[Funland] Những trận đánh nổi tiếng thế giới

Trạng thái
Thớt đang đóng
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

(Tiếp)

Việc tái vũ trang cho Ukraine và bài trừ văn hóa, ảnh hưởng Nga và thay đổi lịch sử để tạo ra một vết cắt không thể nối liền giữa hai nước và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trực tiếp giữa Ukraine và Nga chỉ là một phần nhỏ của các nỗ lực mà phương Tây nhằm làm suy yếu Nga. Những gì phương Tây làm với Ukraine chỉ là phần nổi nhỏ của một tảng băng chìm. Phần chìm của tảng băng là toàn bộ các hoạt động cấm vận được tiến hành một cách toàn diện để đánh quỵ nền kinh tế, xói mòn sự ổn định chính trị và xã hội tại Nga.

1687836379817.png

Chuyên gia quân sự phương tây huấn luyện quân nhân Ukraine

Về kinh tế, đó là một hệ thống cấm vận toàn diện và phức tạp nhất từ trước tới nay được phương Tây áp dụng chống lại Nga. Hệ thống cấm vận này đánh vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế: từ nông nghiệp tới công nghiệp và tài chính; từ các ngành sinh lợi nhất cho ngân sách nhà nước Nga tới các ngành cần thiết cho cuộc sống của người dân.

Về chính trị và ngoại giao, phương Tây đã làm mọi cách để cô lập nước Nga và độc ác hóa hình ảnh của quốc gia, dân tộc, văn hóa Nga. Việc này thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, với mức độ từ tinh vi tới thô thiển. Chúng ta đã thấy sự sắp xếp cố ý của phương Tây trong nhiều cuộc gặp quốc tế sau năm 2014; trong đó ghế ngồi của các quan chức Nga, và thậm chí của cả tổng thống Putin bị đặt vào các vị trí cô lập, tách biệt với những người khác. Hình ảnh của nước Nga, người Nga trong điện ảnh, báo chí của phương Tây luôn luôn gắn với một quốc gia độc tài, tàn ác, mafia và luôn là nguồn nguy hiểm cho hòa bình thế giới (khác hẳn với con số thống kê thực tế là sau chiến tranh thế giới thứ hai tới nay thì số cuộc chiến mà Mỹ khởi đầu nhiều hơn số cuộc chiến mà Liên Xô, Nga và Trung Quốc tham gia cộng lại). Phương Tây quy mọi thứ xấu xảy ra là do Nga – từ việc Trump trúng cử tổng thống Mỹ tới giá cả hay lạm phát gia tăng. Hệ thống tuyên truyền này đã tạo ra một nỗi sợ Nga (Russophobia) (tương tự như cách họ đã tạo ra nỗi sợ Trung Quốc – Chinophobia) lớn tới mức khi cuộc chiến Ukraine – Nga nổ ra, các hoạt động bài trừ mọi yếu tố Nga diễn ra ở mọi lĩnh vực từ văn hóa tới thể thao, từ hoạt động nhân đạo tới ngoại giao quốc tế. Thậm chí mèo Nga cũng không được tham dự các cuộc thi quốc tế. Các tác phẩm của nhạc sỹ Nga từ trước thế kỷ 20 cũng không được chơi và thậm chí các viện bảo tàng phương Tây còn công khai tuyên bố không trả các tác phẩm nghệ thuật mà họ mượn viện bảo tàng Nga để trưng bày.

1687836442720.png

Chuyên gia quân sự phương tây huấn luyện quân nhân Ukraine

Danh sách những vấn đề tương tự sẽ còn rất dài. Tuy nhiên, để tiết kiệm thời gian, có thể nói ngắn gọn là trong con mắt của người Nga, phương Tây đang chuẩn bị cho một cuộc chiến toàn diện chống lại Nga một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tùy hoàn cảnh. Và mục đích của cuộc chiến đó là lại đánh quỵ nước Nga như họ đã làm với Liên bang Xô Viết.

Ở phần tiếp chúng ta sẽ chuyển sang xem xét vấn đề chuẩn bị chiến tranh của nước Nga.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

CHUẨN BỊ CHIẾN TRANH

Rõ ràng là người Nga đã nhìn nhận rằng cuộc chiến sắp tới sẽ là cuộc chiến giữa phương Tây và Nga dưới hình thức một cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên đất Ukraine. Và kết cục của cuộc chiến tranh đó sẽ là sự tồn vong của Liên bang Nga. Họ tin rằng phương Tây sẽ dùng Ukraine là cú hích để đẩy Nga vào con đường sụp đổ như Liên bang Xô Viết trước đó. Do đó, họ đã hành động và phát súng đầu tiên của cuộc chiến không phải là một quả tên lửa hành trình bắn vào đất Ukraine vào tháng 2 năm 2022 mà thực ra nó đã diễn ra âm thầm trước đó.

1687836564076.png

Quân đội Nga tại Crưm 2014

Vào năm 2015, tổng thống Obama đã phát biểu khá tự tin về nước Nga trong một cuộc họp báo quốc tế. Đại ý của ông là Putin đã sai lầm khi xâm lược Ukraine và sáp nhập Crimea. Giờ đây (năm 2015) nước Nga đang đánh mất hết những gì nó đã cố gắng nỗ lực trong 25 năm trước đó (tính từ thời Liên Xô sụp đổ) để có được. Phương Tây, hơn bao giờ hết đã đoàn kết để chống lại Nga. Các biện pháp cấm vận kinh tế đang khiến nước Nga suy sụp và sự sụp đổ của nền kinh tế là thấy trước khi giá trị đồng rúp tụt thê thảm. Các lệnh cấm vận sẽ khiến cho nước Nga không có cơ hội để hiện đại hóa đất nước của mình và nguồn thu chủ yếu dựa vào dầu khí của Nga đang tụt thảm hại. Cuộc sống của những người dân Nga đang bị ảnh hưởng khủng khiếp bởi quyết định liều lĩnh của Putin và giới tinh hoa Nga. Vào thời điểm đó, Putin không bình luận về những gì mà Obama nói. Tuy nhiên, vào năm 2022, thực tế đã chứng minh là người Nga đã có những biện pháp chống lại những gì mà Obama nói.

NGA RA ĐÒN TRƯỚC VỚI MỸ VÀ RU NGỦ CHÂU ÂU

Phương Tây nhìn nhận rằng nền kinh tế của Nga (vào năm 2014) rất phiến diện và hoàn toàn phụ thuộc vào việc xuất khẩu năng lượng. Thậm chí nền nông nghiệp Nga không thể cung cấp đủ cho nhu cầu cơ bản của người dân và họ phải nhập lương thực, thực phẩm từ phương Tây bằng ngoại tệ từ bán năng lượng. Nếu giá dầu tụt xuống tới một mức nhất định thì ngân sách của Nga sẽ bị thâm hụt và nếu như việc đó kéo dài, Nga sẽ lâm vào một cuộc khủng hoảng. Một cuộc khủng hoảng sẽ là tiền đề để cho các hoạt động xâm nhập của phương Tây tại Nga biến thành một cuộc cách mạng loại bỏ Putin khỏi vị trí quyền lực như họ đã làm ở Ukraine và một số nước cộng hòa Xô Viết cũ. Vũ khí của Mỹ chính là công nghệ khai thác dầu đá phiến (shale oil). Vào thời điểm này Mỹ đã phát triển được công nghệ khai thác dầu mỏ từ đá phiến và giá dầu thế giới ở mức cao kỷ lục 110 đô la Mỹ/thùng vào tháng 9/2013 đã khiến cho nền công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ phát triển vượt bực. Sản lượng dầu đá phiến đã khiến cho giá dầu mỏ tụt từ mức 110 đô/thùng năm 2013 xuống còn 43 đô/thùng vào tháng 3/2015 và tới mức 28 đô/thùng vào tháng 2/2016. Cùng với hàng loạt cấm vận với Nga, việc giá dầu giảm gần 6 lần đã khiến cho ngân sách của chính phủ Nga bị âm. Lúc này, phương Tây tin rằng chỉ là vấn đề thời gian cho tới thời điểm dự trữ ngoại hối của Nga cạn kiệt và nước Nga hoặc phải từ bỏ Crimea và vùng Donbass hoặc cách mạng sẽ xảy ra. Thế nhưng một điều bất ngờ là Nga đã bắt tay với các nước sản xuất dầu thuộc khối OPEC và (trái với dự đoán của phương Tây) đẩy giá dầu xuống thấp hơn nữa bằng cách tăng sản lượng không ngừng. Vào tháng 4/2020, giá dầu xuống tới mức kỷ lục 11 đô/thùng vào tháng 4/2020. Đây là đòn quyết định hạ gục ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ. Ngành này đã liên tục chịu lỗ kể từ năm 2015 sau khi giá dầu xuống mức 40 đô/thùng. Vào năm 2020, hầu hết các doanh nghiệp dầu đá phiến của Mỹ đã đóng cửa, phá sản. Từ năm 2020 tới nay, kể cả giá dầu tăng vì cuộc chiến Ukraine, có hơn 500 doanh nghiệp dầu đá phiến của Mỹ tiếp tục phá sản và ngành này không ngóc đầu lên được.

1687836609603.png


Như vậy người Nga đã nổ súng trước và triệt hạ vũ khí kinh tế mạnh nhất của Mỹ nhằm vào việc bóp chết nguồn ngân sách của Nga. Thắng lợi của Nga ở đây không phải là chỗ vẫn giữ được nguồn thu ngân sách mà là triệt hạ một cách dứt điểm ngành dầu đá phiến, vũ khí mà Mỹ có thể dùng để thao túng giá dầu.

Nhưng người Nga đã làm thế nào để đạt được điều đó? Đúng là để diệt ngành dầu đá phiến của Mỹ, Nga phải hạ giá dầu bằng cách tăng sản lượng dầu khai thác. Tuy nhiên, nếu hạ giá dầu thì Nga cũng sẽ cạn nguồn thu và có vẻ cuộc chơi sẽ là ai ngạt thở trước. Tuy nhiên, Nga đã không rơi vào cái bẫy đó. Song song với việc hạ giá dầu thì họ tăng nguồn thu bằng cách bán khí đốt cho châu Âu. Với hệ thống đường ống được xây dựng tiện lợi cho việc cung cấp khí tới hầu hết các quốc gia ở châu Âu, Nga không có đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực cấp khí đốt ở thị trường này. Trong khi Merkel và Hollande nghĩ rằng họ đã ru ngủ được Putin bằng 2 thỏa thuận Minsk thì Putin ru ngủ lại họ bằng cách khiến họ tin rằng Putin tin vào tất cả những gì họ ký. Chính vì lý do đó, họ không ngừng tăng lượng khí mua từ Nga (và điều đó có nghĩa là khiến họ phụ thuộc vào Nga hơn). Chính trong thời kỳ này thì đường ống dẫn khí North Stream 2 được bắt đầu xây dựng vì đường ống North Stream 1 đã bị khai thác hết công suất.

1687836704321.png

Đường ống dẫn khí North Stream 2

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Một điều nực cười là châu Âu, trong khi cùng Mỹ giúp Ukraine chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Nga thì họ lại tin rằng Nga hoàn toàn bị họ xỏ mũi và đang ngây thơ cung cấp khí gas giá rẻ cho họ. Cùng với lượng khí gas được châu Âu tiêu thụ không ngừng tăng thì ngân sách của Nga không bị ảnh hưởng bởi giá dầu giảm mà thực tế ngân sách chính phủ Nga lại bội thu. Điều này khiến cho Putin có thể ra đòn quyết định cùng OPEC hạ gục ngành dầu đá phiến của Mỹ bằng cách hạ giá dầu không thương tiếc. Nói một cách ngắn gọn là Putin đã dùng tiền của châu Âu để ra đòn triệt hạ Mỹ. Việc châu Âu phụ thuộc vào khí đốt giá rẻ của Nga cũng sẽ khiến họ trả giá sau này, khi cuộc chiến Ukraine xảy ra.

Chính sự triệt hạ ngành dầu đá phiến của Mỹ và khiến châu Âu phụ thuộc vào khí đốt giá rẻ của Nga đã khiến cho Mỹ và châu Âu, khi cuộc chiến Ukraine xảy ra, phải viện đến các biện pháp phi thị trường là cấm nhập khẩu dầu và tiến dần tới cấm nhập khí đốt của Nga. Những biện pháp phi thị trường này thể hiện rõ là nó gây hậu quả nặng nề cho các nước nhập dầu và khí của Nga hơn là cho Nga. Việc các biện pháp phi thị trường không có hiệu quả rất dễ hiểu vì nếu như nó có hiệu quả thì Liên bang Xô Viết đã không sụp đổ.


ĐỐI PHÓ VỚI CẤM VẬN

Trong giai đoạn từ 2014 tới 2022, các biện pháp cấm vận của phương Tây chủ yếu nhằm vào các mặt hàng tiêu dùng và các dịch vụ cao cấp như tài chính, ngân hàng. Họ cho rằng vì nền sản xuất và dịch vụ cao cấp của Nga yếu kém nên khi cấm vận các ngành ngày cuộc sống của người Nga sẽ bị ảnh hưởng ngay lập tức. Việc biến mất các sản phẩm lương thực từ phương Tây như bơ, sữa từ Hà Lan, rượu vang từ Pháp và các thiết bị điện tử cao cấp sẽ khiến cho người Nga thấy rằng chất lượng cuộc sống của họ đi xuống. Các cấm vận đối với dịch vụ cao cấp như tài chính, ngân hàng sẽ khiến người dân, đặc biệt là tầng lớp giàu và trung lưu sẽ bất mãn với chính quyền.

Để đối phó lại, người Nga phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và dồn nỗ lực vào các ngành xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng mà phương Tây không nhận ra. Trong suốt 8 năm quân đội Ukraine nã pháo vào 2 nước cộng hòa ly khai vùng Donbass, khi mà “con em chúng ta thì đi học còn con em họ thì phải ngồi dưới hầm” như lời tổng thống Ukraine Poroshenko nói, thì nền nông nghiệp Nga đã tiến bộ nhảy vọt. Từ chỗ là một quốc gia nhập khẩu lương thực (một truyền thống kéo dài từ thời Liên Xô), nước Nga trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về lúa mạch, thịt heo và nhiều mặt hàng khác. Toàn bộ lương thực của Nga được sản xuất trong nước (và điều này khiến cho cuộc sống của người dân không bị ảnh hưởng khi cuộc chiến với Ukraine xảy ra). Đặc biệt hơn, tận dụng lợi thế nguồn năng lượng giá rẻ, nước Nga đã trở thành nước xuất khẩu các mặt hàng nghe tiếng thì không ấn tượng nhưng thực ra có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế. Một điển hình đó là ngành phân bón. Chỉ khi cuộc chiến xảy ra và các biện pháp cấm vận triệt để được phương Tây tuyên bố thì người ta mới phát hiện ra là nạn đói ở nhiều nơi sẽ xảy ra ngay trong năm 2022 nếu không có lúa mì của Nga và sẽ xảy ra ở nhiều nơi khác nữa trong những năm tới nếu không có phân bón do Nga sản xuất.

Tương tự như thế, khi cuộc chiến nổ ra, bất chấp những cảnh báo từ cựu tổng thống Nga Medvedev, châu Âu tin rằng họ có đủ tiền để mua khí hóa lỏng từ Mỹ dù giá cao để đảm bảo nhu cầu sưởi của người dân qua mùa Đông. Thế nhưng khi tất cả các kho dự trữ đã đầy và họ không còn phải lo cho việc sưởi nữa thì họ phát hiện ra rằng người Nga không có ý định từ bỏ mục đích của mình và họ đã chuyển sang một mô hình chiến tranh lâu dài. Lúc này thì vấn đề với châu Âu không phải là làm thế nào để cai nghiện “khí đốt Nga” mà là cai nghiện “khí đốt giá rẻ của Nga”.

Nếu vấn đề chỉ là thay thế khí đốt Nga thì châu Âu có thể kiếm nguồn thay thế bằng khí hóa lỏng trong thời gian trước mắt từ Mỹ và nguồn năng lượng mặt trời, gió về lâu dài. Tuy nhiên, khi vấn đề là “khí đốt GIÁ RẺ” thì họ không thể tìm được nguồn năng lượng nào rẻ hơn nguồn khí đốt của Nga trong thời gian trước mắt lẫn lâu dài. Họ phát hiện ra rằng các ngành công nghiệp của họ hiện tại tuy mất dần thị phần thế giới vào tay Trung Quốc nhưng vẫn còn cầm cự được ở châu Âu vì giá thành họ còn cạnh tranh ở mức nào đó được với hàng Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu không còn nguồn khí đốt giá rẻ của Nga, giá thành của tất cả các ngành sử dụng nhiều năng lượng sẽ tăng tới mức không thể cạnh tranh với Trung Quốc. Mà các ngành công nghiệp này, nguy hiểm hơn, lại là đầu vào của nhiều ngành công nghiệp khác. Ví dụ như công nghiệp hóa chất cơ bản, các ngành luyện kim, phân bón. Nếu các ngành này phá sản hoặc bị Trung Quốc thâu tóm thì các ngành khác là đầu ra của các ngành này sớm hay muộn cũng chịu chung số phận.

Để đối phó với việc nguồn xuất khẩu khí đốt sang châu Âu giảm, người Nga đã xây dựng hệ thống cung cấp khí đốt tới Trung Quốc, quốc gia có nền công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Nền công nghiệp Trung Quốc được hưởng lợi từ khối lượng khí lớn, ổn định và giá rẻ trong cuộc cạnh tranh với châu Âu sẽ như hổ mọc thêm cánh (trong khi châu Âu như một con hổ không cánh mà lại bị mất chân). Cần lưu ý ở đây là dù Nga bán khí cho Trung Quốc với giá rẻ nhưng việc rẻ ở đây là so với thị trường. Với cuộc chiến ở Ukraine ngày càng khốc liệt và các hãng khí hóa lỏng Mỹ bán khí hóa lỏng cho châu Âu cao gấp 3-4 lần giá ở Mỹ đã khiến cho mặt bằng giá khí tăng cao. Điều này dẫn tới giá bán khí của Nga lại cao hơn giá bán cho châu Âu lúc chưa chiến tranh. Điều này tạo ra một nghịch cảnh là Ukraine bị tàn phá và quân đội bị tiêu hao vì chiến tranh, châu Âu dốc hầu bao để trả tiền cho năng lượng tăng giá, và tiền đó rơi vào túi của các nhà sản xuất khí hóa lỏng Mỹ, giúp Nga thu thêm tiền từ Trung Quốc và giúp Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn trong sản xuất so với châu Âu. Và cuộc chiến càng kéo dài thì xu thế này càng tiếp tục, ngoại trừ khi Mỹ bán khí hóa lỏng cho châu Âu với giá thấp. Tuy nhiên, nếu Mỹ làm vậy thì tên chính thức của họ đã thành Liên bang Xô Viết Bắc Mỹ.

Chúng ta thấy rằng với ngành dầu đá phiến của Mỹ, người Nga dùng tiền mua khí đốt của châu Âu để có thể đẩy giá dầu xuống thấp để tiêu diệt. Thế nhưng với châu Âu, người Nga lại dùng tiền mua khí của người Trung Quốc để nuôi chiến tranh với Ukraine và dùng khả năng cạnh tranh của hàng Trung Quốc để tàn phá nền công nghiệp châu Âu. Putin là một võ sĩ Judo giỏi, và có vẻ như các chính sách của ông có dùng triết lý của các đòn thế Judo khi sử dụng chính sức nặng của đối thủ để gây ra thương tích cho họ sau khi khóa thế và quật họ ngã xuống.


......
 

cocsku

Xe cút kít
Biển số
OF-29844
Ngày cấp bằng
23/2/09
Số km
17,089
Động cơ
588,616 Mã lực
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

Muốn dự đoán được kết thúc thì cần biết chiến tranh đã bắt đầu như thế nào (tác giả BAO ANH THAI).
View attachment 7926258


PHẦN 1

Có nhiều bạn hỏi tôi về dự đoán xem cuộc chiến ở Ukraine sẽ đi tới đâu. Tôi nghĩ rằng, cần phải thấy được con đường dẫn tới cuộc chiến tranh này thì mới đoán được nó sẽ đi về đâu. Vì cuộc chiến tranh này chấm dứt thế nào sẽ được quyết định bởi phía Nga là chính nên ở phần đầu bài này, tôi sẽ tóm tắt lại con đường mà người Nga đã đi tới chiến tranh. Khi chúng ta nhìn sự việc theo cách nhìn của người Nga và nhìn vào lịch sử của họ, chúng ta có thể dự đoán được họ sẽ kết thúc cuộc chiến tranh này ra sao. (Nếu bạn cho rằng cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc bởi một thắng lợi của Ukraine sau khi họ chiếm lại hoặc Nga phải trả lại Crimea và 4 tỉnh vừa bị sáp nhập vào Nga thì nên dừng đọc ở đây).

Ngày 7/12/2022, báo Die Zeit của Đức, đăng một bài phỏng vấn dài với cựu thủ tướng Đức, Angela Merkel. Trong cuộc phỏng vấn Merkel nói “thỏa thuận Minsk năm 2014 là một cố gắng nhằm giúp cho Ukraine có thêm thời gian. Quốc gia này cũng sử dụng thời gian này để trở nên mạnh hơn, như chúng ta đang thấy hôm nay”. Vài ngày sau cuộc phỏng vấn này, cựu tổng thống Pháp, Francois Hollande, người cùng với Merkell là đồng bảo trợ cho Ukraine trong cuộc đàm phán với Nga, cũng thừa nhận một điều tương tự trong cuộc phỏng vấn với tờ báo Kyiv Independent. Khi được hỏi “Ông có nghĩ rằng các thỏa thuận Minsk nhằm để làm chậm bước tiến của Nga ở Ukraine?” Hollande đã trả lời “Đúng thế, Angela Merkel đã đúng ở điểm này”.

Phản ứng từ phía Nga là dễ hiểu. Giới truyền thông của Nga lập tức trích dẫn hai ý kiến này để khẳng định cho quan điểm có từ lâu của họ rằng từ năm 2014 tới tháng 2/2022, mọi hành động của phương Tây đối với đàm phán cũng như ký kết chỉ nhằm mục đích mua thời gian cho Ukraine (với lực lượng quân đội lúc đó đang trên đường sụp đổ hoàn toàn sau cuộc bao vây lớn của quân Nga tại Debaltsevo) và chuẩn bị cho một cuộc chiến trong tương lai với Nga. Chưa bao giờ báo chí Nga có bằng chứng rõ ràng, trực tiếp như vậy từ hai nguyên thủ của hai quốc gia phương Tây bảo trợ cho Ukraine trong 2 thỏa thuận Minsk. Phản ứng từ phía tổng thống Nga Putin thì bình thản hơn nhiều. Ông chỉ bình luận rằng mình thất vọng vì thái độ của phương Tây trong việc ký kết và thực hiện hai thỏa thuận Minsk.

Vậy vấn đề đặt ra là:

(i) Người Nga có biết về việc đàm phán và ký thỏa thuận Minsk của phương Tây chỉ là mua thời gian cho Ukraine để nước này tăng cường năng lực quân sự cho một cuộc chiến tranh với Nga trong tương lai?

(ii) Nước Nga có chuẩn bị cho cuộc chiến Ukraine không? Và nếu có thì là bắt đầu từ lúc nào?

(iii) Tại sao Merkel và Hollande lại nói điều này vào tháng 12/2022, sau 8 năm liền giữ kín chuyện đó?

(iv) Người Nga sẽ đi tới đâu trong cuộc chiến này và những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới?

Đối với câu hỏi thứ nhất, tôi tin rằng người Nga biết rất rõ ý định của phương Tây, ngay cả khi đang đàm phán lẫn sau khi các thỏa thuận Minsk đã được ký. Vào thời điểm đó, tình báo Nga đã thâm nhập mọi tầng lớp kiến trúc xã hội và chính quyền của Ukraine. Số lượng người trong các lực lượng công lực và vũ trang của Ukraine có cảm tình với Nga cũng rất nhiều. Do đó, việc phương Tây ráo riết tái vũ trang cho quân đội Ukraine cũng như các hoạt động ngầm để phá hoại việc thực hiện thỏa thuận Minsk 1 và 2 không thể qua mắt được người Nga. Mặc dù phương Tây đã cố gắng thanh lọc sự ảnh hưởng của Nga đối với bộ máy chính quyền của Ukraine nhưng sự thâm nhập của Nga sâu tới mức tới khi chiến tranh nổ ra thì có tới 2/6 thành viên đoàn đàm phán của Ukraine với Nga đã bị loại bỏ vì tội phản quốc. Ở vùng Zaporozhy có gần 50 nhân viên của lực lượng an ninh Ukraine (SBU) đã ở lại vùng bị Nga chiếm và hợp tác với họ. Điều này đã dẫn tới một loạt cuộc thanh trừng sau đó đối với lãnh đạo SBU miền Đông Ukraine. Hoặc việc bắt giữ các quan chức cao cấp nhất của tập đoàn Motor Sich, công ty sản xuất các động cơ cho máy bay chiến đấu, trực thăng cho quân đội Ukraine vì tội phản quốc do đã cung cấp các động cơ này cho Nga trong suốt 8 năm qua.

Ngoài nguồn tin từ các điệp viên thâm nhập vào hệ thống của Ukraine thì người Nga cũng hoàn toàn có thể xác định được ý định của phương Tây và Kiev dựa trên việc phân tích các thông tin công khai. Việc tái trang bị cho quân đội và chuẩn bị cho chiến tranh là một việc không thể chỉ thực hiện gói gọn trong phạm vi lĩnh vực quân sự mà nó liên quan tới mọi khía cạnh của xã hội – từ giáo dục thế hệ trẻ, bài trừ văn hóa Nga, thay đổi luật pháp và chính sách đối với miền Đông – và cuối cùng và rõ ràng nhất là khu vực Donbass trong 8 năm không bao giờ ngừng tiếng pháo của Ukraine bắn vào các vùng ly khai.

Một lý do khác là sự hiểu biết và kinh nghiệm lịch sử. Ban lãnh đạo của Nga nghiên cứu rất kỹ các chiến lược cũng như kỹ thuật của phương Tây nhằm chống Liên bang Xô Viết trước đây và Nga hiện nay. Đó là một chiến lược tổng thể bao quát mọi lĩnh vực.

Đối với kinh tế thì hàng loạt chính sách tinh vi từ ngăn cản Nga gia nhập các định chế thương mại, tài chính quốc tế tới việc sử dụng các hiệp định thương mại làm con bài để mặc cả tới các hạn chế đối với chuyển giao công nghệ và vốn cho Nga (ngay cả trước khi cuộc chiến Ukraine xảy ra). Một ví dụ điển hình nhất là việc EU yêu cầu Ukraine chỉ được lựa chọn hoặc là ký hiệp định thương mại với họ hoặc là ký với Nga và đây là khởi đầu của cách mạng maidan năm 2014 và cuộc chiến hôm nay.

Đối với lĩnh vực chính trị - xã hội thì đó là việc thâm nhập của các tổ chức NGO phương Tây vào xã hội Nga để truyền bá các giá trị phương Tây nhằm thay đổi các “giá trị truyền thống” và hỗ trợ cho các lực lượng chính trị thân phương Tây. Các ví dụ điển hình là việc khuyến khích thay đổi nhận thức về đồng tính luyến ái (LBGT) trong xã hội Nga và chỉ trích, cô lập chính quyền Nga và Nhà thờ Chính thống giáo vì những nỗ lực của họ để bảo vệ các “giá trị truyền thống” của Nga về vẫn đề này cũng như các nỗ lực nhằm thay đổi cách nhìn của người Nga đối với các vấn đề lịch sử thời Liên bang Xô Viết.

Đối với lĩnh vực ngoại giao thì đó là việc lôi kéo các quốc gia Đông Âu và các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô Viết cũ rời khỏi các quan hệ hợp tác với Nga, trở thành thành viên của NATO hoặc chấp nhận cho Mỹ đặt các căn cứ quân sự.

Đối với lĩnh vực quân sự thì đó là việc hỗ trợ từ gián tiếp tới trực tiếp, từ tiền bạc tới vũ khí cho các lực lượng, các quốc gia có các xung đột vũ trang với Nga. Các hỗ trợ của phương Tây đối với lực lượng Hồi giáo Apghanistan để chống Liên Xô từ năm 1979 tới 1989, các lực lượng nổi dậy ở Chechnya trong 2 cuộc chiến 1994 và 2000 và các hỗ trợ cho Gruzia dẫn tới cuộc chiến 5 ngày năm 2008 với Nga. Và gần đây nhất là các hỗ trợ cho Ukraine.

......
Phương tây ko phải là một thể thống nhất, nó bao gồm nhiều nước với nhiều chính sách và quyền lợi khác nhau. Xã hội phương tây cũng luôn năng động và thay đổi, cạnh tranh lẫn nhau. Sau khi lx sụp đổ, nước Nga được chào đón đến với thế giới phương tây. Tuy nhiên thế giới đó ko màu hồng, họ vẫn phải giải quyết các vấn đề của mình và cạnh tranh với các đối tác để phát triển. Khi ông Putin lên nắm quyền, thay vì nỗ lực đổi mới chính mình để trở nên tốt đẹp hơn, hấp dẫn hơn, nước Nga lại quay ra đổ lỗi cho phương tây vì những hạn chế của mình. Thay vì hoà nhập họ lại tự cô lập chính mình. Họ tự khoác lên mình cái trách nhiệm bảo vệ những giá trị Liên xô. Thay vì tìm cách phát triển kinh tế, xã hội, khkt để tạo nên sự hấp dẫn của chính mình, thì họ lại quay ra tăng cường vũ trang, đe doạ các nước láng giềng khi những quốc gia đó chọn con đường khác để đi lên. Mặc dù làm tổng thống Nga trong thời gian rất dài, nhưng đáng tiếc tầm nhìn của ông Putin vẫn là tầm nhìn của một nhân viên an ninh, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và luôn đe doạ dùng sức mạnh. Ảnh hưởng kinh tế, xã hội, văn hoá của nước Nga ngày càng suy giảm, thì ông lại dùng các cuộc chiến quân sự bù lại. Xã hội Nga ngày càng bị quân sự hoá, giống như nước Đức trước thế chiến thứ 2, nên gây nên các cuộc chiến tranh ngày càng dễ dàng do các thế lực ủng hộ chiến tranh trong nước ngày càng có thế mạnh. Thông qua những cuộc chiến tranh thế này, vai trò của giới quân sự, các tổ hợp quân sự quốc phòng được vực dậy, áp đảo các thành phần kinh tế xã hội khác, và lại càng củng cố quyền lực cho ông Putin.
 

cocsku

Xe cút kít
Biển số
OF-29844
Ngày cấp bằng
23/2/09
Số km
17,089
Động cơ
588,616 Mã lực
Ai đã đẩy Nga đến bờ vực nội chiến?
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

(Tiếp)

ĐỐI NỘI

Nếu các hoạt động phát triển nông nghiệp và công nghiệp trong nước vừa có tác dụng nâng cao sức đề kháng của nền kinh tế Nga là một biện pháp vừa nhằm chuẩn bị chiến tranh vừa nhằm nâng cao đời sống kinh tế thì bên cạnh đó Nga cũng thực thi một loạt các hoạt động phòng ngừa khác.

Đối với cách thâm nhập ưa thích của phương Tây là qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Nga đã luật hóa các quy định hạn chế các tổ chức này và cuối cùng là đóng cửa hoạt động của các tổ chức có xu hướng tác động vào đời sống chính trị, xã hội. Hệ thống internet, kênh lan truyền các thông tin chống chính phủ trong các cuộc “cách mạng màu” cũng được kiểm soát. Nga là quốc gia đầu tiên triển khai và thực nghiệm việc ngắt kết nối hoàn toàn hệ thống internet trong nước với quốc tế. Các quy định nhằm bảo vệ “giá trị truyền thống” của dân tộc Nga và Chính thống giáo cũng được ban hành, đặc biệt là nhắm vào các đối tượng đồng tính luyến ái (LGBT).

1687944678519.png


Cùng với việc loại trừ các ảnh hưởng của phương Tây trong đời sống xã hội, các hoạt động về giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc cũng được triển khai song song với các tuyên truyền về các hoạt động bài Nga ở Ukraine. Tổ chức Wagner với cơ cấu tương tự như đội quân Lê dương của Pháp cũng được triển khai trong thời kỳ này và thử thách chiến đấu ở nhiều địa bàn.

Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh nổ ra, Putin và toàn thể ban lãnh đạo của Nga đã có những buổi tường thuật trực tiếp trên truyền hình về việc ra quyết định mở chiến dịch tại Ukraine và sau này là sáp nhập 4 tỉnh của Ukraine vào Nga. Nhiều người cho rằng Putin chỉ đơn thuần là diễn kịch. Tuy nhiên, tôi cho rằng Putin đã tính đến trường hợp có những người trong ban lãnh đạo Nga có thể sẽ “trở cờ” trong quá trình chiến tranh hoặc sau này sẽ đặt vấn đề “xét lại” đối với cuộc chiến Ukraine và đổ cho Putin quyết định mọi thứ một cách độc tài. Bằng việc truyền hình trực tiếp cho nhân dân và cho cả thế giới, Putin cho thấy ông đã đưa toàn bộ hệ thống Nga vào con đường chỉ có tiến lên chứ không thể lùi và không một cá nhân lãnh đạo nào có thể tìm cách “nhảy khỏi con tàu” khi khó khăn xảy ra.

1687944763649.png


MẶT TRẬN NGOẠI GIAO

Người Nga nhận thấy rằng Obama đã quá tự tin khi cho rằng toàn bộ cộng đồng quốc tế sẽ đi theo Mỹ trong cuộc chiến chống Nga. Nước Nga đã lần lượt, từng bước tiến hành một chính sách để đảm bảo chia rẽ liên minh mà Mỹ dự định lập ra trong tương lai khi cuộc chiến Ukraine nổ ra.

1/ Phần đầu tiên là chính sách ngoại giao với châu Âu và NATO.

Trong khi Đức và Pháp tin tưởng rằng mình đã ru ngủ được Nga khi ký 2 thỏa thuận Minsk; trong khi Ukraine nhìn nhận sự ủng hộ hạn chế của Nga đối với vùng Donbass trong suốt 8 năm vùng này bị Ukraine dội pháo và từ chối thực hiện thỏa thuận Minks là sự ngần ngại của Nga đối với việc leo thang cuộc chiến thì cả châu Âu và Ukraine đều không nhận ra được là Nga đang từng bước cài thế cho cuộc chiến tranh tới. Đức, quốc gia mạnh nhất trong khối EU sau khi Anh rời khỏi khối, trở thành quốc gia có tỷ lệ phụ thuộc vào khí đốt của Nga lớn nhất. Trong năm 2022, tổng số các gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi giá nhiên liệu tăng của Đức là khoảng 1.300 tỷ EU. Dù 1.300 tỷ EU là một con số khủng khiếp nhưng nó cũng chỉ giúp được cho những người được hỗ trợ cầm cự chứ không phải là phát triển. Và ngay cả với một nước giàu như Đức thì việc tiếp tục hỗ trợ như vậy cũng sẽ nhanh chóng khiến quốc gia này đuối sức. Trong khi đó, người Ukraine không có khả năng đánh bại Nga trên chiến trường và người Nga thì chưa hề có ý định bỏ cuộc. Đó cũng là lý do khiến cho Đức là nước dè dặt nhất trong việc hỗ trợ vũ khí cho Ukraine khi chiến tranh nổ ra.

1687944840509.png


Khi cuộc chiến Ukraine nổ ra và EU áp dụng các biện pháp trừng phạt, Nga đã áp dụng các biện pháp đáp trả một cách khác nhau đối với các quốc gia EU để chia tách hành động của khối này. Đối với các quốc gia cuồng nhiệt chống Nga nhất là 3 nước vùng Baltic và Ba Lan, Nga cắt toàn bộ các nguồn cung năng lượng – từ khí, dầu tới điện – ngay khi các nước này từ chối thanh toán theo hợp đồng đã ký và thực hiện cấm vận. Với các nước khác như Đức và trung Âu, Nga mở lối cho họ vẫn giữ được thể diện là đang thực hiện cấm vận nhưng thực ra là vẫn thực hiện hợp đồng đã ký với Nga. Đó là việc không thanh toán bằng tiền Nga nhưng chuyển tiền EUR cho ngân hàng Nga để ngân hàng đổi sang rúp Nga và chuyển cho bên bán. Điều trên đã dẫn tới sự không đồng bộ trong hành động (giai đoạn đầu) tới mức đối đầu giữa một số quốc gia. Điển hình nhất là Hungary đã chỉ thực thi một phần cấm vận và từ chối những biện pháp gây thiệt hại cho nước này. Thái độ cứng rắng của Hungary đã dẫn tới việc bà Ursula von der Layen, chủ tịch ủy ban châu Âu phát biểu rằng sẽ có biện pháp xử lý Hungary. Phát biểu này đã dẫn tới phản ứng dữ dội của các đảng cánh tả các nước EU. Họ gọi đó là một hành động đe dọa phi pháp, phi dân chủ. Thực tế là tới lúc đó tới nay, Hungary vẫn hành động theo lợi ích của mình, từ chối cung cấp vũ khí, tiền bạc cho Ukraine và từ chối thực hiện các cấm vận có hại cho họ nhưng EU cũng không có bất kỳ biện pháp nào để trừng phạt quốc gia này. Điều này đã khiến cho chính phủ mới ở một số nước sau khi chính phủ cũ (với quan điểm chống Nga triệt để) sụp đổ giảm hẳn cường độ chống Nga (ví dụ như Bulgary và Ý).

1687944966049.png

Pháo tự hành Crab Ba Lan chuyển cho Ukraine

Phản ứng về mặt ngoại giao của Nga với Đức và Ba Lan cũng khác nhau. Nếu như Nga luôn có các bình luận đối với các phát biểu của Đức thì họ có thái độ phớt lờ đối với các phát biểu của Ba Lan. Trường hợp có phát biểu thì người Nga luôn ý tứ ám chỉ dã tâm của Ba Lan khi nhiệt tình giúp đỡ Ukraine là nhằm chiếm lại vùng lãnh thổ miền Tây Ukraine. Ngay cả việc Ba Lan tăng cường cho quân đội thêm 250 ngàn quân gần đây thì Nga cũng ám chỉ rằng số quân đó là để bù cho số quân sẽ tiến vào chiếm vùng phía Tây Ukraine. Trong khi mối quan hệ giữa Ba Lan và Nga đã bị đóng băng thì quốc gia này, hào hứng với sự gia tăng vai trò quốc tế kể từ khi chiến tranh Ukraine nổ ra, đã quay sang yêu cầu Đức bồi thường hàng ngàn tỷ EUR cho các thiệt hại mà nước này gây ra cho Ba Lan trong Thế Chiến 2. Mặc dù Đức đã thẳng thừng từ chối nhưng Ba Lan vẫn tiếp tục lời qua tiếng lại. Điều này cho thấy rằng các quốc gia lớn nhất của châu Âu đang bị phân tâm, không tập trung vào việc chống Nga khi cuộc chiến Ukraine bắt đầu chuyển sang giai đoạn quyết định.

1687945154504.png

Ba Lan chuyển giao xe tăng Leopard-2 cho Ukraine
.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

(Tiếp)

2/ Thổ Nhĩ Kỳ

Trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một ví dụ khác của chính sách ngoại giao Nga. Thổ tuy không phải là một thành viên của EU nhưng lại là thành viên quan trọng của NATO khi họ kiểm soát eo biển Dardanelles và Bosphorus nối giữa Địa Trung Hải và Biển Đen. Vào năm 2015, người Nga đã tiến hành chiến dịch quân sự ở Syria, quốc gia phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ để chống ISIS. Sau 5 năm, ISIS đã gần như bị tiêu diệt hoàn toàn nhưng người Nga đã nắm được một quân bài quan trọng để đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ. Kẹp ở giữa Thổ Nhĩ Kỳ về phía Bắc và vùng kiểm soát của chính phủ Syria về phía Nam là vùng kiểm soát của lực lượng người Kurds được Mỹ hỗ trợ và trang bị. Trước đó người Mỹ đã viện trợ và trang bị cho lực lượng này để họ chống lại ISIS. Tuy nhiên, bản thân người Kurds lại có giấc mộng riêng, họ muốn có một quốc gia Kurdistan riêng của mình – và quốc gia đó sẽ bao trùm các vùng đất có người Kurds sống (tức là có cả một phần phía Nam của Thổ Nhĩ Kỳ). Điều này đã khiến cho Thổ Nhĩ Kỳ đi từ đối đầu với Nga (Thổ từng bắn hạ một máy bay Su-24 của Nga vào năm 2015) đến hợp tác với Nga tại Syria. Họ có chung một mục đích là sử dụng các biện pháp từ kinh tế tới quân sự để loại trừ lực lượng nổi dậy Kurds thân Mỹ. Sự hợp tác này đã dẫn tới việc Thổ trở thành một cực khác ngoài Mỹ (và châu Âu), Nga, và Ukraine trong cuộc chiến.

1688033981639.png

Quana đội Nga và Thổ Nhĩ Kỳ tại Syria

Cho thời điểm này, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia duy nhất có thể khiến Nga nghiêm túc nói chuyện (chúng ta có thể còn nhớ chuyện Paris, Washington cố gắng gọi điện và điện Kremlin không trả lời vào các thời điểm nghiêm trọng trong năm 2022). Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến cho cả Ukraine lẫn Nga ngồi lại đàm phán. Họ cũng thực hiện việc giữ các tù binh Ukraine mà Nga chấp nhận trao đổi trong lần đầu tiên tại Thổ cho tới hết chiến tranh. Họ cũng là người trung gian cho đàm phán và bảo đảm thực hiện cho thỏa thuận bán lúa mì cho Ukraine. Và quan trọng hơn nữa, họ đang trở thành trung tâm vận chuyển khí đốt của Nga cho vùng Nam châu Âu thay thế cho Ukraine.

Việc chơi hai mang của Thổ Nhĩ Kỳ là rõ ràng với tất cả các bên. Thế nhưng, càng ngày, Thổ Nhĩ Kỳ càng nghiêng về phía Nga vì có lợi hơn (và Nga cũng có lợi hơn cả về mặt kinh tế lẫn chính trị, ngoại giao khi hợp tác với Thổ). Trong chiến tranh lạnh, Thổ Nhĩ Kỳ được phương Tây o bế vì họ có thể ngăn chặn hạm đội Biển Đen của Liên Xô tiến sang Địa Trung Hải. Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ thì Thổ Nhĩ Kỳ mất vai trò quan trọng với NATO. Quốc gia này thường xuyên bị châu Âu chỉ trích vì các chính sách của mình và dù đã xếp hàng 20 năm nhưng vẫn chưa được gia nhập EU. Khi cuộc chiến Ukraine nổ ra, Thổ Nhĩ Kỳ phát hiện ra rằng, nếu họ duy trì quan hệ tốt với Moscow thì không chỉ biên giới phía Nam của họ yên ổn (khi mà cùng Nga họ có thể khống chế và tiến tới tiêu diệt lực lượng Kurds thân Mỹ) mà vị thế của họ với Mỹ và EU cũng tăng vượt bậc. Vào đầu chiến tranh, việc cung cấp các thiết bị bay không người lái (UAV) của Thổ Nhĩ Kỳ cho Ukraine được sử dụng như là một con bài để đàm phán với Nga.

1688034101283.png

UAV của Thổ Nhĩ Kỳ bán cho Ukraine

Tuy nhiên, chỉ một thời gian rất ngắn sau khi thấy rằng Nga có đầy đủ phương tiện để tiêu diệt các UAV này thì Thổ Nhĩ Kỳ đã ngừng cung cấp các sản phẩm này cho Ukraine và chuyển sang đàm phán với Nga về trung chuyển dầu khí. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì nếu tiếp tục cung cấp UAV, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đánh mất uy tín của thiết bị này (mà họ đã có được một cách vang dội trong cuộc chiến Armenia – Azerbaijan trước đó) khi quân Nga bắn rụng hàng loạt. Trong khi đó việc trở thành bên trung chuyển khí đốt cho Nga sẽ mang lại một nguồn lợi lớn và ổn định trong thời gian dài cho Thổ Nhĩ Kỳ. Với mức lạm phát có lúc lên tới 30%/năm như hiện nay, nguồn thu từ Nga sẽ có ý nghĩa sống còn với Thổ Nhĩ Kỳ. Với mối quan hệ với Nga, Thổ Nhĩ Kỳ có thể sử dụng lợi thế của mình để mặc cả với phương Tây. Ví dụ điển hình nhất là Thổ Nhĩ Kỳ đã bỏ phiếu chống đơn gia nhập NATO của Thụy Điển nếu nước này không giao cho Thổ Nhĩ Kỳ những lãnh đạo của đảng công nhân người Kurds thân Mỹ. Biểu hiện rõ ràng nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Mỹ (và phương Tây) là phát biểu của ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ khi nghe tin Mỹ gửi lời chia buồn đối với vụ đánh bom tại thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ khiến nhiều người chết hồi cuối năm 2022. Ông nói rằng Thổ Nhĩ Kỳ từ chối nhận lời chia buồn đó vì họ biết rất rõ ai là người huấn luyện, đào tạo, hỗ trợ những kẻ đánh bom.

3/ Saudi Arabia

Saudi Arabia là đồng minh quan trọng bậc nhất của Mỹ ở vùng Vịnh. Quốc gia này là nước bỏ nhiều tiền nhất cho hai cuộc chiến của Mỹ chống Iraq. Tuy nhiên, kể từ khi hợp tác với Nga trong việc triệt hạ ngành dầu đá phiến của Mỹ giai đoạn 2015-2020, Saudi Arabia càng ngày càng trở nên độc lập với Mỹ. Đỉnh điểm của việc này là sau khi cuộc chiến Ukraine nổ ra và giá dầu, khí trên thế giới tăng phi mã, cả tổng thống Mỹ, tổng thống Pháp và thủ tướng Anh đã lần lượt tới Saudi Arabia để đề nghị nước này giúp giảm giá dầu bằng cách tăng sản lượng hoặc cung cấp cho họ với giá ưu đãi. Tuy nhiên, cùng với việc đón tiếp lạnh nhạt (Saudi Arabia cử một tỉnh trưởng ra đón các nguyên thủ trên) câu trả lời của Saudi Arabia là cắt giảm sản lượng khiến cho giá tăng còn cao hơn. Hành động này, không có gì nghi ngờ nữa, đã giúp cho Nga cả về thế và lực trong việc duy trì chiến tranh.

1688034186022.png


4/ Trung Quốc

Cuộc chiến Ukraine mang lại lợi ích cho Trung Quốc ở nhiều mặt. Là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới và đang soán ngôi nền kinh tế số 1 của Mỹ, Trung Quốc luôn khát năng lượng. ¾ năng lượng của Trung Quốc được chuyên chở qua eo biển Singapore và biển Đông. Nếu có sự biến, hạm đội 7 của Mỹ sẽ có thể dễ dàng chặn 2 điểm này và Trung Quốc sẽ bị bóp nghẹt về năng lượng. Do đó, một nguồn năng lượng cung cấp trên bộ, giá rẻ và ổn định, với khối lượng lớn là sự bảo đảm lý tưởng cho Trung Quốc đối với phát triển lâu dài. Nga là một đối tác lý tưởng về cung cấp năng lượng vì Trung Quốc biết Nga ý thức rất rõ rằng họ không thể xâm chiếm, hay kiểm soát được Trung Quốc và họ sẽ bị thiệt hại to lớn nếu Trung Quốc sụp đổ. Ngược lại, Nga cũng hiểu rõ rằng Trung Quốc không có tham vọng về đất đai với một quốc gia có tiềm lực vũ khí hạt nhân mạnh nhất thế giới. Những người nói rằng Trung Quốc đang nhòm ngó vùng Siberia của Nga thực ra không biết gì về việc ảnh hưởng và sự hiện diện của Trung Quốc tại châu Phi. Tuy nhiên đây là một vấn đề khác, không bàn ở đây.

Với một dân số 1,5 tỷ người và nền kinh tế quy mô số 1 thế giới, Trung Quốc hoàn toàn có thể thay thế được châu Âu trong tương lai xa (nếu châu Âu hoàn toàn cắt đứt việc mua khí đốt của Nga).

Trong những năm 1970s, người Mỹ đã hy sinh chế độ miền nam Việt Nam và một phần quan trọng quyền lợi của Đài Loan để tiếp cận và hợp tác với Trung Quốc để chống Liên Xô. Kissinger lúc đó đã nhận xét rất đúng rằng tuy Trung Quốc lúc đó còn nghèo khó nhưng không thể không cần Trung Quốc trong việc đánh bại Liên Xô. Tuy nhiên sang đầu thế kỷ 21, người Mỹ lại đi ngược cái nguyên tắc thành công đó. Họ cùng lúc coi Nga và Trung Quốc là hai kẻ thù và để cho hai đối thủ này bắt tay liên minh với nhau.

.....
 

cocsku

Xe cút kít
Biển số
OF-29844
Ngày cấp bằng
23/2/09
Số km
17,089
Động cơ
588,616 Mã lực

Đông86

Xe điện
Biển số
OF-801021
Ngày cấp bằng
21/12/21
Số km
2,927
Động cơ
97,692 Mã lực
Quân Ukr có nhiều bước tiến thành công.
Bài báo này là về mặt trận Bakhmut.
Khi tấn công- Mỹ dựa vào hỏa lực không quân đánh điểm, Nga dựa vào pháo binh "dọn bãi".
Ukraine vừa đánh vừa chọn lối đánh riêng.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)

(Tiếp)

5/ Ấn Độ

Cùng với Trung Quốc, Ấn Độ là nước được hưởng lợi lớn qua cuộc chiến Ukraine. Với việc phương Tây cấm việc mua dầu của Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã nhập dầu của Nga về rồi trộn với dầu có nguồn gốc khác và bán lại cho phương Tây để hưởng một khoản lớn từ giá chiết khấu của Nga và phần giá tăng do thị trường. Khi bị chỉ trích về việc mua dầu của Nga, ngoại trưởng Ấn Độ đã vỗ mặt nhà báo châu Âu rằng đã đến lúc châu Âu dừng việc cho rằng mọi vấn đề của của họ là vấn đề của thế giới còn mọi vấn đề của phần còn lại của thế giới thì không liên quan tới họ. Trong một cuộc phỏng vấn khác, ông nói rằng phương Tây nên nhớ rằng Ấn Độ từ lâu đã không còn là một nước thuộc địa và họ sẽ hành động không phải theo cách mà phương Tây muốn mà là cách có lợi nhất cho lợi ích quốc gia của họ.

6/ Sự mở rộng của BRICS

Vào tháng 7/2022 lãnh đạo các nước G7 và NATO có các cuộc họp thượng đỉnh cách nhau chỉ vài ngày với mục đích là thống nhất hành động chống Nga. Cuộc họp này diễn ra sau cuộc họp thượng đỉnh của khối BRICs (với các thành viên là Nga, Trung Quốc, Brasil, Ấn Độ và Nam Phi. Tại cuộc họp này các thành viên không có bất kỳ hành động nào chống hay lên án cuộc chiến của Nga tại Ukraine. Đồng thời, sau cuộc họp đã có hai quốc gia là Algeria, Argentina và Iran nộp đơn gia nhập khối. Các quốc gia khác đang quan tâm tới việc gia nhập và thường xuyên cử đại diện dự thính các cuộc họp của khối là Saudi Arabia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan, Nigeria, Senegal, Thái Lan và United Arab Emirates.

Với 5 quốc gia thành viên hiện tại thì vào năm 2023 GDP tổng cộng của khối theo sức mua liên quan (PPP) sẽ chiếm 36% thế giới trong khi G7 chiếm 27%. Tỷ lệ này sẽ còn thay đổi hơn theo hướng tăng thêm cho BRICs vì dân số của nhóm này chiếm 41% dân số thế giới so với 17% của nhóm G7. Tất cả các nền kinh tế này đều là các nền kinh tế năng động và đang đi lên.

1688119845081.png


Một sự trùng hợp khó chịu cho phương Tây là tất cả các nước thành viên của khối BRICs và các nước đang muốn trở thành thành viên đều không tham gia vào các lệnh cấm vận trừng phạt Nga. Khởi đầu là sự khác nhau giữa hai khối về quan điểm liên quan tới cách vận hành nền thương mại quốc tế. Giờ đây, hai khối này đã bắt đầu thể hiện sự khác nhau về quan điểm chính trị.

Trước đây nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc vào quan điểm của hai khối là G7 và G20, trong đó G7 đóng vai trò chủ chốt. Để khuyến khích Nga hợp tác, G7 đã tạo ra cơ chế G7+1 để Nga có thể tham gia dự thính các cuộc họp của khối. Tuy nhiên, sau khi khối BRICs được tạo ra thì các lời đe dọa của phương Tây là loại Nga ra khỏi khối G7+1 không có ý nghĩa. Và thực tế là giờ đây không ai nhớ là G7 đã loại Nga ra khỏi nhóm G7+1 lúc nào (vì nó không ảnh hưởng gì tới các diễn biến đang xảy ra). Tương tự, khối G20 cũng mất ý nghĩa khi các thành viên chủ chốt của khối lại là thành viên của G7 và BRICs. Điều đó dẫn tới việc người ta quan tâm tới quan điểm của G7 và BRICs chứ không để ý G20 bàn cái gì.

Khi chiến tranh Ukraine nổ ra, phương Tây chợt phát hiện ra rằng G7 không còn là cực kinh tế duy nhất của thế giới và khối này không còn quyền lực để buộc cả thế giới phải tuân theo các quyết định cấm vận của khối nữa. Đến lúc đó, có lẽ họ đã nhận ra rằng sự phát triển của BRICs chính là một phần quan trọng của kế hoạch chuẩn bị chiến tranh của Nga – nó đã làm xói mòn nghiêm trọng sức mạnh kinh tế của phương Tây trong cuộc chiến chống Nga.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

KẾT LUẬN CHO PHẦN 1

Nhìn nhận lại toàn bộ các vấn đề vừa nêu, chúng ta có thể thấy rằng, về thực lực tương quan giữa Nga và Ukraine, vào năm 2014, quân đội Nga có thể đè bẹp quân đội Ukraine và tiến thẳng tới Kiev. Tuy nhiên, nếu nhìn về tương quan lực lượng giữa phương Tây và Nga thì chiến thắng đó có thể sẽ dẫn tới sự sụp đổ của nước Nga sau đó. Vào thời điểm đó, khối đoàn kết của phương Tây sẽ rất chặt chẽ. Nước Nga chưa chuẩn bị và có khả năng chống lại một cuộc cấm vận ngặt nghèo và nền kinh tế có thể sụp đổ. Nền công nghiệp quốc phòng của Nga lúc đó cũng chưa được chuẩn bị. Về bối cảnh quốc tế thì nước Nga cũng chưa tạo ra được các liên minh, đồng minh có chung lợi ích với mình.

Tuy nhiên, khi ký 2 thỏa thuận Minsk và trong 8 năm tiếp theo, Putin đã làm theo hai phương châm của hai địch thủ của Liên Xô trước kia đã từng thành công rực rỡ. Thứ nhất là “thao quang dưỡng hối” của Đặng Tiểu Bình. Thứ hai là liên kết với Trung Quốc để đánh kẻ thù của mình của Kissinger. Nước Nga đã “náu mình chờ thời” như Trung Quốc những năm 1980. Họ thầm lặng tái cấu trúc lại nền kinh tế và phát triển nền công nghiệp quốc phòng chuẩn bị cho chiến tranh. Về mặt đối ngoại, không chỉ bắt tay với Trung Quốc theo thuyết của Kissinger, Nga đã bắt tay với những đối thủ khó nhằn nhất và tiến vào những vùng khó khăn, phức tạp nhất để tạo thế. Đó là việc tiến vào Syria. Việc cắm quân ở Syria đã giúp cho Nga có quân bài đàm phán và thực tế đã lôi kéo được hai đối tác quan trọng cho cuộc chiến sắp tới. Đó là Saudi Arabia, người đã giúp Nga “bẻ nanh hổ” bằng cách triệt hạ nền công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, người đang vừa là “kỳ đà cản mũi” khối NATO và phương Tây trong nỗ lực chống Nga vừa đang trở thành người thay thế Ukraine trong việc cung cấp khí cho Nam Âu (và điều đó có nghĩa là giúp Nga duy trì sự ảnh hưởng vào châu Âu).

Người Nga đã sử dụng tiền mua khí đốt của châu Âu để đánh nghành công nghiệp dầu đá phiến của Mỹ rồi sau đó lại dùng tiền mua khí đốt của Trung Quốc để ngăn chặn cấm vận của châu Âu.

Không chỉ dừng lại ở đó, để chuẩn bị cho một cuộc chiến khu vực với Ukraine, Nga đã tiến hành các bước để thay đổi cuộc chơi kinh tế toàn cầu. Đó là việc cùng Trung Quốc lập ra khối BRICs và các thỏa thuận sử dụng đồng tiền nội tệ của khối để mua bán dầu và hàng hóa trong khối. Phương Tây quen lối suy nghĩ là Liên Xô và người Nga chỉ mạnh về quân sự và không có khả năng ứng phó về kinh tế. Thế nhưng ở đây, nước Nga bắt đầu cuộc chiến một cách thầm lặng ở mặt trận mà phương Tây cho là mình mạnh nhất – kinh tế. Bằng cách lùi lại và chấp nhận những thiệt thòi kinh tế nhất định, họ đã khiến cho các nước đồng mình trong BRICs thoát khỏi sự đe dọa của phương Tây và tìm thấy lợi ích chung khi chống lại các hoạt động cấm vận của phương Tây. Thay vì việc để phương Tây cô lập và bao vây mình, họ tạo ra nhiều mặt trận với nhiều đối thủ mới cho phương Tây.

Như một tay chơi cờ vua cáo già, Nga ru ngủ châu Âu và khiến cho họ trở nên nghiện ngập với khí đốt của mình. Khi cuộc chiến nổ ra, châu Âu tưởng rằng mình có thể ăn một con xe của Nga (cắt nguồn thu từ khí đốt cho châu Âu và dầu mỏ) thì họ phát hiện ra Nga không mất con xe đó (vì đã có Ấn Độ và Trung Quốc thế vào). Ngược lại châu Âu rơi vào một cơn lốc tăng giá sinh hoạt (mất một con mã). Khi họ bỏ tiền ra để mua khí giá cao từ Mỹ để có đủ năng lượng sưởi qua mùa đông thì họ phát hiện ra là họ có thể sẽ mất một con xe (nền công nghiệp cần nhiều năng lượng có thể sống sót trong năm nay nhưng không thể sống sót trong những năm tới). Nếu họ không có biện pháp xử lý thì họ sẽ mất tiếp con xe khác (các ngành cần nhiều năng lượng lại có sản phẩm là đầu vào của nhiều ngành khác. Ví dụ ngành phân bón là đầu vào của nông nghiệp, luyện kim là đầu vào của nhiều ngành công nghiệp nhẹ, ngành điện là đầu vào của mọi ngành khác). Nếu họ tiếp tục vay tiền để bù lỗ năng lượng và tạo ra nguồn năng lượng mới (điện mặt trời, điện gió) thì giá thành năng lượng còn cao hơn giá bù lỗ và số tiền đó sẽ làm lợi cho Trung Quốc (9/10 công ty hàng đầu về tấm pin mặt trời là của Trung Quốc). Cuối cùng, họ sẽ có một chính phủ nợ nần, và một nền công nghiệp không thể cạnh tranh với Trung Quốc. Lúc đó, việc Trung Quốc thôn tính các doanh nghiệp quan trọng của họ sẽ trở thành hiện thực chứ không còn là mối đe dọa nữa... Lúc đó, họ sẽ mất con hậu trên bàn cờ. Thực tế là đã có 6 chính phủ chống Nga hàng đầu ở châu Âu sụp đổ trong năm 2022 vì không giải được bài toán trên.

Nói một cách ngắn gọn, cuộc chiến tranh Ukraine 2022 đã bắt đầu từ rất lâu trước đó và ở trên các mặt trận không tiếng súng. Người Nga đã âm thầm chuẩn bị cho cuộc chiến này từ rất lâu và có tính toán cẩn thận. Nếu hiểu rõ điều trên, chúng ta sẽ biết rằng việc tuyên bố Nga sắp hết tên lửa như cách các nhà lãnh đạo Ukraine và phương Tây đang nói để ám chỉ rằng Nga sắp bỏ cuộc là vô nghĩa...

Hết phần 1.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
CHIẾN TRANH Ở UKRAINE – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR) – Phần 2. Chiến sự qua ngôn ngữ ngoại giao

Tác giả: BAO ANH THAI

Ở trong phần 1 “CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CHIẾN TRANH (PATH TO WAR)” chúng ta nhìn theo cách nhìn của người Nga về con đường dẫn tới cuộc chiến Ukraine. Trong phần đó, chúng ta thấy rằng người Nga nhìn nhận rằng cuộc chiến với NATO thông qua Ukraine là không thể tránh khỏi và họ đã chuẩn bị về nhiều mặt cho cuộc chiến này. Ở phần tiếp theo này, chúng ta sẽ bàn tới 1 trong 2 câu hỏi đã nêu ở phần trước nhưng chưa được trao đổi. Đó là:

(iii) Tại sao Merkel và Hollande lại nói điều này (2 thỏa thuận Minsk được ký chỉ để mua thời gian cho Ukraine tái trang bị vũ trang) vào tháng 12/2022, sau khi đã giữ kín chuyện đó 8 năm liền?

Tại sao Merkel và Hollande lại nói ra việc này vào tháng 12/2022. Vào thời điểm phát biểu, cả hai nguyên thủ này đều đã nghỉ hưu và vì họ không có ý định quay lại chính trường; và vì họ đã từng đứng trên đỉnh cao nhất quyền lực ở nước họ nên việc phát ngôn chỉ để lấy danh tiếng có thể loại trừ. Ở vị thế của họ, cách tốt nhất là không phát ngôn gì về những việc đang diễn ra và càng không nên nói về những sự kiện mà họ là tác giả tạo ra trước đó. Ai cũng thấy rằng, việc họ nói ra câu chuyện 2 thỏa thuận Minsk chỉ là một màn kịch kéo dài thời gian sẽ khiến cho họ, về mặt cá nhân, trở thành hai lãnh đạo công khai thừa nhận thủ đoạn lừa dối của mình.

Bà Merkel là một chính khách chuyên nghiệp và làm thủ tướng Đức trong 16 năm liền và trong những năm làm thủ tướng đó, vốn là một người kiệm lời, bà chưa mắc phải một sai lầm nghiêm trọng nào trong phát ngôn. Cuộc phỏng vấn của bà là một cuộc phỏng vấn rất dài và được chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. Do đó, khả năng lỡ lời của bà là gần như không có. Tổng thống Hollande của Pháp cũng là một nhà chính khách chuyên nghiệp. Trước khi làm tổng thống, ông đã làm quan chức cao cấp của chính phủ nhiều năm nên khả năng lỡ lời rất thấp. Hơn nữa, cuộc phỏng vấn đối với ông diễn ra sau cuộc phỏng vấn của Merkel 1 tuần và những gì bà ấy nói đã trở thành một cơn shock cho dự luận quốc tế. Ông Hollande không thể không biết điều đó và càng không thể lỡ lời về việc đó. Như vậy có thể chắc chắn rằng cả 2 người đều nói ra việc này một cách có chủ đích và vào thời điểm được lựa chọn.

Về mục đích của việc tiết lộ thì có thể có 2 khả năng và mỗi khả năng sẽ có một thời điểm thích hợp. Khả năng thứ 1 là bà Merkell và ông Hollande nói ra điều đó để mọi người biết được công lao của họ. Điều này có nghĩa là Ukraine đang chiến thắng và vì thế họ nói ra để cho mọi người thấy rằng thắng lợi của Ukraine là do họ kiến tạo (đã lừa Putin khi ký vào 2 thỏa thuận Minsk để cho Ukraine có thời gian xây dựng lại lực lượng vũ trang và chiến thắng). Tuy nhiên, nếu như vậy thì thời điểm họ cần nói ra là vào tháng 9/2022, ngay sau khi Ukraine phản công và giải phóng được 1 vùng rộng 2.000 km2 tại phía Nam Kharkov. Vào thời điểm đó, không ai hiểu việc gì đang diễn ra. Cuộc tấn công của Ukraine phát triển nhanh chóng và quân Nga liên tục rút lui, bỏ lại những vị trí đặc biệt chiến lược như Izyum.

Vào thời điểm đó không ai biết quân chủ lực của Nga ở đâu và tại sao họ, dù bị thiệt hại rất ít, nhưng bỏ một vùng rộng lớn 2.000 cây số vuông một cách nhanh chóng (mặc dù trước đó họ phải chiến đấu mất 1 tháng rưỡi để chiếm được vùng này). Đó là thời điểm thuận lợi nhất cho các phát biểu “kể công”.

Thời điểm thứ hai, không thuận lợi cho việc công bố bằng thời điểm một là lúc quân Nga rút quân khỏi Kherson vào ngày 8/11/2022. Tuy nhiên vào thời điểm này, ai cũng biết rằng Ukraine không có một thắng lợi quân sự thực sự. Quân Nga trước đó đã chặn đánh thành công mọi cuộc tấn công của Ukraine vào khu vực Kherson và sau đó đã có một cuộc rút lui hoàn hảo. TV Nga công bố cảnh những người lính đặc nhiệm Nga rút lui cuối cùng đi bộ một cách thản nhiên qua cầu phao về bờ Đông của sông Dniepper. Chỉ vài ngày sau khi quân Nga rút, quân đội Ukraine mới tiến vào Kherson.

Thời điểm của Merkel và Hollande công bố thông tin diễn ra là khi mọi dấu hiệu cho thấy Ukraine đã bắt đầu đuối sức, tình hình bắt đầu tuyệt vọng và người Nga chắc chắn đã quyết định một cuộc chiến tranh khốc liệt đến cùng với Ukraine. (Các phân tích về vấn đề này sẽ được trình bày trong loạt bài này).

Khi cuộc chiến bắt đầu sắp sang một bước ngoặt có thể dẫn tới sự sụp đổ của Ukraine, các chính trị gia sẽ tìm mọi cách để bảo vệ uy tín của chính mình (nếu có thể). Trong trường hợp này, các chính trị gia đã về hưu sẽ là người có thể tiến hành các biện pháp bảo vệ mình mà không bị ngăn cản như các chính trị gia đương chức. Với các chính trị gia đương chức, nếu họ nói rằng Ukraine sẽ thua thì việc đó xảy ra, họ sẽ bị đổ lỗi là vì họ không ủng hộ Ukraine hết mức. Các chính trị gia đã về hưu thì không lo sợ điều đó (vì họ có thể đổ lỗi cho các chính trị gia đang tại vị). Hơn nữa, nếu nói ra càng sớm việc họ đã giúp Ukraine trước kia như thế nào thì trách nhiệm của họ càng nhẹ . (Đấy, cái ngày xưa ấy, tôi và anh Hollande đã lấy uy tín của chính mình ra lừa Putin cho Ukraine. Hỏi từ cổ chí kim tới giờ có ai xả thân giúp người khác như chúng tôi chưa. Thế nên nếu đợt tới có chuyện gì xảy ra thì đừng đổ lỗi là chúng tôi không cố hết sức).

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tiếp sau Merkel và Hollande, cựu thủ tướng Israel, Nathaniel Bennett, hôm 4/2/2023 đã nói rằng ông ấy đã làm người trung gian hòa giải gần như thành công giữa Putin và Zelensky trong vấn đề Ukraine. Các nỗ lực đó bao gồm lấy được lời hứa của Putin về việc không giết Zelensky và sau đó là thuyết phục được 2 bên có rất nhiều nhượng bộ cho một thỏa thuận hòa bình – và thỏa thuận hòa bình này đã được các bên trao đổi và sửa tới 17 lần trước khi Mỹ ngăn chặn Zelensky tiến hành ký kết. Chúng ta thấy ở đây là Nathaniel Bennett cũng đã đi theo cách của Merkel và Holland trong việc “tránh bị đổ lỗi”. Nếu như Hollande và Merkel dừng ở việc nói ra chuyện họ đã lừa Putin để mua thời gian cho Ukraine ra sao thì Bennett còn đi xa hơn.

1688180565517.png

TT Israel Nathaniel Bennett gặp Tổng thống Nga Putin

Ông nói rõ rằng cả Ukraine lẫn Nga đã thực sự muốn ngừng cuộc chiến nhưng người ngăn chặn điều đó lại là Mỹ. Ở đây chúng ta thấy rõ là các cựu chính trị gia phương Tây đã bắt đầu và ngày càng đẩy nhanh tốc độ “tránh đổ lỗi” (8 năm trước chúng tôi đã phải lừa dối để Ukraine có thời gian chuẩn bị đấy nhé. Cả tôi nữa, ngay cả khi đánh nhau rồi mà tôi xém chút nữa là có thể khiến họ ký kết hòa bình. Thế nên đừng nói là tại chúng tôi không cố gắng nhé).

Đọc đến đây, một số người có thể nói rằng “các cựu chính trị gia sẽ làm tất cả những gì có lợi cho họ, kể cả nói bóng gió rằng Ukraine sẽ thua. Thế nhưng các chính trị gia đương nhiệm đang cương quyết ủng hộ Ukraine đó thôi”. Chúng ta sẽ xem xét vấn đề này ngay bây giờ.

Ta có thể chia những chính trị gia đang hùng hồn nhất trong việc chống Nga thành 3 nhóm:
(i) nhóm các quan chức lãnh đạo các tổ chức quốc tế như NATO hay Ủy ban Châu Âu,
(ii) nhóm các nguyên thủ quốc gia chủ chốt của châu Âu là thành viên của NATO,
(iii) nhóm nguyên thủ quốc gia 3 nước vùng Baltic, Bắc Âu và Ba Lan.

Khi phân tích vị trí, hoàn cảnh có được các vị trí đó của họ, chúng ta sẽ hiểu được tại sao họ nói như vậy.

1688180695313.png


Trước hết, trong nhóm lãnh đạo NATO và Châu Âu, người có tiếng nói hùng hồn chống Nga nhất là Jens Stoltenberg. Cần lưu ý là Stoltenberg trở thành tổng thư ký của NATO vào tháng 10/2014, chỉ 1 tháng sau khi Thỏa thuận Minsk đầu tiên được ký kết (tháng 9/2014). Chúng ta cần lưu ý là vào thời điểm đó sau 1 tháng giao tranh trực tiếp với quân đội chính quy Nga trên đất Donbass, quân đội Ukraine đã trên bờ vực sụp đổ (một biểu hiện rõ ràng nhất là 97% lực lượng pháo binh hạng nặng của Ukraine trước năm 2014 đã bị Nga tiêu diệt trong thời gian này – phần lớn là nhờ phần mềm được quân đội Ukraine dùng để tính toán phần tử bắn cho pháo lại là do một công ty phần mềm của Nga làm ra và do đó đã tiết lộ chính xác các vị trí pháo bắn của Ukraine cho quân Nga). Sức ép trên chiến trường của Nga đối với Ukraine lên đến mức vào tháng 2/2015 Ukraine lại phải ký một thỏa thuận Minsk tiếp theo với Nga với những nhượng bộ lớn hơn nữa. Đây chính là điểm mà Merkel muốn nói tới – nếu không có 2 thỏa thuận Minsk này thì tình hình của Ukraine lúc đó có thể đã thành nguy kịch. Điều này được khẳng định bởi tổng thống Poroshenko của Ukraine. Trong bài phát biểu ngày độc lập năm 2016, ông nói rằng chỉ trong 2 năm, Ukraine đã thành công trong việc xây dựng lại quân đội của mình gần như từ con số không (“from scratch”).

1688180813513.png

Quân đội Ukraine năm 2014

Trong 8 năm tiếp theo, NATO đã tái trang bị, đào tạo lại cho quân đội Ukraine. Thế nhưng khi cuộc chiến nổ ra vào tháng 2/2022, ông ta chợt phát hiện ra là mình là chính trị gia duy nhất tổ chức cuộc tái trang bị cho Ukraine hiện nay còn tại vị. Tổng thống Mỹ (Obama), tổng thống Pháp (Hollande), thủ tướng Đức (Merkell), tổng Ukraine (Poroshenko) đều đã rời khỏi vũ đài chính trị. Tất cả những người đó giờ đây đều có thể chơi bài “lúc tôi còn đương nhiệm, tôi đã làm hết tất cả những gì có thể cho Ukraine. Việc ra ngày hôm nay là lỗi của người khác”. Chính vì lý do đó, Stoltenberg không còn có bất kỳ lựa chọn nào khác ngoài việc phải tuyên bố cứng rắng với Nga. Đơn giản là ông ta là người còn lại duy nhất trong số các tác giả tạo ra Ukraine ngày nay và như thế, ông ta sẽ là người có thể bị đổ lỗi nhiều nhất.

1688180930545.png

Quân đội Ukraine năm 2022

Tuy nhiên, có một yếu tố cần lưu ý hơn là Stoltenberg có lợi thế hơn nhiều nguyên thủ quốc gia khác trong phát ngôn. Chức vị tổng thư ký NATO của ông ta được định nghĩa rất rõ là một chức danh dân sự - hành chính của tổ chức. Ông ta không có bất kỳ quyền gì trong việc điều động quân đội và ra các quyết định cho khối NATO. Điều đó dẫn tới việc ông ta có thể đưa ra bất kỳ tuyên bố hiếu chiến nào nhất có lợi cho mình mà vẫn không gây ra hậu quả thực sự về quân sự. (ví dụ: ông ta có thể nói: chúng ta sẽ tiến vào Moscow và lật đổ Putin, chấm dứt chiến tranh. Sau đó thì nói là: tôi thì cương quyết thế nhưng không thể làm gì được vì các nước thành viên không chịu bỏ phiếu cho điều đó). Chính vì hiểu rõ tình thế này của Stoltenberg nên chúng ta thấy rằng Nga gần như không cảm thấy bị đe dọa bởi các phát ngôn của ông ta (nói một cách sỗ sàng là họ không quan tâm – chó cứ sủa và đoàn người cứ đi). Chính quyền Nga chỉ vồ lấy những lời nói hiếu chiến của ông khi có lợi cho việc tuyên truyền trong nước với dân Nga để thuyết phục họ rằng NATO thực sự muốn tiêu diệt nhà nước Nga.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tuy nhiên, ngay cả với những phát ngôn của ông này, chúng ta cũng thấy rõ sự thay đổi theo thời gian. Vào tháng 3/2022, ông ta nói rằng NATO đã cảnh báo rằng Nga sẽ phải trả giá rất lớn cho việc gây hấn ở Ukraine và họ đang phải trả giá đó. Chúng ta nó thể thấy hơi hướng trịnh thượng tin chắc vào thất bại của Nga trong phát biểu của ông. Tuy nhiên, sang tháng 11/2022, ông phát biểu với các nước NATO rằng không được phép để cho Nga thắng. Điều này có nghĩa là ông đã hạ mục tiêu từ việc Nga thất bại xuống việc họ không thể thắng. Tháng 12/2022 (khi mà Merkell và Hollande nói về việc “mua thời gian cho Ukraine” hồi 2014) thì Stoltenberg nói rằng NATO sẽ tiếp tục ủng hộ Ukraine dù bất kỳ điều gì xảy ra. Chúng ta thấy rõ ràng sau 1 năm, các phát ngôn của ông ta về Nga đã đi từ “tôi đã nói các người phải trả giá và bây giờ các người đang trả giá đó” sang thành “đừng cho những kẻ đấy chiến thắng” và giờ là thành “Ukraine, chúng tôi sẽ đứng bên bạn dù chuyện gì sẽ xảy ra”. Vậy “chuyện sẽ xảy ra” mà Stoltenberg nói là chuyện gì? – quân Ukraine đánh bại hoàn toàn quân Nga và giải phóng mọi vùng đất họ có trước 2014 ư? Có lẽ sẽ ít người có thể tin vào điều này. Nhiệm kỳ của Stoltenberg sẽ chấm dứt trong năm 2023, và có vẻ như ông đang muốn chuyển giao lại trách nhiệm về thất bại của cuộc chiến sang cho người kế nhiệm.

1688181128855.png


Một người có các phát ngôn mạnh mẽ ngang Stoltenberg khác là bà chủ tịch Ủy ban Châu Âu, Ursula von der Leyen. Ursula là một phụ nữ mạnh mẽ, là phó chủ tịch đảng CDU của Đức. Đây cũng là chính đảng của bà Merkell (với tư cách là chủ tịch từ 2000 tới 2018). Vào năm 2019, khi Merkell bắt đầu chuẩn bị cho việc rút lui khỏi chính trường thì trong đảng CDU của Đức có một cuộc đua ngầm giữa các ứng viên cho chức thủ tướng. Trong đó, cuộc đua chính là giữa một bên là thủ tướng Scholz hiện nay và một bên là bà Ursula. Tuy là phó chủ tịch đảng CDU và là bộ trưởng duy nhất làm việc với Merkell từ năm 2005 tới khi đó nhưng Ursula không có được sự tín nhiệm trong đảng của mình (và có lẽ là cả từ bà Merkell). Thế nên bà đã chọn con đường ứng cử vào chức chủ tịch Ủy ban Châu Âu. Việc bà trở thành chủ tịch Ủy ban Châu Âu là kết quả của nhiều vận động trái ngược nhau trong nội bộ khối này. Vào thời điểm đó nước Anh đã quyết định chọn Brexit và đang đàm phán cho các thỏa thuận hậu Brexit với Châu Âu. Trong nhiều năm trước đó, Nigel Farage, người khởi xướng phong trào Brexit đã làm mưa làm gió ở nghị viện Châu Âu. Ông không ngại ngùng mắng thẳng vào mặt chủ tịch ủy ban châu Âu:

1688181211560.png


“Ngài có vẻ hấp dẫn của một cái giẻ rách và hình dáng của một nhân viên ngân hàng bậc thấp. Và câu hỏi mà tôi muốn hỏi, và tất cả chúng tôi sẽ hỏi “ngài là ai?”. Tôi chưa bao giờ biết gì về ngài. Không một ai ở châu Âu biết gì về ngài. Tôi muốn hỏi, thưa ngài chủ tịch, ai đã bầu ra ngài, và với cơ chế nào. Tất cả những gì mà tôi biết là dân chủ không phải là thứ từng quen thuộc đối với ngài. Và cơ chế nào để người dân châu Âu loại ngài ra khỏi vị trí này? Đây có phải là dân chủ của châu Âu không? Dù sao thì tôi cũng cảm nhận được ngài có năng lực, có khả năng và tiềm tàng nguy hiểm và tôi không có bất kể nghi ngờ gì về việc ý định của ngài là một sát thủ thầm lặng đối với nền dân chủ châu Âu và đối với các quốc gia châu Âu. Ngài có vẻ vô cùng dị ứng với khái niệm sự tồn tại của các quốc gia. Có lẽ là bởi ngài từ Bỉ, một đất nước khó mà có thể gọi là quốc gia. Nhưng kể từ khi ngài ngồi vào vị trí đó, chúng tôi thấy Hy Lạp trở thành một thực thể không hơn gì một xứ bị bảo hộ. Thưa ngài, ngài không có bất kể tính chính danh nào đối với công việc ngài đang làm, và tôi có thể nói một cách tự tin, nhân danh đại đa số người Anh rằng: “chúng tôi không biết ngài là ai. Chúng tôi không muốn có ngài ở vị trí đó. Và ngài biến khỏi vị trí đó sớm ngày nào tốt ngày đó.”


Farage cũng đụng độ không ít lần với Ursula tại nghị viện Châu Âu – trong đó ông nói thẳng là Ursula muốn thiết lập một cơ chế chính trị châu Âu trong đó các quốc gia bị mất đi chủ quyền của mình. Ông chỉ trích tham vọng không tương xứng với năng lực yếu kém của bà.


(Bản thân bà năm 2015 đã bị chứng minh là đạo văn rất nhiều trong luận án tiến sỹ của mình).
Thế nhưng châu Âu lúc đó, trước viễn cảnh có thể bị tan rã sau khi Anh rời khỏi khối, lại hy vọng rằng một người thường xuyên đối chọi với Farage (chủ xướng Brexit) và là đại diện của Đức, nước sẽ trở thành quốc gia đứng đầu khối sau khi Anh ra đi, sẽ có thể là cứu tinh cho khối này. Đó là lý do là mặc dù bà thất bại trong các vận động chính trị trong nước Đức nhưng họ vẫn bầu bà làm chủ tịch Ủy ban Châu Âu. Và ngoạn mục hơn nữa, nước Đức của Merkell lại bỏ phiếu trắng đối với Ursula.

Quay lại quá khứ có một điều vô cùng thú vị là, vào năm 2015, Ursula là người công khai phản đối việc tái vũ trang cho Ukraine và cho rằng có thể đàm phán và có hòa bình với Nga (ngược lại những hành động thực sự của Merkell lúc đó). Chính vì vậy, khi cuộc chiến Ukraine nổ ra vào tháng 2/2022, bà ta rơi vào một vị thế chính trị rất khó. Việc Nga tấn công Ukraine có thể bị sử dụng để tấn công bà dựa trên quan điểm năm 2015 của bà. Do đó, Ursula cũng chọn cách của Stoltenberg là cao giọng nhất có thể trong việc chống Nga. Vào tháng 2/2022, bà tuyên bố Ukraine có sự hỗ trợ vô điều kiện của châu Âu và hàng loạt các phát ngôn khác thậm chí là lố bịch (ví dụ như bà nói rằng Nga cạn nguồn lực tới mức phải tháo chip ở máy giặt ra để lắp lên tên lửa). Tuy nhiên, khi cuộc chiến có những dấu hiệu xấu đi trông thấy cho Ukraine, bà lại là người đầu tiên đưa ra con số binh sỹ Ukraine chết trong cuộc chiến là 100.000 người vào tháng 11/2022. Điều này dẫn tới một cú sốc cho dư luận phương Tây. Sốc vì con số này rất gần với con số mà bộ quốc phòng Nga công bố. Ngoài ra, nếu theo tỷ lệ thông thường trong chiến tranh là cứ 1 binh lính chết thì có 3 người bị thương thì từ đó suy ra lực lượng vũ trang Ukraine đã mất khoảng 400 ngàn binh lính (vừa chết vừa bị thương). Điều này có nghĩa là số thiệt hại của Ukraine trong 10 tháng chiến tranh (tính tới 11/2022) đã gần gấp đôi tổng số binh sỹ đang tại ngũ trong quân đội của Anh, Pháp và Đức cộng lại. Song song với việc khẳng định ủng hộ Ukraine thì bà cũng nói rằng Ủy ban Châu Âu không có quân đội riêng của mình (tức là bà nói rõ trách nhiệm quân sự là của khối NATO và các nước thành viên chứ không phải của cơ quan nơi bà đứng đầu). Điều đó là chính xác vì Ủy ban Châu Âu không phải là một nhà nước, không có quân đội riêng và không quyết định được các vấn đề quân sự thay cho các nước thành viên.
Như vậy, chúng ta thấy 2 người có những phát ngôn mạnh mẽ nhất của NATO và châu Âu lại là những người không có thực quyền và có vẻ như họ phát ngôn chủ yếu vì các động cơ chính trị cá nhân của mình.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,113
Động cơ
654,987 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Nhóm phát ngôn thứ hai là nhóm các nguyên thủ chủ chốt của NATO tại châu Âu: Pháp, Đức, Anh, Ý. Ở đây có một điều lý thú là nguyên thủ 2 quốc gia lớn nhất châu Âu là Pháp và Đức lại là những người bị chỉ trích nhiều nhất vì các phát ngôn dè dặt đối với Nga. Tổng thống Pháp, vào tháng 12/2022 còn nói thẳng ra là bất kỳ cơ chế an ninh nào của châu Âu cũng cần phải tính tới nhu cầu an ninh của Nga. Nói một cách khác, vì Ukraine được coi là một vấn đề an ninh của mình, nên châu Âu cần phải tính tới việc chấp nhận một phần nào đó các lo lắng của Nga đối với sự trung lập của Ukraine. Thủ tướng Đức thì thậm chí bị các nhà ngoại giao Ukraine gọi là hèn nhát trước Nga. Cựu thủ tướng Israel, Nathaniel Bennett trong lần phỏng vấn gần đây cũng nói rằng Pháp và Đức dưới thời của Macron và Scholz luôn hướng tới duy trì kênh đối thoại với Nga và có cách nhìn thực tiễn trong việc giải quyết cuộc chiến. Đến nay, cả hai vị này vẫn đang tại vị. Các nguyên thủ Ý và Anh thì có các phát biểu chống Nga mạnh hơn rất nhiều ngay từ đầu cuộc chiến. Thế nhưng, sau 1 năm chiến tranh, cả thủ tướng Ý lẫn Anh đều đã buộc phải rời khỏi nhiệm sở (trong trường hợp Anh thì là cả 2 đời thủ tướng: Boris Johnson và Lizz Truss). Cùng với các nguyên thủ này là sự ra đi của thủ tướng Bulgaria và Thụy Điển, những người cũng chống Nga mãnh liệt ngay từ đầu.

Nhóm phát ngôn thứ ba đáng lưu ý là Ba Lan, ba nước vùng Baltic và Phần Lan. Ba Lan là quốc gia chống Nga nhất trong cuộc chiến Ukraine. Họ ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần, vật chất, kinh tế lẫn quân sự cho Ukraine. Hiện nay, Ba Lan là quốc gia châu Âu cung cấp nhiều vũ khí cho Ukraine nhất, nhận nhiều người Ukraine tị nạn chiến tranh nhất và là quốc gia duy nhất trong khối NATO tăng quân số lên thêm 200 ngàn người để đề phòng các rắc rối an ninh với Nga.

Nếu nhìn vào lịch sử quan hệ Nga – Ba Lan thì có thể hiểu được tâm trạng của họ với nước Nga. Sau khi cộng đồng thịnh vượng Ba Lan – Lithunia (Poland Lithunia Commenwealth) cáo chung vào thế kỷ 18, hơn một lần, Nga, Đông Phổ và Áo đã cùng nhau tiêu diệt nhà nước Ba Lan và phân chia lãnh thổ nước ngày cho nhau. Lịch sử Ba Lan từ thế kỷ 18 tới 20 là một lịch sử của một quốc gia bị đồng minh bỏ rơi và ngoại bang đô hộ. Sự thù hận và nghi kỵ giữa người Ba Lan và Nga có nguồn gốc từ các cuộc chiến tranh giữa hai nước ngày. Người Ba Lan đã gia nhập quân đội Napoleon Bonapart với số lượng rất lớn vào năm 1812 với hy vọng là Napoleon cho tái lập lại nước Ba Lan sau khi đánh bại Nga. Thế nhưng, trong trận Leipzig 1814, quân Pháp đã bỏ mặc quân Ba Lan ở lại bờ Đông khi rút quân qua sông. Nguyên soái Poniatowsky, một công tước Ba Lan và được phong nguyên soái Pháp, đã bỏ mạng trên sông cùng với đoàn kỵ binh Ba Lan của mình khi cố bơi qua sông chạy theo quân Pháp. Năm 1918, Ba Lan giành độc lập sau khi nước Đức đầu hàng Đồng Minh và nhà nước Nga Xô Viết đang trong nội chiến. Năm 1920, họ đánh bại Hồng quân trong chiến dịch Warsaw và số phận của 100 ngàn Hồng quân bị bắt đã trở thành một trong những nguyên nhân chính mà Stalin đã ra lệnh hạ sát gần 30 ngàn sỹ quan và viên chức cao cấp Ba Lan bị Liên Xô bắt được năm 1939 (khi cùng Đức một lần nữa chia đôi lãnh thổ Ba Lan) tại rừng Katyn (vào năm 1941). Năm 1980, quân đội Liên Xô đã tiến vào Ba Lan để dập tắt các cuộc cải tổ của chính quyền Ba Lan và lập ra một chính quyền đi theo chỉ đạo của Liên Xô.

Hy vọng hòa giải giữa hai quốc gia đến khi Nga thừa nhận việc Liên Xô đã gây ra thảm sát Katyn và cùng Ba Lan tổ chức các buổi tưởng niệm hàng năm. Tuy nhiên việc này chấm dứt khi tổng thống Ba Lan cùng em trai của mình và các yếu nhân hàng đầu của Ba Lan chết trong một vụ tai nạn máy bay tại Smolensk khi họ tới để dự lễ kỷ niệm cuộc thảm sát hàng năm với tổng thống Nga năm 2010. Mặc dù cuộc điều tra chung giữa Ba Lan và Nga cho thấy máy bay rơi là do lỗi của tổ lái đã không nghe lời hướng dẫn của điều độ dưới đất. Tuy nhiên, gần đây, phía Ba Lan đã lại bắt đầu đặt lại nghi vấn về việc có khả năng phá hoại trong vụ rơi máy bay.

....
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top