[Funland] quá trình nam tiến và mở cõi của Đại Việt

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Theo Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Trịnh Kiểm e sợ Nguyễn Hoàng mỗi ngày càng lớn, có lòng khoan hậu và chí lớn nên tìm cách ám hại. Bà Ngọc Bảo biết được, muốn cứu mạng em và cứu chồng khỏi tội sát nhân; bà khuyên chồng với lý do cho em trai ra trận và giữ vững vùng đất Thuận Quảng mới chiếm, Trịnh Kiểm đồng ý.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng và gia quyến cùng các tướng Nguyễn Ư Dĩ, Mạc Cảnh Huống, Văn Nham, Thạch Xuyên, Tường Lộc, Thường Trung, Vũ Thì Trung, Vũ Thì An và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh - Nghệ đi vào Thuận Hóa. Khi đến nơi, đoàn thuyền đã đi vào cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ Phủ gọi là dinh Ái Tử. Lưu Thủ Thuận Hóa Tống Phước Trị (quê ở Tống Sơn, Thanh Hóa) đã dâng nộp bản đổ, sổ sách trong xứ cho Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, và theo phò tá ông.
Mùa đông năm 1560, Nguyễn Hoàng cho đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải, do bấy giờ quân Mạc thường theo đường biến vào cướp Thanh Nghệ nên phải đề phòng[10]. Tháng 3 năm 1568, Tổng trấn Quảng Nam là Bùi Tá Hán mất. Vua Lê lấy Nguyễn Bá Quýnh làm tổng binh thay giữ đất ấy. Năm 1569, Nguyễn Hoàng ra Thanh Hóa yết kiến Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam, thay cho Quận Công Nguyễn Bá Quý‎nh. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 1 năm 1570, Nguyễn Hoàng từ Tây Đô về, dời dinh về làng Trà Bát, nằm gần Ái Tử, chếch về phía đông bắc (nay là hai làng Trà Liên Đông, Trà Liên Tây, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong). Gọi là Dinh Trà Bát.
Về hành chính, Thuận Hóa có 2 phủ, 9 huyện, 3 châu.
Phủ Tiên Bình lĩnh 3 huyện: Khang Lộc, Lệ Thủy, Minh Linh; 1 châu: Bố Chánh.
Phủ Triệu Phong lĩnh 6 huyện: Vũ Xương, Hải Lăng, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Điện Bàn; 2 châu: Thuận Bình, Sa Bồn.
Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện.
Phủ Thăng Hoa lĩnh 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang.
Phủ Hoài Nhân lĩnh 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.
Phủ Tư Nghĩa lĩnh 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang.
Trong giai đoạn đầu mở cõi Nguyễn Hoàng cực kỳ thông minh, ông thần phục chúa Trịnh ra bắc đánh nhà Mạc nộp thuế đầy đủ gả con gái đã gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh Tùng. Khiến cho chúa Trịnh yên tâm không nghi ngờ gì, Yên mặt bắc ông bắt đâfu quá trình tiến xuống phương nam.
Năm 1578, quân Chiêm Thành kéo đến đánh phá, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân tiến đến sông Đà Diễn, Hoa Anh đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa
Năm 1602, Nguyễn Hoàng cho lập dinh Thanh Chiêm (Quảng Nam) giao cho công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ. Cùng năm này, Chiêm Thành cử sứ sang thông hiếu. Năm 1604, Nguyễn Hoàng cho lập phủ Điện Bàn tách ra từ đất của phủ Triệu Phong của Xứ Thuận Hóa, lệ thuộc xứ Quảng Nam. Phủ Điện Bàn sát nhập với 3 phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa và phủ Hoài Nhơn để thành lập Dinh Quảng Nam. Phủ Điện Bàn quản 5 huyện: Tân Phúc, An Nông, Hòa Vang, Diên Khánh, Phú Châu.
Năm 1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm Pa nhanh chóng bị đánh bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm Pa phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa. Diện tích 2 xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45000 km.
Không rõ vào năm nào, hai gia tướng người Việt gốc Chăm của Tĩnh Công Nguyễn Kim là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng khi còn là một vùng đất vô chủ mà không một nước nào phản đối hay bảo lưu ( quần đảo Hoàng Sa)

Năm 1611 đất họ Nguyễn đã trải dài đến vùng cực nam Phú Yên
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Năm 1613, ông lâm bệnh nặng, cho gọi người con thứ 6 Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về kế vị và căn dặn:
Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía nam.
Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đờ
i.
Ông cũng nói với các cận thần lúc hấp hối bên giường bệnh:
Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp.
quá trình nam tiến đặt lên vai của vị chúa Nguyễn thứ hai NGuyễn Phúc Nguyên.
Khác với Nguyễn Hoàng. Nguyễn Phúc Nguyên không thần phục chúa Trịnh, ông tuyệt giao tuyên bố không nhận sắc phong và không nộp thuế đắp lũy thầy sửa sang quân đội chuẩn bị chiến tranh với họ Trịnh. người trước đó đã đánh bại nhà Mạc đóng đô ở Thăng Long.
do bận những cuộc đấu tranh với chúa Trịnh Nguyễn Phúc Nguyên quyết định hòa hoãn với phương nam. khác với cha ông là hòa bắc đánh nam thì ông dùng phương pháp thâm sâu hơn là hòa phương nam đánh phương bắc.
Ông đã tạo nên 1 nền ngoại thương hàng hải mạnh, với thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính không chỉ của Đàng Trong mà trên toàn khu vực tương đương với Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay. và đem con gái nuôi là Nguyễn Phúc Ngọc Hoa gã cho thương gia Nhật bản Araki Soutaro Nhật bản ở Nagasaki
để hòa được phương nam ông dùng chiêu mỹ nhân kế. đem 2 cô quận chúa là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn và NGuyễn Phúc Ngọc Khoa đóng vai trò của Huyền Trân trong cuộc hôn nhân đổi chác này.
Nếu như Huyền Trân chỉ có 2 châu ô Lý thì vai trò của 2 bà này cực kỳ lớn đặc biệt là quận chúa Nguyễn Phúc Ngọc Vạn người vừa làm hoàng hậu vừa làm thái hậu suốt 50 năm ở Chân Lạp nhưng đóng vai trò là gián điệp cực kỳ lợi hại trong quá trình nam tiến và cắt đất của chân lạp cho chúa NGuyễn.
hai bà quận chúa này là con gái của chính phi Mạc Thị Giai và là em ruột cùng cha cùng mẹ với chúa Nguyễn Phúc Lan là người có huyết thống của 2 nhà NGuyễn Mạc
 
Chỉnh sửa cuối:

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Nguyễn Phúc Ngọc Khoa bi kịch 1 quận chúa không có tên trong sách sử:
lúc này sau khi Nguyễn Hoàng thu phục được Hoa Anh thì đại việt đụng độ trực tiếp với panduranga tiểu quốc cuối cùng của Chiêm Thành nằm trên địa bàn từ Phan rang đến Bình thuận.
Nam Tiến, Chúa Sãi đã dùng chính sách hòa bình, thân thiện với Chiêm Thành và Cao Miên. Tuy tận cùng trong Nam đã có đồng minh nhưng từ Quảng Ngãi trở vào người dân Việt định cư ở đây thường bị người Chiêm Thành đem quân quấy phá, cướp bóc nên sống rất khổ sở, bấp bênh.
năm 1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong (không biết họ) liên kết vơi người Chiêm Thành nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Sãi Vương liền cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh, chồng của công chúa Ngọc Liên, đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.( Sãi Vương rất lo ngại nếu ở phía nam, Chiêm Thành mở cuộc chiến tranh chống chúa Nguyễn thì ông sẽ lâm vào tình trạng“lưỡng đầu thọ địch“
vào cuối thế kỷ 16, người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao, thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và Phan Rang.(9) Do đó, nếu triều đình Chiêm Thành liên kết với người Bồ Đào Nha để chống lại Đại Việt, thì thật là nguy hiểm chẳng những cho chúa Nguyễn và nguy hiểm cho cả nước ta. Điều nầy làm cho chúa Nguyễn lo ngại, nhất là khi Pô Ro mê là một người anh hùng, lên làm vua Chiêm Thành (trị vì 1627-1651)
để tránh trường hợp Chiêm Thành đâm sau lưng khi tiến hành những cuộc chiến đấu chống quân Trịnh. năm 1631 Nguyễn Phúc Nguyên gã con gái là quận chúa Nguyễn Phúc Ngọc Khoa đem gả cho Vua Chiêm Po Rômê mặc dù ông này có 2 bà hoàng hậu người Chăm trước đó. Qua cuộc hôn nhân này hiem thần phục Đại Việt không tiến hành xâm lấn quấy phá biên giới giúp Phúc Nguyên rảnh tay đánh chúa Trịnh.
không biết có sự trùng hợp gì hay không mà sau khi gả bà Ngọc Khoa cho vua Po roome thì sau năm 1639 thì cuộc giao thương giữa Chiêm Thành và người Bồ Đào Nha không còn được nghe nói đến nữa.
Trong sách Dân tộc Chàm lược sử, hai ông Dohamide và Dorohiem cho biết theo lời của một vị "Pô Thea", người phụ trách giữ tháp Pô Ro mê, kể cho tác giả E. Aymonier câu chuyện rằng vua Pô Ro mê có ba vợ. Bà vợ đầu là Bia Thanh Chih, con của vị vua tiền nhiệm đã truyền ngôi cho Pô Ro mê. Bà nầy không có con. Pô Ro mê cưới người vợ thứ nhì là một cô gái gốc Ra đê, tên là Bia Thanh Chanh. Bà nầy sinh được một công chúa, sau gả cho hoàng thân Phik Chơk. Hoàng thân Phik Chơk lại "liên kết với vua Yuôn [chỉ người Việt] và cho triều đình Huế rõ nhược điểm trong tâm tánh của Pô Ro mê: sự yếu đuối trước sắc đẹp mỹ nhân. Vua Yuôn đã cho một công chúa thật đẹp giả dạng làm khách thương sang nước Chàm. Do sự sắp xếp khéo léo, tin tức về nữ khách thương duyên dáng ngoại bang nầy đến tai Pô Ro mê, nên Pô Ro mê đã cho dời đến và khi vừa thấy mặt thì đã phải lòng ngay. Người Chàm gọi vị công chúa Yuôn nầy là Bia Ut hay Nữ Hoàng Ut cũng thế.
Theo truyền thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đã dùng sắc đẹp mê hoặc Pô Ro mê, khiến ông chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành, vì vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ.(13) Dân chúng Chàm thường truyền tụng câu đố: "Ô hay ngài linh thiêng, rước vợ từ kinh, lim ngài mất ứng."(Sanak jak po ginrơh patrai, tok kamei Ywơn mưrai kraik po lihik ginrơh)
bà Nguyễn Phúc Ngọc Khoa này thành công khi quyến rũ vua Po rô mê và cũng thành công khi ly gián hai bà hoàng hậu này khiến hai bà ghen tuông kích động nhau Ngọc Khoa càng được sủng ái thì mối oán hận của hai bà hoàng bị bỏ rơi càng chồng chất cao. Họ lợi dụng lòng mê tín của người Chiêm thêu dệt không biết bao nhiêu chuyện xấu mà theo họ, người Chiêm phải gánh chịu là do bà Ngọc Khoa. Hai bà này còn cho các tướng tá trung thành với mình, bất chấp mệnh lệnh Vua Chiêm tấn công biên giới phía Nam của nước Việt, cố ý gây xích mích giữa hai nước. Âm mưu thâm độc này quả đã có hiệu quả.
Năm 1651, Quốc vương Chiêm Thành Po Rome mất, Po Nraup lên làm Quốc vương kế vị. Theo sử Chăm, Po Nraup là em cùng mẹ khác cha của Po Rome còn gọi là Bà Thấm
Năm 1653, nhân cớ vua nước Chiêm Thành là Po Nraup sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền liền sai quan cai cơ là Hùng Lộc lãnh 3000 quân sang đánh. Quân đến Phú Yên, tiếp tục vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, nhân lúc đêm tối đánh thẳng vào thành, phóng lửa đánh gấp, cả phá được. Po Nraup trốn chạy. Po Nraup sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng. Chúa Hiền thuận y cho, lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) đặt làm 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh. Đặt dinh Thái Khang do Hùng Lộc trấn giữ. Phần phía Tây sông (vùng Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa, và bắt giữ lệ cống.
Người Chăm đổ hết tội lỗi nên bà quận chúa Việt số phận của Nguyễn Phúc Ngọc Khoa sau đó không rõ. có thuyết nói bà bị người Chăm hành hình bằng cách nhận đầu vào bùn có thuyết nói bà theo thương nhân người Việt trốn về đại Việt thành công.
bà Ngọc Khoa không được sách sử nhà Nguyễn ghi lại
Năm 1693, vua Champa Bà Tranh bỏ lệ triều cống, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi đánh, bắt được vua Champa, giải về Phú Xuân và sáp nhập phần đất còn lại của Champa vào Đàng Trong, đặt làm phủ Thuận Thành. Đến năm 1697, Quốc Chúa sáp nhập Phan Lý (Phan Rý nay) và Phan Lang (Phan Rang nay) làm Bình Thuận. Đến đây, nước Champa mất hẳn, lãnh thổ Đàng Trong mở rộng đến Bình Thuận. Người Chăm tồn tại với tư cách là 1 vương quốc tự trị trong lòng đại việt của chúa NGuyễn

Năm 1653 chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm được vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Nguyễn Phúc Ngọc vạn gián điệp xuất sắc của chúa NGuyễn
sơ lược về tình hình chân lạp trước khi bà Ngọc Vạn xuất hiện:
thế kỷ 10 dưới sự trị vì của vua jayavarman Chân Lạp là bá chủ khu vực nam bộ và bao trùm lãnh thổ thái lan Đế quốc Ăng kor rộng lớn bao trùm 1 lãnh thổ lớn gầ như cả khu vực Đông Dương và phần lớn lãnh thổ Thái lan
Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành. Trong thời gian này hùng cường nhất là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà vua xông pha trận mạc để lại nhiều võ công oai hùng. Ngài đã đụng trận với Trung Hoa, Ðại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường. Ngài đã chết tại sa trường một cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13. Trên thế giới lúc đó là thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Ðộ phía Tây, xâm chiếm Trung Hoa phía Bắc và phía Ðông hai vương quốc Ðại Việt và Chiêm Thành đang nắm tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không còn nô lệ nữa. Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401 vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hoá Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích). Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang lòng không không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Quốc sử Cao Miên đã chép như sau về giai đoạn này: ‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên đất Cao Miên, nên xua binh tấn công. Năm 1623, một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập lãnh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh đánh tan rã ở Bâribaur cách biển Hồ lối 50 km. Ðạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị Hoàng đệ Prah Outey đẩy lui. Năm sau, 1624 quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền duyên hải, bị phản công dữ dội phải rút về. Ðể đề phòng quân Xiêm quấy nhiễu, quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa xứ Ðàng Trong hầu dựa vào thế lực của nhà Nguyễn ở Huế.
nhận thấy cơ hội liên minh với Chân Lạp và cũng nhân cơ hội dòm ngó vùng đất trên con đường tiến xuống phương nam. Chúa NGuyễn chấp thuận liên minh này bằng 1 cuộc hôn nhân chính trị gã quận chúa Ngọc Vạn cho quốc vương Chey chetta. Chân Lạp từ đây đụng phải 1 kẻ thù mới lợi hại hơn thâm hiểm Xiêm La rất nhiều là Đại Việt. Vai trò của bà Ngọc Vạn chính thức bắt đầu:
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Vua Cao Miên mặt khác lại nghe truyền rằng Sãi Vương là người mộ đạo Phật, trong người có nhiều Phật tính nên muốn kết tình gia đình. Ði theo hộ tống đám cưới bà Hoàng Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Sãi Vương trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng lẫy hình chim phượng mạ vàng. Tham dự lễ cưới có nhiều người ngoại quốc từ Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ý Ðại Lợi, Trung Hoa. Bà Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả này, bà Hoàng Ngọc Vạn đã xin với Hoàng phu cho nhiều người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đình Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế. Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640).
Bà Ngọc Vạn lúc này quyền lực cực cao đóng vai trò là thái hậu nhiếp chính triều đình Chân Lạp.
Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân.
Nặc ông Chân lấy 1 người vợ là công chúa Mã lai theo Hồi Giáo. Nhà vua sau đó đã cưới một công chúa người Mã Lai theo đạo Hồi làm hoàng hậu và sau đó bỏ quốc giáo (Phật giáo Tiểu thừa) để cải sang đạo của vợ, lấy luôn vương hiệu theo Hồi giáo là Ibrahim.
Gia thoại kể rằng, Chan khi đi ngang tỉnh Sri Sa Jhar đã bắt gặp một thiếu nữ đạo Hồi vô cùng xinh đẹp là Neang Vas. Chan lập tức muốn lấy nàng làm vợ nhưng cha nàng là Tuon Zhe, một hậu duệ của hoàng gia Chămpa, nói rằng theo tục lệ, Chan phải theo đạo Hồi mới được lấy Neang Vas. Chan bỏ qua lời đó và bắt nàng về cung.
Tuy vậy, sau khi Neang Vas và gia đình nàng thuyết phục, Chan đã chấp nhập theo đạo Hồi, phong cho Neang Vas làm hoàng hậu và thay thế các quan lại người Khmer Phật giáo bằng các quan chức người Chăm, Malay Hồi giáo. Đặc biệt, Ibrahim còn thừa nhận Hồi giáo là quốc giáo.
Điều này cùng với việc cho người Mã Lai và người Chăm được nhiều ưu đãi, đã gây bất bình trong giới hoàng tộc và dân chúng Chân Lạp vốn hầu như hoàn toàn theo đạo Phật. Giới tăng lữ Phật giáo và những người dân chủ yếu theo đạo Phật đã giận dữ và căm ghét nhà vua bởi họ bị phân biệt đối xử, đạo Phật đã bị đạo Hồi thay thế làm quốc giáo. Ông bị người dân Khmer nguyền rủa là tên vua vô đạo.
Người Chân Lạp vốn theo Phật giáo tiểu thừa ăn thịt heo nay lại phải theo Hòi giáo cấm ăn thịt heo xem thịt heo là dơ bẩn gây xáo trộn toàn bộ Chân Lạp. Đám thân vương con của Prah Outey là Ang Sủ và Ang Tan quyết định chạy lại hỏi ý kiến bà thái hậu Ngọc Vạn người đang quy y trong chùa.
bà này ngay lập tức chỉ cho họ đường sáng là chạy sang cầu cứu cháu bà là chúa NGuyễn Phúc Tần xin được giúp đỡ. đám thân vương này ngay lập tức làm theo và chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần luôn sẳn lòng "giúp đỡ"
Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh Quảng Bình. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So (Ang Sur là con của giám quốc Prea Outey) lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai.
Năm 1672, vua Barom Reachea VIII bị một người vừa là rể vừa là cháu là Chey Chetta III giết chết, em là Ang Tan (Nặc Ông Tân) chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó Chey Chetta III cũng bị người của Nặc Ông Chân sát hại.
Ang Chei (Nặc Ông Đài, ở ngôi: 1673-1674) con trai đầu của vua Barom Reachea VIII lên ngôi. Ông Đài cho đắp thành lũy ở địa đầu Mỗi Xuy, nhờ Xiêm cứu viện để chống lại chúa Nguyễn.
Bị quân Xiêm đánh đuổi, Ang Tan cùng cháu là Ang Nan (Nặc Ông Nộn) chạy sang Sài Gòn kêu cứu chúa Nguyễn. Năm 1674, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Nguyễn Dương Lâm và Tham mưu Nguyễn Đình Phái chia quân làm hai cánh cùng tiến lên Chân Lạp. Nặc Ông Đài bỏ thành Nam Vang chạy vào rừng, để rồi bị thuộc hạ đâm chết.
Sau khi Nặc Ông Đài mất, người em là Nặc Ông Thu (Ang Sor) ra hàng. Để giải quyết tình trạng "nồi da xáo thịt" dai dẳng này, chúa Nguyễn cho Nặc Ông Thu làm Chính vương, đóng đô ở Phnom pênh (Nam Vang), cho Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị vương, đóng đô ở khu vực gò Cây Mai (thuộc Sài Côn, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh)…Tuy nhiên, hai phe vẫn không từ bỏ ý định loại trừ nhau.
Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn
Sau hơn 50 năm luôn phải tìm cách tồn tại trong chốn vàng son nhưng đẫm máu ấy, theo lời kể, thì Thái hậu Ngọc Vạn đã theo Nặc Ông Nộn về Sài Côn, rồi lui về sống ở Bà Rịa. Nơi đây, bà cho lập chùa Gia Lào (núi Chứa Chan, Đồng Nai), rồi ẩn tu cho đến hết đời. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
sau cái chết của hai bà Ngọc Khoa và Ngọc Vạn thì lãnh thổ chúa Nguyễn kiểm soát đã đến khu vực sài Côn ( Sài Gòn)


Lãnh thổ Đại Việt Năm 1679 sau khi Ngọc Vạn kết hôn cùng Chey chetta



Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành. Chỉ còn tồn tại Trấn Thuận Thành với tư cách là 1 vùng tự trị sau cái chết của hai bà Ngọc Khoa và Ngọc Vạn
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
vai trò của người Hoa trong công cuộc nam tiến:
Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu vì không chấp nhận quân Thanh triều đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần nhà Minh gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn.
Vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới Việt–Champa phía Nam còn dừng lại ở sông Phan Rang, cho nên chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho người đưa thư đến Ang Nan (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Sài Gòn và Ang Nan đã đồng ý. Vậy là, nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho) vì lúc này đất Biên Hòa Bến Nghé Sài Côn Mỹ Tho… trên danh nghĩa chỉ là đất mượn của Chân Lạp.
Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân[6] (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp. Khi đó, vùng đất này còn là rừng rú. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và phía Nam có thể ra biển Cần Giờ hay sang tận Cao Miên.
Cho nên một phần lớn nhóm người Hoa, đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố. Và cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định, tức Nam bộ ngày nay.
Từ sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo …
cùng bên cạnh đó Nhóm Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho cho dựng nhà cửa, họp người Kinh, người Di, kết thành làng xóm. Sau đó dựng 9 trường biệt nạp là Quy Ang, Duy Hoá, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Cạnh, Tân Thạch; cho dân lập ấp khai khẩn ruộng đất cày cấy lại lập thành trang trại, man, nậu, nhân dân đều theo nghề nghiệp của mình làm ăn để nộp thuế.
hong tục của Định Tường-Mỹ Tho cũng giống Gia Định, nhưng vật lực có hơn, cho nên cũng ham vui và thích chơi nhiều hơn. Phục sức xa xỉ cũng hơn., phụ nữ nuôi tằm, dệt vải cũng hơn, mà nhà nông cày cấy cũng hơn.
Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất vô cùng. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu nhập.
9 năm sau phó tướng của Hoàng Tiến là Dương Ngạn Địch giết ông này và cướp vị trí chủ tướng. Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Nhân cơ hội này Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó.
sau đó Năm 1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành quả này đạt được trong vòng 70 năm.
sự xuất hiện của Nguyễn Hữu Cảnh đánh dấu quyền kiể soát vùng đất đông nam bộ chính thức thuộc về Đại Việt. Từ đấy, Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có 2 ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ [của ta].
Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (Ang Saur, có sách ghi Nặc Ong Thu - Chey Chettha IV) đem quân tiến công Đại Việt. Trước đó, năm 1689, anh trai của Nguyễn Hữu Cảnh là Nguyễn Hữu Hào đã theo lệnh chúa Nguyễn đi bình định Nặc Thu nhưng không thành công.
Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh, cùng với Phó tướng Phạm Cẩm Long, Tham tướng Nguyễn Hữu Khánh đem quân lính, thuyền chiến hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Và thủy binh của Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu.
Sau khi vua Chân Lạp qui hàng, Nguyễn Hữu Cảnh cho thuyền ghé lại thăm nom, khích lệ dân chúng, dù Khmer, Hoa hay Việt, hãy cùng nhau gìn giữ tinh thần thân thiện, tắt lửa tối đèn có nhau. Những hành động khoan hòa, thiết thực, những cử chỉ ưu ái thật lòng của ông đã làm cho đồng bào vô cùng cảm mến.
Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sử cũ gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc, sau dân địa phương nhớ ơn ông, nên gọi là Cù lao Ông Chưởng.
đến 1700 gần như trọn vẹn đất đông nam bộ và 1 phần nam bộ đã thuộc quyền quản lý của Đại việt

Lãnh thổ Đại Việt năm 1708 khai phá đến vùng đất Hà Tiên – Kiên Giang ngày nay
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mặc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Ngoài ra còn có người Ấn Ðộ, người Nam Ðảo, người Kinh, người Thái, người Cao Miên đến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cử đặt tên vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối không thể giúp gì cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình. Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thành Hà Tiên Trấn với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn. Mạc Cửu chết con là mạc Thiên tứ thay thế cai quản Hà Tiên
Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên

Từ 1736 – 1739 Lãnh thổ Việt Nam mở rộng đến tận mũi Cà Mau như ngày nay
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000 người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người. Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai Ðội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho dâng hai phủ Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội. Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758. Dòng họ vua Cao Miêntranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn làm vua nên được tặng Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
Quá trình nam tiến chính thức kết thúc

bản đồ lãnh thổ Việt Nam vào năm 1757
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Theo Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Trịnh Kiểm e sợ Nguyễn Hoàng mỗi ngày càng lớn, có lòng khoan hậu và chí lớn nên tìm cách ám hại. Bà Ngọc Bảo biết được, muốn cứu mạng em và cứu chồng khỏi tội sát nhân; bà khuyên chồng với lý do cho em trai ra trận và giữ vững vùng đất Thuận Quảng mới chiếm, Trịnh Kiểm đồng ý.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng và gia quyến cùng các tướng Nguyễn Ư Dĩ, Mạc Cảnh Huống, Văn Nham, Thạch Xuyên, Tường Lộc, Thường Trung, Vũ Thì Trung, Vũ Thì An và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh - Nghệ đi vào Thuận Hóa. Khi đến nơi, đoàn thuyền đã đi vào cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ Phủ gọi là dinh Ái Tử. Lưu Thủ Thuận Hóa Tống Phước Trị (quê ở Tống Sơn, Thanh Hóa) đã dâng nộp bản đổ, sổ sách trong xứ cho Đoan Quận Công và theo phò tá ông.
Cái đoạn Trịnh Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng là hoàn toàn bịa đặt nhé. Để bữa nào tôi làm cái top "Vì sao Gia Long không quật mồ Trịnh Kiểm" cho mà xem. Tóm tắt là Trịnh Kiểm rất hết lòng nâng đỡ em rể Nguyễn Hoàng, Trịnh bỏ công ra chiếm được Thuận Hóa rồi xin vua cho Nguyễn làm Trấn thủ ở tuyến sau an toàn, xa lánh trận mạc, toàn quyền hơn trấn thủ cũ, lại cho phép người dân và lính đi theo và cho Trấn thủ Thuận Hóa cũ ở lại giúp. Một thời gian sau lại phong thêm cho đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng sau đó có ra Bắc ở với Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng vài lần hàng 7-8 năm trời chả sợ ai hãm hại cả.​

Đáp lại ơn đó sử nhà Nguyễn sau này chế diễu Trịnh Kiểm thuở nhỏ bắt trộm gà hàng xóm, may mà táng mả mẹ đúng huyệt nên mới phất, lại bịa ra chuyện Trịnh Kiểm hãm hại
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Cái đoạn Trịnh Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng là hoàn toàn bịa đặt nhé. Để bữa nào tôi làm cái top "Vì sao Gia Long không quật mồ Trịnh Kiểm" cho mà xem. Tóm tắt là Trịnh Kiểm rất hết lòng nâng đỡ em rể Nguyễn Hoàng, Trịnh bỏ công ra chiếm được Thuận Hóa rồi xin vua cho Nguyễn làm Trấn thủ ở tuyến sau an toàn, xa lánh trận mạc, toàn quyền hơn trấn thủ cũ, lại cho phép người dân và lính đi theo và cho Trấn thủ Thuận Hóa cũ ở lại giúp. Một thời gian sau lại phong thêm cho đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng sau đó có ra Bắc ở với Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng vài lần hàng 7-8 năm trời chả sợ ai hãm hại cả.​

Đáp lại ơn đó sử nhà Nguyễn sau này chế diễu Trịnh Kiểm thuở nhỏ bắt trộm gà hàng xóm, may mà táng mả mẹ đúng huyệt nên mới phất, lại bịa ra chuyện Trịnh Kiểm hãm hại
Trịnh Kiểm trộm gà là gia phả họ Trịnh có ghi lại, Gia Long ra bắc đọc gia phả họ Trịnh xong khen ngợi bảo là chuyện xấu của tiền nhân mà cũng ghi chép trung thực.
Nguyễn Hoàng sợ là nếu ông ta ở lại khả năng bị hại là có vì Kiểm đã giết Nguyễn Uông anh NGuyễn Hoàng. Hoàng mà ở lại thì chướng mắt mà Kiểm cũng sẽ đề phòng vì dù sao cơ nghiệp cũng do cha Hoàng tạo ra mà Hoàng thì cực giỏi không kém gì Kiểm
cho nên Hoàng đi, đất Thuận Quảng này nhà Mạc không quản được vì thủy quân vào nam không có do phụ thuộc gió hơn nửa Hoàng đánh bại Mạc Lập Bạo mới có đất này.
Hoàng sau này yên tâm ra bắc vì cả hai đều có cơ nghiệp riêng, Kiểm không có cơ hội giết lúc ra bắc Tùng có nghi ngờ:
Năm 1593, sau khi Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) lấy lại thành Thăng Long, ông đem quân ra Bắc giúp Lê-Trịnh tiểu trừ dư đảng họ Mạc, được phong Trung quân Đô đốc phủ đô đốc, chưởng phủ sự, Thái uý Đoan Quốc công. Sau đó, Trịnh Tùng có ý nghi ngờ nên giữ ông ở lại đất Bắc 7 năm (1593-1600) để kiềm chế và tìm cách thu hồi Thuận-Quảng.

Năm 1600, mượn cớ nhóm Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê nổi loạn chống triều đình, để thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Tùng, sau khi để con thứ 5 là Hải và cháu là Hắc ở lại làm con tin, đồng thời gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con trai Trịnh Tùng), ông bí mật rút quân vào Thuận Quảng và cho tăng cường đồn luỹ, tổ chức hành chính, mộ dân khai hoang, phát triển ngoại thương, xây dựng các công trình kiến trúc tôn giáo, mở mang bờ cõi, mưu sự lâu dài.
để thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Tùng, Nguyễn Hoàng bí mật cho người nổi loạn chống chúa Trịnh. Sau khi để lại con, cháu làm con tin và gả con cho họ Trịnh, Nguyễn Hoàng bí mật rút quân bản bộ vào Thuận Hoá chuẩn bị mưu sự lâu dài. Điều này đã được sử sách xác nhận: "Bây giờ thái uý Đoan quốc công Nguyễn Hoàng ngầm sai (chúng tôi nhấn mạnh) bọn Kế quận công Phan Ngạn, Tráng quận công Ngô Đình Nga, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê mưu làm phản. Bình An vương cùng các quan đương bàn việc đánh dẹp. Hoàng muốn cho kế của mình được trôi chảy, giả vờ xin đem quân đi đuổi đánh, rồi đốt hết doanh trại, trốn về Thuận Hoá
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Vị trí của nước Thủy Xá và Hỏa Xá căn cứ Mộc bản nhà Nguyễn

Theo Mộc bản sách Đại Nam thực lục thì nước Thủy Xá và Hỏa Xá xưa gọi là Nam Bàn, là dòng dõi Chiêm Thành, Lê Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, lập cho con cháu vua nước ấy gọi là nước Nam Bàn, ở phía tây núi Thạch Bi, cắt đất từ núi Thạch Bi trở về phía Tây ban cho. Nước có độ hơn 50 thôn, trong nước có núi Bà Nam rất cao, Thủy vương ở phía Đông núi, Hỏa vương ở phía Tây núi. Bản triều ta thời sơ quốc cho là địa giới giáp Phú Yên, nên 5 năm một lần sai người đến nước đó ban cho các phẩm vật.

Tháng 4 năm 1840, vua Minh Mạng sai người đi xem xét bờ cõi, núi sông của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá. Trấn Tây dâng sớ tâu: Hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá ở gần nhau, nếu đi từ phía Đông huyện Sơn Bốc, trải qua 15 hôm mới đến chỗ Quốc trưởng nước Thủy Xá ở. Đất ấy phía Đông giáp nước Hỏa Xá, phía Tây giáp huyện Sơn Bốc, phía Nam giáp man Đen Đen, phía Bắc giáp man Lai. Chỗ ở ba mặt có núi ngăn trở, một mặt là cánh đồng rộng, trong có nhà dân ước 100 nóc. Còn Quốc trưởng nước Hỏa Xá thì ở cách Thủy Xá ước độ 3 ngày. Đất của Hỏa Xá toàn là cánh đồng rộng, không có núi sông hiểm trở.

Huyện úy Sơn Bốc tên là Liệt lại tâu: Đường đi từ huyện Sơn Bốc đến chỗ ở của Quốc trưởng Thủy Xá ước 6 ngày đường, cách chỗ ở của Quốc trưởng Hỏa Xá ước 2 ngày đường. Đất của Thủy Xá phía Đông giáp Hỏa Xá, phía Tây giáp Man Phủ Nôn và tiếp giáp các huyện: Sơn Phủ, Sơn Bốc, Quế Lâm, phía Nam và phía Bắc tiếp giáp các Lạc man không rõ đến tận đâu. Nơi ấy dẫu nhiều núi khe nhưng cũng thấp nhỏ, không rõ hình thể to lớn thế nào.

Vua lại ban dụ cho người đi dò xét lần nữa thì đến tháng 12, Suất đội Nguyễn Văn Quyền của thuộc trấn Phú Yên tâu: Đất nước Thủy Xá, phía Tây giáp nước Hỏa Xá, phía Đông giáp đồn Phúc Sơn thuộc tỉnh hạt Phú Yên và giáp thuế Man ở Thạch Thành, phía Bắc giáp hoang Man ở Bình Định. Còn đất Hỏa Xá, phía Nam và Bắc đều giáp Lạc man. Giao giới của Thủy Xá và Hỏa Xá là hai quả núi đứng cao, địa thế như nóc nhà.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Đời sống văn hóa của Thủy Xá và Hỏa Xá

Theo Mộc bản sách Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập thì đời sống văn hóa của Thủy Xá và Hỏa Xá gần giống nhau. Rượu thì đổ lẫn với nước lã cho vào cái chum, lấy ống trúc hút vào uống. Trong nước không đặt quan chức, cũng không bắt lính đặt hình pháp. Dân không biết chữ, có vay mượn thì lấy dây thắt nút để ghi nhớ; cách sinh nhai thì chặt cây đào đất trồng cấy, không có cày bừa. Hàng năm không có nộp tô nộp thuế, Quốc trưởng cũng không trách thu. Khi Quốc trưởng muốn đi chơi, chỗ gần thì người đi theo độ 3, 4 người, chỗ xa cũng chẳng qua hơn 10 người, cưỡi 3 thớt voi, lấy nón lá che đầu, không có dù lọng.

Về phong tục của Thủy Xá và Hỏa Xá, khi trai gái bằng lòng nhau, thì bên trai đưa đủ trâu rượu đến nhà gái, mời dân sở tại đến họp, thế là thành hôn. Đại ước ra ở riêng thì ít, đi gửi rể thì nhiều. Khi chết không quan quách, chỉ đặt lên trên giường. Họ hàng đến thăm, khóc viếng, mỗi người lấy một nắm cơm nhỏ nhét vào miệng người chết. Cơm nhét vào mồm đã đầy rồi, người sau đến lấy tay móc cơm cũ ra, cho cơm mới vào. Đủ ba ngày thì đưa thây và giường đi, đào huyệt chôn, đắp thành nấm làm lễ cúng rồi về. Con cháu áo mặc vẫn như thường, chỉ có trong 3 tháng phải xõa tóc, gặp ngày giỗ cũng đem phẩm vật ra cúng ở mộ.

Phong tục của hai nước nói là đêm không nói là ngày, cứ thóc chín là 1 năm, không nói đến năm. Quan gọi là Lung, sứ giả không dám xưng là Lung, nên gọi là Ma.

Về âm nhạc thì dùng 5 chiếc chiêng đồng lớn và nhỏ, 1 chiếc thanh la đồng, 1 chiếc trống, việc hiếu hỷ đều dùng cả.

Tương truyền Thủy Xá có 2 khối đá và 1 đoạn roi mây, Hỏa Xá có 1 chiếc dao ngắn, được xem là vật rất thiêng đời đời truyền lại cho nhau, không rõ linh nghiệm thế nào mà không cho người khác đến gần để xem. Dân có ốm đau thì đem lễ vật nhỏ mọn đến cầu khấn là khỏi, người người đều cho là thần. Mọi người khi đến đền cúi lạy không dám trông thẳng, vì cớ là tục dân trọng việc quỷ thần.

Hai Quốc trưởng của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá chưa từng gặp nhau bao giờ, vì nếu gặp nhau thì có một người chết. Quốc trưởng tuổi già thì truyền cho cháu gọi bằng chú bác, chứ không truyền cho con.

Thủy Xá và Hỏa Xá dẫu có quốc trưởng, nhưng không có quân lính, thành quách, tự cày lấy mà ăn, tự dệt lấy mà mặc, không khác gì các sách trưởng. Chỉ có nêu tiếng thần thánh để nương nhờ, được mọi người tôn lên, dân Man phụng thờ như bậc thần linh mà thôi. Còn quyền sinh sát, việc tranh đấu đều do ở sách trưởng tự chuyên, Quốc trưởng không dự đến. Tương truyền khi mưa dầm mà cầu đảo thì mưa, nên gọi là Thủy vương. Chỗ ở của Quốc trưởng Hỏa Xá 3 mặt đều núi, một mặt cách đồng rộng, dân cư ước độ hơn trăm nóc nhà, gian giữa đặt cái giường tre, hai bên cắm dù lọng, chiêng trống treo ở giá, bên tả để 1 cái đồng hồ lớn, 1 cái bình đất, 2 cái bành voi bành bò, 1 cái hộp sơn khảm xà cừ, 2 cái mâm bồng sơn. Quốc trưởng Hỏa Xá người hơn 70 tuổi, đầu bịt khăn vải trắng, mình mặc áo vải trắng, dưới mặc quần vải hở cả đùi và đầu gối.

Ở giữa có một cái nhà sàn, Quốc trưởng ngồi giường bằng tre, mặc áo màu vàng thêu đầy hoa, đội khăn nhiễu màu xanh, mặc quần vải trắng; bên tả hai cái nhà sàn thờ cúng thần kỳ. Khi Quốc trưởng sai khiến làm việc, chỉ dùng người thân, không có binh giáp. Nước có việc thì họp dân làm binh, mang dao, vác nỏ, không việc thì giải tán về ruộng làng. Trị nước không có pháp luật hình phạt. Phàm thuộc man trái lệnh thì Quốc trưởng trù ếm cho dịch lệ và hỏa tai rất ứng nghiệm, cho nên dân man sợ như thần, dân có thịt rượu dâng Quốc trưởng thì đánh chiêng đánh trống, tay múa, chân nhảy làm lễ thờ vua. Phong tục tin ma quỷ, có đau ốm thì chỉ biết cầu đảo mà thôi. Tính quen nắng, giỏi bắn cung, dân cư nhiều mà gạo thì ít, họ khai khẩn núi rừng, chỉ trồng khoai, ngô, bông sợi, dưa bí để đổi chác cho người buôn.

Khi vua Minh Mạng sai sứ đến hai nước ấy tặng phẩm vật, thì Quốc trưởng hai nước ấy đều họp dân Man lại khoảng vài chục người, mổ một con trâu. Sứ thay phiên vương cúng thần, cầu khẩn. Cúng xong, Quốc trưởng đem thịt trâu cho mỗi người 1 bát rồi nói rằng: Không ăn thì có sự đau ốm. Khi sứ về, hai Quốc trưởng gửi Phiên vương gạo nếp và vừng mỗi loại đều 2 bầu và sáp ong đều 1 phiến. Quốc trưởng lấy phiến sáp ấy hơ lửa rồi in bàn tay lên trên, dặn rằng nếu gặp gió to, mưa lớn, nắng dữ, hoặc binh đao, tật bệnh, thì lấy miếng sáp ấy đốt làm 2 cây đèn, kêu cầu Thủy vương (vua Nước), Hỏa vương (vua Lửa) cùng phù hộ, rồi lấy gạo, vừng ấy đều 1 nhúm ném tản mát các nơi, thì đều được thỏa nguyện.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Từ năm 1830-1834, vua Minh Mạng cho sáp nhập các vùng đất của các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên, ngày nay nhưng Vua vẫn cho 2 quốc vương thủy xá hỏa xá này hưởng quy chế tự trị
Mối bang giao giữa triều Nguyễn và hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá

Bản triều ta buổi đầu cho là địa giới của Thủy Xá và Hỏa giáp Phú Yên, nên 5 năm một lần sai người tới nước đó cho các phẩm vật như áo mũ gấm, nồi đồng, xanh đồng và đồ sứ như chén dĩa. Hai nước được ban phẩm vật liền mang các vật phẩm của địa phương như kỳ nam, sáp vàng, lộc nhung, mật gấu và voi đực sang dâng.

Năm Tân Mùi, Thế Tông Hoàng đế năm thứ 13 (1751), hai nước đến cống, vua hậu đãi rồi cho về. Về sau họ cứ theo lệ thường, đến cống. Tới khi có loạn Tây Sơn, hai nước không đến cống nữa. Đầu năm Gia Long, sứ hai nước đến Phú Yên nộp lễ vật, vua thết đãi sứ giả rồi cho về.

Minh Mạng năm đầu, Quốc trưởng Thủy Xá là Ma Ất sai sứ mang các vật đã được ban cho là đồng thau, sáp vàng làm tin, tới bảo Phúc Sơn, trấn Phú Yên, nộp lễ vật xin cống. Năm Nhâm Ngọ, Minh Mạng thứ 3 (1822), Ma Ất chết, việc sang cống không làm xong. Năm Quý Mùi, Minh Mạng thứ 4 (1823), người trong nước suy tôn em của Ma Ất là Ma Mú lên làm vua, Ma Mú cố từ chối, chỉ tạm thay làm việc nước. Ma Mú lại sai sứ xin cống nhưng chưa đi thì Ma Mú chết, em Ma Mú là Ma Lam nối dựng, thường muốn sang thông hiếu nhưng không tìm được người để sai đi sứ.

Tháng 3 năm Kỷ Sửu, năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Thánh Tổ Nhân Hoàng đế cho rằng nước ấy không đưa lễ cống, nên sai Suất đội ở thuộc trấn là Nguyễn Văn Quyền đến dò xét tình hình. Khi Nguyễn Văn Quyền đến, Ma Lam rất mừng, tỏ bày hết tình hình, rồi sai bọn thuộc hạ là Ma Diên, Ma Xuân đem một chiếc ngà voi theo Quyền xin thông hiếu giữ lễ cống. Trấn thần tâu lên, vua sai thưởng cho Quốc trưởng nhiễu màu đỏ, màu lam mỗi thứ một tấm, sa nam 20 tấm và bọn Ma Diên áo quần bằng sa, chừu, bạc lạng.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nước Hỏa Xá sang cống, sứ đến Phú Yên, vua cho vào Kinh chào lạy và triệu vào ra mắt, vua hỏi: “Nay đến triều cống là tự bởi lòng thành của Quốc trưởng, hay người trong nước đều muốn cả”. Sứ thưa rằng: “Quốc trưởng tôi đã lâu vẫn mến đức hóa của thiên triều, lại nghe người già ở trong nước nói nếu đem lòng thành thần phục thượng quốc thì nhân dân yên vui, thóc lúa được mùa, nên từ Quốc trưởng cho đến thần dân đều muốn thần thuộc để nhờ phúc thừa”. Vua sai ban thưởng rồi cho về. Vua lại định ra kỳ cống hiếu, lấy những năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu làm mức, 3 năm một lần sai sứ sang cống. Phẩm vật tiến cống là 2 chiếc ngà voi, 2 chiếc sừng tê. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), sứ sang cống, vua cho sứ thần bộ áo đại triều thất phẩm, bắt phải diễn tập và quỳ lạy ở sân rồng. Sứ giả làm đều hợp lễ tiết. Vua khen ngợi, ban dụ cho bộ Lễ rằng: “Nước họ ở mãi phương xa hẻo lánh, thắt nút dây làm việc chính trị, tự cày cấy lấy mà ăn, phong tục còn giữ thói cổ chất phác. Nhưng người đã có tóc có răng, tính trời sinh ra cũng có hiểu biết, man di thành trung hạ, cũng nên lấy lễ nghĩa bảo ban cho họ, thời dẫu đến loài có vảy có mai cũng có thể đổi thay mà mặc áo xiêm được; huống hồ nước ấy gần đây dốc lòng sửa chức cống, biết rõ nghĩa vua tôi, tỏ là nước có đạo. Vậy Quốc trưởng nước ấy tên là Lam, chuẩn cho họ là Vĩnh tên là Bảo. Các chiếu sắc viết thẳng là Hỏa Xá Quốc vương, để biết có đầu mối danh phận. Còn sứ thần tên Duyên thì cho họ là Lĩnh, tên Tài thì cho họ là họ Kiệu; lại thưởng thêm cho sa lụa có thứ bậc khác nhau”.

Tháng 11, năm Minh Mạng thứ 18 (1837), gặp ngày thất tuần đại khánh tiết (mừng thọ 70 tuổi) của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nước ấy sai sứ mang phương vật tới kính chúc thọ, hậu cho ăn yến và ban thưởng rồi cho về. Tháng 12, Quốc vương Vĩnh Bảo chết, người trong nước theo phong tục lập cháu gọi bằng cậu là Liệt nối làm Quốc trưởng. Quốc trưởng sai sứ sang cống, vua ban cho vị vương mới nối theo họ Vĩnh, nhưng vẫn theo tên cũ là Liệt, cho rõ dòng họ, lại ban cho sắc thư và thưởng rất hậu.

Tháng 4, năm Minh Mạng thứ 21 (1840), gặp lễ ngũ tuần vạn thọ đại khánh tiết (mừng thọ 50 tuổi) của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế, nước ấy sai sứ mang 2 lễ là hạ phẩm và cống phẩm dâng lên. Vua nhận rồi bảo về.

Tháng 2, Thiệu Trị năm thứ nhất (1941), vua chuẩn cho bộ Lễ bàn định cải chính lại quốc hiệu nước Thủy Xá (nguyên trước xưng lẫn với Hỏa Xá, nay đổi lại là Thủy Xá); rồi lại chuẩn cho Quốc trưởng nước Hỏa Xá là Ma Thát được mang họ Cửu, tên là Lại, cho hợp với Thủy Xá; kỳ tiến cống vẫn theo lệ năm Minh Mạng thứ 12, lấy các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu định 3 năm 1 lần đến cống, chuyển cho nước Thủy Xá sai sứ kính đệ cống phẩm (Thủy Xá 2 chiếc ngà voi, 2 cái sừng tê, Hỏa Xá 1 chiếc ngà voi, 1 cái sừng tê), đến tại hành cung Phú Yên bái vọng dâng cống lễ, đợi lĩnh sắc thư và nhận lễ vật về nước chia cho Hỏa Xá. Vua lại cho là hai nước trong lòng hâm mộ phẩm phục của triều đình nên đặc cách chuẩn ban cho. Tháng 6 năm ấy, vua ban cấp triều phục cho Quốc trưởng hai nước Thủy Xá và Hỏa xá sắc thư, vóc lụa.

Tháng 6, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), hai nước sai sứ sang cống, sứ đến Phú Yên rồi tâu: Hai nước bị đói kém, tật dịch, tình hình rất quẫn bách. Vua lấy làm thương, cho vọng bái ở hành cung Phú Yên rồi ban thưởng.

Giáp Thìn, năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), mùa đông, tháng 12, vua ban lịch cho hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá. Vua xuống dụ rằng : “Nước Đại Nam ta, đức hóa thấm khắp, thanh giáo rộng ban. Khoảng năm Minh Mệnh, vua nước Thủy Xá là Vĩnh Liệt đã phụ thuộc vào nước Nam. Khi trẫm mới lên nối ngôi, vua nước Hỏa Xá là Cửu Lại cùng nước Thủy Xá cho sứ sang tỏ lòng thành, dâng lễ cống. Trẫm khen lòng hướng mộ ấy, đã cho sửa đổi quốc hiệu, cho tên hay, ban mũ áo, châm chước định lệ cống. Nay hai nước đã theo lễ chư hầu, đời đời làm phiên thần, lịch của triều đình đã ban cho, nên coi như dân một nước. Chuẩn cho từ nay trở đi, hằng năm phát cho một bản quan lịch, 50 bản dân lịch, giao cho tỉnh Phú Yên chuyển cấp, bắt đầu từ năm Thiệu Trị thứ 5”.

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng 5, gặp lễ tứ tuần vạn thọ đại khánh tiết của Hiến Tổ Chương Hoàng đế, hai nước sai sứ sang cung tiến 2 lễ: Lễ vật chúc mừng và cống phẩm vật tiến cống. Vua thưởng cho bồi thần là bọn Sơn Thí, Kiệu Mộc triều phục ngũ lục phẩm hàng võ, mỗi người đều 1 bộ và ban yến thưởng. Từ đó hai nước cứ theo lệ thường, 3 năm 1 lần sang cống.

Năm Kỷ Mão, Tự Đức thứ 32 (1879), vua hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá sai Sơn Ngôi, Kiều Tầm đến dâng lễ chúc mừng là 2 chiếc ngà voi, vua liền ban cho vua hai nước ấy sắc Dụ và phẩm vật gồm kim tiền hạng vừa có 2 con rồng, mỗi người 1 đồng; kim tiền có chữ “Vạn sự như ý”, mỗi người 1 đồng; ngân tiền phi long hạng lớn, hạng nhỏ đều 1 đồng; ngân tiền có 2 con rồng hạng nhỏ đều 1 đồng; tiền đồng lớn mỹ hiệu mạ bạc 10 đồng; sa vũ hoa sắc đỏ 2 tấm, sa hoa chính tơ 2 tấm; chén uống rượu bằng pha lê trắng đều 1 bộ, chén độc bạt sắc trắng vẽ vàng của nước Tây 4 cái; ấm pha chè bằng sứ vẽ hoa văn cây mẫu đơn và con phượng 2 cái; đĩa hạng vừa bằng đồ sứ hình bầu dục vẽ hình con voi, con hổ, cổ đồ, hoa cỏ 2 cái.
Trong các lần tiến cống, nhiều lần sứ bộ chỉ đến Phú Yên dâng lễ cống và nhận tặng phẩm như các năm: 1803, 1822, 1842, 1855, 1859, 1868, 1878. Trường hợp các sứ giả được phép đến kinh, thì tỉnh Phú Yên phải chuẩn bị phương tiện đi lại và hộ tống họ từ Phú Yên ra kinh đô và ngược lại.


Về chi phí cho cuộc hành trình đi về kinh đô, năm 1834, vua Minh Mạng quy định tiền thức ăn và tiền đi lại của đoàn đại biểu gồm:


- 30 quan tiền đồng;


- 1 con lợn, 5 con gà, 5 con vịt;


- 20 giạ gạo nếp;


- 5 giạ gạo trắng;


- Cá ướp muối và nước mắm;


- 1 vò rượu;


Trầu và cau đầy đủ số lượng;


+ Phương tiện đi lại được ấn định bằng đường thủy.

Sau khi nhận được cống vật, các vua triều Nguyễn bao giờ cũng tặng lại cho vua Thủy Xá, Hỏa Xá và các sứ thần một số phẩm vật có giá trị.


Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), vua ban tặng vua Hỏa Xá 1 tấm sa có vôn màu xanh, 1 tấm sa có vôn màu đỏ, 20 tấm sa nam. Năm 1832, vua Minh Mạng quy định: tặng cho vua Hỏa Xá 2 mảnh gấm thêu kim tuyến thời nhà Tống, 2 cuốn sa tanh, 2 tấm nhiễu đen, 8 mảnh nhiễu địa phương, 10 tấm lụa địa phương, 1 tấm lụa thêu màu đỏ, 1 tấm lụa màu chàm. Ngoài ra, vua Hỏa Xá còn nhận thêm một số hiện vật quý như:


+ 1 bộ ấm trà phương tây;


+ 1 bộ đồ uống rượu bằng thủy tinh;


+ 1 cái hộp bằng thủy tinh có chân mạ vàng;


+ 1 hộp thủy tinh trang trí 2 biểu tượng nhỏ bằng đá.


Đến năm Tân Sửu (1841) đời vua Thiệu Trị, tặng phẩm cho vua Thủy Xá được quy định:


+ Khăn nhiễu màu lam dài 8 thước,


+ Áo dài bằng sa dày, màu lam, màu trắng, một cặp;


+ Áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp, 1 cái;


+ Áo sa dày màu lam trắng, tay hẹp, 1 cặp;


+ Áo sa nam toàn tơ tay hẹp các màu, 5 chiếc;


+ Quần nhiễu màu lam hồng mỗi màu, 1 chiếc;


+ Quần lụa nam màu cánh kiến 2 chiếc;


+ Một bộ đồ uống rượu có 1 cái nậm, 3 cái chén, 1 cái khay.


Đồng thời, vua nước Hỏa Xá cũng được nhận thêm:


+ Một cái khăn nhiễu màu lam dài 8 thước;


+ Áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng, 1 cặp;


+ Áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp, 1 chiếc;


+ Áo sa nam màu hồng mỗi màu, 1 chiếc;


+ Một bộ đồ uống rượu;


+ Mỗi vua được nhận 1 cặp áo hàm tam phẩm.


Năm Kỷ Mão (1879) vua Tự Đức ban tặng phẩm cho Thủy Xá và Hỏa Xá kim tiền lưỡng long, kim tiền vạn sự như ý, ngân tiền phi long, ngân tiền lưỡng long, đồng tiền mỹ hiệu mạ bạc, sa vũ hoa sắc đỏ, sa hoa chính đỏ, chén độc bạc sắc trắng của phương Tây, ấm pha trà, chén đĩa bằng sứ, kim loại.


Ngoài ra, các sứ bộ cũng được nhận một phần tặng phẩm như: Năm Giáp Ngọ (1834), vua Minh Mạng ban tặng cho sứ bộ Hỏa Xá bộ triều phục hàm “thất phẩm”; năm Đinh Dậu (1837) sứ bộ Hỏa Xá được vua Minh Mạng ban yến; năm Bính Ngọ (1846) đời vua Thiệu Trị, sứ thần Thủy Xá, Hỏa Xá được xem diễn trò ở nhà Duyệt thị.


Nước Thủy Xá, Hỏa Xá không còn được gọi tên nữa mà thay vào đó là tên gọi vùng đất Tây Nguyên ngày nay. Y Di Y Ông, Di nghĩa là thủy; Y Vui Y Ông, Vui nghĩa là hỏa.
 
Chỉnh sửa cuối:

Jade2110

Xe buýt
Biển số
OF-545495
Ngày cấp bằng
12/12/17
Số km
936
Động cơ
168,001 Mã lực
Lịch sử oai hùng. Còn mạn Lai Châu, Điện Biên mình lấy của Ai lao hả bác?
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Lịch sử oai hùng. Còn mạn Lai Châu, Điện Biên mình lấy của Ai lao hả bác?
lai Châu Điện Biên được gọi là mạn Đà Giang mình có từ lâu rồi thời Lý Trần. thời ấy nước Lào còn chưa tồn tại.
có trận Lý Công Uẩn đánh bại quân Đại Lý cướp ngựa ở Lai Châu. Lê Lợi sau khi đánh bại Đèo cát hãn cũng lập bia ở Lai Châu
 

Jade2110

Xe buýt
Biển số
OF-545495
Ngày cấp bằng
12/12/17
Số km
936
Động cơ
168,001 Mã lực
Tại thấy cái bản đồ mình chưa có Điện biên , Lai Châu như bây giờ
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Tại thấy cái bản đồ mình chưa có Điện biên , Lai Châu như bây giờ
xưa vùng này thuộc tỉnh Hưng Hóa. còn vùng lai Châu Điện biên như ngày nay bao gồm các huyện Mường tè Phong Thổ Sìn Hồ Tam Đường của Lai Châu và các huyện Mường Chà Mường Nhé Tủa chùa của Điện Biên là sáp nhập sau công ước Pháp Thanh 1895 lấy từ Vân Nam của Trung Quốc về
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top