- Biển số
- OF-44803
- Ngày cấp bằng
- 28/8/09
- Số km
- 54,969
- Động cơ
- 1,127,704 Mã lực
Từ ngày gặp Kissinger ở Sài Gòn tháng 10 năm ngoái, Thiệu nhận được đề nghị từ nhiều giới tại Sài Gòn và thư của Hưng nên đánh đổi việc đòi triệt thoái quân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra khỏi miền Nam lấy sự cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ hoà bình ở Việt Nam. Mặc dầu, lời lẽ trong thư của Nixon cứng rắn và doạ dẫm thẳng thừng, nhất là việc đòi phải trả lời trong đêm ngày 17-1-1973, nhưng Thiệu không chịu nhường bước.
Thay vì phải trả lời Haig ngày hôm sau, ông gửi thư niêm phong cho Nixon đòi một số thay đổi trong bản Hiệp định sắp ký. Haig quay lại toà Đại sứ Mỹ, mở thư xem và chuyển về Nhà Trắng bằng đường vô tuyến. Haig mô tả lá thư “cứng nhắc và không nhượng bộ”.
Không còn chần chừ được nữa, Nixon và Kissinger trả lời ngay cùng ngày. Haig cùng Bunker chuyển đến chỗ Thiệu liền. Nixon quyết định tranh thế thượng thủ nhưng vẫn muốn trấn an Thiệu. Mặt khác, tiếp tục doạ dẫm về hậu quả nếu Thiệu không chịu ký. Bức thư có nội dung:
“Kính thưa Tổng thống!
Tôi đã nhận, nghiên cứu kỹ lưỡng thư đề ngày 17-1-1973 của Ngài. Tôi phải lặp lại những gì đã nói với Ngài trước đây. Tự do và độc lập của Việt Nam Cộng hoà vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Tôi đã theo đuổi mục tiêu này suốt cuộc đời chính trị và trong bốn năm trời nay nhận nhiều hậu quả trầm trọng trong cũng như ngoài nước. Chính vì bảo vệ những mục tiêu chung của chúng ta mà tôi nhất quyết phải chọn đường lối hành động này. Tôi quả quyết, từ chối ký bản hiệp định này phải dẫn đến việc cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Nam Cộng hoà. Do đó, tôi cho tiến hành phê chuẩn ngày 23-1 và sẽ ký kết vào ngày 27--1-1973 bản hiệp định mà tướng Haig trình lên Ngài. Như vậy, chỉ còn một lựa chọn trước mắ, chúng ta muốn hay không muốn tiếp tục mối bang giao gắn bó đã giúp nhau nhiều trong suốt thời chiến…
Để bản hiệp định chặt chẽ thêm như đề cập trong thư của tôi ngày 14-1, chính phủ của Ngài được tăng cường về phương diện an ninh và chính phủ để chuẩn bị cho sự ngưng bắn…
Tôi đã thưa với Ngài nhiều lần, vấn đề chính yếu ở đây không như chơi chữ trong bản văn mà là vấn đề cộng tác giữa hai nước trong thời kỳ hậu chiến và nhu cầu tiếp tục yểm trợ Việt Nam Cộng hoà của Hoa Kỳ. Tôi đang phải tranh đấu cho sự yểm trợ đó. Nếu Ngài khước từ ký bản hiệp định, tôi không còn cách nào giúp đỡ chính phủ Việt Nam Cộng hoà nữa. TôI bị Quốc hội và dư luận Hoa Kỳ trói chặt tay. Vì thế, đây là lúc phải đoàn kết để bảo vệ quyền lợi chung của hai quốc gia chúng ta.
Như tướng Haig đã trình với Ngài, tôi chuẩn bị gửi phó Tổng thống Agnew sang Saigon thảo luận cùng Ngài về mối quan hệ giữa hai nước chúng ta thời hậu chiến. Ông Agnew rời Washington ngày 28-1, một ngày sau ký kết bản Thoả hiệp. Trong chuyến công du này, phó Tổng thống Agnew công khai cam kết những gì tôi đã trình bày với Ngài. Tôi xin nhắc lại những cam kết như sau:
- Trước hết, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của Ngài là duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.
- Thứ hai, Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ miền Nam.
- Thứ ba, Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản hiệp định bị vi phạm.
Hơn nữa, tôi muốn được hội kiến riêng với Ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, Califonia, để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước và cam kết của Hoa Kỳ. Dựa vào những cam kết ấy, tôi hy vọng Ngài vui lòng cùng chúng tôi ký bản hiệp định. Vì tính cách trọng đại của vấn đề và những hậu quả của nó trong tương lai, tôi chỉ thị tướng Haig phải trở lại Sài Gòn sáng thứ bảy ngày 20-1-1973. Đây có lẽ là dịp cuối chúng tôi được biết lập trường của Ngài và xem có tiến hành cùng Ngài được không.
Chương trình diễn tiến đã định, không thể thay đổi nữa. Tiến sĩ Kissinger sẽ phê chuẩn vào bản thoả hiệp ở Paris ngày 23-1. Tôi công bố cho dân chúng Hoa Kỳ ngay chiều hôm đó và lễ ký kế nhằm ngày 27-1-1973. Nếu Ngài không chịu hợp tác, chính phủ Việt Nam Cộng hoà phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu quả của nó.
Kết thúc, tôi xin thưa rằng rất thán phục tinh thần bảo vệ quyền lợi quốc gia của Ngài. Tôi công nhận bản hiệp định này không được hoàn hảo nhưng trong trường hợp hiện tại là cơ hội tốt nhất ta nắm được. Tôi đã giải thích tại sao ta phải ký lúc này.
Tôi nghĩ, Ngài có hai lựa chọn chính yếu. Một, tiếp tục cản trở việc ký kết bằng hành động có vẻ lẫm liệt nhưng thiển cận. Hai, dùng bản Hiệp định như phương tiện xây dựng một văn bản mới cho nền bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hoà, không cần nói Ngài cũng biết rõ, đây là con đường duy nhất để bảo vệ mục tiêu chung của chúng ta”.
Trân trọng
Richard Nixon
Thay vì phải trả lời Haig ngày hôm sau, ông gửi thư niêm phong cho Nixon đòi một số thay đổi trong bản Hiệp định sắp ký. Haig quay lại toà Đại sứ Mỹ, mở thư xem và chuyển về Nhà Trắng bằng đường vô tuyến. Haig mô tả lá thư “cứng nhắc và không nhượng bộ”.
Không còn chần chừ được nữa, Nixon và Kissinger trả lời ngay cùng ngày. Haig cùng Bunker chuyển đến chỗ Thiệu liền. Nixon quyết định tranh thế thượng thủ nhưng vẫn muốn trấn an Thiệu. Mặt khác, tiếp tục doạ dẫm về hậu quả nếu Thiệu không chịu ký. Bức thư có nội dung:
“Kính thưa Tổng thống!
Tôi đã nhận, nghiên cứu kỹ lưỡng thư đề ngày 17-1-1973 của Ngài. Tôi phải lặp lại những gì đã nói với Ngài trước đây. Tự do và độc lập của Việt Nam Cộng hoà vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Tôi đã theo đuổi mục tiêu này suốt cuộc đời chính trị và trong bốn năm trời nay nhận nhiều hậu quả trầm trọng trong cũng như ngoài nước. Chính vì bảo vệ những mục tiêu chung của chúng ta mà tôi nhất quyết phải chọn đường lối hành động này. Tôi quả quyết, từ chối ký bản hiệp định này phải dẫn đến việc cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Nam Cộng hoà. Do đó, tôi cho tiến hành phê chuẩn ngày 23-1 và sẽ ký kết vào ngày 27--1-1973 bản hiệp định mà tướng Haig trình lên Ngài. Như vậy, chỉ còn một lựa chọn trước mắ, chúng ta muốn hay không muốn tiếp tục mối bang giao gắn bó đã giúp nhau nhiều trong suốt thời chiến…
Để bản hiệp định chặt chẽ thêm như đề cập trong thư của tôi ngày 14-1, chính phủ của Ngài được tăng cường về phương diện an ninh và chính phủ để chuẩn bị cho sự ngưng bắn…
Tôi đã thưa với Ngài nhiều lần, vấn đề chính yếu ở đây không như chơi chữ trong bản văn mà là vấn đề cộng tác giữa hai nước trong thời kỳ hậu chiến và nhu cầu tiếp tục yểm trợ Việt Nam Cộng hoà của Hoa Kỳ. Tôi đang phải tranh đấu cho sự yểm trợ đó. Nếu Ngài khước từ ký bản hiệp định, tôi không còn cách nào giúp đỡ chính phủ Việt Nam Cộng hoà nữa. TôI bị Quốc hội và dư luận Hoa Kỳ trói chặt tay. Vì thế, đây là lúc phải đoàn kết để bảo vệ quyền lợi chung của hai quốc gia chúng ta.
Như tướng Haig đã trình với Ngài, tôi chuẩn bị gửi phó Tổng thống Agnew sang Saigon thảo luận cùng Ngài về mối quan hệ giữa hai nước chúng ta thời hậu chiến. Ông Agnew rời Washington ngày 28-1, một ngày sau ký kết bản Thoả hiệp. Trong chuyến công du này, phó Tổng thống Agnew công khai cam kết những gì tôi đã trình bày với Ngài. Tôi xin nhắc lại những cam kết như sau:
- Trước hết, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của Ngài là duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.
- Thứ hai, Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ miền Nam.
- Thứ ba, Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản hiệp định bị vi phạm.
Hơn nữa, tôi muốn được hội kiến riêng với Ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, Califonia, để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước và cam kết của Hoa Kỳ. Dựa vào những cam kết ấy, tôi hy vọng Ngài vui lòng cùng chúng tôi ký bản hiệp định. Vì tính cách trọng đại của vấn đề và những hậu quả của nó trong tương lai, tôi chỉ thị tướng Haig phải trở lại Sài Gòn sáng thứ bảy ngày 20-1-1973. Đây có lẽ là dịp cuối chúng tôi được biết lập trường của Ngài và xem có tiến hành cùng Ngài được không.
Chương trình diễn tiến đã định, không thể thay đổi nữa. Tiến sĩ Kissinger sẽ phê chuẩn vào bản thoả hiệp ở Paris ngày 23-1. Tôi công bố cho dân chúng Hoa Kỳ ngay chiều hôm đó và lễ ký kế nhằm ngày 27-1-1973. Nếu Ngài không chịu hợp tác, chính phủ Việt Nam Cộng hoà phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu quả của nó.
Kết thúc, tôi xin thưa rằng rất thán phục tinh thần bảo vệ quyền lợi quốc gia của Ngài. Tôi công nhận bản hiệp định này không được hoàn hảo nhưng trong trường hợp hiện tại là cơ hội tốt nhất ta nắm được. Tôi đã giải thích tại sao ta phải ký lúc này.
Tôi nghĩ, Ngài có hai lựa chọn chính yếu. Một, tiếp tục cản trở việc ký kết bằng hành động có vẻ lẫm liệt nhưng thiển cận. Hai, dùng bản Hiệp định như phương tiện xây dựng một văn bản mới cho nền bang giao Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hoà, không cần nói Ngài cũng biết rõ, đây là con đường duy nhất để bảo vệ mục tiêu chung của chúng ta”.
Trân trọng
Richard Nixon