Sự thật về chương trình phi công cảm tử của Nhật Bản
Hàng nghìn phi công cảm tử (kamikaze) chưa được huấn luyện kỹ đã được đề nghị chiến đấu cảm tử trong nỗ lực tuyệt vọng của phát xít Nhật vào cuối Chiến tranh thế giới thứ Hai. Và những lá thư họ để lại đã tiết lộ một sự thật hoàn toàn khác.
Sự ra đời của kamikaze
Trong trận Trân Châu Cảng (1941), một phi công Nhật tên là Futasa Iida đã lao máy bay của anh ta vào một trạm không lưu hải quân, thực hiện lời hứa với các bạn rằng nếu trúng đạn, anh ta sẽ lái máy bay lao vào một mục tiêu đáng giá của kẻ thù. Hành động này đã nung nấu ý tưởng của Nhật Bản là sử dụng phi công dùng máy bay đánh cảm tử vào các mục tiêu của đối phương.
Vào giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai, ở Nhật Bản, ít người tin rằng họ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này. Thay vào đó, họ đang chiến đấu để vượt qua nỗi sợ phải “đầu hàng vô điều kiện” trước người Mỹ. Người Nhật tin rằng, nếu có thể khiến quân đồng minh chịu nhiều tổn thất hơn, họ có thể đưa ra điều kiện đàm phán. Và ngày 15/6/1944, Đại uý Motoharu Okamura là người đầu tiên đề xuất ý tưởng kamikaze.
Đại uý Motoharu Okamura
Okamura nói với Phó đô đốc Takijiro Onishi - Tư lệnh Phi đội 1 của Nhật: “Tôi tin chắc rằng cách duy nhất để thúc đẩy cuộc chiến có lợi cho chúng ta là tiến hành những cuộc tiến công liều chết ‘bổ nhào bằng máy bay”. Okamura bảo đảm với tư lệnh rằng, đàn ông Nhật sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống vì cơ hội cứu đất nước. Đại úy cam kết “Hãy cho tôi 300 máy bay và tôi sẽ lật ngược thế cờ”.
Phó đô đốc Takijiro Onishi
Những “tình nguyện viên” kamikaze
Lực lượng phi công cảm tử được gọi là kamikaze, trong tiếng Nhật có nghĩa là “thần phong”. Cụm từ này từng được sử dụng thời Kublai Khan vào thế kỷ 13, khi cơn bão Kamikaze phá tan đội quân Mông Cổ đang tìm cách xâm lược Nhật Bản. Giống như lực lượng siêu nhiên đó, các phi công Nhật Bản được kỳ vọng sẽ cứu người dân khỏi sự huỷ diệt.
Các đội cảm tử của Okamura và Onishi không phải là những người liều chết đơn độc như trước, mà hành động có đồng đội, tiến công có mục tiêu rõ ràng. Phi công kamikaze lái những chiếc máy bay có gắn quả bom nặng 250kg ở mũi, khi lao vào mục tiêu, thì sức công phá không chỉ nằm ở va chạm mà còn ở quả bom phát nổ; nếu đúng vị trí, nó có thể vô hiệu hoá, thậm chí đánh chìm cả tàu sân bay. Tất nhiên, những phi công kamikaze sẽ không có cơ hội sống sót. Người ta còn định tháo bỏ cả càng hạ cánh của máy bay để phi công không còn phải bận tâm với ý định quay trở về. Đúng như Okamura dự đoán, nhiều nam giới Nhật Bản đã đăng ký hy sinh mạng sống của mình trên máy bay kamikaze. Theo tuyên truyền của Nhật Bản, sự thật này là bằng chứng cho thấy đàn ông Nhật Bản sẵn sàng hy sinh vì đất nước.
Điều kiện khắc nghiệt
Trung úy phi công Yukio Seki chỉ huy lực lượng kamikaze tâm sự với một phóng viên chiến trường, rằng anh không có lựa chọn nào khác. “Tôi không thực hiện sứ mạng này vì hoàng đế hay vì đế chế… Tôi đi chỉ vì được lệnh”.
Sau những sứ mạng kamikaze ban đầu, càng về sau các phi công cảm tử càng phải trải qua những điều kiện khắc nghiệt hơn trước trong quá trình chuẩn bị cho sứ mạng tự sát. Một phi công kamikaze tên là Irokawa Daikichi đã viết trong nhật ký của mình rằng, trong quá trình huấn luyện, anh ta thường xuyên bị bỏ đói và đánh đập. “Tôi đã bị đánh nặng đến mức không còn nhìn thấy và cảm thấy gì trên sàn nhà nữa”... Các phi công kamikaze cũng sẽ bị đánh đập nếu có bất kỳ biểu hiện nào không trung thành. Những người khác mô tả việc được lệnh phải học thuộc những bài thơ cổ của Nhật Bản và mỗi khi mắc lỗi lại bị đánh.
Vào thời điểm ngày cảm tử đến, mọi cảm giác tự do mà họ có hoặc bất kỳ ý định nào không tuân lệnh sẽ bị dập tắt. Trước khi lên máy bay, phi công cảm tử sẽ được tặng một chiếc khăn với 1.000 mũi khâu, được gọi là senninbari - mỗi mũi được khâu bởi một người phụ nữ khác nhau - như lời cảm ơn vì đã cho đi cuộc sống của mình. Giống như các samurai xưa, họ sẽ đọc một bài thơ vĩnh biệt, rồi chia sẻ chén rượu sake cuối cùng với những người cùng thực hiện sứ mạng với mình.
(Còn tiếp)
Hàng nghìn phi công cảm tử (kamikaze) chưa được huấn luyện kỹ đã được đề nghị chiến đấu cảm tử trong nỗ lực tuyệt vọng của phát xít Nhật vào cuối Chiến tranh thế giới thứ Hai. Và những lá thư họ để lại đã tiết lộ một sự thật hoàn toàn khác.
Sự ra đời của kamikaze
Trong trận Trân Châu Cảng (1941), một phi công Nhật tên là Futasa Iida đã lao máy bay của anh ta vào một trạm không lưu hải quân, thực hiện lời hứa với các bạn rằng nếu trúng đạn, anh ta sẽ lái máy bay lao vào một mục tiêu đáng giá của kẻ thù. Hành động này đã nung nấu ý tưởng của Nhật Bản là sử dụng phi công dùng máy bay đánh cảm tử vào các mục tiêu của đối phương.
Vào giai đoạn cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai, ở Nhật Bản, ít người tin rằng họ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này. Thay vào đó, họ đang chiến đấu để vượt qua nỗi sợ phải “đầu hàng vô điều kiện” trước người Mỹ. Người Nhật tin rằng, nếu có thể khiến quân đồng minh chịu nhiều tổn thất hơn, họ có thể đưa ra điều kiện đàm phán. Và ngày 15/6/1944, Đại uý Motoharu Okamura là người đầu tiên đề xuất ý tưởng kamikaze.
Đại uý Motoharu Okamura
Okamura nói với Phó đô đốc Takijiro Onishi - Tư lệnh Phi đội 1 của Nhật: “Tôi tin chắc rằng cách duy nhất để thúc đẩy cuộc chiến có lợi cho chúng ta là tiến hành những cuộc tiến công liều chết ‘bổ nhào bằng máy bay”. Okamura bảo đảm với tư lệnh rằng, đàn ông Nhật sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống vì cơ hội cứu đất nước. Đại úy cam kết “Hãy cho tôi 300 máy bay và tôi sẽ lật ngược thế cờ”.
Phó đô đốc Takijiro Onishi
Những “tình nguyện viên” kamikaze
Lực lượng phi công cảm tử được gọi là kamikaze, trong tiếng Nhật có nghĩa là “thần phong”. Cụm từ này từng được sử dụng thời Kublai Khan vào thế kỷ 13, khi cơn bão Kamikaze phá tan đội quân Mông Cổ đang tìm cách xâm lược Nhật Bản. Giống như lực lượng siêu nhiên đó, các phi công Nhật Bản được kỳ vọng sẽ cứu người dân khỏi sự huỷ diệt.
Các đội cảm tử của Okamura và Onishi không phải là những người liều chết đơn độc như trước, mà hành động có đồng đội, tiến công có mục tiêu rõ ràng. Phi công kamikaze lái những chiếc máy bay có gắn quả bom nặng 250kg ở mũi, khi lao vào mục tiêu, thì sức công phá không chỉ nằm ở va chạm mà còn ở quả bom phát nổ; nếu đúng vị trí, nó có thể vô hiệu hoá, thậm chí đánh chìm cả tàu sân bay. Tất nhiên, những phi công kamikaze sẽ không có cơ hội sống sót. Người ta còn định tháo bỏ cả càng hạ cánh của máy bay để phi công không còn phải bận tâm với ý định quay trở về. Đúng như Okamura dự đoán, nhiều nam giới Nhật Bản đã đăng ký hy sinh mạng sống của mình trên máy bay kamikaze. Theo tuyên truyền của Nhật Bản, sự thật này là bằng chứng cho thấy đàn ông Nhật Bản sẵn sàng hy sinh vì đất nước.
Điều kiện khắc nghiệt
Trung úy phi công Yukio Seki chỉ huy lực lượng kamikaze tâm sự với một phóng viên chiến trường, rằng anh không có lựa chọn nào khác. “Tôi không thực hiện sứ mạng này vì hoàng đế hay vì đế chế… Tôi đi chỉ vì được lệnh”.
Sau những sứ mạng kamikaze ban đầu, càng về sau các phi công cảm tử càng phải trải qua những điều kiện khắc nghiệt hơn trước trong quá trình chuẩn bị cho sứ mạng tự sát. Một phi công kamikaze tên là Irokawa Daikichi đã viết trong nhật ký của mình rằng, trong quá trình huấn luyện, anh ta thường xuyên bị bỏ đói và đánh đập. “Tôi đã bị đánh nặng đến mức không còn nhìn thấy và cảm thấy gì trên sàn nhà nữa”... Các phi công kamikaze cũng sẽ bị đánh đập nếu có bất kỳ biểu hiện nào không trung thành. Những người khác mô tả việc được lệnh phải học thuộc những bài thơ cổ của Nhật Bản và mỗi khi mắc lỗi lại bị đánh.
Vào thời điểm ngày cảm tử đến, mọi cảm giác tự do mà họ có hoặc bất kỳ ý định nào không tuân lệnh sẽ bị dập tắt. Trước khi lên máy bay, phi công cảm tử sẽ được tặng một chiếc khăn với 1.000 mũi khâu, được gọi là senninbari - mỗi mũi được khâu bởi một người phụ nữ khác nhau - như lời cảm ơn vì đã cho đi cuộc sống của mình. Giống như các samurai xưa, họ sẽ đọc một bài thơ vĩnh biệt, rồi chia sẻ chén rượu sake cuối cùng với những người cùng thực hiện sứ mạng với mình.
(Còn tiếp)
Chỉnh sửa cuối: