[Funland] Sơ lược về lực lượng tên lửa thông thường của hàng xóm

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

1659242266364.png

1659242279249.png

1659242308728.png

Xe chiến đấu đổ bộ đường không ZBD-03

1659242475893.png

1659242551181.png

1659242579794.png

1659242615005.png

Tên lửa chống tăng HJ-9

Các đơn vị vận tải và máy bay vận tải của KQTQ

Đơn vịMáy bay
1 trung đoàn với các máy bay Il-76MD/TD Candid
1 trung đoàn các máy bay Il-76MD Candid; Il-78 Midas
1 trung đoàn các máy bay Y-7 2 trung đoàn các máy bay Y-9
trung đoàn các máy bay Y-20/Y-20U
MÁY BAY VẬN TẢI 247+:
Hạng nặng 51+: 20 Il-76MD/TD Candid; 31+ Y-20
Hạng trung 55+: 30 Y-8C; 25+ Y-9
Hạng nhẹ 111: 70 Y-5; 41 Y-7/Y-7H
Một yếu tố khác cần lưu ý trong cơ cấu lực lượng của Quân đoàn là các máy bay không người lái cỡ nhỏ CH-802 do các lữ đoàn đổ bộ đường không vận hành.


1659243221900.png

1659243148574.png

1659243169226.png

Máy bay Il-76MD/TD

1659243357530.png

1659243285035.png

1659243307271.png

Máy bay Il-78 Midas

1659243518055.png

1659243630189.png

1659243647381.png

Máy bay không người lái CH-802

Vai trò của Quân đoàn Đổ bộ đường không QĐTQ trong cuộc tiến công xuyên eo biển

Tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch năm 2006 tóm tắt vai trò của Quân đoàn Đổ bộ đường không như sau: “Bằng khả năng cơ động của đường không, lực lượng đổ bộ đường không tiến hành các hoạt động tác chiến trong chiều sâu của đối phương nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược và chiến dịch cụ thể”. Trong bối cảnh một cuộc tiến công xuyên eo biển, vai trò chủ chốt của Quân đoàn sẽ là hỗ trợ một chiến dịch đổ bộ đảo liên quân (JILC). Tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch trích dẫn ba giai đoạn chính trong JILC:
1) hoạt động ban đầu;
2) khớp nối, đưa lên máy bay và vận chuyển; và
3) tiến công đổ bộ và thiết lập bãi đổ bộ của chiến dịch (bãi biển). Lực lượng dù có thể sẽ tham gia vào giai đoạn đầu tiên và thứ ba.
Trong giai đoạn đầu, các lực lượng sẽ được điều động thông qua các chiến dịch đường không để tiến hành "các cuộc đột kích phá hoại" phía sau phòng tuyến của đối phương để giúp QĐTQ nắm quyền chỉ huy trên không. Được mô tả là "các đơn vị tác chiến đặc biệt tinh nhuệ", các lực lượng này sẽ nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng sân bay, radar, chỉ huy và kiểm soát và vũ khí chính của đối phương.

1659243790119.png

1659243822835.png

Lính dù Trung Quốc

Quân đoàn Đổ bộ đường không cũng có thể sẽ đóng vai trò hỗ trợ trong giai đoạn đổ bộ tiến công, khi lực lượng đầu tiên của cuộc tiến công, bao gồm cả lực lượng đổ bộ đường biển và đổ bộ đường không, cơ động về các khu vực mục tiêu của họ. Theo tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch, hoạt động này được mô tả là cuộc đổ bộ đường không kết hợp “với [một] cuộc tấn công trực diện vào đất liền… để hỗ trợ và bổ sung cho các hoạt động của lực lượng đổ bộ bằng các hành động chủ động”. Lực lượng dù sau đó sẽ tiếp cụ những nhiệm vụ sau:
“Ngay lập tức tiến công các mục tiêu đã định trước, lợi dụng tình hình địch chưa rõ, chưa kịp thời tổ chức kháng cự có hiệu quả và các đơn vị chống đổ bộ chưa đến, để nhanh chóng chiếm giữ mục tiêu, chủ động chi viện cho các hoạt động của lực lượng đổ bộ đường biển và đẩy nhanh tốc độ của cuộc tấn công vào đất liền, đảm bảo rằng cuộc tấn công vào đất liền thành công trong một đợt tiến công”.
Lực lượng dù cũng dự kiến sẽ hỗ trợ cuộc kháng chiến chống lại các cuộc phản công mà lực lượng đối phương thực hiện nhằm vào căn cứ của QĐTQ.
Tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch làm sáng tỏ cách KQTQ có thể tiếp cận một chiến dịch đường không quy mô lớn. Nó làm nổi bật bốn yếu tố chính.
Đầu tiên, QĐTQ cần phải giành được ưu thế thông tin (制 信息 权) và quyền chỉ huy trên không (制空权). Văn bản mô tả đây là "điều kiện tiên quyết" (前提 条件) để có một chiến dịch đường không thành công.
Thứ hai, QĐTQ sẽ tiến hành hỏa lực chuẩn bị (火力 准备).
Thứ ba, trong trường hợp này, lính dù sẽ được vận chuyển qua eo biển Đài Loan, và tiến hành các cuộc nhảy dù hoặc đổ bộ tại các địa điểm đã chọn. Khi họ đã đổ bộ, binh sĩ sẽ bắt đầu giai đoạn thứ tư của chiến dịch: tác chiến trên bộ (地面 作战). Trong giai đoạn này, họ sẽ chiếm các địa điểm đổ bộ, thiết lập các hoạt động của QĐTQ tại các địa điểm để tiếp tục đổ bộ, thực hiện các cuộc tấn công trên bộ và chuyển sang các hoạt động phòng thủ nếu cần.

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Như trình tự này cho thấy, lực lượng đường không của KQTQ là lực lượng chủ chốt cho chiến dịch đổ bộ đường không, không chỉ bao gồm bản thân các đơn vị vận tải mà còn bao gồm các máy bay có thể nắm quyền chỉ huy trên không, nhắm mục tiêu lực lượng đối phương trong khu vực đổ bộ và bảo vệ các máy bay chở hàng dễ bị tổn thương. Thông tin cũng là yếu tố quan trọng trong các chiến dịch đường không - không chỉ thông tin về nơi đóng quân của kẻ thù, mà còn cả vị trí của các hoạt động di chuyển của các đơn vị KQTQ và QĐTQ khác để điều chỉnh thời gian cho các hoạt động trên không để đạt hiệu quả tối đa. Việc duy trì ý thức tình hình đó trở nên khó khăn khi các đơn vị dù đổ bộ và rất khó để duy trì sức chiến đấu của họ (vốn tương đối hạn chế so với lực lượng mặt đất thông thường).
Tài liệu Nghệ thuật Chiến dịch nêu chi tiết các thuộc tính khác của các chiến dịch đường không đáng chú ý. Đầu tiên, nó nêu bật việc sử dụng sự nghi binh trong quá trình vận chuyển để gây nhầm lẫn cho đối thủ. Thứ hai, nó yêu cầu tận dụng ban đêm và thời tiết xấu để hoạt động. Thứ ba, nó khuyến nghị rằng các lực lượng dù “cố gắng [di chuyển]… đến khu vực mục tiêu bằng một chuyến bay duy nhất”. Cuối cùng, nó xác định việc tiêu diệt các liên kết hoặc mục tiêu quan trọng sau khi đã nhảy dù hoặc đổ bộ, bao gồm cả việc ngăn chặn các cuộc tấn công của kẻ thù.

1659352897644.png

1659353610129.png

Lính dù Trung Quốc thực hành nhảy dù

Xây dựng các khả năng mới có liên quan cho một cuộc tiến công xuyên eo biển

Quân đoàn Đổ bộ đường không QĐTQ đang xây dựng các khả năng liên quan trực tiếp đến các vai trò mà lực lượng này có thể sẽ thực hiện trong một cuộc tiến công xuyên eo biển. Đơn vị này đang trải qua những nỗ lực cải tổ đáng kể để tăng cường khả năng cơ động hóa và tấn công, hưởng lợi từ sự phát triển năng lực không vận của QĐTQ, tăng cường độ khó trong huấn luyện cũng như học hỏi từ các chiến dịch tiếp cận và huấn luyện của nước ngoài.

Tổ chức lại để cải thiện khả năng tấn công và cơ động

Trong khoảng một thập kỷ qua, cơ cấu lực lượng của Quân đoàn Đổ bộ đường không để bảo đảm cơ động và tấn công đã phát triển. Một nguồn tin liên kết với QĐTQ năm 2011 đã mô tả Quân đoàn từ giữa đến cuối những năm 2000 là “một mô hình vũ trang hạng nhẹ kiểu “một binh sĩ, một dù, và một súng” và vũ khí hạng nhẹ với súng cối”. Một đánh giá của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DoD) cũng cho thấy rằng Quân đoàn Đổ bộ đường không trước cải cách năm 2018 là một “lực lượng cơ giới truyền thống” chú trọng vào các chiến dịch nhảy dù. Cơ cấu lực lượng cơ giới hóa của Quân đoàn đã phát triển trong thời kỳ này, với một trong ba sư đoàn của nó có một đại đội cơ giới sau đó được mở rộng thành một tiểu đoàn. Đơn vị này bao gồm các xe chiến đấu bộ binh có khả năng thả bằng dù. Một sư đoàn khác có một đội tác chiến đặc biệt và một đội máy bay trực thăng nhỏ (大队). Đơn vị trực thăng này được thành lập vào năm 2005 và sau đó được mở rộng thành một trung đoàn vào năm 2012. Một số báo cáo cho biết đội tác chiến đặc biệt của Quân đoàn cũng đã trở thành một trung đoàn trước khi cải tổ. Các lực lượng đặc nhiệm đường không này dự kiến sẽ tiến hành các hoạt động trinh sát, đột kích, phá hoại, tấn công quấy rối và tấn công kỹ thuật đặc biệt.
Theo xu hướng rộng lớn hơn là "lữ đoàn hóa" cho lực lượng mặt đất của QĐTQ và một số đơn vị KQTQ (bắt đầu từ năm 2015 và 2016), Quân đoàn đã được tổ chức lại vào năm 2018 để tích hợp các đơn vị binh chủng hợp thành ở cấp lữ đoàn và do đó tăng khả năng chiến đấu tổng thể của Quân đoàn sau khi đến trên chiến trường. Ít nhất một lữ đoàn cũng đã được trang bị xe chiến đấu bộ binh ZBD-03. Thiết bị cơ giới hóa giúp cải thiện sức mạnh chiến đấu và khả năng cơ động của các đơn vị khi ở trên mặt đất, có khả năng giảm bớt một số thách thức của các hoạt động sau đổ bộ đã được xác định trong các văn bản chiến lược của QĐTQ.

1659352997834.png

1659353161705.png

1659353200657.png

Xe thiết giáp ZBD-03 của lực lượng đổ bộ đường không Trung Quốc

Tận dụng năng lực vận tải hàng không ngày càng tăng

Năng lực không vận nhiều lần được nhấn mạnh là một hạn chế mà KQTQ phải đối mặt, cả về khả năng tạo điều kiện cho các hoạt động như cơ động tác chiến trong toàn QĐTQ, và là “dấu ấn quan trọng của lực lượng không quân chiến lược trên phạm vi rộng hơn”, đặc biệt là trong việc trang bị năng lực cao, máy bay vận tải tầm xa. Tài liệu Nghệ thuật Chiến lược Quân sự năm 2013 tuyên bố rằng “QĐTQ nên… làm mọi thứ có thể để thấy rằng khả năng vận tải đường không chiến lược đạt được những bước nhảy vọt lịch sử trong một khoảng thời gian ngắn và đảm bảo khả năng cơ động triển khai lực lượng đường không tầm xa, nhanh và quy mô lớn trong cả thời bình và thời chiến”. Tương tự, tài liệu Nghệ thuật Chiến lược Quân sự 2020 cũng kêu gọi KQTQ tiếp tục cải thiện khả năng vận tải đường không và năng lực đổ bộ đường không.
Bao gồm các máy bay vận tải hạng nhẹ và hạng trung, lữ đoàn đường không trực thuộc Quân đoàn Đổ bộ đường không QĐTQ không thể hỗ trợ đầy đủ cho khả năng cơ động của Quân đoàn. Do đó, lực lượng này phải dựa vào các phương tiện vận tải hạng trung và hạng nặng khác của KQTQ và có khả năng là các đơn vị tìm kiếm cứu nạn để hỗ trợ các chiến dịch quy mô lớn. Số lượng máy bay như vậy đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, trực tiếp mang lại lợi ích cho khả năng triển khai nhanh chóng của Quân đoàn trong nhiều tình huống khác nhau.
DoD đánh giá rằng mục tiêu liên quan trong quá trình tái cấu trúc Quân đoàn “là tạo ra một quân đoàn đổ bộ đường không hiệu quả và tinh gọn có khả năng cung cấp các đơn vị chiến đấu mô-đun đường không - bao gồm cả việc thả lực lượng bộ binh cơ giới đường không”. Những đợt thả dù này được thực hiện một cách hiệu quả nhất với các máy bay vận tải hạng nặng, mà cho đến vài năm qua vẫn là một khoảng cách đáng kể về năng lực đối với KQTQ. Một nghiên cứu của RAND năm 2017 cho thấy số lượng nhỏ máy bay vận tải hạng nặng có sẵn trước năm 2016, có thể không quá hai chục máy bay Il-76 cũ kỹ, có khả năng làm hạn chế năng lực của KQTQ trong việc triển khai nhanh chóng Quân đoàn trên khắp đất nước với lực lượng quy mô một sư đoàn đổ bộ đường không tại một thời điểm nhất định, hay chỉ một phần ba sức mạnh tác chiến của Quân đoàn. Tuy nhiên, máy bay vận tải bản địa Y-20 đã chính thức được chuyển giao cho các đơn vị tác chiến bắt đầu từ năm 2016 và số lượng máy bay này đã tăng nhanh kể từ đó.
Tổng lượng máy bay vận tải hạng nặng có trong biên chế của KQTQ đã tăng hơn gấp đôi trong 5 năm qua, với ít nhất 31 chiếc Y-20 mới nhiều hơn 20 chiếc Il-76 cũ hơn tính đến năm 2022. Nếu Trung Quốc tiếp tục chế tạo và khai thác các máy bay Y-20 với tỷ lệ tương tự. trong vài năm tới, hạn chế về năng lực lâu dài đối với việc triển khai nhanh chóng của Quân đoàn có thể được giảm thiểu một cách hiệu quả.

1659353250886.png

1659353479931.png

1659353580076.png

Máy bay Y-20 của Trung Quôc thực hành thả hàng

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Nâng cao độ khó của huấn luyện trong nước

Quân đoàn Đổ bộ đường không đã đạt được những tiến bộ vững chắc trong công tác huấn luyện trong hai mươi năm qua, đặc biệt chú trọng đến tính phức tạp và tính hiện thực kể từ năm 2018. Quân đoàn đã đưa các chủ đề phức tạp hơn vào chế độ huấn luyện của mình, bao gồm huấn luyện tác chiến ban đêm; với số lượng máy bay, binh sĩ và trang bị nhiều hơn; trong điều kiện địa lý và thời tiết phức tạp; và với các lực lượng quân đội và KQTQ khác. Một số trong những nỗ lực này là lâu dài; danh sách dưới đây tóm tắt các hoạt động huấn luyện được áp dụng trong nước của Trung Quốc từ năm 2001 đến năm 2010:

• 2001: Giải phóng 1 (解放 一号), một cuộc tập trận chung, diễn ra với ba giai đoạn tác chiến và gần 100.000 binh sĩ; địa điểm huấn luyện đã được chọn để giống với Đài Loan. Sau một cuộc chiến tranh thông tin, giai đoạn thứ hai bao gồm một cuộc đổ bộ đường không vào ban đêm để hỗ trợ cuộc diễn tập đổ bộ đường biển và vượt biển liên quân vượt eo biển.

• 2008: Lực lượng đổ bộ đường không được cho là đã thực hiện "cuộc nhảy dù tổng hợp" đầu tiên của họ với cả binh sĩ và trang thiết bị hạng nặng.

• 2009: Cơ động Đổ bộ đường không (空降 机动) 2009 chứng kiến các thành phần của cả ba sư đoàn đổ bộ đường không tham gia cuộc tập trận kéo dài 20 ngày, trong đó một nguồn tin Trung Quốc gọi là "cuộc tập trận huấn luyện tổng thể cơ động chiến dịch liên quân khu của lực lượng đổ bộ đường không Trung Quốc lớn nhất từ trước đến nay".

• 2009: Cuộc tập trận chung Vanguard (前锋) 2009 tập trung vào huấn luyện các đơn vị lực lượng mặt đất và không quân, có một sở chỉ huy cuộc tập trận với sự tham gia của các sĩ quan cả từ lực lượng bộ binh và không quân. Cùng với sự tham gia của binh sĩ đổ bộ đường không, máy bay trực thăng và máy bay cánh cố định đã hỗ trợ các hoạt động trên bộ trong các cuộc tập trận.

• 2010: Lính nhảy dù của Quân đoàn tiến hành “cuộc diễn tập nhảy dù quy mô lớn và hữu cơ đầu tiên” của KQTQ trên Cao nguyên Tây Tạng, với hơn 600 binh sĩ nhảy dù.

Các cuộc tập trận gần đây tiếp tục chú trọng vào việc tăng độ phức tạp của các chủ đề huấn luyện. Sau khi điều chỉnh năm 2014 đối với hướng dẫn chiến lược quân sự hàng đầu của QĐTQ, đặt trọng tâm ngày càng cao vào các chiến dịch trên biển, các nhà lãnh đạo lực lượng không quân đã thúc đẩy KQTQ đóng vai trò lớn hơn trong các chiến dịch ở nước ngoài, bao gồm cả Quân đoàn Đổ bộ đường không. Vào năm 2017, một lữ đoàn vận tải hàng không thuộc lực lượng đổ bộ đường không đã tiến hành “huấn luyện chiến thuật thâm nhập, tầm thấp” trên một khu vực xa lạ ngoài biển khơi, mà một báo cáo của Viện Nghiên cứu Hàng không Vũ trụ Trung Quốc đánh giá là một trong nhiều hoạt động huấn luyện gần đây để thực hành các hoạt động thả dù trên đảo.
Như đã đề cập trong phần giới thiệu, vào năm 2018, lính dù đã hoàn thành lần nhảy đầu tiên từ Y-20 và chiếc máy bay vận tải mới đã hoàn thành lần thả trang bị hạng nặng đầu tiên. DoD cũng nói rằng trong năm, Quân đoàn đã tiến hành huấn luyện thực hành “các hoạt động đột kích và đường không tầm xa dựa trên các kế hoạch chiến tranh thực tế” cũng như tập trung vào chủ nghĩa thực chiến và khả năng chỉ huy và kiểm soát của sĩ quan tham mưu. Một trong những cuộc tập trận năm 2018 này bao gồm sự tham gia lần đầu tiên của Quân đoàn vào tập trận Hồng Kiếm (红 剑), một trong những “thương hiệu” huấn luyện hàng đầu của KQTQ được tiến hành hàng năm chú trọng vào cuộc đối đầu giữa hai lực lượng. Vào năm 2019, QĐTQ đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Bắc Kinh tập trung vào việc tích hợp Quân đoàn vào các chiến dịch liên hợp và cải thiện các chủ đề huấn luyện đổ bộ đường không khác. Các cuộc tập trận vào năm 2020 và 2021 đã chứng kiến Quân đoàn thực hiện một số sự kiện huấn luyện với máy bay Y-20, bao gồm máy bay Y-20 thả thiết bị và lính dù vào tháng 8 năm 2020, lính dù và phương tiện đổ bộ của một lữ đoàn cùng với máy bay Il-76 và Y-9 vào tháng 9 năm 2020, và tiến hành huấn luyện đường không cả ngày lẫn đêm vào tháng 4 năm 2021. Năm 2020, Quân đoàn cũng hoạt động với một đơn vị PLAN trong môi trường biển, tiến hành huấn luyện đối kháng lực lượng với các đơn vị PLAA, đồng thời tận dụng hậu cần quân sự và dân sự để cơ động đường dài nhanh chóng. Nhiều cột mốc huấn luyện mới nhất này phản ánh sự tập trung vào các năng lực có liên quan để hỗ trợ một JILC trong tương lai.

1659406161535.png

1659406457616.png

1659406385012.png


1659406215988.png

1659406690326.png

1659406711225.png

1659406550776.png


Học hỏi từ quân đội nước ngoài

Lính dù đã huấn luyện với các quân đội khác ở Trung Quốc từ năm 2005, và kể từ năm 2011, họ đã tiến hành các cuộc tập trận ở nước ngoài với quân đội các nước khác. Các cuộc tập trận này có thể hỗ trợ cho chính sách ngoại giao của CHND Trung Hoa cũng như để hiểu rõ hơn về các chiến thuật, kỹ thuật và quy trình của đối tác. Danh sách dưới đây tóm tắt các sự kiện huấn luyện được chọn trong các hoạt động đa phương và song phương:

• 2005: Lần đầu tiên binh sĩ đổ bộ đường không Trung Quốc tham gia một cuộc tập trận quốc tế, Sứ mệnh Hòa bình, mặc dù khoa mục nhảy dù của họ diễn ra ở Trung Quốc. Nga cũng tham gia.

• 2007: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ đã nhảy dù cùng các đối tác Nga trong Sứ mệnh Hòa bình ở Trung Quốc.

• 2011: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ di chuyển đến Belarus để tham gia cuộc tập trận đầu tiên ở nước ngoài mang tên Đại bàng thần thánh (Divine Eagle).

• 2011: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ tiến hành cuộc tập trận chống khủng bố, Hợp tác, với Venezuela.

• 2013 và 2014: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ tiến hành hai lần lặp lại loạt tập trận đổ bộ đường không Kiếm với các đối tác Indonesia.

• 2014: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ một lần nữa tham gia cuộc tập trận Sứ mệnh Hòa bình tại Trung Quốc.

• 2015: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ quay trở lại Belarus để thực hiện cuộc tập trận chống khủng bố lần thứ hai.

• Năm 2016 và 2017: Một trung đội đổ bô đường không Trung Quốc tham gia thi đấu trong Hội thao Quân sự Quốc tế năm 2016 (Nga) và 2017 (Trung Quốc). Trung đội tiến hành nhảy dù bằng máy bay trực thăng.

1659406850070.png

1659406915889.png

Lính dù Trung Quốc tập trận cùng lính dù Nga năm 2018

• Năm 2017: Trong sự kiện huấn luyện kết hợp Shaheen VI của Lực lượng Không quân Trung Quốc-Pakistan, binh sĩ đặc nhiệm đổ bộ đường không Trung Quốc cùng các máy bay và đơn vị mặt đất của KQ và HQ TQ đã tham gia cùng với các đối tác Pakistan.

• 2018: Máy bay vận tải Il-76 và Y-9 đã tiến hành thả quân và thiết bị ở độ cao thấp trong phần thi Aviadarts của Hội thao Quân sự Quốc tế ở Nga.

• 2019: Binh sĩ đổ bộ đường không lần đầu tiên đại diện cho QĐTQ trong cuộc tập trận sinh tồn quy mô nhỏ Kowari, một cuộc tập trận ba bên với Hoa Kỳ và Australia.

• Năm 2019: Các đơn vị từ một lữ đoàn của Quân đoàn tham gia cuộc tập trận đa phương Tsentr do Nga chủ trì tại Nga. Theo báo cáo, họ đã thực hiện các cuộc diễu hành và "hoạt động đổ bộ đường không" với các đối tác Nga, mặc dù mức độ mà các hoạt động kết hợp này thực sự được tích hợp vẫn chưa được biết đến.

1659407216469.png

1659407281616.png

1659407314336.png

1659407357413.png

1659407433823.png

Lính dù Nga và Trung Quốc tại cuộc tập trận Tsentr năm 2019

• Năm 2020: Binh sĩ đổ bộ đường không tham gia nôi dung thi đấu Trung đội Đổ bộ đường không, một phần thi của Hội thao Quân sự Quốc tế tại Nga, và lần đầu tiên sử dụng các xe chiến đấu bộ binh của Nga.

• Năm 2021: Binh sĩ đổ bộ đường không TQ tham gia cuộc tập trận Zapad / Western-Joint (西部 • 联合) với Nga diễn ra tại Trung Quốc. Một bài bình luận cho biết lần đầu tiên lực lượng QĐTQ đã tiến hành “cuộc đổ bộ bằng dù ở độ cao thấp của binh sĩ đổ bộ đường không ở nhiều độ cao, đồng thời cung cấp hỗn hợp cả nhân sự và thiết bị cho lực lượng không quân lục quân và các lực lượng tác chiến đặc biệt”.

Một số cuộc tập trận quốc tế có sự tham gia của QĐTQ đã mang lại cơ hội học tập đáng kể cho binh sĩ đổ bộ đường không Trung Quốc, ít nhất là như được mô tả trên các phương tiện truyền thông QĐTQ. Một bài báo năm 2017 cung cấp giai thoại này được các nhà phân tích phương Tây tóm tắt: “Một chỉ huy đại đội xe chiến đấu bộ binh trong lực lượng đổ bộ đường không của QĐTQ đã nói rằng… các lực lượng nước ngoài nhấn mạnh nhiều đến các hình thức huấn luyện ban đêm. Người chỉ huy đã tổng hợp kiến thức của mình và dẫn dắt toàn bộ đại đội của mình tham gia khóa huấn luyện ban đêm theo chủ đề khi trở về Trung Quốc” để nâng cao kỹ năng của đơn vị.

1659407758654.png

1659407898104.png

1659407682119.png

1659407787597.png

1659407732036.png


..................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Không quân Trung Quốc chắp thêm đôi cánh mới

Không lực Trung Quốc là trung tâm của sự chú ý ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương ở nửa cuối năm 2020, khi mà Không quân Quân giải phóng nhân dân (PLAAF) thường xuyên xâm nhập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan. Điều này rõ ràng là một màn trình diễn vũ lực nhằm mục đích không chỉ làm giảm quyết tâm của Đài Loan trong việc chống lại Bắc Kinh mà còn bào mòn sức mạnh của Không quân Đài Loan (RoCAF) – một lực lượng nhỏ bé và sở hữu ít nguồn lực hơn.

Màn trình diễn vũ lực của PLAAF lên đến đỉnh điểm vào ngày 18/9/2020, giữa một chuyến thăm chính thức 03 ngày của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ phụ trách lĩnh vực phát triển kinh tế, năng lượng và môi trường Keith Krach. Tổng cộng có 18 máy bay các loại, bao gồm máy bay ném bom chiến lược Tây An H-6, máy bay chiến đấu đa nhiệm một động cơ Thành Đô J-10 và máy bay chiến đấu đa nhiệm hai động cơ Thẩm Dương J-11 và J-16 – được biên chế thành năm nhóm tiến hành xâm nhập khu vực tây bắc Đài Loan và tây nam ADIZ của vùng lãnh thổ này, trong đó một số đã vượt qua đường trung tuyến ở eo biển Đài Loan.

1659435948497.png

1659435971810.png

Máy bay ném bom H-6

1659436001895.png

1659436483388.png

Máy bay chiến đấu J-10

Ngày hôm sau, 19 máy bay của PLAAF – bao gồm các máy bay ném bom, máy bay chiến đấu và máy bay tuần thám – đã sáu lần xâm nhập một khu vực ở tây bắc Đài Loan và khu vực tây nam ADIZ hòn đảo này, với một số máy bay lại vượt qua đường trung tuyến.
Theo Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ (FAS), Trung Quốc đã thực hiện hơn 4.400 vụ xâm nhập vào ADIZ của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan kể từ năm 2013. Các máy bay quân sự Trung Quốc thông thường sử dụng những đường bay vi phạm ADIZ của những nước này và gây áp lực lên các lực lượng không quân.
Chương trình hiện đại hóa mạnh mẽ của PLAAF bắt đầu kể từ những năm 1990, với ban đầu là việc nhập khẩu các máy bay chiến đấu và vũ khí Nga, nhưng hiện nay đang được thực hiện dựa trên nền tảng các hệ thống vũ khí ngày càng tinh vi được sản xuất trong nước. Quá trình hiện đại hóa của PLAAF đã làm thay đổi lớn cán cân sức mạnh trên không ở khu vực Đông Á và đặt lực lượng này vào vị trí thuận lợi để thách thức sức mạnh không quân Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và thậm chí của Mỹ.

1659436562428.png

1659436634319.png

F-16 Đài Loan và H-6 Trung Quốc

Ưu thế trên không

Các công ty hàng không vũ trụ quân sự Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước đã đạt được một vài bước phát triển đáng kể trong 20 năm qua, chiếm lĩnh những vị trí cao trong chuỗi giá trị, từ cải tiến hoặc áp dụng công nghệ thiết kế ngược đối với máy bay Liên Xô và Nga để phát triển các hệ thống nội địa.
Tham vọng hàng không vũ trụ quân sự của Trung Quốc có thể được biểu hiện qua ngày càng nhiều các mẫu thiết kế trong nước, bắt đầu từ máy bay chiến đấu đa nhiệm một động cơ J-10 do Tập đoàn công nghiệp hàng không Trung Quốc (AVIC) chế tạo. Dòng máy bay này được phát triển từ những năm 1980 bởi công ty con của AVIC có tên là Tổng công ty máy bay Thành Đô (CAC) và có mặt trong biên chế của PLAAF vào năm 2003. Nguyên mẫu ban đầu, J-10A, được thay thế bởi J-10B cải tiến với khung thân được thiết kế lại và trang bị động cơ Salyut AL-31FN Series 3 mạnh hơn của Nga, cho phép đạt được lực đẩy 134,4kN vào năm 2013.
Đối với ra đa và điện tử hàng không, J-10B được trang bị ra đa mảng pha điện tử thụ động (PESA) – một phiên bản nâng cấp của ra đa KLJ-3 quét cơ khí do Viện Nghiên cứu công nghệ điện tử Nam Kinh chế tạo, hệ thống ngắm bắn quang điện gồm thiết bị bắt bám mục tiêu bằng hồng ngoại (IRST) và thiết bị đo xa lade, cũng như hệ thống cảnh báo tên lửa (MAWS) tiếp cận từ phía sau.
Phiên bản mới nhất của J-10 là J-10C, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 12/2013 và được đưa vào biên chế từ tháng 4/2018. J-10C được trang bị một ra đa mảng pha điện tử chủ động (AESA), hệ thống điện tử hàng không cải tiến gồm một đường truyền dữ liệu mới cho tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn PL-15 (BVRAAM).

1659436710569.png

1659436748460.png

J-10C

Cuối cùng, hơn 600 máy bay J-10 dự kiến được đưa vào biên chế của PLAAF để thay thế cho các máy bay tiêm kích bom J-7 cũ kỹ, vốn được sử dụng từ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970.
CAC cũng đã phát triển máy bay chiến đấu hai động cơ J-20, một dòng máy bay chiến đấu đa nhiệm một chỗ ngồi, có các đặc điểm tàng hình như cửa bộ phận hạ cánh vát ra ngoài và khoang vũ khí trong thân. J-20 cũng được trang bị một hệ thống ngắm bắn quang điện ở phía trước giống như cấu tạo của máy bay chiến đấu F-35 do hãng Lockheed Martin sản xuất.
Dòng máy bay có số lượng sản xuất ban đầu hạn chế này được cho là sử dụng động cơ WS-10B sản xuất trong nước, mặc dù các báo cáo khác nhau cũng hé lộ rằng, J-20 được trang bị loại động cơ thuộc phiên bản cải tiến sâu của động cơ 99M2 (AL-31FM2) chế tạo bởi Nga. Cũng có thông tin cho rằng, khi đi vào sản xuất hàng loạt, J-20 cuối cùng sẽ được trang bị động cơ WS-15 sản xuất trong nước mà có tính năng kiểm soát vector đẩy (TVC) và siêu tiết kiệm nhiên liệu. Tuy nhiên, một loại động cơ nội địa hoàn hảo như vậy vẫn chưa xuất hiện bất chấp nhiều năm được đầu tư và phát triển.
Các máy bay chiến đấu hai động cơ khác có trong biên chế của PLAAF bao gồm máy bay chiến đấu J-11B do Tổng công ty máy bay Thẩm Dương (SAC) chế tạo, một sản phẩm của công nghệ đảo ngược của dòng máy bay Sukhoi Su-27 của Nga được nhập khẩu và lắp đặt tại Trung Quốc. Các lô hàng chuyển giao đầu tiên của dòng máy bay này được bắt đầu từ cuối những năm 1990, sau đó là một phiên bản hai chỗ ngồi J-11BS vào khoảng năm 2010.

1659436958660.png

1659436969416.png

J-11B

1659436994231.png

1659436919191.png

J-11BS

Phiên bản gần đây nhất J-11B, được cho đã bắt đầu đi vào sản xuất hàng loạt từ cuối năm 2020, có những cải tiến quan trọng như khung sườn có kết cấu chắc chắn và diện tích phản xạ ra đa hẹp (RCS), ra đa kiểm soát bắn AESA cải tiến, cũng như hệ thống điện tử hàng không hiện đại và động cơ Liming WS-10B sản xuất trong nước.
SAC cũng đã phát triển một phiên bản máy bay chiến đấu tầm xa của J-11BS, J-16, với hệ thống điện tử hàng không và vũ khí sản xuất trong nước, trái ngược hẳn với các phiên bản trước đó chủ yếu sử dụng các vũ khí trang bị do Nga sản xuất. J-16 tiếp tục có thêm những cải tiến so với J-11 như khả năng mang vũ khí tăng lên bằng cách sử dụng 12 điểm treo thay vì 10 điểm treo ở J-11, cũng như mang được nhiều loại vũ khí có điều khiển. Với việc đưa vào biên chế máy bay tàng hình J-20 cho các sứ mệnh giành ưu thế trên không, dòng máy bay này hiện được xem là đối thủ xứng tầm của F-22/F-35 và F-15 có trong biên chế của Không quân Mỹ (USAF).

1659437078384.png

1659437046245.png

1659437130382.png

J-16

Một phiên bản tác chiến điện tử mới của J-16, J-16D, lần đầu xuất hiện vào tháng 12/2015. Dòng máy bay có mũi hình chóp nón ngắn hơn này được trang bị một ra đa AESA và các đầu mút cánh lớn với ăng-ten thẳng đứng, cũng như việc dỡ bỏ IRST và pháo để nhường chỗ cho các ăng-ten và hệ thống tác chiến điện tử.
Một loạt những nâng cấp với dòng máy bay này đã nhiều lần được giới thiệu bởi Đài truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV. Tháng 3/2019, đài này đưa tin, một lớp sơn phủ tàng hình với cả quan sát bằng mắt thường và phổ điện từ đã được chế tạo cho J-16 để nâng cao hiệu quả tác chiến và khả năng sống sót của máy bay. Những hình ảnh được công bố vào tháng 11/2020 cho thấy một chiếc mũ phi công mới có hệ thống màn hình hiển thị để nâng cao năng lực nhận thức tình huống. Với những nâng cấp này, J-16 được kỳ vọng là dòng máy bay chiến đấu chủ chốt của PLAAF trong tương lai không xa.

1659437176905.png


1659437210989.png

1659437257695.png

J-16D
..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay chiến lược

Máy bay ném bom tầm xa chủ yếu của PLAAF là máy bay H-6 hai động cơ, chế tạo bởi Tổng công ty công nghiệp máy bay Tây An. Về cơ bản, đây là một phiên bản hiện đại hóa của máy bay ném bom Tu-16 của Nga. Việc sản xuất máy bay H-6A trong nước được bắt đầu từ cuối những năm 1960, sau vài năm lắp ráp và sản xuất theo giấy phép máy bay Tu-16, và nhiều phiên bản khác đã được giới thiệu sau đó. Trong đó bao gồm dòng máy bay H-6H, bắt đầu có mặt trong biên chế từ cuối những năm 1990 và được trang bị hai tên lửa hành trình tấn công mặt đất (LACM) điều khiển bằng quang học YJ-63/KD-63, và dòng máy bay H-6M, được đưa vào biên chế năm 2007 và trang bị bốn giá treo vũ khí cùng các hệ thống tác chiến điện tử và MAWS mới.

1659492645226.png

1659492689708.png

Tu-16

Ngược lại, các phiên bản gần đây hơn như H-6K sử dụng một khoang lái bằng kính với ít nhất năm màn hình hiển thị đa năng (MFD) và là phiên bản đầu tiên của dòng máy bay H-6 sử dụng ghế phóng cho phi hành đoàn bốn người. Được giới thiệu dưới dạng nguyên mẫu đầu tiên vào năm 2007, H-6K là phiên bản cải tiến mạnh mẽ nhất, thay thế mũi máy bay làm từ chất liệu kính truyền thống để bao bọc hệ thống dẫn đường bằng mũi máy bay hình chóp nón rắn chắc để bảo vệ một ra đa lớn – được cho là ra đa PESA hoặc thậm chí loại AESA – và hệ thống ngắm bắn quang điện mới. Động cơ phản lực cánh quạt D-30-KP2 do Nga cung cấp và kết cấu bằng các vật liệu composite nhẹ hơn được cho đã mở rộng tầm hoạt động của máy bay thêm 30% so với các phiên bản trước đó (bán kính chiến đấu 3.500 km).

1659492815655.png

1659492865900.png

1659492805259.png

1659492839697.png

H-6K

Phiên bản mới nhất, H-6N, xuất hiện lần đầu trước công chúng trong một lần bay biểu diễn nhân dịp duyệt binh kỷ niệm ngày quốc khánh Trung Quốc hôm 01/10/2019. Máy bay được trang bị hai LACM KD-20 và hai LACM KD-63. Phiên bản này có thể được dễ dàng phân biệt với các phiên bản trước đó của dòng máy bay H-6 qua cần tiếp nhiên liệu nằm ở phía trên mũi máy bay, mặc dù đặc điểm chính của nó là một mặt lõm đặc biệt ở vị trí cửa khoang để bom, cho phép máy bay mang được một khối lượng lớn vũ khí ở bên ngoài hoặc phương tiện bay không người lái (UAV). Không quân của Hải quân Quân giải phóng nhân dân (PLANAF) cũng vận hành phiên bản máy bay này, định danh là H-6J, với các hệ thống tác chiến điện tử được bố trí dọc theo các giá treo tên lửa tầm xa.

1659493065019.png

1659492971692.png

1659492948831.png

H-6N

Tháng 10/2019, Trung Quốc phát đi tín hiệu về sự trở lại của bộ ba hạt nhân của nước này, sau khi PLAAF công khai tuyên bố H-6N là máy bay đầu tiên của lực lượng có thể tiếp dầu trên không và mang được vũ khí hạt nhân.
PLAAF có kế hoạch đưa vào biên chế một loại máy bay ném bom tàng hình sản xuất hoàn toàn trong nước, hay được gọi là H-20. Cho đến nay, chưa có thông tin chính thức nào về thiết kế của dòng máy bay này được tiết lộ, nhưng nó được cho là đang được phát triển bởi Tổng công ty máy bay Tây An và có thiết kế cánh bay giống như máy bay B-2 Spirit và máy bay ném bom chiến lược tương lai B-21 Raider của USAF.

1659493117287.png

1659493154780.png

1659493277722.png

H-6J
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay vận tải và máy bay cho các sứ mệnh đặc biệt

Phi đội máy bay tiếp dầu hiện nay của PLAAF gồm có Tây An HU-6 và Ilyushin Il-78M, được trang bị hệ thống tiếp dầu phù hợp với một số dòng máy bay chiến thuật của lực lượng này. Tất cả các máy bay tiếp dầu này đều áp dụng kỹ thuật ống cắm và phễu, cho phép tiến hành các hoạt động tiếp nhiên liệu trên không và mở rộng tầm hoạt động của các máy bay chiến thuật và chiến lược của PLAAF.

1659578574254.png

1659578516704.png

1659578603522.png

Máy bay tiếp dầu Tây An HU-6

1659578446459.png

1659578356492.png

1659578429770.png

Máy bay tiếp dầu Il-78M

Trong khi không có dòng máy bay tiếp dầu trên không mới nào được cho là đang trong quá trình phát triển, một phiên bản máy bay tiếp dầu mới của máy bay vận tải chiến lược Tây An Y-20 sẽ được đưa vào biên chế trong tương lai gần sau những câu nói bóng gió của các quan chức PLA trong những năm gần đây.

Sự tồn tại của một phiên bản tiếp dầu trên không của máy bay Y-20 lần đầu được tiết lộ thông qua hình ảnh vệ tinh thương mại chụp cơ sở sản xuất chính của Tổng công ty máy bay Tây An ở phi trường Tây An-Diêm Lương vào cuối năm 2018, nơi một máy bay Y-20 với phù hiệu của PLAAF xuất hiện với hệ thống tiếp dầu trên không bố trí ở dưới cánh máy bay. Nhiều phiên bản mẫu có cấu tạo tượng tự cũng được phát hiện ở cùng địa điểm trong suốt năm 2019, cho thấy các hoạt động bay thử nghiệm đang được tiến hành.

1659578701396.png

Đồ họa Y-20 tiếp dầu cho J-20

Các nguồn tin cho rằng máy bay này sẽ có khả năng mang được khoảng 90 tấn nhiên liệu, tương đương máy bay Il-78M và gấp hơn ba lần khả năng của máy bay HU-6.

Về chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C), dòng máy bay được cho có trong biên chế của PLAAF là máy bay ‘Kongjing’ (KJ) do Tổng công ty công nghiệp máy bay Thiểm Tây chế tạo. Dòng máy bay này gồm KJ-200 (dựa trên khung sườn dòng máy bay Y-8 được trang bị một ra đa AESA cân bằng tia bức xạ hai chiều), KJ-500 và KJ-2000 (lần lượt được phát triển dựa trên khung sườn dòng máy bay Y-9 và Il-76 với ra đa AESA và ra đa mảng pha).

1659578799051.png

1659578842996.png

Máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW&C) KJ-500

1659578880364.png

1659578900826.png

Máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW&C) KJ-2000

Trong khi đó, hình ảnh trên kênh truyền hình CCTV hồi tháng 12/2019 cho thấy Tổng công ty công nghiệp máy bay Thiểm Tây đã bắt đầu sản xuất hàng loạt máy bay do thám Y-9 tại một dây chuyền sản xuất mới được lắp đặt ở cơ sở Hán Trung của công ty này. Mỗi máy bay sẽ phải trải qua năm trạm lắp ráp trước khi xuất xưởng. CCTV khẳng định rằng, phương pháp này cho phép Tổng công ty tăng 30% công xuất.
Mẫu thiết kế của máy bay Y-8 là một phiên bản của máy bay Antonov An-12 và được sản xuất tại Trung Quốc từ đầu những năm 1970 sau khi một vài máy bay được mua về từ Liên Xô. Việc sản xuất máy bay Y-9 – một phiên bản hiện đại hóa của máy bay Y-8 – đã bắt đầu từ năm 2010 và máy bay có trong biên chế của PLAAF vào khoảng năm 2012.
Khung sườn của dòng máy bay Y-8/Y-9 cũng đã được sử dụng để phát triển một vài phiên bản của dòng máy bay cho các sứ mệnh đặc biệt, trong đó bao gồm các phiên bản cho nhiệm vụ tác chiến chống ngầm (ASW), tuần thám biển, tình báo liên lạc (COMINT), tình báo điện tử (ELINT), tác chiến điện tử (ECM) và chiến tranh tâm lý (PSYOPS). Nhìn bề ngoài, các máy bay này có thể được dễ dàng phân biệt bởi các đặc điểm riêng biệt, bao gồm một ăng-ten liên lạc vệ tinh ở thân sau; sáu hoặc nhiều hơn các dây ăng-ten phía trên khu vực giữa cánh và thân trước; một bộ phận che ra đa dưới bụng phía trước máy bay và một mái che ra đa ở mũi máy bay.

1659579131257.png

1659579152143.png

1659579235209.png

AEW&C Y-8

Trong tương lai, Trung Quốc có ít nhất hai chương trình phát triển máy bay chiến đấu mới theo hướng nhấn mạnh tới khả năng tàng hình và di chuyển với vận tốc siêu âm, công nghệ ra đa mảng pha chủ động và kết hợp giữa phương tiện bay có người lái và không người lái.
Là một lực lượng có bề dày kinh nghiệm trong việc vận hành UAV, PLAAF dường như cho thấy sự quan tâm đến phương tiện bay không người lái tàng hình, có trần bay cao và thời gian hoạt động dài. Một vài công ty quốc phòng lớn như AVIC, Tổng công ty khoa học và công nghệ hàng không vũ trụ Trung Quốc (CASC) và Tổng công ty khoa học và công nghiệp hàng không vũ trụ Trung Quốc đang cạnh tranh các hợp đồng tiềm năng với mẫu thiết kế riêng của mỗi đơn vị. Các mẫu thiết kế mới khác, như UAV trinh sát siêu âm Ô Trấn-8 (WZ-8) cũng đã xuất hiện trong các năm gần đây.

1659578978231.png

1659578996733.png

1659579017285.png

1659579046383.png

UAV WZ-8

Mặc dù chương trình hiện đại hóa của PLAAF chắc chắn đã đạt được động lực to lớn, còn nhiều việc vẫn cần phải làm khi PLA nỗ lực thúc đẩy hợp tác giữa ba quân chủng và tác chiến liên hợp hiệu quả. Ví dụ, huấn luyện tác chiến liên hợp với các quân chủng khác - chẳng hạn như PLANAF – vẫn còn trong giai đoạn sơ khai mặc dù yếu điểm này đang dần được khắc phục thông qua một nỗ lực tập thể để phát triển các kỹ năng tác chiến, trang bị và quy trình cần thiết để thực hiện các cuộc tấn công nhằm vào tàu mặt nước của một kẻ thù lớn./.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
Công nghiệp quốc phòng Trung quốc

Công nghiệp quốc phòng (CNQP) Trung Quốc ngày càng phát triển, đặc biệt trong bối cảnh nước này đang tiến hành đẩy mạnh cải cách quân đội, với nhiều đơn đặt hàng từ lực lượng vũ trang của họ. Để có được thành công đó, Chính phủ Trung Quốc đã có chiến lược cụ thể về xây dựng CNQP; tiến hành nhiều đợt cải cách, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, tiếp thu nhiều tinh hoa công nghệ từ các nước tiên tiến, nâng cao năng lực, sản xuất ra hầu hết các chủng loại vũ khí theo yêu cầu của quân đội Trung Quốc và cả xuất khẩu.

I. TỔ CHỨC, BIÊN CHẾ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG TRUNG QUỐC

1. Tổ chức, biên chế


Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc được đặt dưới sự quản lí của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và công nghiệp phục vụ quốc phòng; gồm có khối cơ quan, các cơ sở nghiên cứu, phát triển và sản xuất.

a. Khối cơ quan

Gồm có: Văn phòng, Phòng Chính sách và Quy định, Phòng Kế hoạch toàn diện, Phòng Tài chính, Phòng Kĩ thuật hệ thống, Phòng Chất lượng khoa học và công nghệ, Phòng Phát triển sở hữu dân sự, Cục Quản lý thiết bị nổ dân dụng, Phòng Hợp tác quốc tế, Phòng Nhân sự và Giáo dục, Cơ quan Vũ trụ quốc gia và Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc gia…

b. Khối nghiên cứu, phát triển và sản xuất

Gồm có 10 tập đoàn (tổng công ty):

Tập đoàn Công nghiệp hàng không Trung Quốc (AVIC): Nghiên cứu chế tạo các loại máy bay tiêm kích, máy bay ném bom, máy bay vận tải, máy bay phản lực huấn luyện, trực thăng, máy bay cường kích, máy bay không người lái.

1659607384473.png

1659607404813.png


Tập đoàn Khoa học và Công nghệ hàng không - vũ trụ Trung Quốc (CASC): Nghiên cứu, chế tạo các tên lửa chiến thuật và chiến lược; tàu vũ trụ, các loại vệ tinh (vệ tinh liên lạc, vệ tinh khí tượng, vệ tinh thử nghiệm khoa học…

Tập đoàn Khoa học và Công nghiệp hàng không - vũ trụ Trung Quốc (CASIC): Nghiên cứu, phát triển và sản xuất các hệ thống tên lửa, gồm tên lửa mặt đất, tên lửa phòng không và tên lửa hành trình, cũng như phát triển công nghệ kính hiển vi...

1659607559891.png

1659607455877.png

1659607486208.png


Tập đoàn Hạt nhân quốc gia Trung Quốc (CNNC): Nghiên cứu, phát triển và chế tạo vũ khí hạt nhân, phát triển năng lượng hạt nhân, các nhà máy điện hạt nhân, nhiên liệu và trang thiết bị hạt nhân, công nghệ ứng dụng hạt nhân...

Tập đoàn Xây dựng công nghiệp hạt nhân Trung Quốc (CNEC): Xây dựng kĩ thuật quân sự, xây dựng kĩ thuật điện hạt nhân, sử dụng năng lượng hạt nhân, nghiên cứu công nghệ kĩ thuật hạt nhân…

1659607508594.png

1659607585111.png


Tập đoàn Công nghiệp miền Bắc Trung Quốc (còn gọi là Tập đoàn Công nghiệp vũ khí, đạn - NORINCO): Nghiên cứu, chế tạo tất cả các loại vũ khí đạn của lực lượng mặt đất, phương tiện bay không người lái, radar và các sản phẩm quang điện tử, xe tăng, thiết giáp, các tổ hợp pháo...

1659607622256.png

1659607665494.png


Tập đoàn công nghệ điện tử Trung Quốc (CETGC): Nghiên cứu thiết kế, sản xuất các sản phẩm thuộc các chuyên ngành công nghệ điện tử, công nghệ mạch tích hợp, công nghệ phần mềm, điện tử mới, linh kiện và công nghệ vật liệu thông tin điện tử, công nghệ quang điện tử, công nghệ xử lý thông tin máy tính, công nghệ truyền thông và mạng, công nghệ âm thanh và video và đa phương tiện, công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử, công nghệ bảo mật thông tin và công nghệ ứng dụng Internet…

Tập đoàn Công nghiệp miền Nam Trung Quốc (CSGC): Thực hiện bốn lĩnh vực công nghiệp chính: sản phẩm đặc biệt, phương tiện chiến đấu, năng lượng mới và sản xuất thiết bị. Các sản phẩm đặc biệt được trang bị cho tất cả lực lượng vũ trang ở Trung Quốc và đóng vai trò chiến lược quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng. Đây là một trong những tập đoàn kết hợp quân sự và dân sự năng động nhất của Trung Quốc.

Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Trung Quốc (CSIC): Nghiên cứu, phát triển công nghệ tàu thủy, đóng tàu, sửa chữa các loại tàu chiến cỡ lớn, như: tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm…

1659607697708.png

1659607727097.png


Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Nhà nước Trung Quốc (CSSC): Nghiên cứu, phát triển công nghệ tàu thủy, đóng tàu, sửa chữa các tàu loại nhỏ như: tàu frigat, tàu hộ vệ, tàu tuần tiễu...

1659607763170.png

1659607795912.png


................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

2. Chức năng, nhiệm vụ

- Nghiên cứu, xây dựng các chính sách, quy định để phát triển CNQP và các sản phẩm quân sự, sản phẩm phục vụ cho dân dụng; xây dựng các quy định khoa học - công nghệ CNQP.
- Tổ chức, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn các dự án nghiên cứu khoa học lớn và công tác quảng bá về khoa học - công nghệ quốc phòng
- Xây dựng các chính sách công nghiệp - công nghệ, kế hoạch phát triển cho các ngành công nghiệp hạt nhân, hàng không - vũ trụ, đóng tàu, vũ khí, thực hiện quản lý công nghiệp.
- Chịu trách nhiệm quản lý, xây dựng nhà máy điện hạt nhân quốc gia, sản xuất đồng vị và sản xuất thiết bị nổ mìn dân dụng.
- Quản lý ngoại hối và hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ quốc phòng; chịu trách nhiệm quản lý xuất khẩu quân sự của các doanh nghiệp và tổ chức quân sự

II. CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

Phương châm xuyên suốt của Trung Quốc trong xây dựng CNQP là hợp tác với nước ngoài để tiếp thu công nghệ tiên tiến; mua vũ khí nguyên bản kèm theo công nghệ chế tạo để từ đó nghiên cứu, thiết kế, chế tạo “bản sao” vũ khí, trang bị cùng loại với chi phí thấp hơn. Về tổng thể, có thể khái quát quá trình phát triển của CNQP của Trung Quốc theo 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1 (từ khi bắt đầu thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đến những năm 1950): nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô.
Giai đoạn 2 (từ năm 1960 đến những năm 1970): tự phát triển các loại vũ khí, trang bị cần thiết.
Giai đoạn 3 (thập niên 1980): mua vũ khí trang bị và công nghệ hiện đại từ các nước, như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Ixraen và một số nước khác.
Giai đoạn 4 (từ năm 1990 tới nay): kết hợp giữa tiếp thu công nghệ tiên tiến từ nước ngoài (chủ yếu là Nga và Ixraen) với phát huy nội lực để thiết kế, chế tạo vũ khí hiện đại. Hiện nay, Trung Quốc đang thực hiện chủ trương như giai đoạn 2 (tự nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị) nhưng ở trình độ cao hơn, đạt trình độ tiên tiến thế giới, tiến tới không phụ thuộc vào nước ngoài.
Đến nay, CNQP Trung Quốc nằm trong tốp 3 quốc gia mạnh nhất thế giới, có khả năng sản xuất hầu như tất cả các chủng loại vũ khí và trang bị cho quân đội của họ, cũng như để xuất khẩu. Theo giới chuyên gia quân sự, thành công của CNQP Trung Quốc hiện nay được xây dựng dựa trên công nghệ và tri thức nước ngoài, trước hết là Liên Xô.

1. Hợp tác quốc tế để tiếp nhận công nghệ và tri thức nước ngoài

a. Dựa vào Liên Xô xây dựng nền móng cho công nghiệp quốc phòng


Sau cuộc nội chiến và trong những năm đầu thành lập, CNQP Trung Quốc chưa có những trung tâm sản xuất quốc phòng thực sự, mãi đến năm 1950 khi có hiệp định Trung - Xô, Liên Xô đã đưa tới Trung Quốc gần 11.000 cán bộ, nhân viên kĩ thuật, khoảng 8% trong số này là các nhà khoa học cấp cao. Số cán bộ, nhân viên này đã xây dựng cho Trung Quốc cơ sở CNQP hiện đại, tiến tới sản xuất vũ khí trên quy mô lớn.
Đến tháng 3 năm 1953, Liên Xô đã giúp Trung Quốc xây dựng khoảng 141 nhà máy công nghiệp. Tháng 2 năm 1955, Chủ tịch *** Trung Quốc Mao Trạch Đông cho biết, Liên Xô đã giúp Trung Quốc xây dựng 156 xí nghiệp công nghiệp lớn bảo đảm cho phát triển kinh tế và lĩnh vực quốc phòng.
Ngày 15.10.1957, Thoả thuận Trung - Xô được kí kết, theo đó Liên Xô cung cấp chuyển giao công nghệ sản xuất vũ khí hạt nhân cho Trung Quốc. Không chỉ chuyển giao các tài liệu liên quan đến xây dựng tàu ngầm hạt nhân, mà tháng 9 năm 1958, các nhà khoa học Liên Xô còn giúp Trung Quốc khởi động lò phản ứng thí nghiệm hạt nhân nước nặng đầu tiên và xây dựng máy gia tốc thực nghiệm. Đồng thời, Liên Xô cũng tiếp nhận và đào tạo cho Trung Quốc hơn 14.000 nhà khoa học, 38.000 nghiên cứu sinh trong tất cả các lĩnh vực. Sự giúp đỡ của Liên Xô đã hình thành nên nền tảng của CNQP Trung Quốc, tạo đà cho họ phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Mặc dù đã được Liên Xô giúp đỡ trong mọi lĩnh vực, nhưng tham vọng của Trung Quốc quá lớn, họ không bằng lòng với những gì đang có. Bên cạnh đó, quan điểm chính trị giữa hai nước cũng có nhiều biểu hiện khác biệt, diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn. Các nhà lãnh đạo hai bên gia tăng công khai chỉ trích nhau. Một trong những sự cố góp phần làm trầm trọng thêm mối quan hệ hai bên là việc Liên Xô phát hiện các học viên Trung Quốc tại Học viện Công nghệ Mátxcơva đánh cắp tài liệu tối mật liên quan đến công nghệ tên lửa đường đạn.
Vì thế, năm 1961, Tổng Bí thư *** Liên Xô Khrushchev cho rút gần như toàn bộ chuyên gia đang làm việc tại Trung Quốc về nước, nhiều dự án hợp tác quân sự bị hủy bỏ… Nếu không có sự cố xung đột với Liên Xô, CNQP Trung Quốc có thể đã phát triển mạnh hơn nữa.

1659925437037.png

1659925264297.png

1659925384392.png

Máy bay J-5 sản xuất theo mẫu Mig-17 của Liên Xô

1659925420914.png

1659925575023.png

1659925599585.png

Máy bay J-7 sản xuất theo mẫu Mig-21 của Liên Xô

1659925672381.png

1659925659444.png

1659925778064.png

Xe tăng T-59 sản xuất theo mẫu T-54 của Liên Xô

b. Dựa vào Mỹ và các nước phương Tây xây dựng nền móng cho công nghiệp quốc phòng hiện đại

Sự đổ vỡ mối quan hệ với Liên Xô trong những năm cuối thập niên 1960 khiến CNQP non trẻ của Trung Quốc lâm vào ngõ cụt. Các dự án hợp tác quốc phòng giữa 2 bên bị hủy bỏ, các tài liệu kĩ thuật đã chuyển giao hoặc chuẩn bị chuyển giao bị thu hồi. Hậu quả của sự cố này khiến CNQP Trung Quốc mất phương hướng và gần như giậm chân tại chỗ trong gần 20 năm. Nguy cơ tụt hậu về công nghệ là quá rõ ràng, giới lãnh đạo Trung Quốc nhận thấy rằng cần nhanh chóng tìm kiếm sự trợ giúp khác thay thế Liên Xô, trước hết là Mỹ.
Cả Mỹ và Trung Quốc đều nhìn thấy nhiều triển vọng trong việc tăng cường mối quan hệ giữa hai bên, Trung Quốc muốn thoát khỏi cái bóng của Liên Xô, còn Mỹ muốn có sự ủng hộ của Bắc Kinh về mặt chính trị tạo nên liên minh chống Liên Xô từ phía Đông.
Từ giữa thập niên 1970, Trung Quốc đã mua của Mỹ nhiều phương tiện kĩ thuật, máy tính, trang thiết bị liên lạc và các trạm rađa. Năm 1977, Trung Quốc còn mua các mẫu máy bay lên thẳng cùng các phương tiện kĩ thuật khác từ Công ty Messerschmitt (Đức); hợp tác với Đức trong lĩnh vực nghiên cứu hạt nhân, tên lửa; Trung Quốc cũng tiến hành đàm phán để mua từ Pháp các mẫu tên lửa hiện đại.
Tháng 4 năm 1978, Trung Quốc được nhận quy chế tối huệ quốc với Cộng đồng kinh tế châu Âu (EU hiện nay). Tận dụng cơ hội này Trung Quốc đã mua một số vũ khí hiện đại từ phương Tây. Trong 2 năm 1978-1979, Tập đoàn Thomson-CSF (Pháp) chuyển giao cho Trung Quốc một số hệ thống tên lửa đất đối không cơ động Crotale để Bắc Kinh nghiên cứu, đánh giá. Phía Pháp đã hy vọng sẽ nhận được đơn hàng số lượng lớn từ phía Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc đã “sao chép” nguyên bản và phát triển thành HQ-7, khi Pháp nhận ra họ “bị hớ” thì đã quá muộn. Một số nguồn tin khác lại cho rằng, Pháp đã chuyển giao công nghệ sản xuất tên lửa đất đối không Crotale cho Trung Quốc theo một thỏa thuận ngầm không được công bố.

1659925878044.png

1659925909234.png

1659925931535.png

Tên lửa HQ-7

Trung Quốc còn mua một số pháo phòng không hiện đại Oerlikon GDF của Thụy Sỹ, sau đó “sao chép” thành Type-90 và gần đây nhất họ đã “nội địa” hóa thiết kế “sao chép” này bằng hệ thống pháo phòng không tự hành PGZ-07.

1659926105265.png

1659926146181.png

Nguyên mẫu pháo phòng không Oerlikon GDF của Thụy Sỹ

1659925986129.png

1659926048957.png

1659926008894.png

Pháo phòng không tự hành PGZ-07

Cùng với đó các dự án hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc từng bước được thực hiện và Oasinhtơn luôn xem xét động thái từ phía Bắc Kinh để đi đến quyết định tiếp theo. Năm 1985, Mỹ chuyển giao cho Trung Quốc 24 chiếc trực thăng đa năng S-70C Black Hawk. Đến năm 1986, Mỹ giúp Trung Quốc hiện đại hóa tiêm kích J-8II với hệ thống điện tử của phương Tây. Đỉnh cao của mối quan hệ “trăng mật” Trung - Mỹ là dự án hợp tác phát triển xe tăng chiến đấu chủ lực Jaguar (Báo Đốm). Đây là chiếc “xe tăng đa quốc gia”, thân xe lấy từ Type-59 của Trung Quốc (“sao chép” từ T-55 của Liên Xô), tháp pháo M68 (Anh), hệ thống điện tử (Mỹ).

1659926287248.png

1659926304818.png

1659926324313.png

Tiêm kích J-8II

Tuy vậy, trong hợp tác quốc phòng với Trung Quốc, phương Tây, nhất là Mỹ, vẫn rất thận trọng. Họ thực hiện theo kiểu “ném đá dò đường”. Trong gần 20 năm, Trung Quốc không mua được nhiều loại vũ khí và công nghệ hiện đại từ phương Tây, nhất là từ phía Mỹ. Sự thận trọng và cảnh giác của Oasinhtơn phần nào làm chậm sự phát triển của CNQP Trung Quốc, đặc biệt là lệnh cấm vận vũ khí áp dụng đối với Bắc Kinh sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Dự án xe tăng Jaguar nhanh chóng rơi vào quên lãng. "Đứa con chung" Báo Đốm cũng “chết yểu” theo.
Khi không thể “đường đường chính chính” mua vũ khí và công nghệ quốc phòng từ các nước phương Tây, Trung Quốc đã tiến hành các biện pháp “đi đêm” với các quốc gia được Mỹ bán vũ khí để tiếp cận công nghệ. Nhiều báo cáo gần đây đã tiết lộ những bí mật “động trời” về các vụ “đi đêm” giữa Trung Quốc với Ixraen.

1659926423595.png

1659926461034.png

1659926484953.png

Máy bay J-10 của Trung Quốc

1659926654117.png

1659926517856.png

1659926550355.png

1659926568073.png

Nguyên mẫu máy bay Lavi của Israel

Tuy nhiên việc hợp tác với các nước phương Tây để có được viện trợ về vũ khí và công nghệ quốc phòng không mang lại kết quả như mong muốn. Bề ngoài, các nước phương Tây muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc nhưng bên trong họ luôn nhìn Bắc Kinh với con mắt dò xét, bởi tham vọng của Bắc Kinh quá lớn và điều đó khiến họ phải dè chừng.
Trong bối cảnh bị phương Tây thấy rõ bản chất và cảnh giác, “thần may mắn” lại một lần nữa gõ cửa Trung Quốc, đó là nước Nga.

........................
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

c. Mua vũ khí, khí tài của Nga

Liên Xô tan rã, nước Nga mới còn hạn chế về kinh kế và không đủ mạnh để thách thức Mỹ. Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc khởi sắc, ngân sách dành cho quốc phòng cũng dồi dào hơn. Trung Quốc “khát” vũ khí hiện đại, Nga “khát” tiền để khôi phục đất nước sau khi Liên Xô sụp đổ.
Trong công cuộc “nối lại duyên xưa”, hợp tác về quân sự được xem là giải pháp quan trọng nhất. Ngày 09.11.1993, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Pavel Grachev và người đồng cấp phía Trung Quốc Trì Hạo Điền đã ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng 5 năm. Đến ngày 12.7.1994, Bộ trưởng Quốc phòng 2 nước ký tiếp thỏa thuận an ninh biên giới nhằm tránh các sự cố quân sự nguy hiểm. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác Trung - Nga đã có sự khác biệt với thời Trung - Xô, không còn cảnh “thầy dạy trò” mà đơn giản là một cuộc mua bán.
Các hợp đồng mua sắm quy mô lớn đưa Trung Quốc trở thành khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Nga với kim ngạch chiếm từ 20 đến 25% tổng kim ngạch xuất khẩu vũ khí Nga.

1659958628197.png

1659958581598.png

1659958610001.png

Máy bay chiến đấu Su-27/J-11 của Trung Quốc

Mở đầu cuộc đại mua sắm này là hợp đồng mua 2 tiểu đoàn tên lửa phòng không (TLPK) tầm xa S-300PMU được ký năm 1991, chuyển giao năm 1993. Trung Quốc trở thành khách hàng đầu tiên của hệ thống tên lửa đối không hiện đại bậc nhất thế giới. Những năm sau này, Trung Quốc liên tục mua các phiên bản của tổ hợp TLPK S-300, TLPK tầm thấp TOR. Tính đến cuối năm 2008, Trung Quốc có tổng cộng 160 xe phóng S-300 các loại, 29 hệ thống TLPK tầm thấp TOR.

1659958715015.png

1659958878978.png

1659958912207.png

1659958787358.png

Tên lửa phòng không S-300PMU của Trung Quốc

Năm 1991, Trung Quốc đặt hàng 76 chiếc Su-27 với 2 phiên bản Su-27SK và Su-27UBK. Lần này, Trung Quốc cũng lại giữ vị trí "khách hàng đầu tiên".

1659959057921.png

1659958975135.png

1659959005163.png

Su-27UBK Trung Quốc

Năm 1994, Trung Quốc ký hợp đồng mua 2 tàu ngầm lớp Kilo 877 EKM, và năm 1996, là khách hàng đầu tiên mua tàu ngầm Kilo 636 với số lượng 2 chiếc. Năm 2002, Bắc Kinh tiếp tục ký hợp đồng mua 8 tàu ngầm Kilo 636.

1659959159762.png

1659959321124.png

1659959310863.png

Tàu ngầm Kilo 636 của Trung Quốc

Năm 1996, trong nỗ lực nhanh chóng hiện đại hóa lực lượng tàu chiến mặt nước, Trung Quốc đã ký hợp đồng mua 2 tàu khu trục hạng nặng lớp Sovremenny Project 956, đến năm 2002, lại mua thêm 2 chiếc nữa thuộc dự án nâng cấp 956 EM.

1659959396829.png

1659959439876.png

1659959483473.png

Tàu khu trục lớp Sovremenny Project 956 của Trung Quốc

Hợp đồng mua sắm số lượng "khủng" vũ khí của Liên Xô, Nga, cùng với những kiến thức tích lũy được trong quá trình hợp tác với Mỹ và các nước phương Tây đã đặt nền móng cho cuộc “sao chép” đại quy mô của CNQP Trung Quốc.

..................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

2. Đầu tư phát triển công nghệ quân sự

a. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc cuối thế kỉ 20


Theo đánh giá của các chuyên gia phương Tây thì trong những năm 1970, Trung Quốc dành tới 65% ngân sách phát triển khoa học - kĩ thuật để nghiên cứu thiết kế vũ khí, phương tiện kĩ thuật quân sự. Đầu tư lớn nhưng hiệu quả chưa như kì vọng, và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhận thức được sự yếu kém về CNQP, buộc họ phải triển khai nhiều đợt cải cách kể từ cuối những năm 1980, nhằm nâng cao các quy trình R&D quân sự và hiện đại hóa quy trình chế tạo vũ khí. Tuy nhiên, phần lớn những nỗ lực này đều không đạt được mục tiêu, bởi vì họ không giải quyết được vấn đề cơ bản: thiếu sự cạnh tranh, vượt quá năng lực, thiếu vốn, thiếu nhân lực có kỹ năng; và còn bởi vì một nền “văn hóa công ty” mang tính thống kê.
Khi bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa (năm 1978), CNQP của Trung Quốc đứng trước rất nhiều khó khăn. Công cuộc hiện đại hóa quốc phòng được xếp ở vị trí cuối cùng trong thứ tự 4 ưu tiên hiện đại hoá của Trung Quốc. Trước nhiều khó khăn, các xí nghiệp quốc phòng của Trung Quốc được khuyến khích chuyển đổi sang sản xuất các mặt hàng dân dụng hoặc được buôn bán các mặt hàng quân sự để tăng thu nhập và bù vào các khoản kinh phí ngày càng ít ỏi của chính phủ. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đã trải qua quá trình chuyển hóa hỗn loạn, không có tính hệ thống.
Đầu những năm 1990, việc chế tạo vũ khí, trang bị phần lớn tập trung vào một nhóm các bộ có năng lực chế tạo máy, chịu trách nhiệm phục vụ cho riêng khu vực quốc phòng/quân sự.
Ví dụ, Bộ Công nghiệp hàng không và vũ trụ chế tạo máy bay và các tổ hợp tên lửa. Năm 1993, trong nỗ lực để “công ty hóa” cơ sở CNQP, những nhà máy, xí nghiệp trong các bộ nói trên tiếp tục được cải tổ thành các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (SOE). Quản lí các SOE này và chỉ đạo các chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) các dự án, sản phẩm quân sự của Trung Quốc là Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp phục vụ quốc phòng.
Hậu quả là đến cuối những năm 1990, CNQP Trung Quốc vẫn lạc hậu về công nghệ; phần lớn những tổ hợp vũ khí được phát triển trong nước đều đi sau những tổ hợp vũ khí, trang bị cùng loại của các nước phương Tây ít nhất 15 đến 20 năm.

1660014742595.png

1660015044154.png

Quân đội Trung Quốc những năm 90

Các cơ sở R&D quốc phòng Trung Quốc được đánh giá là không đủ khả năng trong các lĩnh vực trọng yếu, như: khí động học, hệ thống động lực (như động cơ máy bay, động cơ tàu chiến), vi điện tử, máy tính điện tử, thiết bị điện tử hàng không, thiết bị cảm biến, tác chiến điện tử và vật liệu tiên tiến. Các vấn đề về chất lượng, độ ổn định, độ tin cậy cũng còn khoảng cách rất xa so với vũ khí, trang bị của Nga, Mỹ và phương Tây. Hơn nữa, tình trạng nhà sản xuất vũ khí được chỉ định một cách hành chính, còn các viện nghiên cứu bị tách rời khỏi sản xuất càng làm cho CNQP Trung Quốc không thể cạnh tranh với các cường quốc lớn.
Nói chung, từ những kết quả chưa như kì vọng đã buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải tiếp tục tiến hành cải cách CNQP mạnh mẽ, quyết tâm đầu tư cho CNQP, trước hết là trong lĩnh vực R&D.

b. Cải cách công nghiệp quốc phòng Trung Quốc

Đợt cải cách CNQP có ý nghĩa nhất bắt đầu vào tháng 9 năm 1997, khi Đại hội *** Trung Quốc lần thứ 15 quyết định cải cách toàn diện khu vực SOE, đánh dấu sự mở đầu quy trình tái cấu trúc và nâng cấp CNQP Trung Quốc, tập trung theo 2 hướng chính sau:
Thứ nhất, loại bỏ việc hoạch định dựa trên các yêu cầu cảm tính, chuyển sang quy trình mua sắm vũ khí.
Thứ 2, khuyến khích các SOE phát triển thành những doanh nghiệp công nghiệp thực thụ hơn nữa và cần: (1) Có trách nhiệm hơn với khách hàng của mình là Quân đội Trung Quốc; (2) Cải cách, hiện đại hóa và thị trường hóa các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Tháng 3 năm 1998, Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội Trung Quốc - NPC) lần thứ 9 đã làm rõ thêm chương trình các kế hoạch tổ chức lại mô hình giám sát và quản lý CNQP của Chính phủ. Thông qua một chiến lược toàn diện để cải thiện CNQP. Chiến lược này đề ra mục tiêu hiện đại hóa có chọn lọc trong các lĩnh vực trọng yếu, tăng cường hội nhập giữa ngành công nghiệp quân sự - dân sự để tận dụng công nghệ kép sẵn có, mua sắm các vũ khí, trang thiết bị và công nghệ tiên tiến nước ngoài; thành lập những tập đoàn CNQP mới. Những quyết định quan trọng nhất được đưa ra là:
(1) Thành lập Ủy ban Khoa học, Kĩ thuật và CNQP nhà nước đặt dưới sự quản lý của Chính phủ, có quy chế cấp bộ, và năm 2008 được chuyển thành Cục Khoa học, Kĩ thuật và CNQP trực thuộc Bộ Công nghiệp và Tin học hóa.
(2) Thành lập Tổng bộ Trang bị (GAD) thuộc Quân đội Trung Quốc, đóng vai trò cơ quan mua sắm chủ chốt cho quân đội nước này, theo dõi mua sắm quốc phòng và các chương trình vũ khí mới.
Theo trung tâm Nghiên cứu chiến lược Mỹ (RAND), GAD là một phần của quy trình thành lập một hệ thống để thống nhất, tiêu chuẩn hóa và pháp lý hóa việc mua sắm vũ khí, trang bị của Trung Quốc.
Tổng bộ Trang bị được trao quyền triển khai các quy định, các tiêu chuẩn và đánh giá nhằm tăng cường kiểm tra chất lượng, khả năng hoạt động, khuyến khích cạnh tranh và đổi mới. Việc thành lập GAD được xem là ví dụ điển hình về một sự thay đổi quan trọng về cách tiếp cận của Trung Quốc với đổi mới quốc phòng. Theo đó, từ giữa những năm 1980, hệ thống nghiên cứu, phát triển và mua sắm quốc phòng đã chuyển dần từ mô hình các chương trình vũ khí được định hướng bởi những gì mà CNQP có thể cung cấp sang định hướng bởi những yêu cầu của PLA và đảm bảo theo nhu cầu trong quân sự. Quy trình này được triển khai đầy đủ, trao cho PLA quyền cao nhất về đổi mới, R&D các dự án quốc phòng.
Đến năm 2016, Trung Quốc đã cải tổ GAD thành Bộ Phát triển trang bị là một trong 15 cơ quan trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc có chức năng tham mưu cho Quân ủy Trung ương Trung Quốc về công tác bảo đảm trang bị trong Quân đội Trung Quốc. Tổng bộ Trang bị có khả năng tập trung ngân sách R&D cho các dự án lựa chọn ưu tiên cao, tạo sự cạnh tranh giữa các cơ sở R&D khi tham gia đấu thầu các đề tài R&D.
Một yếu tố then chốt khác của cải cách quốc phòng là tháng 7 năm 1999, Trung Quốc thành lập 10 tập đoàn CNQP mới liên quan đến các đến các lĩnh vực: xây dựng hạt nhân, điện tử; tên lửa - vũ trụ; chế tạo máy bay, đóng tàu và vũ khí, trang bị lục quân; tham gia sản xuất cả sản phẩm quân sự lẫn dân sự. Ngoài ra, họ đã thành lập công ty Xin Shidai chuyên xuất và nhập khẩu công nghệ. Trong mỗi tổng công ty có một số công ty chuyên ngành hẹp. Ví dụ như trong Tổng công ty Chế tạo máy bay số 1 có công ty chế tạo động cơ (Công ty Power System được thành lập vào năm 2003), cũng như 5 công ty chế tạo máy bay và quy tụ từ hàng chục đến hàng trăm xí nghiệp, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm cùng các cơ quan khác. Đó là chưa kể nhiều xí nghiệp CNQP độc lập, vì thế rất khó nói chính xác quy mô đích thực và quân số của CNQP Trung Quốc. Có thông tin, vào cuối những năm 1990, cơ sở CNQP Trung Quốc đã quy tụ được khoảng 1.000 doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp gồm nhiều nhà máy, các đơn vị nghiên cứu, các công ty thương mại, các trường dạy nghề và trường đại học sử dụng khoảng 3 triệu lao động và hơn 300.000 kỹ sư và kĩ thuật viên.
Những doanh nghiệp này được cho là đã đảm nhận chức năng như những tập đoàn thực thụ kết hợp R&D, sản xuất và tiếp thị. Đặc biệt, bằng việc giải thể các SOE kiểu cũ, Trung Quốc hy vọng các tập đoàn doanh nghiệp công nghiệp mới, các tổng công ty khoa học và sản xuất được hợp nhất sẽ cạnh tranh với nhau trong các hợp đồng mua sắm của quân đội, thúc đẩy hiệu suất làm việc và đổi mới công nghệ, từ đó làm tăng chất lượng sản phẩm.
Đến trước năm 2008, Trung Quốc đã thực hiện tái cơ cấu ngành sản xuất hàng không; tái cơ cấu lĩnh vực đóng tàu quân sự... Theo đó, ở lĩnh vực hàng không, các đơn vị nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa trang bị hàng không được sáp nhập thành Tập đoàn Công nghiệp Hàng không 1 và Tập đoàn Công nghiệp Hàng không 2. Tuy nhiên, việc 2 tập đoàn hoạt động độc lập đã phát sinh nhiều bất cập, như sự phối hợp không đồng bộ trong quá trình R&D, chế tạo trang thiết bị hàng không; cơ sở nghiên cứu phân tán; chi phí quản lý cao; thiếu tính cạnh tranh... Do đó, cuối năm 2008, Trung Quốc sáp nhập 2 tập đoàn này thành AVIC, gồm 200 doanh nghiệp thành viên, với khoảng 400.000 nhân viên, là một trong 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới. Trung Quốc hướng tới mục tiêu biến AVIC trở thành nhà cung cấp các thiết bị cho quân đội bằng cách tích hợp các dòng sản phẩm, phát triển các hoạt động kinh doanh, phân bổ nguồn lực, thúc đẩy đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng sản xuất trong các lĩnh vực hàng không dân sự và quân sự.
Ở lĩnh vực đóng tàu quân sự, Trung Quốc cũng tiến hành tái cơ cấu bằng việc tách một số bộ phận của CSSC, thành lập CSIC; đẩy mạnh R&D, phấn đấu làm chủ công nghệ.
Cùng với việc mở rộng nghiên cứu, phát triển, chế tạo các loại vũ khí trang bị cho hoạt động quân sự, tăng cường khai thác các công nghệ thương mại và lưỡng dụng, Trung Quốc còn đề ra Kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ quốc phòng trung hạn và dài hạn 2006-2020; Kế hoạch quốc phòng 5 năm lần thứ 11 (2006-2010); tháng 5 năm 2006, phê duyệt Kế hoạch quốc gia 15 năm về khoa học và công nghệ quốc phòng. Các kế hoạch này đều nhấn mạnh đến việc gia tăng tốc độ hiện đại hóa quân đội và định hướng R&D các sản phẩm quốc phòng mới; tăng chi tiêu cho R&D quân sự, tập trung vào các tổ hợp vũ khí công nghệ cao (VKCNC), hỗ trợ các công nghệ chế tạo tiên tiến và tăng cường những nỗ lực R&D quốc phòng, hợp tác quốc tế. Tất cả các chính sách, kế hoạch cải cách CNQP, tái cơ cấu các cơ sở CNQP của Trung Quốc để đạt mục tiêu “chuyển hóa quân đội thành lực lượng hiện đại hóa, cơ giới hóa và dựa trên công nghệ thông tin” vào năm 2020. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định trong Đại hội ************* Trung Quốc lần thứ 18 rằng, Ban lãnh đạo Trung Quốc sẽ tiếp tục quan tâm đến việc phát triển quân đội và CNQP. Mục tiêu phát triển là kết hợp “cơ giới hóa và tin học hóa”
Các tập đoàn CNQP cũng bắt đầu tìm những nguồn vốn đầu tư mới bằng cách cổ phần hóa. Kết quả là, CNQP Trung Quốc dường như phù hợp hơn so với trước đây khi tiếp thu và phát huy các công nghệ tiên tiến liên quan đến quân sự và cung cấp cho quân đội những tổ hợp khí tài quân sự tiên tiến mà họ cần. Vì vậy, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã giảm được nhiều những thương vụ mua bán vũ khí của Nga. Theo Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, nhập khẩu vũ khí của Trung Quốc đã giảm từ 3,54 tỉ USD vào năm 2005 xuống còn 1,4 tỉ USD vào năm 2014; giá trị nhập khẩu đã giảm 11% trong giai đoạn 2012-2016, một dấu hiệu cho thấy CNQP Trung Quốc đang tiến đến gần hơn hiện thực hóa mục tiêu tự lực trong sản xuất vũ khí trang bị. Điều đó khẳng định, CNQP Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu và đủ khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị cho quân đội của họ.
..............
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG TRUNG QUỐC

Sự quan tâm, tập trung đầu tư của giới lãnh đạo Trung Quốc đã giúp cho CNQP đạt được những thành tựu rất lớn khi tiếp nhận khoa học - công nghệ quân sự của nước ngoài để họ thành công trong nghiên cứu, phát triển, hiện đại hóa các loại vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang của mình.

1. Vũ khí, trang bị lục quân

a. Xe tăng - thiết giáp


Với việc ban đầu được Liên Xô giúp đỡ, cung cấp các xe tăng Т-34-85 và IS-2 từ sau khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đến nửa cuối thập niên 1950 Trung Quốc đã tự sản xuất xe tăng hạng trung Турe-59 (WZ120) đầu tiên, có thiết kế giống tăng Т-54А của Liên Xô. Trong thời gian năm 1957-1987 CNQP Trung Quốc đã sản xuất được gần 10.000 xe tăng loại này.

1660130596429.png

1660130608742.png

1660130625380.png

1660130655912.png

Xe tăng Турe-59 (WZ120)

Vào cuối thập niên 1960, NORINCO tiến hành sản xuất xe tăng chủ lực Турe-69 (WZ121); đây là biến thể hiện đại hóa của Туре-59 sử dụng các công nghệ và linh kiện của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc hoàn thiện xe này diễn ra chậm chạp và đến những năm 1980 mới sản xuất được số lượng hạn chế, chủ yếu để xuất khẩu. Quân đội Trung Quốc chỉ đưa vào trang bị một số ít loại xe tăng này.

1660130745635.png

1660130757909.png

1660130774771.png

1660130784470.png

Xe tăng chủ lực Турe-69 (WZ121)

Năm 1984, NORINCO phát triển loại xe tăng chủ lực mới Type-80I, có lắp pháo rãnh xoắn 105mm và hệ thống điều khiển hỏa lực Type-37A, thiết bị đo xa lade tích hợp với máy ngắm của pháo thủ. Trung Quốc tiếp tục hiện đại hóa Туре-80I lên Type-80II đưa vào trang bị cho Quân đội Trung Quốc với tên Type-88.

1660130833329.png

1660130869837.png

1660130887152.png

Xe tăng chủ lực Type-80I

Sau này, Trung Quốc liên tục phát triển dòng xe tăng chủ lực các loại, trong đó có loại Type-99 (xe tăng chủ lực thế hệ 3) được coi là loại xe tăng hiện đại nhất của Trung Quốc, có thể sánh với tăng M1 Abrams của Mỹ. Type-99 thực chất là biến thể cải tiến của Type-98 được giới thiệu vào năm 2000 với tên gọi Type-98G. Cùng năm đó, Trung Quốc sản xuất lô đầu tiên gồm 40 chiếc, đến năm 2016 đã có 814 chiếc ra đời. So với Type-98, Type-99 có các tính năng tiên tiến hơn như: Sức cơ động cao, có thể tăng tốc từ trạng thái đỗ lên tốc độ 32km/h chỉ trong vòng 12 giây do được trang bị động cơ diesel công suất 1.500 mã lực dựa trên động cơ MB871 Ka501 của Đức. Biến thể cơ sở của Type-99 có trọng lượng 54 tấn, ở các biến thể sau trọng lượng tăng lên đến gần 60 tấn.

1660130930076.png

1660130949904.png

1660130965470.png

Xe tăng chủ lực Type-99

Vũ khí gồm: pháo nòng trơn ZPT98 125mm, có khả năng bắn được các tên lửa chống tăng dẫn đường; tương thích với các tên lửa chống tăng có điều khiển 9M119M của Nga; súng máy đồng trục 7,62mm và súng máy phòng không 12,7mm…
Hệ thống điều khiển hỏa lực cải tiến gồm: máy ngắm kết hợp ổn định độc lập của pháo thủ và trưởng xe, máy đo xa lade, khí tài ảnh nhiệt, máy tính đường đạn số, thiết bị ổn định vũ khí, các thiết bị cảm biến, bảng thiết bị đa năng của trưởng xe với một màn hiển thị màu và hệ thống tự động bắt, bám mục tiêu. Ngoài ra, trên xe còn lắp hệ thống dẫn đường với các kênh quán tính, định vị vệ tinh GPS, dữ liệu từ các kênh này cũng được đưa lên màn hình của trưởng xe và hiển thị trên bản đồ địa hình số; máy vô tuyến điện hiện đại và thiết bị đàm thoại nội bộ.
Khả năng bảo vệ được tăng cường nhờ giáp phản ứng nổ ERA lắp liền ở mặt trước tháp xe và thân xe. Cấu trúc giáp môđun cho phép thay thế nhanh các khối giáp bị hỏng bằng các khối giáp mới; hệ thống lade đối kháng tích cực JD-3.
Hiện nay Lục quân Trung Quốc có 9.600 xe tăng các loại, trong đó xe tăng hạng nặng là 8.500 chiếc (T-98A, T-99A, T-96A, T-85II, T-80…; hạng nhẹ là 1.300 chiếc (ZTL-90, ZTL-11, xe tăng lội nước T-62I, T-63, ZTD-05…).
Xe thiết giáp có 9.610 chiếc gồm các loại như: T-86 (WZ-501), T-63I/II/A/C, T-77II, T-89I/II, T92A/B, T-93, WZ-523, ZBD-08, ZBL-09…
Bắc Kinh đang có chủ trương loại bỏ toàn bộ các xe tăng đời trước 1997, tích cực phát triển các mẫu Type 96 và Type 99 cho lục quân của họ.
Như vậy, trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã vượt qua “chặng đường” từ người mua sắm đến nhà sản xuất và xuất khẩu xe tăng - thiết giáp. Trong những thập niên gần đây, số lượng xe tăng của Quân đội Trung Quốc luôn được duy trì ở mức khoảng 10.000 chiếc. Đây là lực lượng xe tăng đông đảo nhất thế giới, chủ yếu là do NORINCO sản xuất.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

b. Pháo binh

Pháo binh Trung Quốc được đánh giá là một trong những lực lượng mạnh nhất thế giới. Tính đến năm 2018, Quân đội Trung Quốc sở hữu:

- 13.950 pháo xe kéo 122mm, 130mm, 152mm, 155mm.

- 1020 tên lửa chống tăng HJ-8/9/10/73, ZSL-02B…. có khả năng xuyên phá hiệu quả vỏ giáp bảo vệ của tất cả các loại xe tăng hiện đại và tương lai của đối phương trong điều kiện tầm nhìn hạn chế.

1660214120873.png

1660214149196.png

1660214019322.png

Tên lửa chống tăng HJ-8

1660214250085.png

1660214232592.png

1660214264324.png

Tên lửa chống tăng HJ-10

- 4.619 pháo phản lực 122mm, 130mm, 300mm, 400mm. Các hệ thống pháo phản lực phóng loạt có khả năng tự động tìm và tiến công mục tiêu.

- 2.720 pháo tự hành, gồm các loại như: cỡ 122mm (Type-89, Type-07 (PLZ-07), Type-09 (PLС-09), lựu pháo 152mm Type 83, lựu pháo 155mm Type-05 (PLZ-05).

1660214415925.png

1660214617477.png

1660214536159.png

Pháo tự hành PLZ-07

1660214640653.png

Pháo tự hành PLZ-09

1660214749252.png

1660214771755.png

1660214798608.png

Pháo tự hành PLZ-05

Pháo 152mm và 155mm có thể bắn loại đạn có điều khiển bằng lade do Trung Quốc phát triển, dựa trên đạn điều khiển bằng lade 152mm Krasnopol của Nga mà Trung Quốc được cấp phép. Loại đạn này có thể dùng để chế áp các hỏa điểm, tiêu diệt các xe tăng, xe thiết giáp, sở chỉ huy và các công trình phòng ngự nhẹ… của đối phương. Hiện đại nhất trong các pháo/lựu pháo tự hành là Type-05 (PLZ-05) 155mm. Đây là pháo “sao chép” từ pháo 2S19 Msta-S nổi tiếng của Nga, nhưng có một số cải tiến riêng. Các biến thể mới của loại pháo này có tốc độ bắn nhanh hơn, được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tự động hóa, khí tài định vị..., giúp cho hiệu quả bắn cao hơn.

Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển các hệ thống pháo phản lực phóng loạt. Xét về trình độ khoa học kĩ thuật của các sản phẩm và công nghệ, Trung Quốc đã không chỉ đuổi kịp các nước sản xuất vũ khí hàng đầu, mà còn vượt họ về nhiều mặt.

Trong các hệ thống pháo phản lực phóng loạt, có hệ thống pháo phản lực hạng nặng Type 03 (PHL-03) 10 nòng 300mm với tính năng chiến đấu độc đáo, phát triển dựa trên hệ thống 9K58 Smerch 12 nòng 300mm của Liên Xô/Nga. Hệ thống này được trang bị hệ thống máy tính hóa, các khí tài định vị vệ tinh và trắc đạc. PHL-03 bắn các loại đạn phản lực ổn định trong khi bay như: đạn chùm mang các đạn con xuyên lõm chống tăng và đạn phá-mảnh. Để sử dụng các hệ thống pháo phản lực phóng loạt này, Trung Quốc đang phát triển các đạn phản lực tầm xa có điều khiển. Theo một quan chức của NORINCO (công ty phát triển PHL-03), biến thể mới nhất của PHL-03 có tầm bắn tối đa lên tới 150km. Trên cơ sở PHL-03, Trung Quốc đã chế tạo 3 mẫu hệ thống pháo phản lực phóng loạt khác có tên là AR1 (300mm, 8 nòng), AR1A (300mm, 10 nòng) và AR3 (370mm, 8 nòng), có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở cự li đến 220km.

1660214922289.png

1660215032539.png

1660215480113.png

1660214975613.png

Pháo phản lực Type 03 (PHL-03)

1660215142218.png

1660215180168.png

Pháo phản lực AR1

1660215392831.png

1660215594954.png

Pháo phản lực PHL-16

Thành phần trinh sát của các hệ thống trinh sát sẽ là các hệ thống vệ tinh trên vũ trụ, máy bay trinh sát, máy bay không người lái và các phương tiện khác, cho phép xác định chính xác tọa độ tức thì của mục tiêu theo thời gian thực. Lực lượng pháo binh Lục quân Trung Quốc cũng đã bắt đầu nhận vào trang bị nhiều kiểu loại phương tiện bay không người lái (UAV) khác nhau.

......................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

2. Vũ khí, trang bị hàng không - vũ trụ

a. Hàng không


Ngành công nghiệp hàng không là một trong những ngành có hàm lượng công nghệ cao, tích lũy nhiều tri thức về điện tử, kĩ thuật điều khiển, cơ học vật rắn, cơ học chất lưu, động lực, hóa học… nhưng ban đầu Trung Quốc chưa có khả năng tự lực được. Vì vậy, để đạt tham vọng xây dựng ngành Công nghiệp hàng không đẳng cấp toàn cầu, Trung Quốc đã tiến hành mua lại các sản phẩm từ nước ngoài, rồi sử dụng phương pháp thiết kế ngược để “sao chép” hoặc đánh cắp công nghệ nhằm phát triển ngành Công nghiệp hàng không của họ… Cách làm này giúp Trung Quốc bỏ qua giai đoạn R&D tốn kém thời gian và tiền bạc mà vẫn cho ra đời nhiều loại máy bay chiến đấu, phương tiện tiến công đường không các loại. Ngành Công nghiệp hàng không Trung Quốc đã cung cấp cho lực lượng Không quân và Không quân hải quân Trung Quốc hàng nghìn máy bay, trực thăng các loại, trong có cả máy bay chiến đấu thế hệ 5.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục 2, đến hết năm 2018, Không quân Trung Quốc có:

- 160 máy bay ném bom H6/H6A/E/F/H/K/M phát triển từ Tu-16 của Nga.

- 956 máy bay cường kích: J-13 (Su-30MKK), J-11B/BS, JH-7/JH-7A, J-7, JL-6; Q-5/D/E.

- 1.379 máy bay tiêm kích: J-11 (Su-27SK), J-20, J-16, J-10/A/S, J-8/A/B/D/F/H, J-7/B/C/D/E/G/H (MiG-21).

- 270 máy bay trinh sát: JZ-6 (MiG-19R), Y-8H/B/C/G/X.

- 20 máy bay trinh sát không người lái: GJ-1, WZ-200.

- 14 máy bay chỉ huy cảnh báo sớm: KJ-200, KJ-500, KJ-2000.

- 17 máy bay tác chiến điện tử: Y-8D/G.

- 18 máy bay tiếp dầu: H-6U, IL-78M

- 290 máy bay vận tải: CL-601, Y-11, Y-12, Y-20, Y-5, Y-7/H, Y-8, Y-9.

Không quân hải quân có:

- 19 máy bay chiến đấu trên tàu sân bay J-15/S.

- 144 máy bay ném bom, rải lôi: H-5, H-6/D/J…

- 144 máy bay cường kích: Q-5, JH-7…

- 396 máy bay tiêm kích: FBC-1, J-7, J-8B/D/F/I, J-10AH/SH, J-11B/S, J-16.

- 38 máy bay trinh sát, tuần tra chống ngầm: Sh-5, HZ-5, Y-8J/JB/X/W, Y-(JB.

- 5 máy bay tiếp dầu HY-6.

- 30 máy bay không người lái: BZK-005, EA-03, ASN-209 và gần 200 máy bay huấn luyện, trực thăng các loại.

Để đạt được số lượng lớn như trên, Trung Quốc đã không tiếc tiền của mua sắm máy bay từ các quốc gia khác, chủ yếu là Liên Xô/Nga để tiếp cận, đánh cắp công nghệ phục vụ phát triển các dòng máy bay của Trung Quốc.

Máy bay tiêm kích

Từ đầu những năm 1960, Liên Xô đã cấp giấy phép sản xuất MiG-17 tại Trung Quốc. Chiếc MiG-17F đầu tiên được lắp ráp tại Nhà máy Thẩm Dương, sau đó phiên bản do Trung Quốc chế tạo gọi là J-5 (máy bay tiêm kích thế hệ 1).

1660304851901.png

1660304895042.png

J-5

Từ năm 1992, Trung Quốc đã nhập khẩu máy bay tiêm kích thế hệ thứ 4+ Su-27 Flanker do Nga chế tạo; tiếp sau thương vụ này là thỏa thuận cho phép Trung Quốc chế tạo theo giấy phép máy bay Su-27 (gọi là J-11) tại Tập đoàn Công nghiệp máy bay Thẩm Dương. Sau đó, Trung Quốc đã tự ý ngưng hợp đồng và sử dụng phương pháp thiết kế ngược để từ năm 2007, triển khai sản xuất loạt trái phép J-11В. J-11B sử dụng động cơ do Nga cung cấp nhưng thiết bị điện tử hàng không hoàn toàn của Trung Quốc.

1660305067313.png

1660304983070.png

1660305003609.png

1660305116054.png

J-11B

Tiêm kích hạng nhẹ của không quân Trung Quốc là J-10 được đánh giá là cùng loại với máy bay F-16C do Mỹ hợp tác với Ixraen chế tạo trên cơ sở máy bay Lavi của Ixraen (thiết kế bị bỏ dở, phát triển dựa trên F-16 của Mỹ), nhưng với nhiều linh kiện của Nga. Ngoài ra, vào đầu thế kỷ ХХI, Trung Quốc đã mua của Nga Su-30MKK, Su-30MK2 (cho không quân hải quân), sau đó năm 2012, họ đã bắt đầu sản xuất trái phép J-16.

1660305232886.png

1660305158500.png

1660305213519.png

J-10

Hiện nay, J-10 và J-11 tạo thành xương sống của lực lượng Không quân Trung Quốc. Năm 2003, trên cơ sở J-10 Trung Quốc đã nâng cấp lên cấu hình J-10C mới nhất, với việc bổ sung rađa mạng pha quét điện tử chủ động (AESA), tên lửa không đối không PL-10 và PL-15. Tuy nhiên máy bay chiến đấu đa năng J-10 vẫn được trang bị động cơ AL-31FN của Nga.

1660305309798.png

1660305323875.png

1660305348963.png

1660305398746.png

J-16

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay ném bom

Năm 1958, Liên Xô đã chuyển giao cho Trung Quốc máy bay ném bom phản lực tốc độ cận âm 2 động cơ Tu-16 và Tập đoàn Công nghiệp máy bay Tây An đã ký hợp đồng thỏa thuận với Liên Xô để nhận được giấy phép sản xuất loại máy bay này. Chiếc Tu-16 đầu tiên do Trung Quốc sản xuất mang tên H-6, bay lần đầu vào năm 1959. Công việc nội địa hóa H-6 hoàn tất vào năm 1968.

1660404030476.png

1660404056189.png

1660405878143.png

Máy bay Tu-16

Sau này Trung Quốc liên tục hiện đại hóa H-6 với các phiên bản máy bay ném bom tầm trung khác nhau, như: H-6A ném bom hạt nhân; H-6E ném bom hạt nhân chiến lược; H-6D ném bom, mang tên lửa chống tàu; H-6H ném bom/mang tên lửa hành trình (TLHT) tiến công mặt đất; H-6U/H-6DU tiếp dầu trên không; H-6M mang tên lửa chiến lược.

1660405600680.png

Máy bay ném bom H-6

1660404274252.png

Máy bay ném bom H-6D

1660404321428.png

Máy bay ném bom H-6E

1660404417059.png

1660404390297.png

1660404433443.png

1660404450349.png

1660405824585.png

Máy bay ném bom H-6H

1660404571687.png

1660404621427.png

1660404673786.png

Máy bay ném bom H-6K


1660404194817.png

1660404497321.png

1660404529527.png

Máy bay ném bom H-6M

1660406034951.png

1660405666637.png

1660406124866.png

1660406156866.png

Máy bay ném bom H-6N

1660404851359.png

1660404368659.png

1660404338641.png

1660404926731.png

Máy bay tiếp dầu H-6U

1660404301955.png

1660404993195.png

1660405063358.png

Máy bay tiếp dầu H-6DU

Đáng chú ý nhất là vụ công dân Trung Quốc có tên Su Bin đã đánh cắp thiết kế máy bay F-22 Raptor, F-35 của Mỹ, sau đó chuyển về nước để Trung Quốc chế tạo tiêm kích thế hệ thứ 5 Chengdu J-20 và J-31. Nhìn bề ngoài J-20 trông giống F-22, còn J-31 tương tự F-35. Trung Quốc trở thành nước thứ hai sau Mỹ có hai loại máy bay chiến đấu thế hệ 5.

1660405149544.png

1660405169667.png

1660405218138.png

Chengdu J-20

1660405298437.png

1660405325432.png

1660405368279.png

Chengdu J-31

.............
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Máy bay chỉ huy/báo động sớm

Vào giữa thập niên 1990, Trung Quốc còn nỗ lực chế tạo máy bay báo động sớm với sự tham gia của các chuyên gia thiết kế nước ngoài. Năm 1997, Nga, Ixraen và Trung Quốc đã ký kết hợp đồng cùng phát triển, chế tạo và cung cấp cho Trung Quốc các máy bay chỉ huy/báo động sớm. Nhưng kế hoạch này đã không thể thực hiện được dưới áp lực của Mỹ.
Do đó, các máy bay chỉ huy/báo động sớm của Trung Quốc phải dựa trên cơ sở máy bay vận tải quân sự mà Nga cung cấp cho Trung Quốc. Ví dụ: máy bay chỉ huy/báo động trên không KJ-200 được phát triển dựa trên máy bay Y-8F-600 - biến thể mới nhất của máy bay vận tải Y-8. Y-8 là máy bay vận tải do Tập đoàn Máy bay Thiểm Tây sản xuất được cấp phép dựa trên máy bay vận tải quân sự An-12. Và ngày 14.1.2005, máy bay chỉ huy/báo động trên không KJ-200 sản xuất loạt đầu tiên được cất cánh. Theo các chuyên gia nước ngoài, hiện nay, trong biên chế của Không quân Trung Quốc có không dưới 6 máy bay này.

1660534177700.png

1660534199177.png

1660534132185.png

KJ-200

Cuối năm 2007, 4 máy bay chỉ huy/báo động sớm KJ-2000 chính thức được đưa vào trang bị. Hiện chưa có nhiều thông tin về tính năng của máy bay này, nhưng theo các nguồn tin, máy bay có trọng lượng cất cánh là 175 tấn; có thể bay tuần tra ở độ cao 5 đến 10km, tốc độ tối đa 850km/h, tầm bay tối đa 5.500km, thời gian bay 12 giờ; cự li phát hiện các máy bay chiến đấu đến 470km, tên lửa đường đạn là 1.200km; có thể theo dõi đồng thời đến 100 mục tiêu.

1660534240043.png

1660534261846.png

1660534276568.png

KJ-2000

Giữa năm 2014, Trung Quốc đã đưa vào trang bị máy bay chỉ huy/báo động sớm hạng trung mới KJ-500 được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải Y-8F-400. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 15 máy bay chỉ huy/báo động sớm, hằng năm sản xuất mới 2 đến 3 máy bay loại này.

1660534311160.png

1660534327331.png

1660534340863.png

KJ-500

Tham vọng của Không quân Trung Quốc còn mở rộng sang cả UAV. Trung Quốc đã khuyến khích phát triển các chương trình UAV trong một thập kỷ qua và đã gặt hái được nhiều thành quả. Thậm chí, truyền thông phương Tây cho rằng, Trung Quốc có thể đã vượt Mỹ trong lĩnh vực UAV. Ví dụ, UAV tầm cao/tầm xa Soar Dragon, được phát triển từ năm 2011, là một trong những UAV lớn nhất của Trung Quốc, được ví như máy bay trinh sát không người lái RQ-4 Global Hawk của Mỹ. Soar Dragon có thời gian bay tới 10 giờ, bán kính do thám 2.000km, trần bay tối đa 18.000m, tải trọng khí tài lớn, cho phép nó thực hiện được nhiều nhiệm vụ, như: theo dõi, thu thập dữ liệu, tác chiến điện tử, trinh sát…

1660534378801.png

1660534428306.png

1660534681273.png

1660534694235.png

UAV tầm cao/tầm xa Soar Dragon
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
2,964
Động cơ
191,568 Mã lực
(Tiếp)

Máy bay trên tàu sân bay

Trung Quốc có không quân hải quân lớn thứ hai thế giới về số lượng và được trang bị các loại máy bay chiến đấu giống như trong không quân.

Máy bay tiêm kích hạm J-15 (được phát triển và chế tạo dựa trên máy bay Su-33 mua từ Ucraina và được thiết kế kĩ thuật rập khuôn/theo phương pháp thiết kế ngược). Hiện nay, 2 mẫu tiêm kích hạm J-15 đang thử nghiệm trên tàu sân bay Liêu Ninh.

1660562423038.png

1660562452014.png

1660562543136.png

1660562464932.png

Tiêm kích hạm J-15

Chiếc J-15 đầu tiên bay thử vào tháng 8 năm 2009, đến tháng 11 năm 2012, J-15 bắt đầu cất/hạ cánh trên tàu sân bay Liêu Ninh, ngay sau khi tàu sân bay này đưa vào trang bị. J-15 sử dụng 2 động cơ AL-31F của Nga, có 12 điểm treo vũ khí/tải công tác, tuy nhiên có những cải tiến hơn về thiết bị điện tử hàng không và vũ khí, khung máy bay được chế tạo bằng compôsít nhằm giảm khối lượng.
Tới nay, CNQP Trung Quốc đã sản xuất được khoảng 20 máy bay J-15, là thành phần nòng cốt của lực lượng Không quân hải quân Trung Quốc.

Một số mẫu máy bay thử nghiệm cũng đã được chế tạo, gồm mẫu 2 ghế lái (có ký hiệu J-15S), được dùng để huấn luyện; bay thử đầu tiên vào tháng 11 năm 2012. Mẫu máy bay này có thể được phát triển thành máy bay tác chiến điện tử (J-15D), tương tự như máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler của Hải quân Mỹ.

1660562769164.png

1660562790660.png

1660562666203.png

1660562828817.png

J-15S

Một phiên bản khác của J-15 đã xuất hiện vào tháng 7 năm 2016 có càng hạ cánh tương thích với hệ thống phóng điện từ để phù hợp với hệ thống phóng và hãm đà cho máy bay trên tàu sân bay tương lai của Trung Quốc.
Với năng lực hiện có, nhiều nhà phân tích cho rằng, công nghiệp hàng không Trung Quốc có khả năng sản xuất nhiều hơn nữa máy bay chiến đấu, vận tải và chuyên dụng... cho nhu cầu của Không quân nước họ.

b. Vũ trụ

Những năm gần đây, Trung Quốc rất chú trọng đầu tư nghiên cứu không gian vũ trụ và công nghệ vệ tinh. Đáng chú ý, hệ thống dẫn đường vệ tinh Bắc Đẩu với khoảng 35 vệ tinh (tương tự như hệ thống GPS của Mỹ và GLONASS của Nga), đã đánh dấu bước tiến mới của nước này trong lĩnh vực chinh phục không gian vũ trụ.

Không chỉ có hệ thống vệ tinh quan sát, Trung Quốc còn theo đuổi một chương trình rộng lớn và mạnh mẽ về khả năng đánh chặn trong vũ trụ, trong đó bao gồm tên lửa, hệ thống chống vệ tinh, mạng lưới thiết bị gây nhiễu và vũ khí năng lượng định hướng trên mặt đất. Từ năm 2005 đến nay, Bắc Kinh tiến hành ít nhất 8 vụ thử vũ khí trên vũ trụ. Tháng 1 năm 2007, Quân đội Trung Quốc đã sử dụng tên lửa di động, đa tầng bắn hạ một vệ tinh thời tiết cũ có tên Fengyun 1C (FY-1C) ở quỹ đạo thấp. Sau đó, Bắc Kinh tiếp tục phát triển tên lửa mới có định danh DN-3. Tên lửa này được thử nghiệm vào năm 2013 và có thể đạt đến độ cao 30.000km gần quỹ đạo địa tĩnh. Các lần bắn diễn ra trong năm 2010, 2013 và 2014 đều được “dán nhãn” thử nghiệm đánh chặn tên lửa trên đất liền. Năm 2016, Trung Quốc đã vượt lên trong cuộc chạy đua khi phóng thành công vệ tinh Mặc Tử vào quỹ đạo, có nhiệm vụ thiết lập đường thông tin, vô hiệu hóa tin tặc. Đây là vệ tinh lượng tử đầu tiên của Trung Quốc, giúp Trung Quốc có trong tay toàn bộ công nghệ về vệ tinh lượng tử, bệ phóng và tên lửa. Tờ Oasinhtơn Times (Mỹ) cho rằng, Trung Quốc phát triển vũ khí trên vũ trụ nhằm mục đích phá hoại hoặc gây nhiễu vệ tinh và hạn chế hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn thế giới.

1660563011564.png

1660563057722.png

Tên lửa DN-3

Trong giai đoạn hiện nay, Trung Quốc đang tích cực phát triển không gian vũ trụ nhằm phục vụ cả dân sự và quân sự và tìm cách kiểm soát Biển Đông. Ngành công nghiệp vũ trụ Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu, như: Kết nối thành công giữa tàu vũ trụ Thần Châu 9 và 10 với tàu vũ trụ Thiên Cung 1, giữa tàu vũ trụ Thần Châu 11 với tàu vũ trụ Thiên Cung 2; tàu vũ trụ Hằng Nga 3 đã lần đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng và cho xe tự hành thám hiểm; hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu 2 đã hoàn thành mọi công đoạn, chính thức cung cấp dịch vụ định vị cho khách hàng khu vực châu Á - Thái Bình Dương; phóng thành công và đưa vào sử dụng 6 vệ tinh trong hệ thống quan trắc Trái Đất với độ phân giải cao…

1660563266293.png

1660563305496.png

1660563351207.png

1660563390486.png

Trung Quốc phóng tàu vũ trụ bằng tên lửa đẩy CZ-5

Năm 2017, Trung Quốc đã tiến hành phóng tàu vũ trụ Thiên Châu 1 từ bãi phóng Văn Xương, tỉnh Hải Nam. Thiên Châu 1 là tàu vũ trụ chở hàng đóng kín hoàn toàn do Trung Quốc tự nghiên cứu chế tạo, trọng lượng cất cánh 13 tấn, có thể chở 6 tấn vật tư.
Ngày 08.12.2018, Trung Quốc đã phóng thành công tàu thám hiểm Hằng Nga 4 có nhiệm vụ khám phá Mặt Trăng, trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa tàu thăm dò lên khám phá vùng tối của Mặt Trăng.

Bắc Kinh cũng phóng thành công tàu Thường Nga 5, có trọng lượng 8,2 tấn; là tàu vũ trụ hiện đại nhất, phức tạp nhất do Trung Quốc nghiên cứu chế tạo cho đến nay. Thường Nga 5 lần đầu tiên tiến hành kết nối tự động trên quỹ đạo Mặt Trăng và cũng lần đầu tiên đưa mẫu đất từ Mặt Trăng về Trái Đất.
Có thể nói, công nghệ, tài liệu kĩ thuật nhận được từ Liên Xô/Nga và phương Tây đã tạo ra “cú nhảy vọt” về chất của công nghiệp hàng không Trung Quốc, đưa nó lên một trình độ phát triển mới. Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã vượt qua sự lạc hậu 30 năm trong lĩnh vực này.

1660563485174.png

1660563469433.png

1660563553914.png

Tàu Thường Nga 5

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

3. Vũ khí, trang bị phòng không

a. Tên lửa phòng không


Năm 1959, Trung Quốc được Nga viện trợ tổ hợp TLPK SA-75 Dvina, hiện đại nhất thời điểm lúc bấy giờ. Các tính năng chiến đấu cao của tổ hợp TLPK SA-75 đã thúc đẩy Ban lãnh đạo Trung Quốc mua giấy phép sản xuất SA-75 và các thỏa thuận đã nhanh chóng đạt được. Nhưng do những bất đồng Xô - Trung vào cuối thập niên 1950 đã dẫn tới sự đình chỉ thời gian dài hợp tác kĩ thuật quân sự trong đó có vũ khí, trang bị phòng không. Tuy nhiên, với những thứ đã có trong quá trình hợp tác, trên cơ sở tổ hợp TLPK SA-75, Trung Quốc tiến hành sản xuất tổ hợp TLPK đầu tiên của họ với tên gọi НQ-1 (HongQi-1) và đến năm 1965, Trung Quốc đã phát triển biến thể hiện đại hóa có tên НQ-2. Tổ hợp TLPK mới của Trung Quốc có tầm bắn lớn hơn, các tính năng cao hơn khi hoạt động trong điều kiện có chế áp điện tử. Tháng 7 năm 1967, biến thể đầu tiên của НQ-2 được đưa vào trang bị.

1660699944995.png

1660699958241.png

Tên lửa phòng không S-75 của Nga

1660699841058.png

1660699784987.png

1660699866556.png

Tên lửa phòng không НQ-2 (HongQi-2)

Vào đầu thập niên 1990, các tổ hợp TLPK tương tự SA-75 Dvina, S-75 Vonga đã lạc hậu, Bắc Kinh đã đàm phán với Matxcơva để mua các tổ hợp TLPK mới hơn, điển hình là tổ hợp TLPK S-300. Từ năm 1993 và liên tục đến những năm sau này, Nga đã cung cấp cho Trung Quốc các tổ hợp TLPK S-300PMU/PMU-1/ PMU-2… Sau khi có kinh nghiệm khai thác các tổ hợp TLPK S-300 với các phiên bản khác nhau, Trung Quốc đã muốn triển khai sản xuất theo giấy phép các hệ thống này ở trong nước. Tuy nhiên, với bài học “sản xuất chung” tiêm kích Su-27 và lo ngại mất “các công nghệ trọng yếu”, Ban lãnh đạo Nga đã không chấp nhận, nên Trung Quốc đã phải tự lực tiến hành phát triển tổ hợp TLPK mới. Trên cơ sở S-300 từ Nga, cũng như Patriot của Mỹ nhận được từ Ixraen, Trung Quốc đã chế tạo được tổ hợp TLPK nội địa HQ-9 và hiện đại hóa lên HQ-9A.

1660700050198.png

1660700117224.png

1660700131489.png

1660700143904.png

Tổ hợp TLPK nội địa HQ-9

HQ-9 có tầm bắn khoảng 125km, trần bắn từ 25m đến 18.000m, tầm tiêu diệt mục tiêu tên lửa đường đạn 7 đến 25km ở độ cao 2.000m đến 15.000m. Từ phiên bản đầu tiên, đến nay Trung Quốc đã cho ra đời nhiều phiên bản có tính năng ưu việt hơn HQ-9, như: HQ-9A/B/C; phiên bản trên tàu hải quân HHQ-9A; phiên bản diệt tên lửa đường đạn HQ-19. Phiên bản xuất khẩu của HQ-9 là FD-2000 cho Thổ Nhĩ Kì nhưng đã bị hủy bỏ do sức ép của Mỹ. Đồng thời, trên cơ sở tổ hợp TLPK Buk-M2, S-300P của Nga, Trung Quốc còn chế tạo tổ hợp TLPK tầm trung HQ-16.

1660700263066.png

1660700325291.png

1660700216442.png

1660700312589.png

Tổ hợp TLPK tầm trung HQ-16

HQ-16 có tầm bắn 40km, có thể tiêu diệt đồng thời 6 mục tiêu; có khả năng đối phó hiệu quả các cuộc tập kích ồ ạt của các phương tiện tiến công đường không trong điều kiện có chế áp điện tử cường độ cao. Bệ phóng tự hành được trang bị 4 đến 6 tên lửa để trong các ống phóng kín. Rađa của tổ hợp có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở cự ly 150km.

...................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

b. Rađa cảnh giới phòng không

Trung Quốc cũng rất chú ý phát triển và hoàn thiện các phương tiện kiểm soát tình hình trên không. Các trạm rađa “sao chép” các rađa Liên Xô thời thập niên 1950 đã lạc hậu và đang được thay thế nhanh chóng bằng các rađa mới.

Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đang có những tiến bộ nhảy vọt trong lĩnh vực rađa hàng không từ rađa quét cơ khí đến rađa quét mạng pha điện tử chủ động. Trong các chủng loại đài rađa do CNQP Trung Quốc sản xuất, đáng chú ý nhất là một số đài rađa sau:

Đài rađa sóng mét 2 tọa độ JY-27, có khả năng: phát hiện mục tiêu bay ở cự li 500km, thậm chí cả máy bay tàng hình.

1660794023039.png

1660794044326.png

1660794102857.png

1660795153555.png

Rađa sóng mét 2 tọa độ JY-27

Hay như rađa mạng pha Type 120 (xuất hiện trong cuộc diễu binh năm 2009), có khả năng phát hiện mục tiêu bay thấp rất tốt, đồng thời theo dõi 72 mục tiêu ở cự ly 200km. Trung Quốc đã triển khai 120 rađa này, kể cả trong thành phần các tổ hợp TLPK HQ-9, HQ-12 và HQ-16.

1660794150698.png

1660794189036.png

1660794197329.png

1660794207731.png

Rađa mạng pha Type 120

Ngoài các rađa mặt đất, Trung Quốc cũng ráo riết nghiên cứu chế tạo rađa cho máy bay chiến đấu, máy bay chỉ huy/báo động sớm.
Viện Nghiên cứu công nghệ điện tử Nam Kinh (NRIET) Trung Quốc đã thành công trong việc chế tạo rađa quét mảng pha điện tử dạng hình đĩa Type H/LJG-346 SAPAR trang bị cho máy bay chỉ huy/cảnh báo sớm trên không KJ-500, KJ-2000. Rađa H/LJG-346 SAPAR có công suất mạnh, đường kính anten lớn, sử dụng máy tính tốc độ cao và cung cấp bức tranh toàn cảnh về không phận ở khoảng cách khoảng 470km. Loại rađa này có thể bám theo, dò tìm hàng trăm mục tiêu trên không, trên mặt đất, trên biển liên tục với tốc độ nhanh và độ chính xác cao, có thể đo vẽ bản đồ; có thể chỉ huy, cảnh báo dẫn đường cho khoảng 100 máy bay chiến đấu; khoảng cách trinh sát phát hiện, độ phân biệt có thể ngang hàng với thế hệ rađa tiên tiến cùng loại của các nước khác trên thế giới.

1660794430240.png

1660794453852.png

1660794479625.png

1660794505640.png

Rađa quét mảng pha điện tử dạng hình đĩa Type H/LJG-346 SAPAR

Tại triển lãm Hàng không & Vũ trụ quốc tế Trung Quốc 2018 (China Airshow 2018) được tổ chức từ ngày 06.11.2018 đến ngày 11.11.2018, Tổng công ty Công nghiệp điện tử Trung Quốc giới thiệu ảnh và video rađa hàng không mạng pha quét điện tử chủ động KLJ-7 trang bị cho máy bay chỉ huy/cảnh báo sớm đường không; rađa mạng pha quét điện tử chủ động KLJ-7A trang bị cho các máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Với thành tựu này, Trung Quốc hoàn toàn tự chủ trang bị rađa tầm xa 3 tọa độ cho các máy bay chỉ huy/cảnh báo trên không của họ.

1660794618259.png

1660794643137.png

1660794671025.png

Rađa hàng không mạng pha quét điện tử chủ động KLJ-7

Giáo sư Cheng Hoon, Học viện Chỉ huy Không quân Trung Quốc khẳng định rằng KJ-500 với anten mạng pha chủ động có khả năng phát hiện không chỉ tất cả các máy bay thế hệ 4, mà trong một số điều kiện các máy bay thế hệ thứ 5 cũng không thể chạy thoát.
Việc chế tạo thành công và đưa vào sử dụng các loại rađa không chỉ đưa Trung Quốc bước lên con đường tự chủ về công nghệ, mà còn giúp họ tự tin bước lên con đường từ “lấy trên bộ làm chính” đến “kết hợp trên bộ-trên không” và cảnh báo sớm phòng không.

1660794889954.png

1660795048139.png

1660795113771.png

Rađa KLJ-7 lắp trên máy bay JF-17
.................
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

4. Vũ khí, trang bị hải quân

a. Tàu mặt nước


Tính đến năm 2018, CNQP Trung Quốc đã cung cấp cho Hải quân Trung Quốc 620 tàu chiến các loại, gồm: 39 tàu khu trục tên lửa, 54 tàu hộ vệ tên lửa, 279 tàu tên lửa, 248 tàu tuần tiễu trang bị pháo/tên lửa. Ngoài ra, còn có 166 tàu rải quét lôi, 196 tàu/xuồng đổ bộ, 238 tàu bảo đảm hậu cần… Riêng số tàu khu trục tên lửa lớp Lữ Dương I/II/II (Type - 052B/C/D) đã lên tới 21 tàu. Trong đó có 11 chiếc Type-052D được đặt biệt danh là tàu chiến "Aegis Trung Quốc” do có nhiều điểm tương đồng với các tàu khu trục lớp Arleigh Burke trong biên chế của Hải quân Mỹ.

1660903980874.png

1660903997566.png

1660904013899.png

Tàu khu trục tên lửa Type - 052B

1660904063424.png

1660904078348.png

1660904105378.png

Tàu khu trục tên lửa Type - 052D

Tàu Type-052D là thành phần quan trọng của biên đội tàu sân bay Trung Quốc và được cho là một trong những tàu chiến mạnh nhất thế giới. Tàu dài 157m, rộng 17m và có lượng giãn nước 7.500 tấn. Tàu được trang bị: 4 rađa mạng pha quét điện tử chủ động Type-346A để thực hiện nhiệm vụ cảnh giới phòng không, phát hiện mục tiêu xung quanh biên đội tàu chiến, đặc biệt là cụm tàu sân bay chiến đấu. Tàu có 64 ống phóng tên lửa thẳng đứng đa năng GJB 5860-2006 (giống Mk-41 của Mỹ), có thể phóng được tất cả các tên lửa trên tàu, như: TLPK tầm xa, đa kênh HHQ-9B (tương tự như S-300F của Nga), TLHT tiến công mặt đất DH-10 (tương tự Tomahawk của Mỹ). Tàu còn được trang bị 8 tên lửa chống tàu YJ-83, pháo chính cỡ nòng 100mm, hai hệ thống vũ khí phòng thủ cực gần (CIWS) Type-1130, 6 ngư lôi chống ngầm cùng 4 bệ phóng đạn phản lực có khả năng tiến công tàu ngầm ở khoảng cách 5km. Tàu cũng có bãi đáp và nhà chứa cho một trực thăng cỡ trung.

1660904563307.png

1660904903294.png

Tên lửa hành trình tiến công mặt đất DH-10/CJ-10

1660904886695.png

1660905049142.png

Tên lửa chống tàu YJ-83

1660905106650.png

1660905130092.png

1660905171282.png

Hệ thống phòng thủ tầm gần CIWS Type-1130

Hiện nay, các tập đoàn đóng tàu Nhà nước Trung Quốc đang đóng tàu khu trục hiện đại Type-055, có lượng giãn nước lớn hơn Type-052D. Tàu được trang bị rađa mạng pha quét điện tử chủ động; khoảng 112 đến 128 ống phóng thẳng đứng đa năng, có thể phóng được tất cả các tên lửa có trên tàu như: TLPK, TLHT… cùng 6 ống phóng ngư lôi có thể tiêu diệt tàu ngầm, đánh chặn ngư lôi của đối phương. Đặc biệt, tàu có hệ thống tác chiến điện tử, hệ thống quản lý chiến đấu, chỉ huy và kiểm soát… để làm nhiệm vụ chỉ huy và phòng không cho biên đội tàu sân bay. Type 055 là tàu khu trục mạnh thứ hai thế giới sau DDG-1000 (tàu lớp Zumwalt) của Hải quân Mỹ.

1660904286373.png

1660904296680.png

1660904306304.png

1660904332801.png

Tàu khu trục Type-055

Để hiện thực hóa tham vọng xây dựng lực lượng “hải quân biển xanh”, mở rộng khả năng tác chiến viễn chinh, Hải quân Trung Quốc còn được trang bị các tàu đổ bộ có khả năng mang máy bay cánh cố định. Hải quân Trung Quốc đã đưa vào trang bị 3 tàu đổ bộ lớp Ngọc Chiêu (Type-071), nâng tổng số lên 6 chiếc (tính đến năm 2018) trọng tải 17.000 đến 20.400 tấn, tầm hoạt động 10.000 hải lí. Mỗi tàu có khả năng chở 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ (khoảng 800 quân) được trang bị đầy đủ; 15 đến 20 xe bọc thép, 4 trực thăng Z-8 hoặc Z-18, 4 tàu đổ bộ đệm khí lớp Yuyi. Năm 2008, 3 tàu Type-071 đã được triển khai tham gia chiến dịch chống cướp biển tại vịnh Aden. Hải quân Trung Quốc có kế hoạch trang bị tới 8 tàu Type-071.

1660905367243.png

1660905256757.png

1660905297179.png

1660905281557.png

Tàu Type-071

..................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,003
Động cơ
655,176 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

b. Tàu ngầm

Tính hết năm 2018, Hải quân Trung Quốc được trang bị 66 tàu do các tập đoàn công nghiệp đóng tàu Trung Quốc sản xuất, trong đó có 9 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn. Đáng chú ý có 7 tàu ngầm hạt nhân lớp Thương (Type-093), theo dự kiến là trang bị 8 chiếc để thay thế tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân cũ lớp Hán (Type-091) và lớp Hạ (Type-092). Chiếc Type-093 đầu tiên được hạ thủy năm 2002 và đưa vào hoạt động năm 2006; 4 tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn (Type-094), lượng giãn nước 9.000 tấn, mỗi tàu được trang bị 12 đến 16 quả tên lửa đường đạn mang đầu đạn hạt nhân JL-2, có tầm bắn khoảng 7.000km. Hiện Trung Quốc đang sản xuất tàu ngầm hạt nhân Type-095 có tính năng tương đương với các tàu ngầm tiên tiến nhất hiện nay (lớp Los Angeles) của Mỹ.

1660991096852.png

1660991086115.png

1660991129510.png

Tàu ngầm hạt nhân lớp Thương (Type-093)

1660991191344.png

1660991217595.png

1660991345609.png

1660991290276.png

Tên lửa đường đạn mang đầu đạn hạt nhân JL-2


Ngoài ra, từ cuối những năm 1990 đến nay, ngành Công nghiệp đóng tàu của Trung Quốc đã cung cấp cho Hải quân Trung Quốc rất nhiều tàu ngầm điện-điêzen, trong đó phải kể đến 20 tàu ngầm lớp Minh (Type-035/035B,G), 17 tàu ngầm lớp Tống (Type-039/039A,G) và 4 chiếc lớp Nguyên (Type-40/41). Đây là những tàu ngầm đầu tiên do Trung Quốc đóng với đặc điểm thân tàu hiện đại, có khả năng mang TLHT chống tàu và đạn phản lực chống ngầm.

1660991381402.png

1660991416980.png

1660991709042.png

Tàu ngầm lớp Minh (Type-035/035B,G)

1660991748333.png

1660991763221.png

1660991791270.png

1660991819722.png

Tàu ngầm lớp Tống (Type-039/039A,G)


c. Tàu sân bay

Mối quan tâm về các tàu sân bay của Trung Quốc đã có từ những năm 1980, nhưng tham vọng này chỉ trở thành hiện thực khi họ mua được tàu sân bay Varyag cũ từ Ucraina vào năm 1998 và hoàn thiện nó trong khoảng thời gian từ năm 2002-2012 tại xưởng của Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Đại Liên. Tàu được đặt tên là Liêu Ninh (CV-16), hạ thủy đưa vào hoạt động ngày 26.9.2012, có lượng giãn nước 58.500 tấn, tốc độ 29 hải lí/giờ; mang được 26 máy bay J-15, 24 trực thăng.

1660991945829.png

1660991971053.png

1660991991876.png

1660992010026.png

Tàu sân bay Liêu Ninh

Tàu sân bay thứ hai của Trung Quốc, Type 001A (trị giá khoảng 7,2 tỉ USD), được đóng bởi Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Đại liên, hạ thủy vào ngày 26.4.2017 và tiến hành các đợt chạy thử trên biển. Về cơ bản là bản “sao chép” thiết kế của tàu sân bay Liêu Ninh, nhưng có lượng giãn nước lớn hơn (trên 70.000 tấn đủ tải). Tàu dài 315m, rộng 75m, thay hệ thống đà trượt máy bay bằng một góc boong nhỏ hơn cùng nhiều cải tiến khác, tốc độ 31 hải lý/giờ, nhà chứa máy bay lớn hơn, chứa được 32 đến 36 máy bay tiêm kích J-15 chưa kể trực thăng. Chiếc tàu này được biên chế vào năm 2020 sau khi hoàn tất việc lắp đặt vũ khí, trang bị và thử nghiệm trên biển. Cả 2 tàu sân bay trên đều hỗ trợ máy bay cất cánh theo kiểu “nhảy cầu”.

1660992086866.png

1660992210379.png

1660992121341.png

1660992167415.png

Tàu sân bay Type 001A

Hiện nay, Trung Quốc đang đóng tàu sân bay thứ 3 (Type-002), dự kiến biên chế vào năm 2023. Tàu sân bay thứ ba này có thể sử dụng động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, hỗ trợ máy bay cất cánh bằng máy phóng điện từ, giống tàu sân bay lớp G.Ford của Mỹ và nhiều công nghệ tiên tiến khác. Nó có thể mang được nhiều máy bay chiến đấu hơn, cho phép phóng các máy bay tiêm kích tàng hình như J-20, J-31; hoạt động dài ngày trên biển hơn tàu Type 001A. Với những tàu sân bay này, Hải quân Trung Quốc hy vọng có thể triển khai lực lượng ở bất cứ đâu trên đại dương.

1660992370242.png

1660992379316.png

1660992394363.png

1660992412700.png

1660992265733.png

Tàu sân bay Type 002

Tham vọng tàu sân bay của Trung Quốc đang được hiện thực hóa, giúp Trung Quốc sớm bắt kịp các nước phương Tây, và có thể vượt qua các nước láng giềng như Ấn Độ, Nga và Nhật Bản.

....................
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top