Sau Afghanistan: Phân tích tình báo và các sứ mệnh quân sự của Mỹ
Khi Kabul rơi vào tay Taliban và cả thế giới bị ám ảnh bởi hình ảnh hàng nghìn người Afghanistan, công dân Mỹ và những công dân nước ngoài khác đổ xô đến Sân bay Quốc tế Hamid Karzai, rõ ràng là Mỹ đã đánh giá quá cao Quân đội Afghanistan. Cộng đồng tình báo Mỹ ngay lập tức trở thành mục tiêu của những cáo buộc rằng họ đã không cảnh báo cho chính quyền Biden về sức mạnh của Taliban so với Quân đội Afghanistan và về việc Taliban sẽ nắm quyền kiểm soát đất nước nhanh chóng như thế nào.
Quân Taliban tiến vào Kabul
Rất khó để đánh giá tính xác thực của những nhận định này, vì chúng dựa trên những tài liệu tham khảo mơ hồ hoặc những rò rỉ ngắn gọn từ các đánh giá tình báo của các quan chức Hoa Kỳ giấu tên tuyên bố đã đọc chúng. Chúng tôi khó có thể hiểu được bức tranh đầy đủ cho đến khi các báo cáo liên quan được giải mật trong vòng 25 đến 40 năm, hoặc như một phần của cuộc điều tra trước đó về sự kết thúc của cuộc chiến dài nhất của Mỹ. Tuy nhiên, thông tin công khai cho thấy trường hợp Afghanistan tương tự như hai trường hợp trước đó, trong đó cộng đồng tình báo được yêu cầu cung cấp các đánh giá về khả năng đánh bại lực lượng nổi dậy của quân đội đồng minh: Việt Nam năm 1963 và Iraq năm 2014. Trong cả hai trường hợp đó, các sĩ quan tình báo dân sự và quân nhân cấp dưới trên thực tế đã nghi ngờ rằng các chương trình đào tạo và hỗ trợ của Hoa Kỳ đã chuẩn bị đầy đủ cho các quân đội tương ứng để vượt qua các đối thủ của họ và đưa ra những đánh giá trước về những thất bại, nhưng lại bị các quan chức cấp cao, những người đã vẽ nên một bức tranh tươi sáng hơn về các cơ hội thành công, bỏ qua.
Dòng người tìm cách chạy khỏi Kabul trước khi Taliban tiến vào
Các chuyên gia chính sách và học thuật trong nhiều năm đã nghiên cứu xem liệu Mỹ có thể đào tạo một cách hiệu quả quân đội hay tham gia vào việc xây dựng quốc gia nước ngoài hay không. Bài báo này xem xét cách các cơ quan tình báo có thể hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách một cách tốt nhất khi họ cân nhắc các lựa chọn chính sách quân sự. Một số sứ mệnh nhất định có thể là vô vọng, và những nhận định nhất quán của các nhà hoạch định chính sách rằng những sứ mệnh đó sẽ thành công có thể dẫn đến việc hạ thấp hoặc bỏ qua các phân tích tình báo thẳng thắn vốn thường đề xuất họ xem xét các lựa chọn khác. Bằng cách hiểu những sai lầm của các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ ở Việt Nam, Iraq và Afghanistan, đồng thời sửa đổi mối quan hệ chính sách-tình báo để thúc đẩy phân tích khách quan hơn về các sứ mệnh quân sự của Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ sẽ có thể đánh giá tốt hơn tính khả thi của thành công trong các nhiệm vụ đầy thách thức và điều chỉnh chính sách phù hợp.
Việt Nam: những người hiểu rõ nhất '
Hình ảnh máy bay và trực thăng Mỹ rời Afghanistan ngay lập tức gợi lên sự so sánh với cuộc rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1975, khi Gerald R. Ford làm tổng thống. Tuy nhiên, các biến cố từ thời chính quyền Kennedy cung cấp một mô hình rõ nét hơn để hiểu được tác động qua lại giữa các đánh giá tình báo và quân sự về triển vọng thành công của hoạt động chống nổi dậy do Mỹ hậu thuẫn. Khi John F. Kennedy nhậm chức năm 1961, Hoa Kỳ chỉ có khoảng vài trăm cố vấn quân sự phục vụ tại Việt Nam, được triển khai như một phần trong nỗ lực lớn hơn của chính quyền Eisenhower nhằm kiềm chế chủ nghĩa C...S ở Đông Nam Á và trên toàn cầu.
Người Mỹ rút chạy khỏi Sài Gòn tháng 4-1975
Vào tháng 5/1961, Kennedy chấp thuận đề xuất liên ngành của Lực lượng Nhiệm vụ Việt Nam rằng Hoa Kỳ nên tìm cách 'ngăn chặn việc những người CS ở miền Nam Việt Nam chiếm ưu thế; để tạo ra ở quốc gia đó một xã hội khả thi và ngày càng dân chủ, và khởi xướng, trên cơ sở nhanh chóng, một loạt các hành động hỗ trợ lẫn nhau về quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý và bí mật được thiết kế để đạt được mục tiêu này. Sau đó, Hoa Kỳ bắt đầu tăng dần số lượng cố vấn quân sự hỗ trợ Quân đội Nam Việt Nam (QLVNCH), lên tới khoảng 16.000 thành viên vào thời điểm Kennedy bị ám sát, tháng 11 năm 1963.
Cố vấn Mỹ và quân đội VNCH
Lý thuyết của chính quyền Kennedy ở Việt Nam là để ngăn chặn những người C.....S lên nắm quyền thì cần phải đánh bại cuộc nổi dậy của V.....C, được hoàn thành tốt nhất thông qua một chiến lược kết hợp hỗ trợ quân sự để tăng khả năng của QLVNCH để họ có thể bảo đảm an ninh trên khắp đất nước, và áp lực ngoại giao đối với chính phủ miền Nam Việt Nam để thực hiện các cải cách chính trị và kinh tế có ý nghĩa để xây dựng lòng tin của công chúng. Cách tiếp cận này gần giống với chiến lược chống nổi dậy được áp dụng ở Iraq và Afghanistan trong những năm 2000. Trong trường hợp của Việt Nam, các quan chức quốc phòng cấp cao của Mỹ tự tin rằng chiến lược của họ đang phát huy tác dụng, mặc dù họ thừa nhận rằng tiến độ còn chậm. Ví dụ, vào tháng 1 năm 1963, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng, nói với Kennedy rằng có những lý do để tin rằng các lực lượng chính phủ miền Nam Việt Nam đang trở nên mạnh hơn, bao gồm dấu hiệu cho thấy khoảng 800.000 dân làng đã chuyển lòng trung thành từ với V....C sang với chính quyền miền Nam Việt Nam, tỷ lệ thương vong của VC tăng lên so với của lực lượng chính phủ, và các cuộc tiến công của VC ở miền Nam Việt Nam đã giảm. Ông ta cũng đã cảnh báo 'những dấu hiệu đáng lo ngại về những rắc rối có thể xảy đến', lưu ý rằng VC tiếp tục tuyển mộ thành công các thành viên mới và duy trì được sự ủng hộ của một bộ phận đông đảo dân chúng nông thôn, và cảnh báo rằng các cải cách chính trị của chính phủ đang tiến hành rất chậm chạp. Tuy nhiên, McNamara tuyên bố rằng ông 'hài lòng với những tiến bộ mà Hoa Kỳ đã đạt được, và sẽ cử một phái đoàn quân sự cấp cao đến Việt Nam để tìm hiểu thêm những cách mà Hoa Kỳ có thể đẩy nhanh tiến bộ đó.
Ở chiều ngược lại, các nhà phân tích tình báo tỏ ra nghi ngờ quan điểm của các nhà lãnh đạo quân sự và quốc phòng cấp cao về các sự kiện ở Việt Nam và cho rằng phần lớn báo cáo từ các nguồn quân sự trong lĩnh vực này là quá lạc quan. Các chỉ huy quân sự cấp chiến trường và các nhà phân tích tình báo quân sự dường như cũng chia sẻ sự hoài nghi này. Một nghiên cứu đã được giải mật của cựu sĩ quan CIA Harold Ford về hiệu quả hoạt động của cơ quan này trong thời kỳ Việt Nam đánh giá rằng, tốt nhất, sự lạc quan của các quan chức cấp cao có thể là do sự nhiệt tình trong hoạt động; tệ nhất, đó là do họ muốn tỏ ra có năng lực trước các ông chủ của họ ở Washington và do đó, không đưa ra những bằng chứng cho thấy nhiệm vụ huấn luyện của họ đã không đạt được yêu cầu. Trong mọi trường hợp, Ford nói rằng hồ sơ 'có rất nhiều trường hợp mà các giám sát viên và chỉ huy chiến trường, những người chịu trách nhiệm chứng minh tiến độ hoạt động trong các chương trình được giao cho họ, đã bỏ qua các sự kiện và nhận định tiêu cực 'của cấp dưới'.
Lực lượng biệt kích của quân đội VNCH
Vào cuối năm 1962, Văn phòng Ước tính Quốc gia của cộng đồng tình báo bắt đầu đưa ra một Ước tính Tình báo Quốc gia (NIE) về Việt Nam. Theo định nghĩa, thông tin tình báo ước tính hướng tới tương lai, được thiết kế để giúp các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ xác định cách tốt nhất để thúc đẩy các lợi ích của Hoa Kỳ ở nước ngoài. NIE có lẽ là sản phẩm tình báo ước tính được biết đến rộng rãi nhất; chúng đại diện cho các đánh giá phối hợp của cộng đồng tình báo về các vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đối với Hoa Kỳ. Mục đích cụ thể của NIE đối với Việt Nam là giúp chính quyền nắm được những diễn biến vì nó đã tăng số lượng cố vấn quân sự và số tiền viện trợ kinh tế cho chính phủ miền Nam Việt Nam, và để đánh giá khả năng thành công trong chiến dịch chống nổi dậy của QLVNCH. Vào thời điểm đó, các NIE được soạn thảo bởi một nhóm các nhà phân tích dày dạn trong CIA, được điều phối ở cấp làm việc trong cộng đồng tình báo, và sau đó được đưa ra trước Hội đồng Tình báo Hoa Kỳ (USIB), bao gồm các lãnh đạo từ khắp cộng đồng tình báo và được chủ trì bởi giám đốc tình báo trung ương.
Quân đội VNCH do Mỹ đào tạo và xây dựng
Vào đầu năm 1963, Văn phòng Ước tính Quốc gia đã đệ trình bản thảo NIE 53-63, 'Triển vọng ở Việt Nam', lên USIB để phê duyệt. Nó bao gồm nhận định này: 'Cuộc đấu tranh ở miền Nam Việt Nam tốt nhất là sẽ kéo dài và tốn kém [bởi vì] những điểm yếu rất lớn vẫn còn và sẽ khó khắc phục. Trong số này, có việc thiếu sự lãnh đạo quyết liệt và vững vàng ở tất cả các cấp chỉ huy, tinh thần quân đội kém, thiếu sự tin tưởng giữa nông dân và binh lính, việc sử dụng chiến thuật kém các lực lượng sẵn có, một hệ thống tình báo rất kém, và sự thâm nhập sâu rộng của những người C....S trong các Tổ chức quân sự miền Nam Việt Nam'.
John McCone, khi đó là giám đốc cơ quan tình báo trung ương, đã bác bỏ bản dự thảo, chỉ trích các nhà phân tích đã soạn thảo nó vì đã phớt lờ quan điểm của 'những người hiểu rõ Việt Nam nhất' - cụ thể là các quan chức chính sách và quân sự cấp cao. McCone đã định hướng các nhà phân tích tìm hiểu quan điểm của các quan chức này và đưa ra một phiên bản mới, bản sửa đổi của NIE. Theo nghiên cứu của Ford, sau khi phỏng vấn các quan chức này, các nhà phân tích vẫn tỏ ra bi quan về khả năng của chính phủ Nam Việt Nam trong việc chiến thắng cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, họ đã bị kiểm soát bởi các ông chủ cộng đồng tình báo, và NIE cuối cùng, được xuất bản vào tháng 4 năm 1963, đánh giá: 'Chúng tôi tin rằng những bước tiến của C....S đã bị ngăn chặn và tình hình đang được cải thiện. Những tiến bộ trong năm qua cho thấy rằng có thể ngăn chặn việc VC kiểm soát về mặt quân sự và sẽ có những tiến bộ hơn nữa có thể đạt được trong việc mở rộng khu vực kiểm soát của chính phủ và tạo ra an ninh cao hơn ở nông thôn.
Quân đội VNCH do Mỹ đào tạo và xây dựng
Quan điểm này gần giống với quan điểm mà McNamara đưa ra cho Kennedy chỉ vài tháng trước đó và là một công cụ hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách trong việc tranh luận về việc tiếp tục chiến lược của họ ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, một khi việc cung cấp đủ huấn luyện quân sự và gây áp lực lên chính phủ miền Nam Việt Nam để cải tổ, Hoa Kỳ có thể ngăn chặn những người C...S nổi dậy và ngăn chặn chủ nghĩa C....S nắm quyền. Trên thực tế, các quan chức chính quyền, bao gồm cả chính Kennedy, đã sử dụng đánh giá của NIE để hỗ trợ việc giảm số lượng nhân viên Hoa Kỳ tại Việt Nam. Cuối cùng, sự bất ổn do cuộc đảo chính lật đổ tổng thống miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963 đã ngăn cản việc thực hiện giảm bớt số lượng nhân viên. Nhưng mô hình sửa đổi các sản phẩm tình báo chiến lược để hỗ trợ các đánh giá chính sách lạc quan hơn vẫn tiếp tục.
Cuộc đảo chính lật đổ tổng thống miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963
.......