối phó điện tử cùng với nhiều loại tên lửa đánh chặn và các cảm biến nối kết mạng hiện đại.

1679136446274.png


Tổng quan trang bị phòng không

Năng lực phòng không của Không quân Trung Quốc chủ yếu bao gồm các hệ thống pháo – xe kéo, tự hành và lai ghép – và tên lửa có tầm bắn từ gần tới xa.

Pháo xe kéo

PG-87 là loại súng phòng không xe kéo phổ biến nhất trong biên chế của Lục quân Trung Quốc, với vài nghìn khẩu được trang bị cho các lữ đoàn binh chủng hợp thành hạng nhẹ (CA-BDE), các đơn vị dự bị và dân quân. PG-87 là một biến thể trang bị súng ZU-23 của Liên Xô được phổ biến rộng rãi, được đưa vào trang bị lần đầu vào năm 1960. Các biến thể của Lục quân Trung Quốc sử dụng hai nòng bắn loại đạn 25 mm (mm) - trái ngược với 23 mm của Liên Xô - khiến vũ khí của Trung Quốc cải thiện khả năng sát thương. PG-87 đã được nâng cấp hơn nữa với khả năng nhắm mục tiêu tăng cường (bao gồm cả radar ngắm hồng ngoại và điều khiển hỏa lực), cải tiến cơ chế huấn luyện và dẫn đường, cùng các ổ đạn lớn hơn.


1679136535898.png

PG-87

PG-87 có thể bắn nhiều loại đạn khác nhau, bao gồm đạn sức công phá mạnh, xuyên giáp và đánh dấu. Phạm vi của PG-87 được giới hạn trong khoảng 02 km (km), nhưng nó có khả năng gây sát thương đối với tất cả các mục tiêu đường không thâm nhập vào phạm vi tác chiến của nó. Lục quân Trung Quốc cũng sử dụng súng PG-87 của mình ở chế độ bắn thẳng chống lại các mục tiêu mặt đất. Đạn 25 mm của nó có hiệu suất tương tự như pháo tự động của xe chiến đấu bộ binh (IFV) trong vai trò này.

1679136612198.png


PG-99 là hệ thống pháo xe kéo 35 mm nòng đôi mới hơn có thể có nguồn gốc từ dòng pháo Oerlikon GDF. PG-99 sử dụng nhiều loại xenxơ tìm kiếm và bám theo khác nhau, bao gồm xenxơ quang-điện tử, thiết bị đo cự ly laser và tích hợp kỹ thuật số với các radar hỗ trợ. Pháo có tốc độ xoay và điều chỉnh độ cao nhanh chóng và được hỗ trợ cơ học, đồng thời có tính cơ động tuyệt vời. Thời gian thay thế của nó là ít hơn hai phút. PG-99 có thể bắn các loại đạn có sức công phá mạnh, cháy nổ và xuyên giáp trong phạm vi bốn km, đồng thời nó cũng có thể tấn công các mục tiêu mặt đất, bao gồm cả xe bọc thép hạng nhẹ. Hệ thống pháo PG-99 cũng là vũ khí chính cho nhiều hệ thống lai ghép và pháo phòng không tự hành của Lục quân Trung Quốc, giúp đơn giản hóa các yêu cầu bảo trì và huấn luyện trắc thủ.

1679136746483.png

PG-99

Pháo tự hành và các hệ thống lai ghép PGZ-04 /04A kết hợp với khung gầm xe bọc thép chở quân (APC) ZBD- 04 phổ biến với bốn khẩu pháo tự động 25 mm lấy từ pháo xe kéo PG-87 và bốn tên lửa dẫn đường bằng hồng ngoại tầm gần QW-2, tạo ra một phương tiện phòng không tầm gần cơ động (SHORAD). PGZ-04 được bảo vệ tương tự như các xe APC và IFV, và nó có thể có tính cơ động tương đương. Bộ cảm biến của nó bao gồm cùng một máy đo xa quang điện, hồng ngoại và laser như các khẩu pháo xe kéo của Lục quân Trung Quốc và nó được bổ sung thêm một radar tìm kiếm tầm gần, tầm thấp. Pháo 25 mm có tầm bắn khoảng 2 km, trong khi tên lửa QW-2 có thể đạt tới 6 km. Học thuyết bắn có thể hướng dẫn các xạ thủ sử dụng pháo chống lại các mục tiêu thấp và chậm như máy bay không người lái, dự trữ tên lửa để ngăn chặn các mối đe dọa hiệu suất cao nguy hiểm hơn như trực thăng. Kíp xe cũng huấn luyện sử dụng pháo 25 mm chống lại các mục tiêu trên mặt đất. Sự kết hợp của cảm biến quang-điện tử, hồng ngoại tiên tiến và bốn khẩu pháo tự động có thể khiến PGZ-04 trở thành một hệ thống hỗ trợ mặt đất đặc biệt hiệu quả.

1679136828625.png

PGZ-04 /04A

PGZ-07/09 là một pháo phòng không tự hành hạng nặng được chế tạo trên khung PLZ-05. Nó kết hợp pháo 35 mm từ hệ thống xe kéo PG-99 với hệ thống radar tầm ngắn. PGZ-09 cũng có thể sử dụng tên lửa hồng ngoại tầm gần (có thể là QW-2 giống như PGZ-04), mặc dù điều này chưa được xác nhận. Pháo 35 mm sử dụng nhiều loại đạn khác nhau trong phạm vi 4 km và chúng cũng có thể tấn công các mục tiêu mặt đất: hỏa lực của pháo PGZ-09 trong vai trò bắn thẳng vượt qua gần như mọi IFV hiện có. PGZ-07 bổ sung cho PGZ-04 trong tiểu đoàn phòng không hạng nặng của lữ đoàn BCHT, và chúng cũng được sử dụng trong lữ đoàn phòng không.

1679136906984.png

PGZ-07


..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các hệ thống tên lửa vác vai (MANPADS)

HN-5 là MANPADS đầu tiên của Trung Quốc, được phát triển từ các biến thể ban đầu của tên lửa 9K32 Strela-2 của Liên Xô. Trung Quốc đã chậm trễ trong việc phát triển MANPADS so với Mỹ và Liên Xô, và vào thời điểm HN-5 đạt được trạng thái hoạt động, nó đã lỗi thời. Các biến thể nâng cấp đã được sản xuất trong suốt những năm 1980 và 1990, bao gồm cả phiên bản toàn diện, mặc dù những biến thể này hiện nay phần lớn không hiệu quả trước các biện pháp đối phó hiện đại. HN-5 có tầm bắn 04 km, nhưng khoảng cách này bị giới hạn đáng kể bởi góc cạnh. Các biến thể HN-5 được sử dụng như vũ khí vác vai và được gắn trên các loại xe chiến thuật - đặc biệt là xe bánh hơi hạng nhẹ - kết hợp với cảm biến điều khiển hỏa lực quang điện tử kỹ thuật số. Các quả đạn HN-5 / 5A / 5B còn lại được sử dụng bởi các đơn vị dân quân và dự bị, và chúng vẫn có thể tác chiến hiệu quả với các phương tiện bay không người lái lớn hoặc các máy bay quân sự cũ thiếu các biện pháp đối phó MANPADS hiện đại.

1679188048686.png

H-5

FN-6 là một bản sao thiết kế ngược của hệ thống Mistral của châu Âu. Mặc dù về mặt kỹ thuật vẫn là MANPADS, FN-6 là một tên lửa nặng hơn và mạnh hơn hầu hết các MANPADS, và nó phù hợp nhất để sử dụng trên các bệ đặt trên xe hoặc từ các vị trí ổn định trên mặt đất. Lục quân Trung Quốc sử dụng các biến thể FN-6 trên nhiều loại phương tiện, đáng chú ý nhất là FN-6A. FN- 6A kết hợp tên lửa dẫn đường bằng hồng ngoại với súng máy hạng nặng trên khung gầm xe chiến thuật hạng nhẹ, bắt chước nền tảng AN / TWQ-1 Avenger SHORAD của Quân đội Mỹ. Có khả năng là hầu hết các xe SHORAD trong tương lai sẽ sử dụng FN-6 và các biến thể phát triển - chẳng hạn như FN-16 - như một hệ thống SHORAD chuyên dụng hoặc một tùy chọn theo yêu cầu. FN- 6 là vũ khí toàn diện với tầm bắn hơn 6 km.

1679188142069.png

FN-6

QW-1/2 là MANPADS mới nhất và hiện đại nhất của Lục quân Trung Quốc. Chúng có thể là bản sao thiết kế ngược hoặc chế tạo thô của hệ thống 9K310 Igla-1 của Nga. Mỗi hệ thống đều là một hệ thống hỏa lực vác vai hạng nhẹ với đầu dò hồng ngoại tiên tiến và các biện pháp đối phó được nâng cấp liên tục. QW-2 mới hơn đã được nâng cấp để tăng hiệu suất chống lại các mục tiêu di chuyển nhanh và rất thấp, có khả năng chống lại tên lửa hành trình. Dòng QW cũng được trang bị trên rất nhiều phương tiện, từ hệ thống bánh lốp hạng nhẹ đến hệ thống bọc thép hạng nặng. Hầu hết các hệ thống này chỉ sử dụng cảm biến hình ảnh và hồng ngoại, mặc dù một số tích hợp radar tầm ngắn. Tên lửa dòng QW có tầm bắn khoảng 6 km.

1679188191197.png

QW-1/2

C-12. Các hệ thống MANPADS của Trung Quốc được kích hoạt bởi một hệ thống chỉ huy và điều khiển hiện đại được gọi là SmartHunter. Hệ thống này bao gồm một radar tầm gần tiên tiến, có khả năng phân biệt bạn và thù, và nền tảng mạng để hỗ trợ các hoạt động phi tập trung của các đội MANPADS. SmartHunter được gắn trên xe và cơ động về mặt chiến thuật, có thể cung cấp cảm biến phòng không chất lượng cao và hỗ trợ điều khiển hỏa lực ở các khu vực có điều kiện thời tiết khắc nghiệt.

1679188278978.png

Hệ thống SmartHunter

Các hệ thống tên lửa tầm gần

HQ-6D là một hệ thống tầm gần kết hợp giữa tên lửa đánh chặn dẫn đường bằng radar bán chủ động - có nguồn gốc từ tên lửa AIM-7 Sparrow của Mỹ - và bệ phóng thẳng đứng gắn trên xe tải (TEL). Một khẩu đội HQ-6D bao gồm một radar giám sát tầm trung, radar theo dõi và lên đến tám TEL, mỗi TEL có bốn tên lửa sẵn sàng. HQ-6D ít nguy hiểm hơn và ít khả năng sống còn hơn so với các hệ thống dẫn đường bằng radar chủ động hiện đại hơn, nhưng nó vẫn được sử dụng cho các nhiệm vụ phòng thủ điểm trước máy bay bay thấp và tên lửa hành trình. Các phiên bản cải tiến có thể được điều khiển tập trung ở cấp tiểu đoàn và chúng có thể được tích hợp vào một IADS chiến trường. Tên lửa đánh chặn của HQ-6D có tầm bắn nghiêng khoảng 18 km. HQ-6D là hệ thống tầm gần chính mà PLAAF biên chế.

1679188353578.png

HQ-6D

HQ-7 là một hệ thống dẫn đường bằng hồng ngoại tầm gần được phổ biến rộng rãi dựa trên mẫu tên lửa Crotale của Pháp. Mặc dù tương đối cũ theo tiêu chuẩn SAM - nó được đưa vào sử dụng lần đầu tiên vào đầu những năm 1980 – nhưng tính đơn giản, cơ động và khả năng sát thương của HQ-7 đã giúp nó được biên chế lâu dài và liên tục trong Lục quân Trung Quốc. Tên lửa đánh chặn HQ- 7 được triển khai trên các xe tải cơ động, tại các địa điểm cố định và trên tàu. Một khẩu đội bao gồm một radar tìm kiếm tầm gần và ba bệ phóng, mỗi bệ có bốn hoặc tám tên lửa sẵn sàng.

1679188420236.png


Các bệ phóng có thể được điều khiển bởi radar hoặc tấn công mục tiêu một cách trực quan. Tầm bắn góc xiên của tên lửa đánh chặn là khoảng 8 km đối với mục tiêu di chuyển nhanh và lên đến 15 km đối với mục tiêu chậm hơn. HQ-7 thường là hệ thống tên lửa chính của lữ đoàn BCHT hạng trung, với một hoặc hai khẩu đội phối thuộc cho cấp đơn vị đó. Các loại khẩu đội khác được sử dụng trong các vai trò bảo vệ tĩnh đối với các tài sản quan trọng. HQ-7 được Lục quân Trung Quốc sử dụng như một nền tảng SAM di động và Không quân Trung Quốc sử dụng như một hệ thống phòng không cấp thấp hơn.

Các hệ thống tên lửa tầm trung

HQ-16 / 16A là một biến thể sửa đổi cao của tên lửa 9K37 Buk của Nga. HQ-16 kết hợp tên lửa đánh chặn dẫn đường bằng radar bán chủ động hiện đại với xe tải chiến thuật sáu bánh cơ động. Tên lửa đánh chặn của nó ban đầu được mua sắm như một hệ thống hải quân, sau đó thích nghi với các hoạt động trên bộ một khi tiềm năng của nó được công nhận. Một khẩu đội bao gồm một đài chỉ huy, hai radar đa chế độ (giám sát / theo dõi / chiếu sáng), và bốn đến sáu TEL, mỗi TEL có sáu tên lửa sẵn sàng. HQ-16 được biên chế hiệu quả trong Lục quân Trung Quốc. Tính cơ động của nó khiến nó khó bị nhắm mục tiêu khi phải chịu chế áp chung của hệ thống phòng không đối phương, và tầm hoạt động / khả năng sát thương của nó bù đắp khoảng trống giữa tên lửa HQ-6/7 và tên lửa HQ- 9.

1679188518385.png


HQ-16 được sử dụng chủ yếu như một hệ thống phòng thủ điểm cho các tài sản quan trọng, đặc biệt là những nơi dễ bị tấn công bởi tên lửa hành trình. Các tên lửa đánh chặn của nó tương đối đơn giản và rẻ tiền, làm cho nó trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho việc phổ biến rộng rãi. Cự ly bắn góc xiên của tên lửa đánh chặn là khoảng 40 km. Cự ly này đã được nâng lên hơn 70 km trong các biến thể HQ-16B / C mới nhất. Lục quân Trung Quốc biên chế các tên lửa HQ- 16, nhưng nó có khả năng tích hợp nó hoàn toàn vào IADS chiến trường cùng với các hệ thống SAM tầm xa của PLAAF.

HQ-17 là bản sao thiết kế ngược của hệ thống SAM 9K331 Tor-M1 của Nga. HQ-17 sử dụng tên lửa đánh chặn dẫn đường - chỉ huy đơn giản với khung gầm chắc chắn và hệ thống radar quét điện tử mạnh, tạo ra một hệ thống SAM tầm trung cơ động và được bảo vệ. HQ-17 chủ yếu được biên chế trong các lữ đoàn BCHT hạng nặng, cung cấp khả năng phòng không tầm xa và sát thương độc đáo trong tiểu đoàn phòng không của lữ đoàn BCHT. Các khẩu đội HQ-17 bao gồm một radar tầm trung và bốn bệ phóng, mỗi bệ có tám tên lửa sẵn sàng. Mặc dù nó sử dụng hệ thống dẫn đường - chỉ huy cũ hơn, độ chính xác và khả năng sát thương của HQ-17 được cho là tuyệt vời. Một số nhà phân tích cho rằng HQ-17 có khả năng thách thức các mục tiêu như tên lửa hành trình và đạn dẫn đường chính xác. Cự ly bắn góc xiên của nó được cho là bất cứ nơi nào trong khoảng từ 12 km đến 20 km; phạm vi phát hiện của radar là hơn 30 km.

1679188619177.png

1679188658926.png


...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Các hệ thống tên lửa tầm xa HQ-2 / A / B là phiên bản cải tiến của tên lửa S-75 / SA-2 cũ của Liên Xô, một trong những tên lửa SAM hiệu quả sớm nhất. Các khẩu đội HQ-2 hiện đại hóa sử dụng một radar đa nhiệm vụ thay vì nhiều radar đơn nhiệm của các phiên bản trước đó, nhưng tên lửa đánh chặn dẫn đường-chỉ huy hầu như không thay đổi. Tầm bắn nghiêng của tên lửa đánh chặn HQ- 2 là khoảng 45 km. HQ-2 thiếu khả năng cơ động và độ chính xác của các hệ thống hiện đại hơn, nhưng tốc độ và tầm hoạt động của nó vẫn là mối đe dọa đối với các máy bay lớn hơn, kém cơ động hơn. Nhiều khả năng số lượng lớn các hệ thống HQ-2 vẫn đang được sử dụng và được coi là mồi bẫy hoặc nghi binh, buộc đối phương phải thay đổi kế hoạch hoặc dành nguồn lực phòng không đắt tiền và hạn chế của mình để đánh bại hoặc vô hiệu hóa các thiết bị lỗi thời, rẻ tiền này. Mỗi khẩu đội HQ-2 bao gồm một radar đa nhiệm vụ và tối đa sáu bệ phóng, mỗi bệ phóng có một tên lửa sẵn sàng.

1679218865398.png

HQ-2

HQ-12/22 ban đầu được dự định là một cải tiến cho HQ-2, nhưng do thời gian phát triển kéo dài nên nó được đưa vào sử dụng cùng thời điểm với thế hệ tiếp theo của hệ thống SAM. Nó sử dụng một tên lửa đánh chặn dẫn đường bằng radar bán chủ động và một xen xơ mảng pha, đa nhiệm vụ. Nó được gắn trên xe tải và có khả năng cơ động hơn đáng kể so với HQ-2 - mặc dù không đủ để hỗ trợ lực lượng cơ động. Các biến thể ban đầu có tầm bắn nghiêng khoảng 70 km. HQ-22 mới hơn đã tăng tầm bắn lên khoảng 170 km. Một khẩu đội HQ 12/22 bao gồm một radar đa nhiệm vụ và bốn bệ phóng, mỗi bệ có hai tên lửa sẵn sàng. Mặc dù HQ 12/22 không có hiệu suất tương đương với HQ-9 và các hệ thống SAM mới hơn, nhưng nó lại rẻ hơn rất nhiều, và nó được sử dụng để củng cố việc triển khai các SAM tiên tiến hơn với các radar và tên lửa đánh chặn phù hợp, giá thành rẻ hơn.

1679219043225.png

1679219072314.png

HQ-12

1679219341000.png

HQ-22

HQ-9 / HQ-15 / HQ-16 là một họ hệ thống SAM tầm xa dựa trên S-300 của Nga. Bắt đầu từ HQ-9, các hệ thống này đại diện cho một trong những chương trình quân sự lớn nhất và hiện đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, giúp hình thành xương sống trong chiến lược chống tiếp cận và ngăn chặn khu vực của PLA. S-300 được chế tạo theo khái niệm hệ thống của các hệ thống, cho phép một khẩu đội hoặc tiểu đoàn sử dụng hỗn hợp radar và tên lửa đánh chặn để đáp ứng nhu cầu tác chiến. PLA bắt đầu phát triển HQ-9 - một S-300 được thiết kế ngược - sau khi quan sát kỹ lưỡng những tác động tàn phá của sức mạnh không quân đồng minh trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc. HQ-9 được thiết kế đặc biệt để phong tỏa các vùng trời rộng lớn trước các máy bay phương Tây thế hệ thứ tư thông qua sự kết hợp của các xenxơ tiên tiến; tên lửa đánh chặn tầm xa, cỡ lớn; và các biện pháp đối phó điện tử hiện đại hóa.

1679219263626.png

1679219130506.png

HQ-9

Dù các biến thể ban đầu thiếu tính năng động học của các hệ thống SAM đương đại của Nga và Mỹ, nhưng các nâng cấp định kỳ đã cải thiện đáng kể cả tốc độ và khả năng cơ động của các tên lửa đánh chặn. HQ-15 là lần hiện đại hóa lớn đầu tiên, bổ sung khả năng chống tên lửa đường đạn và mở rộng cả phạm vi phát hiện và tiến công mục tiêu lên hơn 200 km. HQ-18 là bản nâng cấp lớn thứ hai, bổ sung một cặp tên lửa đánh chặn hiệu suất cao mới cùng với một radar lớn hơn, mạnh hơn. Cự ly đánh chặn của HQ-16 ngắn hơn, nhưng hiệu suất của nó chống lại các mục tiêu thách thức nhất - tên lửa đường đạn và hành trình, các loại đạn dược dẫn đường chính xác khác và máy bay cơ động - có thể vượt trội hơn so với HQ-15.

1679219887615.png

HQ-15

Một khẩu đội HQ-9/15/16 thường bao gồm một radar tìm kiếm tầm xa, một radar bám theo mạnh và lên đến tám TEL, mỗi TEL có bốn tên lửa đánh chặn sẵn sàng. Các tên lửa đánh chặn và radar có thể được kết hợp ở một mức độ nhất định, trong một tiểu đoàn hoặc thậm chí trong một khẩu đội. Trung Quốc gần đây đã mua một số hệ thống S-400 từ Nga. Nếu quốc gia này thực hiện theo các thông lệ trước đây, các hệ thống này sẽ được sử dụng để phát triển các bản nâng cấp thiết kế ngược cho các hệ thống hiện có. Tất cả các hệ thống HQ-9/15/18 đều được tích hợp vào IADS chiến trường.

1679219960981.png

HQ-16

........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Năng lực phòng không và những hạn chế

Khả năng phòng không của Trung Quốc là toàn diện và rất nhiều, kết hợp trộn giữa các hệ thống tầm gần, di động dưới sự kiểm soát của Lục quân Trung Quốc với các hệ thống tầm xa hiện đại, mạnh mẽ do Lực lượng tên lửa Trung Quốc vận hành. Các đơn vị cơ động thường sẽ không hoạt động nếu không có ít nhất các hệ thống SHORAD cục bộ hỗ trợ. MANPADS được phân bố rộng rãi trong khắp các đơn vị của Lục quân Trung Quốc, và chúng cũng được bởi các đơn vị dân quân và dự bị ở khu vực hậu phương sử dụng. Điều này tạo ra khả năng phòng không nhiều tầng và nhiều lớp, sử dụng hiệu ứng vũ khí kết hợp của nhiều hệ thống để bù đắp cho những điểm yếu của hệ thống này bằng điểm mạnh của hệ thống khác.

1679367717112.png


Các hệ thống tên lửa tầm xa và nhiều hệ thống tên lửa tầm trung hoạt động như một phần của IADS chiến trường. Sự tích hợp này khuếch đại hiệu quả của từng khẩu đội bằng cách cho phép chúng tham gia vào việc chia sẻ dữ liệu và kiểm soát hỏa lực tập trung. Người ta không biết mạng lưới thông tin liên lạc IADS của Trung Quốc được củng cố hiệu quả đến mức nào, nhưng nó có khả năng nằm trong số các hệ thống mạng có mức độ ưu tiên cao nhất trong PLA. Các đơn vị cấp dưới cũng có thể có khả năng tham gia vào việc xây dựng mạng lưới phòng không rộng lớn hơn, nhưng họ không phụ thuộc vào nó. Các tiểu đoàn và khẩu đội hoạt động theo kiểu phi tập trung, sử dụng các mạng cục bộ tích hợp cảm biến và bệ bắn ở các cấp chiến thuật. Điều này cho phép ngay cả những đơn vị nhỏ nhất, chẳng hạn như đội MANPADS, nhận dữ liệu và hỗ trợ kiểm soát hỏa lực từ sở chỉ huy cấp cao hơn của họ.

1679367746776.png


Việc Lục quân Trung Quốc tiếp tục quan tâm tới các hệ thống dựa trên pháo là duy nhất trong số các quân đội hiện đại trên thế giới: không có quân đội hiện đại nào khác sử dụng số lượng hệ thống súng nhiều như vậy. Mặc dù súng có những hạn chế đáng kể về tầm bắn và độ chính xác so với tên lửa, nhưng tính đơn giản, linh hoạt và khả năng chống lại các mối đe dọa đường không ở độ cao thấp đã chứng thực sự đầu tư tiếp tục của Lục quân Trung Quốc. Thật vậy, một số quân đội khác - trong số đó có Mỹ - đang xem xét tái biên chế các loại súng phòng không hạng nặng, nhiều thập kỷ sau khi loại bỏ chúng, như một sự bù đắp để chống lại máy bay không người lái và trực thăng tấn công.

1679367837344.png


4. Khả năng không quân của Lục quân Trung Quốc

Tổng quan chức năng không quân Khả năng không quân của Lục quân Trung Quốc (PLAA) bao gồm hỗn hợp các máy bay trực thăng tấn công, đa nhiệm (hạng trung) và vận tải, cùng với một số hệ thống máy bay không người lái (UAS) khác nhau. Trong phần lớn lịch sử của mình, Lục quân Trung Quốc không mấy ưu tiên không quân lục quân. Điều này được thể hiện ở số lượng rất ít các máy bay trực thăng có trong lực lượng này của Trung Quốc so với các quân đội hàng đầu khác. Để làm cơ sở so sánh, mật độ máy bay trực thăng trên đầu người của Lục quân Mỹ cao hơn 8 lần so với của Lục quân Trung Quốc. Tuy nhiên, Lục quân Trung Quốc đã đầu tư đáng kể vào việc phát triển khả năng máy bay trực thăng của mình trong những năm gần đây, chuyển từ lực lượng chỉ sử dụng các trực thăng hạng nhẹ đa nhiệm trong các nhiệm vụ hạn chế sang các lữ đoàn không quân lục quân được trang bị đầy đủ (AAB), được biên chế kết hợp các máy bay trực thăng tấn công, trinh sát, đa năng, và vận tải hiện đại mới. Các AAB có thể sẽ tiếp tục mở rộng khi Lục quân Trung Quốc hiện đại hóa.

Tổng quan trang bị không quân

Năng lực không quân của Lục quân Trung Quốc bao gồm các máy bay trực thăng tấn công, đa năng, vận tải và hạng nhẹ cùng các máy bay không người lái.
Trực thăng tấn công Z-10 là máy bay trực thăng tấn công hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Được theo đuổi phát triển sau khi PLA nghiên cứu hiệu quả của máy bay trực thăng Apache của Mỹ trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc, Z-10 là kết quả của sự kết hợp giữa Cục thiết kế Kamov của Nga với PLA. Nó rất giống với các máy bay trực thăng tấn công hiện đại khác cả về thiết kế và năng lực, các tính năng của nó có thể so sánh với bất kỳ thiết kế hiện nay nào. Máy bay trực thăng Z-10 có kíp lái gồm 02 phi công và được lắp một pháo ở ngay phía trước – nhiều khả năng là phiên bản của hệ thống M242 25mm của Mỹ - cùng các móc treo rốc két và tên lửa. Các tên lửa trên trực thăng Z-10 gồm tên lửa không đối không và không đối đất dẫn đường chính xác.

1679367957436.png


Loại máy bay trực thăng này có thể mang tới 16 tên lửa thuộc nhiều loại khác nhau, 04 móc treo rốc két, hoặc kết hợp cả hai nếu được yêu cầu. Máy bay trực thăng Z-10 cũng được trang bị các xen xơ hiện đại, bao gồm radar kiểm soát hỏa lực, quang hồng ngoại, và thiết bị chỉ thị mục tiêu quang – điện tử. Trực thăng Z-10 có khả năng tác chiến điện tử tích hợp và có thể được tăng cường bằng những tiện ích bổ sung.

1679367983799.png


Z-19 là máy bay trực thăng trinh sát và tấn công hạng nhẹ được phát triển cùng với Z-10 và có nguồn gốc từ trực thăng đa năng Z-9. Nó cũng biên chế một phi hành đoàn hai người, mặc dù về cơ bản nó nhỏ hơn và nhẹ hơn Z-10. Không giống như hầu hết các loại trực thăng tấn công khác, Z-19 không sử dụng súng máy hoặc pháo; khả năng tấn công của nó đến từ tám tên lửa (không đối đất hoặc không đối đất) hoặc hai móc treo rốc két. Bộ cảm biến của nó tương tự như của WZ-10, với hệ thống radar và chỉ mục tiêu hồng ngoại. Z-19 có một bộ thiết bị chỉ thị mục tiêu tích hợp dưới mũi, nâng cao khả năng chỉ thị mục tiêu và trinh sát của nó nhưng phải đánh đổi là không thể lắp một pháo vào đó.

1679368030633.png


Z-19 được biên chế trong các tiểu đoàn trinh sát của các lữ đoàn không quân lục quân; vai trò chiến thuật chính của chúng là trinh sát và xác định mục tiêu để hỗ trợ các nền tảng tấn công nặng hơn. Chúng cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn trong vai trò không đối không cánh quay; kích thước nhỏ, dấu hiệu phát lộ hồng ngoại thấp hơn và sự linh hoạt tăng lên khiến chúng rất phù hợp với nhiệm vụ đối không tầm thấp.

1679368059402.png


Máy bay trực thăng đa năng

Mi-17 là một máy bay trực thăng đa năng và hạng trung của Nga đã được sử dụng từ lâu nhưng không mấy phổ biến trong Lục quân Trung Quốc. Là phiên bản cải tiến của Mi-8, Mi-17 lớn hơn một chút và mạnh hơn UH-60 Black Hawk của Mỹ. Nó là một thiết kế đa năng đơn giản có thể chuyên chở hoặc treo một trọng tải hữu ích hoặc tối đa hai tiểu đội. Các biến thể trang bị Winglet có thể mang trọng tải tấn công đáng kể, bao gồm các móc treo rốc két, tuy nhiên chúng thiếu khả năng chỉ thị mục tiêu và phương án bảo vệ hiện đại của các trực thăng tấn công chuyên dụng. Lục quân Trung Quốc sử dụng một số biến thể Mi- 17 khác nhau, mặc dù hiệu suất và vai trò của chúng khá giống nhau. Những chiếc Mi-17 hầu hết phục vụ trong các tiểu đoàn trực thăng đa năng của lữ đoàn không quân lục quân.

1679368132806.png


Z-9 là một máy bay trực thăng đa năng hạng nhẹ có nguồn gốc từ thiết kế của châu Âu. Nó linh hoạt và nhẹ, có thể phục vụ trong các vai trò vận tải hạng nhẹ, tấn công, trinh sát, tìm kiếm cứu nạn hoặc bay biển. Trong vai trò tấn công, nó sử dụng kết hợp giữa pháo hạng nhẹ và tối đa 4 tên lửa, cả không đối không và không đối đất. Z-9 có thể được coi là một máy bay hạng trung. Nó được biên chế như một trong những máy bay trực thăng quân sự hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Nó thiếu sức chịu đựng và tải trọng của một chiếc trực thăng vận tải cũng như khả năng bảo vệ và cảm biến của một chiếc trực thăng tấn công. Tuy nhiên, Z-9 được sử dụng rộng rãi trên khắp Lục quân (PLAA), Không quân (PLAAF) và Hải quân (PLAN) Trung Quốc. Z9s sẽ được sử dụng rộng rãi trong nhiều vai trò trong tương lai gần.

1679368225947.png

1679368273616.png


........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay trực thăng vận tải Z-8 là phiên bản hiện đại hóa của máy bay trực thăng hạng nặng SA-321 của Pháp từ những năm 1960. Trung Quốc đã cải tiến và hiện đại hóa thiết kế của Pháp, biến nó trở thành máy bay vận tải hạng nặng tiêu chuẩn cho cả PLAA và PLAN. Z-8 vừa nhanh vừa có tầm hoạt động xa và nó có thể mang một trọng tải đáng kể. Tuy nhiên, thiết kế cơ bản là rất cũ và nó vừa kém hiệu quả vừa tốn nhiều công sức bảo trì so với các thiết kế hiện đại hơn. Do kích thước và độ linh hoạt kém, nó cũng rất dễ bị hỏa lực mặt đất tấn công, và nhiều khả năng nó không được sử dụng cho các vai trò vận tải ở các khu vực hoạt động sâu hơn.

1679546288543.png


Z-20 là một thiết kế mới mang nhiều nét tương đồng với UH-60 Black Hawk. Nó có thể được thiết kế ngược lại từ các bản sao của máy bay trực thăng vận tải dân sự S-70 Black Hawk. Z-20 là một thiết kế mới, được chấp nhận biên chế vào năm 2018 và một số máy bay đang hoạt động. Tuy nhiên, rất có khả năng Z-20 sẽ trở thành máy bay trực thăng vận tải hạng trung và đa chức năng tiêu chuẩn mới của Lục quân Trung Quốc, thay thế cho cả Z-8 và Mi-17 trong các vai trò này. Các phiên bản hải quân cũng đang được phát triển. Không có gì ngạc nhiên khi các thông số kỹ thuật của Z-20 phản ánh những thông số kỹ thuật của UH-60, mặc dù động cơ được nâng cấp và một bộ cánh quạt năm cánh mới có thể cải thiện phần nào hiệu suất.

1679546332955.png


Máy bay trực thăng hạng nhẹ

Lục quân Trung Quốc vận hành một số loại trực thăng hạng nhẹ, gần như tất cả đều được mua thương mại từ các nhà sản xuất châu Âu hoặc bản sao được cấp phép hoặc thiết kế ngược của các thiết kế châu Âu. Phổ biến nhất là HC- 120. Nó là một thiết kế đơn giản và nhanh, thực hiện một số nhiệm vụ vận tải hạng nhẹ và liên lạc. Những máy bay này dường như không được sử dụng trong vai trò tác chiến. Tuy nhiên, chúng có thể được sử dụng bởi cả Cảnh sát Vũ trang Nhân dân (PAP) và các đơn vị dân quân làm nhiệm vụ hỗ trợ đường không hạng nhẹ cho khu vực hậu phương và các hoạt động an ninh, và các phiên bản dân sự được các đơn vị cảnh sát Trung Quốc sử dụng rộng rãi.

1679546399008.png


Các hệ thống không người lái

Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu thế giới về phát triển và sản xuất phương tiện bay không người lái (UAS). Năng lực công nghiệp này được phản ánh trong việc sử dụng rộng rãi các UAS trong tất cả các loại hình đơn vị của PLA. Lục quân Trung Quốc sử dụng UAS tiên tiến có trần bay ở độ cao trung bình làm máy bay cảnh giới ở các đơn vị cấp chiến khu và tập đoàn quân, và nhiều khả năng một số hệ thống này đã được vũ khí hóa. UAS hạng nhẹ được sử dụng ở cấp lữ đoàn và tiểu đoàn, và các hệ thống có thể mang vác được sử dụng bởi các đơn vị nhỏ như tiểu đội hoặc đội tuần tra. Lục quân Trung Quốc cũng sử dụng UAS được vũ khí hóa trong các vai trò chống bức xạ và chiến tranh điện tử. Hải quân Trung Quốc sử dụng UAS để giám sát tầm xa nhằm hỗ trợ các hoạt động trên mặt nước và có thể sử dụng các phiên bản vũ khí hóa làm nền tảng chống tàu ngầm. Không quân Trung Quốc sử dụng nhiều loại UAS tầm xa hiện đại cung cấp khả năng giám sát và tình báo ở cấp độ quốc gia và chiến khu và các hệ thống vũ khí hóa thực hiện các nhiệm vụ tấn công chính xác.

1679546477432.png

1679546514612.png

Phương tiện bay không người lái của Trung Quốc

Năng lực đường không và những hạn chế

Không quân của Lục quân Trung Quốc tương đối hiện đại và được trang bị một số máy bay trực thăng hiện đại. Hạn chế chính của nó là số lượng máy bay chưa nhiều và nguồn lực bảo trì và duy trì hạn chế, đặc biệt là ở các cấp chiến thuật thấp hơn. Lục quân Trung Quốc đã tích cực theo đuổi khả năng tấn công đường không và mặc dù vẫn đang phát triển, khoản đầu tư này có thể sẽ tiếp tục. Không rõ các lực lượng mặt đất tích hợp hiệu quả với tấn công đường không như thế nào;

1679546597922.png


Về mặt lý thuyết, mối quan hệ giữa lữ đoàn không quân lục quân và lữ đoàn binh chủng hợp thành (CA-BDE) có thể tương tự như mối quan hệ giữa các lữ đoàn không quân chiến đấu và các đội chiến đấu cấp lữ đoàn của Quân đội Mỹ nhưng nếu xét về các máy bay tấn công mới nhất của Lục quân Trung Quốc, thì sự tích hợp này có thể chưa tương xứng.

1679546622611.png
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top