Thay đổi cán cân sức mạnh hải quân: Thách thức của Trung Quốc
Chỉ trong hơn 40 năm, Trung Quốc đã tiến từ một xã hội lạc hậu bị khống chế bởi tư tưởng trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trung Quốc đã thực sự trở thành một cường quốc với ý nghĩa kinh điển của cụm từ này, và việc đạt được điều đó chỉ trong một thời gian ngắn như vậy là một thành quả không thể tin nổi. Tuy nhiên, Trung Quốc cảm thấy trật tự thế giới hiện tại không phản ánh đúng hiện trạng là một cường quốc lớn của họ - và cũng không phải là tham vọng của họ. Một trong những công cụ mà thông qua nó Trung Quốc hi vọng sửa đổi được hệ thống thế giới chính là sức mạnh trên biển, thể hiện ở những năng lực ngày càng lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc.
Nhìn lại những năm trong thập niên 1980, Hải quân Trung Quốc không thể nghĩ rằng họ có thể đến một ngày nào đó phát triển được những năng lực nghiêm túc thực sự. Họ chỉ có thể nhìn đến thứ gì đó gây ấn tượng dựa trên cơ sở số lượng, nhưng những điều tra sâu hơn đã nhanh chóng phát hiện rằng, về mọi mặt thuộc về chất lượng, nó chỉ là thảm họa đang chờ xảy ra. Các hạm tàu chính của họ đều là những loại đã lỗi thời.
Bất chấp tình trạng thảm hại hồi đầu những năm 1980, vẫn không được quên rằng, Hải quân Trung Quốc, không giống như những gì thường được nói đến về “những lực lượng hải quân đang nổi lên”, thực sự có kinh nghiệm chiến đấu đáng kể. Quân đội Trung Quốc khởi đầu là một đội quân du kích, nhưng đến giai đoạn hai của cuộc nội chiến, nó đã chuyển đổi thành một lực lượng thông thường, có khả năng mở các chiến dịch qui mô lớn. Đến năm 1949, sự chuyển mình thành một cơ cấu thông thường đã được khẳng định với việc thành lập lực lượng Hải quân và Không quân QGPND Trung Quốc. Cuộc nội chiến đã chứng kiến các hoạt động đổ bộ do Hải quân tiến hành, ban đầu với bất kể thứ gì họ có trong tay – gồm tàu thuyền đánh cá và các loại thương thuyền khác, với một số chiếc đã được lắp đặt vũ khí cơ bản – hoặc tàu hải quân thu được của lực lượng Quốc Dân Đảng.
Quân GPND TQ đổ bộ lên đảo Hải Nam năm 1950
Một trong những chiến dịch đổ bộ quan trọng nhất là cuộc tiến công đảo Hải Nam hồi tháng 3/1950. Lực lượng tiến công đã sử dụng khoảng 2.135 thuyền buồm, nhiều chiếc trong đó được trang bị vũ khí. Lúc đầu, lực lượng đổ bộ chỉ cỡ tiểu đoàn, sau đó, các lực lượng cỡ trung đoàn đã đổ bộ lên bờ. Lực lượng Hải quân Quốc Dân Đảng đã chống trả, nhưng đều bị thất bại vì một số thuyền buồm được trang bị pháo. Đến đầu tháng 5/1950, toàn bộ đảo Hải Nam đã thuộc quyền kiểm soát của Quân Giải phóng. Sau đó Hải quân còn tiến hành những hoạt động đổ bộ khác lên Đài Loan và chống lại quân Quốc Dân Đảng. Những hoạt động chiến đấu ban đầu này đã cho họ kinh nghiệm, cả thất bại lẫn thành công, nhưng phải cần có thời gian để họ có được những vũ khí trang bị hải quân hiệu quả. Trong giai đoạn đầu này, các vũ khí hải quân của Trung Quốc chủ yếu là của Liên Xô, thu được của Quốc Dân Đảng, hoặc tự chế tạo, trong đó có cả tàu thuyền được chuyển đổi mục đích.
Tại Biển Đông, hay chính xác hơn là quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), tháng 1/1974, một tàu frigat của Việt Nam Cộng hòa đã phát hiện các đơn vị Hải quân và Hải quân đánh bộ Trung Quốc ở xung quanh quần đảo. Căng thẳng leo thang, cả hai phía đều tăng cường lực lượng, rồi Trung Quốc đánh chìm một tàu co-vet của Việt Nam Cộng hòa và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị hải quân khác của Việt Nam Cộng hòa. Ngày nay, quần đảo Hoàng Sa trên thực tế đang do Trung Quốc chiếm giữ, mặc dù Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo.
Cũng trên Biển Đông, tại quần đảo Trường Sa đã xảy ra cuộc đụng độ giữa Hải quân Trung Quốc và Việt Nam hồi tháng 3/1988 tại Bãi đá Gạc Ma. Ba tàu frigat của Trung Quốc đã đánh chìm một tàu LST và hai tàu vận tải vũ trang của Việt Nam. Ngày nay, các đảo trên Biển Đông vẫn có tầm quan trọng đối với Trung Quốc cả vì những lí do chiến lược lẫn kinh tế, với sự đầu tư mạnh mẽ của Hải quân Trung Quốc để khống chế khu vực này.
Giờ đây, Hải quân Trung Quốc có thể nhìn vào lịch sử và họ cũng có thể dựa vào di sản trên biển để chứng tỏ rằng Trung Quốc đã từng một thời là cường quốc lớn trên biển, mà bằng chứng là những cuộc hành trình của nhà thám hiểm Trịnh Hòa thời nhà Minh. Trong giai đoạn từ 1405 đến 1433, đã có tổng cộng 7 chuyến hành trình thám hiểm tới Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Đông và Đông Phi. Những chuyến đi này là những dấu ấn quan trọng. Chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa kéo dài 2 năm, và được kể lại là bao gồm trên 200 tàu và gần 28.000 thuyền viên. Đối với giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như Hải quân, bây giờ là lúc để Trung Quốc một lần nữa trở lại là một cường quốc lớn trên biển.
Cuộc chạy đua hiện đại hóa
Báo cáo mới nhất của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ có tiêu đề “Hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc: Những ý nghĩa đối với Hải quân Mỹ - Bối cảnh và các vấn đề đối với Quốc hội” đã đề cập một số thực tại làm đau đầu các chính trị gia và các chỉ huy Hải quân Mỹ, trong đó có nỗ lực hiện đại hóa của Hải quân Trung Quốc trong suốt hơn 25 năm qua, và tới nay, nó đã trở thành một lực lượng hiện đại và có năng lực hơn trước rất nhiều. Báo cáo cũng nói rằng, Hải quân Trung Quốc hiện lớn nhất thế giới về mặt số lượng, và một số nhà quan sát Mỹ đã bày tỏ quan ngại hoặc báo động về những nỗ lực đóng tàu với nhịp độ cao của Trung Quốc, nhất là đóng các tàu chiến lớn, dẫn đến xu thế thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Mỹ. Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ (ONI) cho biết, đến cuối năm 2020, Trung Quốc sẽ có 360 tàu chiến so với tổng cộng 297 tàu của Hải quân Mỹ. ONI dự báo, Trung Quốc sẽ có 400 tàu vào năm 2025 và 425 tàu vào năm 2030.
Hải quân TQ những năm 1990
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, số lượng không mang tính quyết định, mặc dù ưu thế về số lượng vẫn luôn được mong đợi. Điều mấu chốt ở đây là, bên cạnh yếu tố số lượng, các tàu chiến, máy bay và vũ khí của Trung Quốc giờ đây đã hiện đại và có năng lực hơn nhiều so với đầu những năm 1990, và đã trở nên tương xứng ở nhiều mặt với hải quân các nước phương Tây. ONI cho rằng, thiết kế và vật liệu đóng tàu hải quân của Trung Quốc trong nhiều trường hợp đã có thể sánh ngang với các tàu của Hải quân Mỹ, và Trung Quốc đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách trong mọi lĩnh vực họ còn thua kém.
Việc hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc đã bắt đầu từ những năm 1990, là lúc họ đang phát triển một nền kinh tế quốc gia có khả năng hỗ trợ chương trình hiện đại hóa quốc phòng kéo dài. Đồng thời, họ cũng nỗ lực đầu tư hiện đại hóa ngành công nghiệp quốc phòng trong nước và tìm kiếm công nghệ quân sự từ nhiều nguồn. Khi nền kinh tế của Trung Quốc phát triển, tốc độ hiện đại hóa quốc phòng cũng tăng theo.
Hải quân TQ những năm 2000
Sự phát triển kinh tế cũng chứng kiến việc đất nước hướng tới chuỗi giá trị kinh tế và công nghệ, từ sản xuất giá thành thấp mở rộng sang sản xuất công nghệ tiên tiến, và điều này đã mang đến những lợi ích trực tiếp cho hiện đại hóa quốc phòng. Một lợi ích khác của phát triển kinh tế là khả năng đầu tư cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu phát triển, tăng cường hơn nữa cho những năng lực kinh tế và công nghiệp. Đây là ví dụ kinh điển về vòng xoáy phát triển, sự thành công của kinh tế đã tạo ra những điều kiện lí tưởng cho hiện đại hóa quốc phòng.
..............
Chỉ trong hơn 40 năm, Trung Quốc đã tiến từ một xã hội lạc hậu bị khống chế bởi tư tưởng trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trung Quốc đã thực sự trở thành một cường quốc với ý nghĩa kinh điển của cụm từ này, và việc đạt được điều đó chỉ trong một thời gian ngắn như vậy là một thành quả không thể tin nổi. Tuy nhiên, Trung Quốc cảm thấy trật tự thế giới hiện tại không phản ánh đúng hiện trạng là một cường quốc lớn của họ - và cũng không phải là tham vọng của họ. Một trong những công cụ mà thông qua nó Trung Quốc hi vọng sửa đổi được hệ thống thế giới chính là sức mạnh trên biển, thể hiện ở những năng lực ngày càng lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc.
Nhìn lại những năm trong thập niên 1980, Hải quân Trung Quốc không thể nghĩ rằng họ có thể đến một ngày nào đó phát triển được những năng lực nghiêm túc thực sự. Họ chỉ có thể nhìn đến thứ gì đó gây ấn tượng dựa trên cơ sở số lượng, nhưng những điều tra sâu hơn đã nhanh chóng phát hiện rằng, về mọi mặt thuộc về chất lượng, nó chỉ là thảm họa đang chờ xảy ra. Các hạm tàu chính của họ đều là những loại đã lỗi thời.
Bất chấp tình trạng thảm hại hồi đầu những năm 1980, vẫn không được quên rằng, Hải quân Trung Quốc, không giống như những gì thường được nói đến về “những lực lượng hải quân đang nổi lên”, thực sự có kinh nghiệm chiến đấu đáng kể. Quân đội Trung Quốc khởi đầu là một đội quân du kích, nhưng đến giai đoạn hai của cuộc nội chiến, nó đã chuyển đổi thành một lực lượng thông thường, có khả năng mở các chiến dịch qui mô lớn. Đến năm 1949, sự chuyển mình thành một cơ cấu thông thường đã được khẳng định với việc thành lập lực lượng Hải quân và Không quân QGPND Trung Quốc. Cuộc nội chiến đã chứng kiến các hoạt động đổ bộ do Hải quân tiến hành, ban đầu với bất kể thứ gì họ có trong tay – gồm tàu thuyền đánh cá và các loại thương thuyền khác, với một số chiếc đã được lắp đặt vũ khí cơ bản – hoặc tàu hải quân thu được của lực lượng Quốc Dân Đảng.
Quân GPND TQ đổ bộ lên đảo Hải Nam năm 1950
Một trong những chiến dịch đổ bộ quan trọng nhất là cuộc tiến công đảo Hải Nam hồi tháng 3/1950. Lực lượng tiến công đã sử dụng khoảng 2.135 thuyền buồm, nhiều chiếc trong đó được trang bị vũ khí. Lúc đầu, lực lượng đổ bộ chỉ cỡ tiểu đoàn, sau đó, các lực lượng cỡ trung đoàn đã đổ bộ lên bờ. Lực lượng Hải quân Quốc Dân Đảng đã chống trả, nhưng đều bị thất bại vì một số thuyền buồm được trang bị pháo. Đến đầu tháng 5/1950, toàn bộ đảo Hải Nam đã thuộc quyền kiểm soát của Quân Giải phóng. Sau đó Hải quân còn tiến hành những hoạt động đổ bộ khác lên Đài Loan và chống lại quân Quốc Dân Đảng. Những hoạt động chiến đấu ban đầu này đã cho họ kinh nghiệm, cả thất bại lẫn thành công, nhưng phải cần có thời gian để họ có được những vũ khí trang bị hải quân hiệu quả. Trong giai đoạn đầu này, các vũ khí hải quân của Trung Quốc chủ yếu là của Liên Xô, thu được của Quốc Dân Đảng, hoặc tự chế tạo, trong đó có cả tàu thuyền được chuyển đổi mục đích.
Tại Biển Đông, hay chính xác hơn là quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), tháng 1/1974, một tàu frigat của Việt Nam Cộng hòa đã phát hiện các đơn vị Hải quân và Hải quân đánh bộ Trung Quốc ở xung quanh quần đảo. Căng thẳng leo thang, cả hai phía đều tăng cường lực lượng, rồi Trung Quốc đánh chìm một tàu co-vet của Việt Nam Cộng hòa và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị hải quân khác của Việt Nam Cộng hòa. Ngày nay, quần đảo Hoàng Sa trên thực tế đang do Trung Quốc chiếm giữ, mặc dù Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo.
Cũng trên Biển Đông, tại quần đảo Trường Sa đã xảy ra cuộc đụng độ giữa Hải quân Trung Quốc và Việt Nam hồi tháng 3/1988 tại Bãi đá Gạc Ma. Ba tàu frigat của Trung Quốc đã đánh chìm một tàu LST và hai tàu vận tải vũ trang của Việt Nam. Ngày nay, các đảo trên Biển Đông vẫn có tầm quan trọng đối với Trung Quốc cả vì những lí do chiến lược lẫn kinh tế, với sự đầu tư mạnh mẽ của Hải quân Trung Quốc để khống chế khu vực này.
Giờ đây, Hải quân Trung Quốc có thể nhìn vào lịch sử và họ cũng có thể dựa vào di sản trên biển để chứng tỏ rằng Trung Quốc đã từng một thời là cường quốc lớn trên biển, mà bằng chứng là những cuộc hành trình của nhà thám hiểm Trịnh Hòa thời nhà Minh. Trong giai đoạn từ 1405 đến 1433, đã có tổng cộng 7 chuyến hành trình thám hiểm tới Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Đông và Đông Phi. Những chuyến đi này là những dấu ấn quan trọng. Chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa kéo dài 2 năm, và được kể lại là bao gồm trên 200 tàu và gần 28.000 thuyền viên. Đối với giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như Hải quân, bây giờ là lúc để Trung Quốc một lần nữa trở lại là một cường quốc lớn trên biển.
Cuộc chạy đua hiện đại hóa
Báo cáo mới nhất của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ có tiêu đề “Hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc: Những ý nghĩa đối với Hải quân Mỹ - Bối cảnh và các vấn đề đối với Quốc hội” đã đề cập một số thực tại làm đau đầu các chính trị gia và các chỉ huy Hải quân Mỹ, trong đó có nỗ lực hiện đại hóa của Hải quân Trung Quốc trong suốt hơn 25 năm qua, và tới nay, nó đã trở thành một lực lượng hiện đại và có năng lực hơn trước rất nhiều. Báo cáo cũng nói rằng, Hải quân Trung Quốc hiện lớn nhất thế giới về mặt số lượng, và một số nhà quan sát Mỹ đã bày tỏ quan ngại hoặc báo động về những nỗ lực đóng tàu với nhịp độ cao của Trung Quốc, nhất là đóng các tàu chiến lớn, dẫn đến xu thế thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Mỹ. Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ (ONI) cho biết, đến cuối năm 2020, Trung Quốc sẽ có 360 tàu chiến so với tổng cộng 297 tàu của Hải quân Mỹ. ONI dự báo, Trung Quốc sẽ có 400 tàu vào năm 2025 và 425 tàu vào năm 2030.
Hải quân TQ những năm 1990
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, số lượng không mang tính quyết định, mặc dù ưu thế về số lượng vẫn luôn được mong đợi. Điều mấu chốt ở đây là, bên cạnh yếu tố số lượng, các tàu chiến, máy bay và vũ khí của Trung Quốc giờ đây đã hiện đại và có năng lực hơn nhiều so với đầu những năm 1990, và đã trở nên tương xứng ở nhiều mặt với hải quân các nước phương Tây. ONI cho rằng, thiết kế và vật liệu đóng tàu hải quân của Trung Quốc trong nhiều trường hợp đã có thể sánh ngang với các tàu của Hải quân Mỹ, và Trung Quốc đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách trong mọi lĩnh vực họ còn thua kém.
Việc hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc đã bắt đầu từ những năm 1990, là lúc họ đang phát triển một nền kinh tế quốc gia có khả năng hỗ trợ chương trình hiện đại hóa quốc phòng kéo dài. Đồng thời, họ cũng nỗ lực đầu tư hiện đại hóa ngành công nghiệp quốc phòng trong nước và tìm kiếm công nghệ quân sự từ nhiều nguồn. Khi nền kinh tế của Trung Quốc phát triển, tốc độ hiện đại hóa quốc phòng cũng tăng theo.
Hải quân TQ những năm 2000
Sự phát triển kinh tế cũng chứng kiến việc đất nước hướng tới chuỗi giá trị kinh tế và công nghệ, từ sản xuất giá thành thấp mở rộng sang sản xuất công nghệ tiên tiến, và điều này đã mang đến những lợi ích trực tiếp cho hiện đại hóa quốc phòng. Một lợi ích khác của phát triển kinh tế là khả năng đầu tư cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu phát triển, tăng cường hơn nữa cho những năng lực kinh tế và công nghiệp. Đây là ví dụ kinh điển về vòng xoáy phát triển, sự thành công của kinh tế đã tạo ra những điều kiện lí tưởng cho hiện đại hóa quốc phòng.
..............