Đụng độ giữa Hải quân Ấn Độ với Hải quân Pakistan năm 1971
Sau cuộc chiến tranh 07 ngày giữa khối Arab và Israel năm 1967 với sự thành công rực rỡ của các xuồng Komar trang bị tên lửa, cuộc xung đột quân sự giữa Ấn Độ - Pakistan năm 1971 một lần nữa khẳng định chắc chắn về xu hướng sử dụng tên lửa chống hạm trong tác chiến hải quân. Chỉ có một khác biệt, chúng không còn trang bị trên những chiếc xuồng cao tốc nhỏ bé Komar mà đã được đưa lên tàu tên lửa tiến công cao tốc lớp Osa.
Cuộc xung đột quân sự giữa Ấn Độ và Pakistan bùng nổ ngày 21/11/1971 và kết thúc sau 02 tuần bằng thất bại hoàn toàn của Pakistan. Hải quân Ấn Độ với biên chế gồm 72 tàu, tạo ưu thế áp đảo về số lượng so với Hạm đội Pakistan chỉ có gần 30 tàu.
Trong cuộc xung đột, các lực lượng đối kháng đã thực hiện các nhiệm vụ khác nhau:
- Hải quân Ấn Độ có nhiệm vụ phong tỏa các hải cảng của đối phương, ngăn chặn vận chuyển vũ khí, đạn dược và các hàng hóa quân sự khác bằng đường biển, cô lập khu vực Đông Pakistan với Tây Pakistan, ngăn cản các lực lượng tàu mặt nước đối phương ra khơi để tiến công các tàu và căn cứ của Hải quân Ấn Độ. Việc thực hiện các nhiệm vụ quy mô chiến dịch - chiến lược đòi hỏi phải tiến hành các hành động tiến công trên biển, bao gồm các cuộc tiến công vào các mục tiêu quân sự của Pakistan ở vùng ven biển bằng các lực lượng không quân - hải quân và pháo tàu, tiêu diệt các hạm tàu và tàu vận tải của đối phương ở biển Arab và vịnh Bengal, bảo đảm an toàn cho các tuyến đường biển của mình, phòng thủ các căn cứ hải quân và hải cảng, chi viện cho lục quân trên hướng ven biển.
- Hải quân Pakistan có nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, chống đối phương đổ bộ đường biển, án ngữ các đường tiếp cận đến các căn cứ hải quân, hải cảng, phòng thủ chung chống các cuộc tiến công của tàu chiến Ấn Độ, bảo vệ các tuyến đường biển, yểm trợ hệ thống phòng không khi đánh trả các cuộc tiến công của không quân đối phương vào các căn cứ hải quân. Ngày 04/12/1971, sau khi chính thức phong tỏa đường biển đối với Pakistan, Bộ Chỉ huy Hải quân Ấn Độ đã tiến hành 02 chiến dịch tập kích chống căn cứ hải quân ở Karachi bằng các cụm tàu mặt nước đột kích hỗn hợp. Cụm tàu đầu tiên được thành lập với biên chế 02 tàu hộ vệ và 03 tàu tên lửa. Các tàu tên lửa lớp Vidyut của Ấn Độ có thiết kế, thông số kỹ thuật và trang bị tên lửa P-15 Termit tương tự tàu tên lửa lớp Osa I của Liên Xô.
Tàu tên lửa lớp Vidyut/Osa
Tàu chiến lớp Osa (tên gọi của NATO) là loại tàu chiến tên lửa do Liên Xô phát triển vào đầu thập niên 1960. Thân tàu Osa được làm bằng hợp kim nhẹ với cấu trúc đặc biệt cùng với 03 động cơ công suất 12.000 mã lực và 03 chân vịt, điều này giúp Osa đạt được tốc độ 42 hải lý/h. Vũ khí chính là tên lửa P-15 Termit (hay còn gọi là SS-N-2C), có thể tiêu diệt một tàu khu trục tải trọng hơn 16.000 tấn (kích thước gấp 10 lần Osa) ở phạm vi cách xa gần 40km. Ngoài ra, Osa còn được trang bị 04 pháo phòng không AK230 cỡ nòng 30mm. Hệ thống điện tử trang bị trên tàu cũng rất hiện đại, bao gồm radar dò tìm mặt nước MR-331 Square Tie dùng để tìm kiếm và chỉ thị mục tiêu cho tên lửa SS-N-2C, radar điều khiển hỏa lực Drum Tilt, ngoài ra còn được trang bị hệ thống phân biệt địch ta. Với kích thước nhỏ gọn và tốc độ rất cao, được trang bị tên lửa tầm xa nên Osa tiến công mục tiêu từ xa, rồi cơ động để tránh bị truy kích. Nếu gặp không quân thì sử dụng pháo 30mm để đánh trả.
Tên lửa P-15 Termit
Pháo phòng không AK230
Các tàu tên lửa có nhiệm vụ tiến công các tàu Pakistan bằng tên lửa. Nhiệm vụ bảo vệ từ hướng biển và tiến công bằng pháo vào các mục tiêu bờ được giao cho các tàu hộ vệ. Kế hoạch chiến dịch có sự phối hợp của lực lượng không quân. Theo kế hoạch tác chiến, Không quân Ấn Độ tổ chức tiến công các sân bay của Pakistan ở khu vực Karachi. Vài giờ sau cuộc oanh tạc, cụm tàu mặt nước đột kích giữ chế độ im lặng vô tuyến, tiến vào vị trí xuất phát. Ở cự ly cách bờ gần 20 hải lý, các tàu hộ vệ Ấn Độ dừng chạy và thả trôi, còn các tàu tên lửa tiếp tục chạy chậm đánh lạc hướng các đài quan sát trên bờ.
Tàu tên lửa Ấn Độ dẫn đầu sau khi phát hiện tàu khu trục PNS Khyber của Pakistan lập tức tiến công bằng 02 quả tên lửa khiến tàu khu trục này bị chìm, còn một tàu tên lửa khác thì phát hiện và tiêu diệt tàu quét lôi cảnh giới PNS Muhafiz. Sau đó, các tàu tên lửa tiến đến gần bờ và phóng 02 quả tên lửa vào Karachi. Thay chân các tàu tên lửa, các tàu hộ vệ Ấn Độ chạy hết tốc lực và từ cự ly tối thiểu đã bắn phá các mục tiêu bờ và các tàu Pakistan đang đậu trong căn cứ. Sau đó, cụm tàu đột kích Ấn Độ nhanh chóng rút khỏi khu vực ở tốc độ tối đa mà không vấp phải sự kháng cự nào từ phía Pakistan.
Tàu khu trục PNS Khyber
Tàu quét lôi cảnh giới PNS Muhafiz
Ngày 09/12, Bộ Chỉ huy Hải quân Ấn Độ tổ chức thêm một chiến dịch tập kích bằng 02 cụm tàu đột kích hỗn hợp. Cụm một gồm 02 tàu hộ vệ và 04 tàu tên lửa, cụm hai gồm các tàu trang bị pháo mạnh (01 tàu tuần dương, các tàu khu trục và các tàu hộ vệ). Cụm tàu đầu tiên thực hiện đòn tiến công bằng pháo và phóng 04 quả tên lửa vào căn cứ hải quân ở Karachi. Các tàu ở cụm thứ hai thì chạy dọc bờ và pháo kích hàng loạt mục tiêu quân sự đối phương. Kết quả của chiến dịch là 12/34 kho dầu bị đốt cháy, phá hủy 04 tàu Pakistan và 01 tàu Anh bị hư hỏng. Binh đoàn tàu Ấn Độ bảo đảm an toàn. Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài, các tàu tên lửa Ấn Độ đạt được hiệu quả chiến đấu cao là nhờ:
- Bộ Chỉ huy Hải quân Ấn Độ nắm rõ thực trạng, khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hải quân Pakistan và căn cứ tình hình thực tế đưa ra các quyết định đúng đắn;
- Hải quân Ấn Độ đã hiệp đồng chặt chẽ với không quân, các máy bay Ấn Độ đã đánh bom vào các sân bay ở khu vực Karachi, phá hủy hoàn toàn các đường băng cất/hạ cánh, khiến Không quân Pakistan không thể cất cánh tiến công các tàu tên lửa Ấn Độ;
- Trong huấn luyện chiến đấu, Hải quân Ấn Độ đặc biệt chú trọng tập luyện các khoa mục bơi chung và chiến thuật sử dụng tên lửa;
- Các tàu tên lửa Ấn Độ chỉ phải đối phó với các tàu mặt nước lạc hậu, không có phương tiện phòng không hiệu quả của Pakistan. Sự kiện này được giới quan sát phương Tây đánh giá, Hải quân Pakistan đã không đủ khả năng đối phó với các cuộc tiến công bằng tên lửa; các phương tiện tác chiến điện tử đã không được sử dụng trong thời gian diễn ra sự kiện này.
Bí ẩn vụ chìm tàu ngầm Ghazi của Pakistan
Chiếc tàu ngầm USS Diablo của Mỹ hạ thủy ngày 1-12-1944 và bắt đầu phục vụ lực lượng hải quân nước này trong Thế chiến thứ II. Năm 1963, USS Diablo (do công nghệ đã trở nên lạc hậu) được chính quyền Mỹ đồng ý cho Pakistan thuê trong thời hạn 4 năm theo Chương trình Hỗ trợ An ninh (SAP) với lựa chọn tân trang hay mua lại sau kỳ hạn này - đó là kết quả từ cuộc thương lượng kéo dài giữa Islamabad và Washington.
Năm 1964, chiếc USS Diablo được lực lượng hải quân Pakistan đổi tên thành PNS Ghazi (Chiến binh thần thánh). PNS Ghazi (S-130) là chiếc tàu ngầm tấn công nhanh lớp Tench chạy bằng điện-diesel được đánh giá có uy lực mạnh đầu tiên của hải quân Pakistan. Nhưng vào ngày 4-12-1971, PNS Ghazi phát nổ và chìm xuống đại dương. Vụ chìm tàu Ghazi là bí ẩn kéo dài trong suốt hơn 40 năm qua.
Trước khi được chuyển giao tàu ngầm, một nhóm sĩ quan Pakistan được huấn luyện trên chiếc tàu Mỹ USS Angler. Tàu ngầm PNS Ghazi có khả năng thực hiện hải trình dài hơn 11.000 hải lý trong vòng chưa đầy 1 tháng, trở thành niềm kiêu hãnh của Pakistan đồng thời cũng là mối đe dọa nghiêm trọng cho Ấn Độ. Ngày 4-9-1964, PNS Ghazi-với biên chế gồm 7 sĩ quan và 69 thủy thủ - tiến đến Karachi và bắt đầu thực hiện sứ mạng giám sát những tàu chiến Ấn Độ ở vùng biển Arập.
Tàu ngầm PNS Ghazi
Nhằm tránh né lệnh cấm vận vũ khí của chính quyền Mỹ áp đặt lên Pakistan sau chiến tranh, Islamabad bí mật ký hợp đồng tân trang và nâng cấp thiết bị quân sự trên tàu ngầm trị giá 1,5 triệu USD (thời giá năm 1967) với lực lượng hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Thời gian nâng cấp PNS Ghazi bắt đầu từ tháng 3-1968 đến tháng 4-1970 và sau đó chiếc tàu ngầm trở về cảng Karachi. Quãng thời gian này, New Delhi và Islamabad lại xảy ra bất hòa trầm trọng khi hàng triệu người từ Đông Pakistan di tản đến Ấn Độ dẫn đến nguy cơ chiến tranh giữa 2 nước là khó tránh khỏi.
Lúc đó, hải quân Ấn Độ bắt đầu điều động tàu sân bay INS Vikrant từ hạm đội phía tây ở Bombay (nay là Mumbai) đến hạm đội phía đông ở cảng Visakhapatnam miền nam nước này - một động thái buộc chính quyền Pakistan phải tính toán kế hoạch tiêu diệt tàu sân bay Ấn Độ. INS Vikrant có độ choán nước 16.000 tấn, được chính quyền của Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru đồng ý mua từ Anh và được chuyển giao cho lực lượng hải quân Ấn Độ vào ngày 4-3-1961.
Tàu sân bay INS Vikrant
Theo cuốn sách có tựa đề "Story of the Pakistan Army" của vị tướng quá cố Fasal Muqeem Khan - cựu chỉ huy hải quân ở Đông Pakistan trong cuộc chiến năm 1965 và sau đó là lãnh đạo Học viện quân sự Pakistan (đã mất năm 2002), ngày 14-11-1971, tàu ngầm PNS Ghazi nhận lệnh rời khỏi Karachi và tiến đến Vịnh Bengal theo dõi chặt chẽ tàu sân bay Vikrant của Ấn Độ đang neo tại cảng Visakhapatnam, vịnh Bengal. Động thái của hải quân Pakistan không thoát khỏi sự quan sát của tình báo Ấn Độ.
Trong ngày 19-11-1971, tình báo Ấn Độ phát hiện tín hiệu một tàu ngầm ở ngoài khơi Sri Lanka nằm về phía nam Ấn Độ và nhận ra ngay đó là Ghazi bởi vì đây chiếc tàu của Pakistan có khả năng vượt hành trình dài trong thời gian ngắn nhất.
Ngoài ra, một chiếc tàu Ấn Độ cũng bắt được một tín hiệu từ Tây Pakistan gửi đến căn cứ hải quân ở cảng Chittagong vùng Đông Pakistan yêu cầu cung cấp loại dầu bôi trơn đặc biệt chỉ dùng cho tàu ngầm và tàu quét thủy lôi. Lực lượng hải quân Ấn Độ ở căn cứ Visakhapatnam được báo động trước mối đe dọa của Ghazi đối với an ninh tàu sân bay INS Vikrant.
Một vị tướng hải quân Ấn Độ lúc đó đánh giá: "Kết quả phân tích mọi dữ liệu tình báo cho thấy tàu ngầm Ghazi được triển khai đến vịnh Bengal nhằm mục đích duy nhất là hủy diệt hoàn toàn Vikrant". Một kế hoạch bí mật gài bẫy Ghazi tiến vào khu vực cảng Visakhapatnam được lực lượng hải quân Ấn Độ sắp đặt hết sức chu đáo.
Phòng điều khiển tàu ngầm PNS Ghazi
Ngày 13-11-1971 (tức 1 ngày trước khi PNS Ghazi rời cảng Karachi), INS Vikrant bí mật rời khỏi căn cứ Visakhapatnam đến một nơi an toàn ở khu vực quần đảo Adaman- chuỗi đảo nhỏ nằm gần Myanma và Thái Lan - có mật danh là "Cảng X-Ray" trong khi chiếc Ghazi không biết gì về sự di chuyển này. Giới chức quân đội Ấn Độ tin rằng, người Pakistan có lẽ không nghĩ đến chuyện săn tìm Vikrant ở Andaman mà nếu có thì hải quân Pakistan cũng không có chiếc tàu nào dám mạo hiểm đến nơi xa xôi như thế.
Bước tiếp theo của hải quân Ấn Độ là giăng bẫy thật hoàn hảo với chiếc tàu khu trục INS Rajput được chọn để đóng giả tàu Vikrant ở Visakhapatnam. Theo kế hoạch "dụ mồi", INS Rajput bắt đầu tạo ra một lượng khổng lồ tín hiệu radio mã hóa giống như được phát đi từ tàu sân bay Vikrant. Ngoài ra, hàng hóa tiếp tế cũng đổ ào ạt vào cảng Visakhapatnam khiến bộ phận chỉ huy trên chiếc Ghazi lầm tưởng chúng được sử dụng cho tàu sân bay chuẩn bị bước vào hành trình kéo dài.
Dĩ nhiên, mọi hành động liên quan đến chiếc Vikrant đều được hải quân Ấn Độ cố tình làm rầm rộ để tình báo Pakistan dễ đánh hơi thấy. Ngày 25-11-1971, tình báo Ấn Độ mừng rơn khi bắt được tín hiệu từ Ghazi gửi về Islamabad báo cáo "INS Vikrant vẫn hiện diện tại Visakhapatnam và có vẻ như đang chuẩn bị tấn công Pakistan".
Ngày 4-12-1971, cả vùng nước xung quanh cảng Visakhapatnam chấn động bởi một vụ nổ khủng khiếp. Rạng sáng ngày 5-12, chiếc tàu tuần tra Ấn Độ INS Akshay được lệnh tiến hành cuộc điều tra trên biển. Cuộc tìm kiếm phát hiện những mẫu vật cũng như vết dầu loang tiết lộ tàu ngầm PNS Ghazi- niềm kiêu hãnh của hải quân Pakistan- thực sự bị đánh chìm dưới đáy đại dương. Ngày 7-12, người nhái hải quân Ấn Độ vào được phòng kiểm soát của chiếc PNS Ghazi dưới đáy biển và lấy một số mẫu vật để báo cáo với New Delhi.
Phần còn lại của tàu ngầm Ghazi
Vụ đánh chìm PNS Ghazi được thế giới đánh giá là một trong những chiến thắng trên biển ấn tượng đầu tiên của Ấn Độ. Ngày 9-12-1971, hải quân Ấn Độ chính thức tuyên bố INS Rajput đã sử dụng vũ khí chống ngầm hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt hoàn toàn Ghazi.
Trong khi đó, Pakistan khẳng định vụ việc chỉ là "tai nạn" với 2 giả thuyết đặt ra - một vụ nổ khí hydrogen xảy ra bên trong chiếc Ghazi hay chiếc tàu ngầm đã không may vướng phải bãi mìn do chính mình giăng ra quanh cảng Visakhapatnam nhằm mục đích phá hủy INS Vikrant! Theo giả thuyết từ chính quyền Pakistan, trong vòng 2 ngày 2 và 3-12-1971, PNS Ghazi bắt đầu lập bãi mìn nhỏ quanh cảng Visakhapatnam nhằm đánh chìm tàu Vikrant của Ấn Độ. Khi nổi lên mặt nước, chiếc Ghazi đã vô tình vướng mìn do chính nó gài bẫy diệt Vikrant.