[Funland] Những trận đánh nổi tiếng thế giới

Trạng thái
Thớt đang đóng
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Chiến dịch trên bộ: Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các lực lượng Nga dọc theo mặt trận phía bắc dựa vào các con đường tránh đầm lầy và rừng của Ukraine. Trong khi lợi thế về quân số, pháo và hỏa lực từ các phương tiện bọc thép cho phép lực lượng Nga nhanh chóng tiến về phía Kyiv, các lực lượng Ukraine đã gây thương vong đáng kể khi sử dụng các cuộc phục kích chống tăng. Khi các lực lượng Nga di chuyển qua các làng mạc và thị trấn của Ukraine, thường dân địa phương đã cung cấp thông tin tình báo về vị trí và sự di chuyển của họ, trong khi các lực lượng đặc biệt và UAV của Ukraine đánh dấu các mục tiêu cho pháo binh.
Phần lớn lực lượng trên bộ của Nga bao gồm các BTG, là các đơn vị binh chủng hợp thành thường được lấy ra từ các đại đội và tiểu đoàn trong các lữ đoàn hiện có. Mặc dù cơ cấu của các BTG có phần thay đổi tùy theo nhu cầu tác chiến và nhân sự sẵn có, hầu hết bao gồm khoảng 600 đến 800 binh sĩ - và ở Ukraine, có lẽ gần 600 binh sĩ. Nhìn chung, họ là các tiểu đoàn cơ giới hóa, với hai đến bốn đại đội xe tăng hoặc bộ binh cơ giới và các trung đội pháo binh, trinh sát, công binh, tác chiến điện tử và hỗ trợ phía sau — bao gồm các đội vận tải cơ giới, bếp dã chiến, thu hồi xe, bảo dưỡng và vệ sinh. Kết quả trên lý thuyết là một đơn vị chiến đấu mặt đất khá tự chủ với hỏa lực và sự hỗ trợ từ phía sau. Trên thực tế, các BTG dường như thiếu sức mạnh và không có đủ quân số.

1657105407257.png

1657105478716.png

1657105535338.png

Quân đội Nga tại Ukraine

Nhìn chung, lực lượng trên bộ của Nga đã gặp phải những vấn đề nghiêm trọng ở Ukraine.

Đầu tiên, quân đội Nga phải đối mặt với những thách thức quan trọng về bảo trì và hậu cần khi hoạt động tại các khu vực tranh chấp bên trong Ukraine. Cách tiếp cận của Nga đối với tác chiến binh chủng hợp thành nói chung là tấn công các vị trí của Ukraine bằng pháo binh và các vũ khí dự phòng khác, sau đó điều các xe bọc thép tiến lên theo phương thức cơ động được gọi là "do thám để tiến công", được thiết kế để áp đảo những gì còn lại của tuyến phòng thủ Ukraine. Nhưng do quân đội Ukraine sử dụng hiệu quả các loại đạn chống tăng, chẳng hạn như tên lửa dẫn đường chống tăng và đạn bay lơ lửng, nên các lực lượng trên bộ của Nga gặp khó khăn trong việc tiến công và chiếm giữ trận địa. Điều này đúng ngay cả khi tốc độ của một số đơn vị thiết giáp Nga cho phép họ tiến vào các vùng ngoại ô của Kyiv chỉ 48 giờ sau cuộc chiến. Một số đơn vị này của Nga đã bị cô lập với sự hạn chế hoặc không có hậu cần, ở phía trước lực lượng chính của các đơn vị trên bộ của Nga hàng km.

1657105604476.png

1657105623252.png

1657105654959.png

1657105701477.png

1657105870597.png

1657105932165.png

Vận tải quân sự của Nga

Quân đội Nga cũng hoạt động với ít binh sĩ hỗ trợ hơn nhiều các quân đội khác. Khoảng 150 binh sĩ trong BTG có thể được coi là hỗ trợ, con số này thấp hơn đáng kể so với một số quân đội như Lục quân Mỹ, lực lượng triển khai khoảng 10 binh sĩ hỗ trợ cho mỗi binh sĩ chiến đấu. Không được tiếp cận với phương tiện giao thông đường sắt, vốn thường được dùng để vận chuyển các thiết bị hạng nặng của Nga, và với một số con đường có sẵn bị tắc nghẽn giao thông, lục quân Nga ngày càng khó di chuyển lương thực, nhiên liệu, vũ khí, phụ tùng và các nguồn cung cấp khác cho các lực lượng triển khai ở phía trước. Những vấn đề này càng tăng thêm do lục quân Nga không cung cấp an ninh cho đoàn xe hậu cần, chẳng hạn như phương tiện chở thực phẩm, nước uống, vật tư y tế, nhà bếp di động, nhiên liệu, kỹ sư và phụ tùng thay thế. Các phương tiện do Nga triển khai ở phía trước đã bị hỏng và nhiều chiếc phải bỏ lại vì thiếu phụ tùng thay thế, thợ sửa chữa và phương tiện phục hồi. Tóm lại, quân đội Nga đã thất bại trong việc bảo đảm các tuyến liên lạc quan trọng của mình.
Chẳng hạn, việc Nga tiến tới Kyiv đã phải trả một cái giá ngày càng đắt. Vào thời điểm các lực lượng Nga đã bảo vệ được Sân bay Hostomel vào cuối tháng 2 năm 2022 và sẵn sàng tiến hành một cuộc tấn công vào Kyiv, họ đã thiếu sức mạnh chiến đấu để chiếm giữ thành phố. Các lực lượng Nga đã tiến vào tầm bắn của các đơn vị pháo binh Ukraine và bộc lộ nhiều chiều sâu đội hình hơn trước hỏa lực đối phương. Các lực lượng Nga cũng gặp phải nhiều thách thức về hậu cần trong nỗ lực thất bại trong việc chiếm và giữ thành phố Kharkiv. Các lệnh cấm của phương Tây đối với việc xuất khẩu các công nghệ nhạy cảm sang Nga cũng có thể làm giảm khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài của Mátxcơva. Ví dụ, hai trong số các nhà sản xuất xe tăng lớn nhất của Nga đã buộc phải ngừng sản xuất vì thiếu các bộ phận.

1657105969442.png

1657105988434.png

1657106026216.png

1657106045071.png

1657106153976.png

1657106165963.png

1657106209883.png

Các phương tiện chiến tranh của Nga bị phá hủy tại Ukraine
..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Thứ hai, lực lượng tiến công của Nga quá nhỏ để chiếm và giữ lãnh thổ, đặc biệt là trước việc dân chúng Ukraine nổi lên chống lại quân đội Nga, một biến thể của điều mà nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc MTĐ gọi là “chiến tranh nhân dân”. Như MTĐ đã viết trong cuốn sách Về Trường kỳ kháng chiến, “nguồn sức mạnh dồi dào nhất để tiến hành chiến tranh nằm ở quần chúng nhân dân”. Ông lập luận rằng trong một nỗ lực kháng chiến được tổ chức tốt, lực lượng xâm lược “sẽ bị bao quanh bởi hàng trăm triệu người dân của chúng ta đang đứng lên. . . và chúng sẽ bị tiêu diệt”. Nga đã sử dụng từ 150.000 đến 190.000 binh sĩ - bao gồm cả lực lượng chính quy và phi chính quy - cho cuộc tiến công ban đầu vào Ukraine, quốc gia có khoảng 44 triệu dân với diện tích hơn 600.000 km vuông. Những con số đó chuyển thành tỷ lệ lực lượng 4 binh sĩ Nga trên 1.000 dân Ukraine.

1657166221806.png

1657166257478.png

1657166280295.png

1657166312158.png

Dân chúng Ukraine tham gia dân quân chống lại quân đội Nga

Không có công thức chính xác về số lượng binh lính được yêu cầu để nắm giữ lãnh thổ bị xâm chiếm, nhưng tỷ lệ lực lượng lên đến 20 binh sĩ trên 1.000 dân đôi khi là cần thiết để bình định một dân số địa phương thù địch. Số lượng lớn quân đội nói chung là điều cần thiết để thiết lập luật pháp và trật tự cơ bản. Ví dụ, vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ II, có 101 binh sĩ Mỹ trên 1.000 dân trong khu vực do Mỹ kiểm soát ở Đức. Gần đây hơn, có 19 binh sĩ Mỹ và châu Âu trên 1.000 dân ở Bosnia vào năm 1995 và 20 binh sĩ trên 1.000 dân ở Kosovo vào năm 2000.
Tỷ lệ thấp hơn nói chung là không đủ để làm dịu các cộng đồng thù địch. Ví dụ, ở Iraq, Mỹ có 7 binh sĩ trên 1.000 dân và phải đối mặt với một cuộc nổi dậy chết chóc dai dẳng - ngay cả khi có sự trợ giúp của quân chính phủ Iraq và các thành viên dân quân Sunni. Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, Tướng Eric K. Shinseki cảnh báo Quốc hội vào tháng 2/2003 rằng có thể sẽ cần "vài trăm nghìn" quân để đảm bảo an ninh cho Iraq thời hậu chiến. Tại Afghanistan, Mỹ chỉ có 1 binh sĩ trên 1.000 dân, cùng với sự trợ giúp của Lực lượng An ninh Quốc gia Afghanistan. Với số lượng ít ỏi như vậy, Mỹ và các đồng minh NATO phải đối mặt với một cuộc nổi dậy kéo dài dẫn đến việc lật đổ chính phủ Afghanistan vào năm 2021. Tỷ lệ binh sĩ Nga ở Ukraine quá nhỏ để có thể nắm giữ lãnh thổ - bao gồm cả các thành phố - trong thời gian dài.

1657166453079.png

1657166486478.png

1657166541212.png

1657166574087.png

1657166701080.png

Quân đội Nga tại Ukraine

Tỷ lệ thấp cũng là một vấn đề do số lượng đáng kể binh sĩ nghĩa vụ được triển khai đến Ukraine, những người hoạt động không hiệu quả và tinh thần kém. Các binh sĩ nghĩa vụ Nga thường bị cấm tham gia các chiến dịch quân sự ở nước ngoài trừ khi Mátxcơva chính thức tuyên chiến, trừ khi họ tình nguyện. Tuy nhiên, nghĩa vụ bắt buộc của họ thường chỉ kéo dài một năm, và binh sĩ nghĩa vụ nói chung không phải là những người chiến đấu hiệu quả. Các binh sĩ Nga đã gần như không được thông báo trước rằng họ sẽ tiến công Ukraine, làm suy yếu khả năng sẵn sàng và kế hoạch hậu cần.

Thứ ba, các lực lượng Nga đã thất bại trong việc tiến hành chiến tranh cơ động chống lại các lực lượng Ukraine, thay vào đó họ thích bắn phá các thành phố và làng mạc của Ukraine trong một cuộc chiến tiêu hao. Các vấn đề trên thực địa trở nên phức tạp do Nga không thể tiến hành một chiến dịch binh chủng hợp thành hiệu quả và đồng bộ hóa các tác động. Những thách thức của Nga đã đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về sức mạnh hỏa lực và cơ động của nước này. Ví dụ, bộ binh Nga đã ở đâu khi họ được xác định là nhằm vào các cuộc phục kích của Ukraine? Hỏa lực từ pháo binh, súng cối và yểm trợ tầm gần được cho là có thể chế áp các loại vũ khí dẫn đường chống tăng của Ukraine đã ở đâu?
Một phần của thách thức có thể là do khả năng lãnh đạo kém trong quân đội Nga và cơ cấu chỉ huy và kiểm soát tập trung cao độ của Nga thiếu một quân đoàn chuyên nghiệp gồm các hạ sĩ quan.

1657166831575.png

1657166851593.png

1657166870080.png

1657166895234.png

Quân đội Nga bị lực lượng Ukraine phục kích

Chất lượng của các lực lượng Ukraine là một sự thay đổi lớn so với lực lượng ở Syria, nơi các đơn vị của Nga, Syria, Iran, Hezbollah và các đơn vị dân quân từ Iraq, Afghanistan, lãnh thổ Palestine và các khu vực khác phải đối mặt với sự sự kháng cự tương đối yếu của quân nổi dậy. Các đội hình cơ giới hóa của Nga ở miền bắc Ukraine là mục tiêu tấn công của bộ binh hạng nhẹ Ukraine được trang bị các hệ thống vũ khí hiện đại, chẳng hạn như hệ thống tên lửa chống tăng Javelin, Vũ khí chống tăng hạng nhẹ thế hệ tiếp theo (NLAW) và tổ hợp tên lửa dẫn đường chống tăng Stugna-P.

1657166996989.png

1657167015267.png

1657167047370.png

1657167070048.png

1657167099713.png

1657167123044.png

1657167154513.png

1657167193724.png

Vũ khí chống tăng của quân đội Ukraine

Các cuộc tấn công của Ukraine trong đợt tiến công ban đầu của Nga cũng khiến người Nga không sẵn sàng đẩy các hệ thống phòng không và tác chiến điện tử nhạy cảm vào Ukraine để tránh trường hợp chúng bị thu giữ. Do đó, Nga đã phải ở thế yếu trong việc chế áp điện tử đối với radar và liên lạc của Ukraine. Các sĩ quan cấp cao của Nga bắt đầu triển khai về phía trước, nơi họ trở thành mục tiêu cho các cuộc tấn công của các tay súng bắn tỉa và pháo binh. Ngoài ra, các lực lượng Nga còn gặp phải nhiều vấn đề về chỉ huy và kiểm soát, bao gồm cả sự thiếu hụt liên lạc an toàn, điều này làm suy yếu khả năng đồng bộ hóa và điều phối các cuộc tấn công của họ. Các binh sĩ Nga thường xuyên sử dụng thông tin liên lạc không được mã hóa - bao gồm cả điện thoại di động dân sự - cho phép các đơn vị quân đội và tình báo Ukraine xác định mục tiêu.

Những khó khăn của Nga trong việc chiếm giữ lãnh thổ đã tạo ra những vấn đề trong môi trường trên biển. Ví dụ, vào ngày 13/4, các lực lượng Ukraine đã tấn công tàu tuần dương RTS Moskva, một tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường và là tàu chủ lực của Hạm đội Biển Đen của Nga, bằng các tên lửa chống hạm Neptune. Hải quân Nga đã mất một số tàu khác trước các cuộc tấn công từ phía Ukraine, bao gồm tàu Saratov, một tàu đổ bộ lớp Alligator; hai tàu tuần tra lớp Raptor; và một tàu đổ bộ lớp Serna. UAV Bayraktar TB2 của Ukraine dường như đã đánh chìm các tàu tuần tra và tàu đổ bộ này.

1657167259193.png

1657167284642.png

1657167299641.png

1657167319110.png

Tàu đổ bộ Saratov bị trúng tên lửa Ukraine

1657167428974.png

1657167487636.png

1657167468964.png

1657167578062.png

Tàu đổ bộ lớp Serna bị trúng tên lửa Ukraine

.................
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
3,181
Động cơ
193,841 Mã lực
1657190864426.png


(Tiếp)

Những thách thức về không gian và mạng: Nga đã tiến hành nhiều hoạt động không gian mạng, bao gồm cả tấn công mạng và hoạt động gián điệp, kết hợp với các cuộc tấn công trên bộ, trên không và trên biển của Nga. Một ngày trước cuộc tiến công quân sự, chẳng hạn, những kẻ tấn công mạng liên kết với Cục Tình báo Trung ương (GRU) đã tiến hành các cuộc tấn công phá hoại nhằm vào hàng trăm hệ thống trong chính phủ Ukraine và trong các lĩnh vực năng lượng, công nghệ thông tin, truyền thông và tài chính của Ukraine. Mục tiêu của Nga có khả năng làm suy yếu quyết tâm chính trị của Ukraine, làm suy yếu khả năng chiến đấu của Ukraine và thu thập thông tin tình báo mà Nga có thể sử dụng để đạt được lợi thế về chiến thuật, chiến dịch và chiến lược. Trong vài tuần tiếp theo, các tác nhân Nga có liên kết với GRU, Cơ quan Tình báo Nước ngoài (SVR) và Cơ quan An ninh Liên bang (FSB) đã tiến hành nhiều cuộc tấn công mạng sử dụng các họ phần mềm độc hại như:
  • WhisperGate / Whisper / Kill
  • Kết quả tồi tệ nhất cho Ukraine
  • FoxBlade (hoặc Hermetic Wiper)
  • SonicVote (hoặc HermeticRansom)
  • CaddyWiper
  • DesertBlade
  • Industroyer2
  • Lasainraw (hoặc IsaacWiper)
  • FiberLake (hoặc DoubleZero)
Các loại phần mềm độc hại này được thiết kế để thực hiện một loạt các hoạt động độc hại, chẳng hạn như ghi đè dữ liệu và kết xuất máy không thể khởi động, xóa dữ liệu và phá hủy - hoặc cố gắng phá hủy - cơ sở hạ tầng quan trọng, chẳng hạn như quy trình và sản xuất công nghiệp. Các tin tặc có liên kết với Nga đã sử dụng một loạt các kỹ thuật xâm nhập phổ biến, chẳng hạn như khai thác các ứng dụng dựa trên web công khai, gửi e-mail lừa đảo trực tuyến có đính kèm hoặc liên kết, đánh cắp thông tin xác thực và sử dụng tài khoản e-mail hợp lệ. Trong tháng rưỡi đầu tiên của cuộc chiến, hơn 40% các cuộc tấn công mạng hủy diệt của Nga là nhằm vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng của Ukraine, trong khi 32% khác nhắm vào các trang web của chính phủ Ukraine.

Nga cũng tiến hành chiến dịch tác chiến điện tử chống lại lực lượng Ukraine. Trong vài năm trước, Nga đã đầu tư rất nhiều vào các hệ thống tác chiến điện tử có khả năng ngắt thông tin liên lạc và tín hiệu trên một phổ rộng. Khả năng này được nhóm lại theo khái niệm Pin điện tử vô tuyến. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày 24/02/2022, Nga đã gây nhiễu radar phòng không Ukraine trên tất cả các dải tần. Các UAV E95M của Nga, mô phỏng máy bay Nga, đã gây nhiễu radar của Ukraine để loại bỏ hệ thống phòng không của họ.

1657190415306.png

1657190475205.png

1657190544117.png

1657190577996.png

UAV E95M

Tuy nhiên, về cơ bản không gian mạng là một công cụ thất bại đối với Nga trong chiến tranh. Quân đội Nga đã phải đối mặt với những thách thức hoạt động đáng kể, một phần là do sự hỗ trợ của các lực lượng nhà nước và phi nhà nước bên ngoài dành cho Ukraine để xác định các cuộc tấn công mạng và chiến tranh điện tử, xác định thủ phạm và hỗ trợ khắc phục. Một số chính phủ phương Tây, bao gồm Bộ Tư lệnh Không gian Mạng và Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ, đã hỗ trợ chính phủ Ukraine. Như Tướng Paul Nakasone, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Không gian mạng Mỹ và Giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia, nhận xét: “Phối hợp với người Ukraine trong nỗ lực giúp họ củng cố mạng lưới của mình, chúng tôi đã triển khai một nhóm săn lùng sát cánh cùng các đối tác của chúng tôi để có được những hiểu biết quan trọng đã giúp tăng cường khả năng phòng thủ nội địa cho cả Mỹ và Ukraine”.


1657190748236.png

1657190809490.png

1657190840367.png

1657190864221.png

1657190951690.png

1657191034975.png

1657191096883.png

1657191125391.png

1657191242812.png

Căn cứ quân sự và hướng hành quân của quân Nga bị vệ tinh thương mại chụp ảnh

Các công ty khu vực tư nhân cũng phản ứng. Microsoft đã hợp tác chặt chẽ với chính phủ Ukraine và các nhân viên an ninh mạng từ các chính phủ và công ty tư nhân khác để xác định và xử lý các hoạt động đe dọa của Nga đối với các mạng Ukraine trước và sau khi Nga tiến công. Vào tháng 01/2022, Trung tâm Tình báo Đe dọa của Microsoft đã xác định được phần mềm độc hại xóa sổ trong hơn một chục mạng Ukraine và thông báo cho chính phủ Ukraine. Microsoft đã thiết lập một đường dây liên lạc an toàn với các quan chức mạng Ukraine để cung cấp thông tin về mối đe dọa theo thời gian thực và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để hỗ trợ những nỗ lực của Ukraine nhằm xác định và đánh bại các cuộc tấn công mạng có liên quan đến Nga trong suốt cuộc chiến. Microsoft đã làm việc với các quan chức chính phủ Ukraine để kích hoạt quyền truy cập thư mục được kiểm soát, một tính năng của Microsoft Defender và giúp Ukraine chạy các giải pháp phát hiện và phản hồi điểm cuối.

Ngoài ra, công ty SpaceX của Elon Musk đã kích hoạt Starlink - một chùm vệ tinh cung cấp internet băng thông rộng tốc độ cao, độ trễ thấp sử dụng các vệ tinh tiên tiến trong quỹ đạo trái đất thấp - ở Ukraine và gửi thêm các thiết bị đầu cuối mạng, bao gồm hơn 10.000 ăng-ten đĩa. Starlink cho phép các thành viên của quân đội Ukraine thực hiện các hoạt động thu thập thông tin tình báo phức tạp và hỗ trợ hỏa lực chống lại các vị trí của Nga. Nhiều bộ dụng cụ Starlink được tặng cho Ukraine bao gồm một đĩa thu rộng 23 inch cần thiết để gắn bên ngoài, cũng như một dây kết nối với một bộ định tuyến đơn giản phát tín hiệu Internet Wi-Fi. Starlink đã giúp ngăn chặn nỗ lực của Nga nhằm gây nhiễu tín hiệu, chặn internet và phá hoại khả năng chỉ huy và kiểm soát của Ukraine.

1657191508721.png

1657191582633.png

1657191624863.png

1657191687467.png

1657191719775.png

1657191840855.png

Thiết bị liên lạc vệ tinh Starlink trong quân đội Ukraine
..................
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Những bài học này chỉ ra điều gì về tương lai của cuộc chiến ở Ukraine? Phân tích này cho thấy Nga đã mắc phải những sai lầm lớn trong giai đoạn lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động quân sự của mình ở Ukraine, điều này khó có thể được sửa chữa nhanh chóng. Lực lượng không quân Nga không có nhiều khả năng chiếm ưu thế trên không so với Ukraine và không có nhiều vũ khí dẫn đường chính xác, tầm xa. Nga cũng có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức dài hạn trong chuỗi cung ứng đối với một số hệ thống vũ khí vì các lệnh trừng phạt kinh tế của phương Tây.
Ngoài ra, xu hướng các lực lượng được huấn luyện kém của Nga tiến hành các cuộc bắn phá lớn vào các thị trấn và thành phố trong một cuộc chiến tranh tiêu hao, thay vì tiến hành bắn và cơ động cơ bản, sẽ gây khó khăn cho việc chiếm và giữ lãnh thổ đáng kể trước các đơn vị mặt đất Ukraine cố thủ bằng các hệ thống vũ khí và tuyến chi viện hậu cần của phương Tây. Khả năng tác chiến điện tử và không gian mạng của Nga phần lớn đã bị vô hiệu hóa bởi các biện pháp đối phó hiệu quả của Ukraine, với sự trợ giúp từ các thực thể nhà nước và phi nhà nước phương Tây. Những thách thức này và những thách thức khác đã góp phần vào tỷ lệ tiêu hao cao đối với quân đội Nga, bao gồm việc phá hủy một phần hoặc hoàn toàn ít nhất 1.000 xe tăng chiến đấu chủ lực, 350 khẩu pháo, 36 máy bay cánh cố định và 50 máy bay trực thăng.
Tuy nhiên, Nga có thể sẽ thực hiện một số điều chỉnh trong suốt cuộc chiến, bao gồm cả việc cải thiện công tác hậu cần. Ví dụ, quyết định của Nga trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến là tập hợp lại dọc theo mặt trận phía nam và phía đông đã cải thiện các tuyến liên lạc của Nga. Các lực lượng Nga đã xây dựng và gia cố một số tuyến đường sắt, cầu và đường bộ, và những thành công của hải quân Nga dọc Biển Azov đã cho phép các tàu Nga tiếp tế cho các lực lượng Nga bằng đường thủy. Những điều chỉnh này đã cải thiện khả năng của Nga trong việc di chuyển phụ tùng, vũ khí, nhiên liệu và các vật liệu khác cho các lực lượng được triển khai ở tiền duyên của Nga. Tuy nhiên, nhiều thất bại của Nga sẽ đòi hỏi nhiều năm thay đổi và sẽ buộc quân đội Nga phải suy nghĩ lại về huấn luyện, cơ cấu tổ chức, văn hóa và lập kế hoạch để cải thiện khả năng sẵn sàng chiến đấu và hiệu suất quân sự.
Tuy nhiên, cuộc chiến ở Ukraine có thể sẽ còn kéo dài. Đối với Điện Kremlin, hiện trạng có thể là không thể chấp nhận được. Quân đội Nga không chỉ không đạt được hầu hết các mục tiêu mà Ukraine còn tiếp tục xích lại gần phương Tây hơn về mặt quân sự, kinh tế và chính trị. Thậm chí tệ hơn đối với Mátxcơva, NATO mở rộng sang Phần Lan và Thụy Điển. Nga có một lịch sử gần đây nỗ lực để đạt được những chiến thắng quân sự. Chẳng hạn, sau những thất bại của Nga trong Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất (1994–1996), Putin đã tạm dừng để điều chỉnh chiến lược, chiến dịch và chiến thuật của Nga. Năm 1999, Nga bắt đầu lại các hoạt động tấn công và thành công hơn nhiều trong việc đánh bại quân nổi dậy trong Chiến tranh Chechnya lần thứ hai (1999–2009).
Hiện trạng cũng khó có thể chấp nhận được đối với các nhà lãnh đạo Ukraine, bao gồm cả Tổng thống Volodymyr Zelensky, người cho biết họ không chấp nhận việc thêm lãnh thổ của mình bị sáp nhập vào Nga. Kể từ năm 2014, Nga đã sáp nhập trái phép các phần nhỏ lãnh thổ Ukraine, đầu tiên là ở Crimea, sau đó ở miền đông Ukraine, và cuối cùng là các khu vực rộng lớn hơn ở miền nam và miền đông Ukraine. Trong một cuộc thăm dò dư luận vào tháng 5 năm 2022, 82% người Ukraine trả lời rằng Ukraine không nên giao bất kỳ phần lãnh thổ nào của mình cho Nga như một phần của thỏa thuận hòa bình.
Nhưng việc giành lại lãnh thổ sẽ rất khó cho Ukraine. Tại Căn cứ Không quân Kherson gần Crimea, các lực lượng Nga đã cố thủ ở Ukraine với xe tăng chiến đấu chủ lực, pháo tự hành, hệ thống tác chiến điện tử, nhiều bệ phóng tên lửa, xe chiến đấu bọc thép, hệ thống phòng không hiện đại, và các hệ thống khác. Nga cũng đã xây dựng các vị trí chiến đấu phòng thủ nhằm gây khó khăn cho việc phản công của Ukraine.

1657682612685.png

1657682685349.png

1657682722837.png

1657682956238.png

Quân Nga tại Kherson

Nếu không có thỏa thuận hòa bình giữa Ukraine và Nga, mục tiêu quân sự chính của Mỹ và phương Tây là cung cấp đủ hỗ trợ quân sự để giúp Ukraine chiếm lại lãnh thổ ở phía đông và nam. Nếu Mỹ và phương Tây muốn thay đổi cán cân quyền lực có lợi cho Ukraine, họ sẽ cần cung cấp cho Ukraine nhiều vũ khí và nền tảng hơn cho phép quân đội Ukraine tiến hành các hoạt động tấn công và phản công hiệu quả hơn chống lại các lực lượng được củng cố của Nga qua một thời gian chiến sự. Ví dụ bao gồm các UAV có tầm hoạt động xa hơn và tải trọng lớn hơn so với tải trọng của UAV Bayraktar TB2 hoặc đạn bay lơ lửng AeroVironment Switchblade, chẳng hạn như UAV MQ-1C Grey Eagle; xe tăng chiến đấu chủ lực như xe Leopard 2; hệ thống tên lửa tầm trung và tầm xa, chẳng hạn như hệ thống rốc két phóng loạt HIMARS; và máy bay chiến đấu, chẳng hạn như Su-25.

1657683143048.png

1657683305462.png

1657683321663.png

1657683227683.png

1657683401775.png

Hệ thống rốc két phóng loạt HIMARS của Ukraine

Hầu hết các hệ thống này sẽ yêu cầu huấn luyện bổ sung và nguồn cung cấp vũ khí và phụ tùng thay thế ổn định, điều này sẽ khả thi với một cuộc chiến kéo dài. Các nền tảng và vũ khí tiên tiến hơn sẽ rất quan trọng để đánh bại các lực lượng cố thủ của Nga. Ngoài ra, Ukraine cần tiến hành một chiến dịch du kích bền vững đằng sau phòng tuyến của Nga, bao gồm các cuộc phục kích, đột kích, phá hoại và lật đổ chống lại các lực lượng Nga và các nhà lãnh đạo chính trị do Mátxcơva lựa chọn để thay thế các quan chức địa phương của Ukraine.
Kết quả tồi tệ nhất đối với Ukraine sẽ là cho phép Nga sát nhập thêm lãnh thổ Ukraine. Như Winston Churchill đã nhận xét về đêm trước của Chiến tranh Thế giới lần thứ II, sự xoa dịu chỉ làm tăng sự thèm khát của một nhà độc tài: “Và đừng cho rằng đây là sự kết thúc. Đây chỉ là sự khởi đầu của những tính toán. Đây chỉ là ngụm đầu tiên, hương vị đầu tiên của chén đắng sẽ đến với chúng ta qua từng năm…”.
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
3,181
Động cơ
193,841 Mã lực
THẢM KỊCH TỒI TỆ NHẤT TRONG LỊCH SỬ HẢI QUÂN LIÊN XÔ

Vào cuối mùa Hè năm 1941, Hải quân Liên Xô đã chứng kiến những ngày đen tối nhất trong lịch sử của mình. Vào ngày 28/8, quân Đức chiếm đóng Tallinn, Thủ đô Estonia thuộc Liên Xô. Hạm đội Baltic đã sơ tán quân và người dân tiến về Leningrad. Chiến dịch đã kết thúc với hơn 50 tàu thiệt hại và 10.000 binh lính, thủy thủ và dân thường Liên Xô thiệt mạng.

Cạm bẫy

Tallinn trở thành căn cứ chính của Hạm đội Baltic, ngay sau khi các nước Baltic trở thành một phần của Liên Xô vào năm 1940. Thành phố đã chuẩn bị tốt để đẩy lùi các cuộc tiến công của quân Đức từ hướng biển và trên không. Tuy nhiên, mắt xích yếu nhất của thành phố lại là phòng thủ trên đất liền vì không ai có thể tưởng tượng rằng kẻ thù có thể đi qua Litva và Latvia để đến Thủ đô Estonia vây hãm.
Tuy nhiên, đây chính là những gì đã xảy ra. Ngay từ đầu tháng 7, các đội quân thuộc Cụm tập đoàn quân phía Bắc của Hitler đã tiến vào lãnh thổ Estonia và vào ngày 7/8, họ đã đến bờ biển vịnh Phần Lan, qua đó cắt đứt thành phố bằng đường bộ khỏi lực lượng chính của Hồng quân. Ngay cả trong tình huống đó, Bộ Chỉ huy Liên Xô cũng không ra lệnh sơ tán Tallinn, với ý định tử thủ đến cùng. Trong khi đó, lực lượng phòng thủ của thành phố rất nhỏ và chỉ bao gồm các đơn vị của Quân đoàn súng trường số 10, thủy thủ, Bộ Nội vụ (NKVD) và tự vệ địa phương. Ngày 25/8, tình hình trở nên nguy cấp khi Hồng quân Liên Xô bị đẩy lùi trở lại tuyến phòng ngự chính ở ngoại ô Tallinn. Pháo binh Đức có thể bắn phá toàn bộ thành phố và quân cảng. Các tàu chiến thuộc Hạm đội Baltic vẫn có thể yểm trợ hỏa lực cho binh sĩ sơ tán sau khi Phó đô đốc Vladimir Tributs ra lệnh di tản ngày 27/8.

1658462281215.png

1658462372630.png

Căn cứ hải quân Tallinn của hải quân Liên Xô năm 1941

Sơ tán

Việc lên tàu kéo dài suốt ngày đêm sau đó diễn ra trong bầu không khí hoàn toàn hỗn loạn và không có bất kỳ một quy tắc nào. Mọi thứ càng trở nên trầm trọng hơn bởi sự hoảng loạn khi giao tranh đã diễn ra trên các đường phố. Những con tàu hàng trở nên quá tải và không có đủ chỗ cho binh lính, thủy thủ, trong khi hàng loạt vũ khí, khí tài bị ném xuống biển vì không thể sơ tán. Nhiều đơn vị Hồng quân đang giao tranh với quân địch trên đường phố cũng không kịp lên tàu. Khi quân Đức chiếm đóng Tallinn, khoảng 11.000 lính Liên Xô đã bị bắt.
Vào ngày 28/8, 225 tàu của Hạm đội Baltic trong 4 đoàn tàu rời Tallinn và hướng đến căn cứ hải quân Kronstadt trên đảo Kotlin gần Leningrad. Theo các ước tính khác nhau, họ có từ 20.000 đến 41.000 người trên tàu, bao gồm cả quân nhân của Quân đoàn súng trường số 10, dân thường và lãnh đạo của Estonia.

1658462495729.png

1658462643020.png

1658462725778.png

1658462566714.png

Quân Đức tấn công Tallinn

Thảm khốc

Các chỉ huy Hạm đội Baltic biết rằng kể từ tháng 7, quân Đức và quân Phần Lan đã kiểm soát chặt chẽ vịnh Phần Lan, nhưng họ đã không có động thái nào để thay đổi tình hình. Cuối cùng, những bãi mìn mà tàu Liên Xô đi qua đã trở thành nguyên nhân chính của thảm kịch.
Các đoàn tàu di chuyển cực kỳ chậm chạp do phải đợi các tàu quét mìn, tàu phá lôi có nhiệm vụ dò tìm và phá thủy lôi. Các tàu Liên Xô khi bị pháo bờ biển của đối phương tiến công hoặc bị gây áp lực bởi các tàu phóng lôi của Phần Lan (tàu của Đức không tham gia giao tranh), nên đi chệch khỏi đường đi an toàn đã được rà phá thủy lôi, khiến tàu trúng mìn và chìm chỉ trong vài phút.

1658462810235.png

Máy bay Đức bay trên tàu vận tải Liên Xô

1658462895208.png

Hải quân Đức thả thủy lôi phong tỏa vịnh Phần Lan

Hàng loạt tàu di chuyển chậm chạp đã trở thành “bia tập bắn” cho các máy bay của Không quân Đức. Ngay cả khi các phi công Đức không đánh chìm được con tàu, thì con tàu bị hư hại thường đi chệch khỏi luồng an toàn đã được rà phá thủy lôi, đương nhiên chúng sẽ trúng mìn rồi lại chìm xuống.
Không có Không quân Liên Xô yểm trợ trên bầu trời. Cuộc di tản muộn màng được thực hiện khi tất cả các đường băng gần Tallinn trước đó đã rơi vào tay kẻ thù. Máy bay chiến đấu chỉ có thể yểm trợ cho các đoàn tàu ở giai đoạn cuối của chuyến hành trình. Nhiều thủy thủ đã nói đùa một cách cay đắng: “Chúng tôi di chuyển từ Tallinn đến Kronstadt dưới sự cảnh giới của máy bay ném bom bổ nhào của Đức”.
Tư lệnh Hạm đội Baltic mất kiểm soát đội hình sơ tán ngay khi rời Tallinn. Chỉ huy các tàu tự hành động theo ý mình và liên tục trúng thủy lôi. Số ít tàu quét mìn, vốn phải hoạt động vào ban đêm cũng thường trúng mìn và chịu số phận tương tự. Toàn bộ tàu hộ vệ phía sau (5 trong số 6 tàu), do không có tàu quét mìn nào đi kèm, gần như bị phá hủy hoàn toàn.
Tổn thất là rất lớn. Ví dụ, trong số 1.280 người trên con tàu vận tải Alev bị chìm, chỉ có 6 người sống sót. Phó trưởng bộ phận đặc biệt của Quân đoàn súng trường số 10, Trung úy Doronin báo cáo rằng, khi con tàu vận tải Veronia đang chìm, ông đã nghe thấy nhiều phát súng nổ: những người trên tàu đang tự bắn vào mình vì họ không muốn bị chết chìm... Vladimir Trifonov, một thủy thủ của tàu phá băng Suur-Tyll, khi kể lại quá trình chìm của tàu khu trục Yakov Sverdlov: “Đột nhiên, một đám mây đen và lửa bốc lên giữa con tàu. Ngọn lửa bao trọn cột ống khói, trong khi đám khói đen và mảnh vỡ bay cao gấp đôi. Vài giây sau, tôi thấy con tàu hư hại nghiêm trọng vẫn di chuyển theo quán tính, có thể thấy rõ con tàu đã bị xé làm đôi, mũi và đuôi tàu bắt đầu phồng lên, trong khi các phần của thân tàu bị rách bắt đầu chìm xuống dưới nước. Trong vòng không quá 2 phút, con tàu đã biến mất”.

1658463049073.png

1658463116958.png

Tàu vận tải Liên Xô bị máy bay và tàu ngầm Đức truy đuổi trên vịnh Phần Lan năm 1941

Mặc dù phải chống chọi trước làn đạn đến từ các cuộc tiến công liên tục của máy bay Đức, các thủy thủ Liên Xô vẫn cố gắng giải cứu được hơn 9.000 người khỏi mặt nước. Giờ phút khó khăn chỉ đi qua khi đoàn tàu tiến đến gần Kronstadt, khi Không quân Liên Xô xuất hiện trên bầu trời thì Hạm đội Baltic mới cảm thấy tương đối an toàn.

Tổn thất to lớn

Trong 3 ngày kết thúc chuyến vượt biển Tallinn, Hạm đội Baltic đã mất từ 50 đến 62 tàu, bao gồm tàu khu trục, tàu ngầm, tàu quét mìn, tàu tuần tra, tàu tuần duyên và tàu phóng lôi. Tuy nhiên, hầu hết các tàu bị mất (trên 40 chiếc) là tàu vận tải và phụ trợ. Về phần mình, quân Đức mất 10 máy bay.
Chiến dịch đã dẫn đến cái chết của từ 11.000 đến 15.000 người. Ngoài dân thường, họ bao gồm nhiều binh sĩ của Quân đoàn súng trường số 10 và các thủy thủ, những người có kinh nghiệm chiến đấu vô giá cho Estonia. Mặc dù bị tổn thất nặng nề, Hạm đội Baltic vẫn gắng gượng để sẵn sàng chiến đấu. Trải qua thử thách khủng khiếp này, lực lượng không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Chỉ một tuần sau, cuộc giao tranh ác liệt tại Leningrad bắt đầu, trong đó hạm đội đã "rửa hận" thành công khi đóng một vai trò quan trọng cho cuộc chiến.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Mossad đột nhập kho tài liệu hạt nhân của Iran như thế nào?

Lúc tảng sáng ngày 31-1-2018, một tiếng thở phào nhẹ nhõm đã phá tan bầu không khí căng thẳng bên trong phòng tình huống thuộc tổng hành dinh Cơ quan tình báo Israel (Mossad) nằm ở Glilot (phía Bắc thủ đô Tel Aviv, Israel).

1658716494584.png

1658716535574.png

Cơ sở hạt nhân Natanz của Iran

Có mặt trong căn phòng là Yossi Cohen (người đứng đầu Mossad) cũng như những người đứng đầu các phòng ban của Mossad cùng các chuyên gia truyền thông khác. Nhóm đặc nhiệm Mossad vừa gửi tới một đoạn mật mã được dịch nghĩa: “Chúng tôi đã rời Iran an toàn cùng với kho báu”.
Đó là một trong những hoạt động táo bạo nhất được tiến hành bởi các điệp viên Israel. Họ đã lấy được kho lưu trữ trung tâm về chương trình quân sự hạt nhân tuyệt mật của Iran ngay trong một nhà kho ở vùng ngoại ô thủ đô Tehran.
Đúng 3 tháng sau đó, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã thông báo tin động trời này trong một cuộc họp báo đầy kịch tính ở thủ đô Tel Aviv. Trên thực tế, vụ trộm còn gay cấn hơn cả các thước phim hành động hồi hộp nhất.

1658716245949.png

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu

Chân thủ lãnh Yossi Cohen của Mossad

Sau tuyên bố chấn động của ông Netanyahu, nhiều nhà sản xuất Hollywood cùng các nhà viết kịch bản Israel và Châu Âu đã tiếp cận Mossad nhằm đề nghị hợp tác để viết kịch bản và sản xuất phim “dựa trên một câu chuyện có thật”. Dĩ nhiên Cohen đã khước từ.

1658716398996.png

Yossi Cohen

Yossi Cohen, người lớn lên trong một gia đình mộ đạo ở Jerusalem, trong vòng tay của cộng đồng tình báo Israel. Năm 1984, ở tuổi 22, Cohen được Mossad chiêu mộ và thăng chức với tư cách là sĩ quan điều hành các điệp viên Arab và Iran.
Khi Cohen được đích thân Thủ tướng Netanyahu bổ nhiệm vào tháng 1- 2016 trở thành Giám đốc Mossad, đó là vài tháng sau khi 6 cường quốc cùng ký vào thỏa thuận hạt nhân (tên khác là JCPOA) với Iran.
Mục đích của JCPOA là hạn chế các nỗ lực và khả năng của Iran trong việc sản xuất ra vũ khí hạt nhân. Phần lớn cộng đồng quốc tế và thậm chí lực lượng an ninh Israel đều đinh ninh rằng tham vọng hạt nhân của Iran sẽ được gác lại trong thỏa thuận 10 năm.
Nhưng Cohen lại hạ lênh cho các nhân viên của mình tăng cường nỗ lực tập trung để mắt tới Iran. Vài tuần sau khi Yossi Cohen đăng quang ở Mossad, cơ quan tình báo này biết rằng Iran đang thành lập một kho lưu trữ trung tâm để lưu trữ mọi tài liệu, bản thảo, các mô phỏng máy tính và các hồ sơ nghiên cứu phân tích có liên quan đến chương trình quân sự hạt nhân.
Trước đó, tất cả các tư liệu đã bị phân tán và bảo quản tại nhiều địa điểm, văn phòng, phòng thí nghiệm bao gồm các tòa nhà dân sự như các khoa vật lý và hóa học của các trường đại học có quan hệ với Quân đoàn vệ binh cách mạng Iran (IRGC), chính là đơn vị phụ trách chương trình quân sự hạt nhân.
Theo JCPOA, Iran đã thừa nhận sẽ cung cấp tất cả thông tin, dữ liệu và đĩa liên quan đến các hoạt động quân sự trong quá khứ do IAEA quy định. Ngoài ra theo nghĩa vụ của thỏa thuận thì Iran phải trao cho IAEA tất cả các thiết bị dính dáng đến chương trình quân sự.
Một sĩ quan tình báo cao cấp Israel tiết lộ rằng Iran muốn đạt được 3 mục tiêu cùng lúc khi tập hợp mọi tài liệu vào cùng một chỗ: che mắt IAEA và cộng đồng quốc tế; tránh xa ánh mắt công luận; bảo tồn và tích trữ các kiến thức cho thế hệ tương lai.
Chỉ có trên dưới chục người nắm bí mật về địa điểm cất giấu này. Nhiều người thắc mắc là tại sao IRGC, lực lượng chịu trách nhiệm an ninh thông tin lại không giấu kho lưu trữ trong hầm ở một căn cứ quân sự nhằm thoát khỏi thanh sát của IAEA?
Qua việc tiếp xúc với các sĩ quan tình báo, nhà văn YossiMelman đã có được những cách giải thích xác đáng nhất về việc này. Thứ nhất, các nhà quản lý chương trình hạt nhân của Iran muốn che đậy các thành phần của nó trong các công xưởng dùng cho mục đích dân sự và định vị chúng ở các vùng công nghiệp.
Ví dụ như nơi Iran sản xuất ra những chiếc máy li tâm đầu tiên vào đầu thế kỷ 21 đã được ngụy trang như một xưởng sản xuất khóa điện gọi là Công ty điện Kalaya nằm ở ngoại ô Tehran.
Thứ hai, các giám đốc an ninh Iran ngờ rằng điệp viên Mossad đã xâm nhập vào nhiều lớp các cộng đồng hạt nhân và quân sự của họ và sợ rằng nếu kho lưu trữ đặt trong một căn cứ quân sự thì nhiều người vì không nắm được bí mật sẽ nhận thấy sự đáng ngờ bao gồm cả các điệp viên Mossad.
Ngay từ khi nghe phong phanh về kho lưu trữ trung tâm mới, Yossi Cohen đã quyết định lên kế hoạch hành động. Đầu tiên ông cấp báo với Thủ tướng Netanyahu và nhận được sự phê duyệt cùng một khoản phân bổ ngân sách đặc biệt.
Về việc này, một sĩ quan tình báo đã nói với nhà văn Yossi Melman: “Chúng tôi không biết cái kho đó nằm ở đâu và nội dung chính xác là gì. Song chúng tôi tin chắc rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và xứng đáng để lần ra nó”.
Cohen đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia về tình báo quân sự và Ủy ban Năng lượng nguyên tử Israel (IAEC) nhằm trưng ra những phác thảo đầu tiên của chiến dịch.
Đó cũng là thủ tục tiêu chuẩn ở Mossad nhằm bổ nhiệm một trong các trưởng phòng của đơn vị thành “quản lý dự án” cho những hoạt động nhạy cảm. Song trong một quyết định hiếm hoi chính

1658716642651.png

1658716660394.png

Ông Olli Heinonen, cựu Phó tổng giám đốc IAEA, khẳng định Iran có các bản sao tài liệu về chương trình quân sự hạt nhân của mình. Ảnh nguồn: Tehran Times .


.......................

 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
3,181
Động cơ
193,841 Mã lực
(Tiếp)

Kế hoạch tinh vi của Mossad

Ngay từ những ngày đầu, Mossad và tình báo quân đội đã tập trung tìm kiếm địa điểm có đặt kho lưu trữ tài liệu, song có vẻ nó là một điệp vụ bất khả thi. Một cựu điệp viên Mossad thừa nhận với nhà văn Yossi Melman: “Nó như thể mò kim dưới đáy bể vậy”.
Mossad bắt đầu huy động mọi nguồn lực có sẵn bao gồm nghe trộm điện thoại, thâm nhập máy tính, email và theo dõi mạng xã hội. Tất cả đội ngũ này cùng được yêu cầu không được lơ là những chi tiết có vẻ không quan trọng hoặc tầm phào. Trong các chiến dịch trước đó của Mossad, những thông tin quý giá vô tình đến từ một nguồn không mong đợi.
Cho đến thời điểm đó, các hoạt động khai thác mới chỉ tiến hành bởi bộ phận tình báo tại tổng hành dinh Mossad và một đơn vị được biết đến dưới cái tên NABAK (theo tiếng Do Thái có nghĩa là vũ khí độc đáo).
Những điệp viên giỏi nhất của Mossad đã được tham gia vào cái gọi là “thách thức cân não”. Các điệp viên làm việc ở Nabak được gọi là “Các chiến binh”, họ bao gồm 3 đơn vị bí mật là Caesarea, Kidon và Keshet.
Caesarea trực tiếp điều hành các điệp viên nằm vùng sâu trong các quốc gia đối địch và những tổ chức khủng bố mà biệt ngữ của Mossad gọi là “các quốc gia mục tiêu”.
Còn Kidon là một đơn vị chuyên biệt nhỏ với các chiến binh được huấn luyện để thực hiện các nhiệm vụ nguy hiểm và đòi hỏi tinh vi nhất, bao gồm những hoạt động ám sát, phá hoại và cấy thiết bị nghe lén trong lãnh thổ địch. Riêng Keshet lại chuyên phụ trách hoạt động trinh sát.
Tất cả 3 đơn vị này đều có các chuyên gia liên lạc và mở khóa riêng, và chỉ trong vòng vài giây họ đã có thể mở bất kỳ loại khóa hoặc giải mã bất kỳ két sắt nào.
Gần một năm sau khi khởi động chiến dịch, địa điểm chính xác của kho lưu trữ mật của Iran đã được phát hiện. Đó là một cấu trúc nhìn bên ngoài khá ọp ẹp, chả có gì đáng để ý.


1658802227905.png

1658802262216.png

1658802287113.png

Cơ sở hạt nhân Natanz của Iran

Ai canh gác nơi này? Ai thường xuyên ghé đến? Ai vào bên trong nó? Hàng xóm trong khu vực lân cận là những ai? Hoạt động đi lại ra sao? Để trả lời loạt câu hỏi này, Mossad đã cử những điệp viên có vỏ bọc nằm vùng hoặc những cá nhân nói tiếng Farsi hiểu biết tốt về văn hóa và phong tục Iran.

Vụ cướp tài liệu hạt nhân gay cấn

Mất gần 1 năm để điệp viên Mossad lập kế hoạch đột nhập vào kho lưu trữ trung tâm. Tình huống nan giải nhất là sau khi tiếp cận kho thì phải thoát ra an toàn bằng cách nào, cũng như làm thế nào để sao chép các tài liệu hoặc lấy các bản tài liệu gốc?
Iran là một đất nước rộng lớn tiếp giáp biên giới với 7 quốc gia và giáp lãnh hải với những nước khác, nên tất cả các tuyến đường đào thoát gồm hàng không, biển và trên bộ đều được tính đến.
Trong số các hàng xóm của Iran là Azerbaijan, một đồng minh chiến lược của Israel. Làm thế nào để đưa các chiến binh về nhà an toàn? Nếu để cho người Iran tóm được, các chiến binh Mossad sẽ bị tra tấn và cuối cùng bị treo cổ trên cần cẩu ở quảng trường trung tâm Tehran, một hình phạt tử hình theo thông lệ của Nhà nước Hồi giáo.
Điều mà Mossad biết chắc chắn là trong kho lưu trữ không chỉ có các tài liệu liên quan đến chương trình hạt nhân quân sự mà còn có cả các chương trình hạt nhân dân sự. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải lấy cho được các tài liệu gốc của chương trình quân sự và đem chúng an toàn ra khỏi Iran. Một nhóm các chiến binh ưu tú đã được lựa chọn kỹ càng.
Các điệp viên Mossad đã đặt chân đến Iran vào đêm ngày 31-1-2018 và thần tốc đột nhập vào nhà kho sau khi biết chắc nơi này không có bảo vệ và khá an toàn. Họ ở lại vài giờ để mở khóa và lấy đi nửa tấn tài liệu trong các két sắt quan trọng. Mọi thứ đã diễn ra theo đúng kế hoạch của Mossad.
Theo các nguồn thạo tin, các điệp viên Mossad đã trốn đến Azerbaijan. Vài giờ sau, lực lượng an ninh IRGC đã hốt hoảng phát hiện ra vụ đột nhập ngay dưới mũi họ. Lãnh tụ tối cao Iran choáng váng trước vụ cướp.
Khi các tài liệu về tới Israel, một đội quân các chuyên gia Farsi đã quét nội dung của chúng. Nhưng không có tài liệu nào cho thấy Iran đang tiếp tục các hoạt động hạt nhân của họ sau khi ký JCPOA. Lúc này người Israel cũng chưng hửng: không rõ phía Iran có sao chép các bản gốc của họ không?
Nhà văn Yossi Melman đã từng nhận được mật tin của ông Olli Heinonen, cựu Phó tổng giám đốc IAEA và hiện là học giả tại một viện ở Washington, khẳng định: “Họ (Iran) không có thói quen bỏ tất cả vào một sọt”.
Cohen đã lấy một bản sao trong số các tài liệu và bay đến Washington và khoe nó với Giám đốc CIA khi đó là ông Mike Pompeo. Các chuyên gia CIA khẳng định rằng nó là hàng xịn. Cùng lúc đó, ông Netanyahu đã gặp ông Donald Trump và chia sẻ những phát hiện mới.
Đối với ông Trump, những tài liệu đã giúp ông ra quyết định rút khỏi JCPOA. Sau cuộc họp báo của Netanyahu vào tháng 5-2018, các chuyên gia trong cộng đồng tình báo Pháp (DGSE), Đức (BND) và Anh (MI-6) đã đến Israel và cũng được xem những tài liệu hạt nhân.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Để mất RQ-170 vào tay Iran, Mỹ tổn thất lớn về công nghệ

Cho tới tận ngày nay, để mất chiếc máy bay không người lái (UAV) tàng hình RQ170 Sentinel trên không phận Iran vào tháng 12/2011 vẫn còn là một nỗi đau nhức nhối không chỉ với Quân đội Mỹ mà còn với cả các quốc gia đồng minh phương Tây. Bởi vì, công nghệ tàng hình tiên tiến nhất của họ đã rơi vào tay Iran.

1658892163155.png

1658892190083.png

1658892210640.png

UAV tàng hình RQ170 Sentinel

UAV RQ-170 bị Iran “khống chế” hạ cánh

Máy bay tàng hình thường có 2 dạng: các thiết kế cánh bay (như B-2 Spirit, hay B-21 Raider) và thiết kế máy bay chiến đấu tiêu chuẩn với khung máy bay giảm tiết diện radar (như F-117, F-22 và F-35). Mặc dù rất khó bị phát hiện khi hoạt động, nhưng không phải không thể bị bắn hạ, đáng chú ý nhất là 2 chiếc F-117 tại Nam Tư năm 1999 và chiếc UAV RQ-170 rơi vào tay Iran vào ngày 5/12/2011.
RQ-170 gần giống với máy bay ném bom B-2 Spirit, nhưng hiện đại hơn và nhỏ hơn đáng kể, nên có tiết diện radar thấp hơn nhiều. Khi đi vào hoạt động năm 2007, nó là máy bay tàng hình tiên tiến nhất trên thế giới, bay sâu vào vùng trời đối phương mà không bị trinh sát phát hiện. Vào đầu những năm 2010, trước khi ký kết thỏa thuận hạt nhân với Iran (JCPOA), các nước phương Tây nghi ngờ việc phát triển vũ khí hạt nhân của Iran. Theo đó, việc do thám các địa điểm hạt nhân của Iran được giao cho RQ170. Máy bay này có độ bền tương đối cao, được trang bị bộ cảm biến quang điện và radar AESA.
Vào ngày 5/12/2011, một đơn vị tác chiến mạng của Iran đã phát hiện ra RQ-170 đang nằm sâu trong không phận của họ và Tehran đã sử dụng các hệ thống tác chiến điện tử chiếm quyền điều khiển, buộc chiếc máy bay phải tiếp đất mà không bị bất cứ tổn hại nào. Chính phủ Mỹ ban đầu phủ nhận vụ việc, nhưng sau đó đã phải thừa nhận chiếc RQ-170 bị thu giữ; đồng thời, yêu cầu Iran trao trả và tất nhiên không được nước này đáp ứng. Nhiều nguồn tin ở Mỹ thừa nhận, Iran nhiều khả năng đã can thiệp được vào đường truyền dữ liệu của chiếc UAV và buộc nó phải hạ cánh. Có thông tin cho rằng, hệ thống gây nhiễu và chặn thu tín hiệu radar tiên tiến 1L222 Avtobaza mà Iran mua của Nga trước đó đã giúp Tehran thực hiện thành công chiến dịch này.

1658892353955.png

1658892425120.png

Hệ thống gây nhiễu và chặn thu tín hiệu radar 1L222 Avtobaza

Sau khi bị mất RQ-170 vào tay Iran, các nhà phân tích phương Tây ban đầu rất tự tin rằng lĩnh vực quốc phòng của nước này không “đủ trình” để thu lợi đáng kể từ chiếc UAV hiện đại đó. Việc để mất chiếc UAV do thám vào loại tiên tiến nhất thế giới rõ ràng là một sự bối rối lớn đối với Mỹ nhưng mối nguy thực sự lại nằm ở chỗ: một số công nghệ tàng hình tiên tiến nhất đã rơi vào tay Iran. Cựu phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney chỉ trích Chính quyền Obama đã không hành động gì thêm để ngăn chặn Iran nghiên cứu công nghệ tàng hình của Mỹ và nói rằng đáng ra lúc đó Mỹ phải có biện pháp ngăn chặn ngay lập tức. “Phản ứng đúng đắn khi đó là phải đuổi theo và phá hủy nó, và có thể hành động từ trên không để họ không thể nhận được lợi ích gì nếu bắt giữ được chiếc máy bay. Xét tới tầm quan trọng của công nghệ nhạy cảm bị mất, một hành động như vậy là hoàn toàn hợp lý”, ông Dick Cheney nói.

1658892853324.png

1658892883197.png

1658892534302.png

RQ-170 bị Iran thu giữ

Tổn thất lớn về công nghệ

Không lâu sau khi thu được RQ-170 của Mỹ, Iran đã trình làng UAV Shahed 181 và Shahed 191 có khả năng sử dụng vũ khí dẫn đường chính xác, cung cấp một phương tiện hiệu quả để bù đắp cho điểm yếu tương đối của máy bay chiến đấu có người lái của nước này.

1658893047999.png

1658893073540.png

1658893096064.png

1658893127860.png

UAV Shahed 181

1658893159519.png

1658893188633.png

1658893326152.png

UAV Shahed 191

Tháng 2/2018, một chiếc UAV trinh sát do Iran chế tạo trên nền tảng RQ-170 được cho là đã thực hiện các sứ mệnh xâm nhập không phận Israel giữa lúc căng thẳng gia tăng giữa 2 nước. Sau khi UAV bị bắn hạ, cựu Giám đốc Cơ quan tình báo Israel Mossad Danny Yatom đã nhận xét: “Đó là một chiến dịch cực kỳ tinh vi. Chiếc UAV chính xác là một bản sao giống hệt chiếc UAV đã rơi xuống lãnh thổ của họ. Nếu UAV phát nổ ở một nơi nào đó bên trong lãnh thổ Israel, thật khó có thể xác định đó là một UAV do Iran sản xuất”.
Chiếc UAV tàng hình đó được cho là đã nhiều lần thoát khỏi các tổ hợp tên lửa Patriot của Israel với mục đích tiêu diệt ngay từ dưới mặt đất, buộc phòng không Israel phải điều động một trực thăng tiến công để bắn hạ từ trên không. Những hậu quả từ vụ RQ-170 bị bắt giữ có lẽ chưa được Mỹ và các đồng minh Phương Tây cảm nhận hết. Mỹ và nhiều nước đồng minh đang ngày càng phụ thuộc nhiều vào công nghệ tàng hình thì việc triển khai các hệ thống chống tàng hình tiên tiến dựa trên RQ-170 sẽ làm suy yếu vị thế của Mỹ trên rất nhiều mặt trận. Cùng với đó, không loại trừ khả năng những công nghệ thu được từ RQ170, hoặc thậm chí khả năng truy cập trực tiếp vào UAV, đã được chia sẻ cho các đối tác quốc phòng khác của Iran liên kết chống lại Mỹ. Trung Quốc bắt đầu triển khai các UAV tàng hình có cánh bay riêng, đáng chú ý nhất là GJ-11, được cho là có khả năng tiên tiến hơn nhiều so với các máy bay trong biên chế của Iran hoặc RQ-170 ban đầu. Nga cũng tiết lộ UAV tàng hình Okhotnik lần đầu tiên bay vào năm 2019 và rất có thể đã được hưởng lợi từ việc chia sẻ công nghệ với Iran. Về phần mình, Mỹ bắt đầu ít phụ thuộc hơn vào RQ-170 và đưa vào trang bị loại UAV kế nhiệm là RQ-180 (được tài trợ thông qua ngân sách tuyệt mật của không quân và rất ít thông tin về loại máy bay mới này được tiết lộ). Tuy nhiên, việc đánh mất RQ-170 vào tay Iran đã giúp thu hẹp khoảng cách giữa Mỹ và các đối thủ về cả công nghệ tàng hình và UAV.

1658893429619.png

1658893443904.png

1658893496763.png

UAV GJ-11 của Trung Quốc
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Tác chiến máy bay không người lái tại Ukraine

Xung đột đang diễn ra giữa Ukraine và Nga đã chứng kiến việc sử dụng máy bay không người lái đáng kể của cả hai bên. Ukraine đã sử dụng rộng rãi các máy bay không người lái, từ máy bay Bayraktar TB-2 do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất đến máy bay không người lái hỗ trợ lực lượng dân sự. Mặc dù bằng chứng về việc sử dụng máy bay không người lái của Nga ngay từ đầu trong cuộc xung đột còn hạn chế, nhưng dường như Nga đã tăng cường nỗ lực của mình, sử dụng các hệ thống như Orlan-10 và đạn bay lơ lửng trên không KUB-BLA. Máy bay không người lái đã được sử dụng trong nhiều vai trò khác nhau từ thực hiện các cuộc tấn công đến dẫn đường cho pháo binh và ghi hình để cung cấp trực tiếp cho các chiến dịch thông tin.
Cuộc xung đột cho thấy ít nhất 07 bài học đầu tiên có thể ảnh hưởng đến suy nghĩ của các nhà hoạch định kế hoạch, hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo quân sự của Hoa Kỳ về tương lai của khả năng bay không người lái của chính Hoa Kỳ. Mặc dù xung đột đang diễn ra và một số bài học này có thể thay đổi, nhưng những điểm cơ bản là đủ bao quát để ngay cả những thay đổi triệt để cũng có thể chỉ tạo thêm sắc thái cho những bài học này, thay vì làm cho bất kỳ bài học nào trong số đó trở nên kém ý nghĩa hơn.

1. Chiến tranh bằng máy bay không người lái có liên quan đến xung đột với đối thủ ngang hàng hoặc gần ngang hàng

Nhiều nhà phân tích đã nghi ngờ về sự phù hợp của máy bay không người lái trong xung đột giữa các quân đội tiên tiến. Những lực lượng như vậy có các hệ thống phòng không hiện đại, các biện pháp đối phó chiến tranh điện tử và các hệ thống đối phó chuyên biệt sẽ nhanh chóng giảm thiểu mọi mối đe dọa từ máy bay không người lái. Nhưng đó không phải là những gì đã xảy ra trong cuộc xung đột Ukraine-Nga. Đối với một số người, ngay cả khả năng phòng không khiêm tốn cũng có nghĩa là máy bay không người lái sẽ đóng những vai trò hạn chế.

1658973170210.png

1658973196884.png

1658973222760.png

Bayraktar TB-2 của Ukraine

Trong khi Nga đã bắn hạ một vài máy bay không người lái của Ukraine, phần lớn phi đội Bayraktar TB-2 của Ukraine, máy bay không người lái quân sự do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất đã chứng tỏ sức tàn phá trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020, vẫn còn nguyên vẹn sau hơn hai tháng tham chiến. TB-2 đã thực hiện nhiều cuộc tấn công thành công chống lại lực lượng Nga, chiếm gần một nửa số tên lửa đất đối không của Nga đã bị phá hủy và giúp đánh chìm tàu Moskva, kỳ hạm trong Hạm đội Biển Đen của Nga. Máy bay không người lái cũng hỗ trợ tình báo và trinh sát, chẳng hạn như chỉ dẫn các cuộc tấn công của pháo binh Ukraine. Máy bay không người lái cũng là một chiến thắng lớn trên mặt trận tuyên truyền của Ukraine, giúp cung cấp hình ảnh và video về các cuộc không kích của Ukraine. Máy bay không người lái được coi là một phần quan trọng trong thành công của Ukraine cho đến nay, và đã có một bài hát được viết để kỷ niệm TB-2.

2. Nhưng mức độ phù hợp - và theo những cách nào - thì không rõ ràng.

Trong cuộc xung đột Nagorno-Karabakh, các máy bay không người lái do các lực lượng Azerbaijan vận hành đã rất thành công trong việc hạ gục các nền tảng của Armenia. Các nhà phân tích nguồn mở xác định các UAV TB-2 của Azerbaijan đã phá hủy 120 xe tăng, 53 xe chiến đấu bọc thép, 143 khẩu pháo kéo và nhiều mục tiêu khác. Để so sánh, cho đến nay ở Ukraine, các cuộc tấn công thành công của UAV TB-2 là rất nổi tiếng, nhưng chỉ phá hủy được 06 xe chiến đấu bọc thép, 05 xe kéo pháo và không có xe tăng. Nhưng cũng không rõ Ukraine có cần máy bay không người lái để thực hiện vai trò tương tự như Azerbaijan. Các cường quốc quân sự phương Tây đã thực hiện một nỗ lực to lớn để cung cấp cho Ukraine tên lửa chống tăng Javelin và các tên lửa chống hạm khác. Việc sử dụng tên lửa chống tăng thay vì máy bay không người lái để chống lại xe tăng có rất nhiều ý nghĩa, mặc dù nó cũng khiến việc so sánh trực tiếp với việc sử dụng máy bay không người lái trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh trở nên khó khăn.

1658973391639.png

1658973365147.png

UAV TB-2 của Azerbaijan

Những thành công về máy bay không người lái của Ukraine cũng có thể chỉ là thất bại của Nga. Các hoạt động quân sự của Nga ở Ukraine đã bị bôi bẩn bởi những vấn đề nghiêm trọng, với kế hoạch chiến dịch của họ không thể cung cấp hỗ trợ hậu cần đầy đủ, chuẩn bị cho sự kháng cự quyết liệt của Ukraine và thiết lập ưu thế trên không, cùng những vấn đề khác. Việc Nga không đối phó được với các máy bay không người lái của Ukraine có thể chỉ là một lỗi nữa cần thêm vào danh sách. Có lẽ một quân đội được chuẩn bị tốt hơn sẽ không gặp phải vấn đề tương tự về máy bay không người lái.

3. Chỉ công nghệ và khái niệm là không đủ.

Nga chưa quen với chiến tranh bằng máy bay không người lái. Nga đã sử dụng và đang ngăn chặn thành công các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái trong cuộc xung đột ở Syria. Tuy nhiên, máy bay không người lái của Ukraine vẫn có tác động đáng kể. Sam Bendett, một nhà phân tích hàng đầu về máy bay không người lái của Nga, nói rằng máy bay không người lái của Ukraine bay gần các phương tiện của Nga mà không biện pháp chống lại chúng hoặc bảo vệ tác chiến điện tử nào mà ông mong đợi. Có lẽ Nga đã không tuân theo học thuyết đã được thiết lập về các hệ thống chống máy bay không người lái. Điều này cho thấy các binh sĩ Nga có thể đơn giản là đã coi thường mối đe dọa.

1658973830536.png

Bayraktar TB-2 của Ukraine tấn công đoàn xe quân sự của Nga

Tất nhiên, vấn đề này không phải chỉ có ở Nga. Các động lực tương tự cũng có thể xuất hiện ở các quốc gia khác, theo đó những người lính chưa từng trải qua chiến tranh bằng máy bay không người lái có thể coi thường mối đe dọa mà nó gây ra. Mặt khác, họ cũng có thể không đánh giá cao tiện ích của máy bay không người lái của chính mình. Ví dụ, trong Lục quân Hoa Kỳ, không thích rủi ro đã được ghi nhận là một vấn đề lâu dài cản trở việc sử dụng máy bay không người lái chiến thuật.

1658973893379.png

Bayraktar TB-2 của Ukraine tấn công đoàn xe quân sự của Nga gần Kherson

...................
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
3,181
Động cơ
193,841 Mã lực
(Tiếp)

4. Các mục tiêu đặc biệt dễ bị tấn công bởi máy bay không người lái phải được xác định

Ngay cả khi Nga thực hiện tốt hơn các hoạt động phản công, thì sẽ luôn có giới hạn. Thiết bị phát hiện máy bay không người lái và vũ khí đánh chặn có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, và nguồn cung cấp sẽ luôn bị hạn chế giống như bất kỳ khả năng quân sự nào khác. Những thay đổi về công nghệ, học thuyết và khái niệm cũng sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng và thành công của thiết bị phát hiện và vũ khí đánh chặn, có lợi và có hại. Ví dụ, phần lớn các hệ thống chống máy bay không người lái là thiết bị gây nhiễu, có thể cắt đứt chỉ huy hoặc liên kết GPS của máy bay không người lái. Khi máy bay không người lái trở nên tự chủ hơn và ít phụ thuộc hơn vào GPS, các thiết bị gây nhiễu sẽ kém hiệu quả hơn. Ngay cả những quân đội tỏ ra hiệu quả hơn nhiều so với Nga trong các hoạt động chống máy bay không người lái cũng sẽ có những lỗ hổng.
Câu hỏi lớn và rõ ràng là thế này: Những mục tiêu nào sẽ ít nhiều dễ bị tấn công bởi máy bay không người lái? Trả lời câu hỏi đó thật khó. Nó sẽ đòi hỏi Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh hiểu các học thuyết, khái niệm và khả năng công nghệ của đối thủ xung quanh việc sử dụng máy bay không người lái. Vị trí và loại thiết bị phát hiện và đánh chặn sẽ là một yếu tố quan trọng. Một số phân tích đã gợi ý sự khác biệt quan trọng giữa bảo vệ tài sản tĩnh và tài sản di động. Điều này có vẻ hợp lý: Các tài sản tĩnh, đặc biệt là những tài sản có giá trị cao, có thể được trang bị các cảm biến và thiết bị đánh chặn nhiều lớp để xác định và chống lại một loạt các mối đe dọa từ máy bay không người lái. Các biện pháp phòng thủ đó có thể được lựa chọn cho môi trường cụ thể (ví dụ: nếu một tòa nhà hoặc căn cứ quan trọng ở gần khu vực đô thị đông đúc, thì việc chủ yếu dựa vào các thiết bị phát hiện dựa trên âm thanh là không đủ). Các thiết bị di động sẽ có các hệ thống đối phó máy bay không người lái hạn chế, có thể có giá trị nhiều hơn hoặc ít hơn tùy thuộc vào thời điểm và vị trí một máy bay không người lái tấn công.

1659062736209.png

1659062696518.png

1659062783760.png

UAV Ukraine tấn công xe quân sự Nga

Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh cũng nên suy nghĩ về cách họ triển khai và sử dụng máy bay không người lái để khai thác những lỗ hổng đó. Chiến thuật bầy sói được phát triển cho tàu ngầm trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai có thể tỏ ra hữu ích. Vì máy bay không người lái cần cơ sở hạ tầng hỗ trợ tương đối nhỏ so với máy bay có người lái, chúng có thể được phân tán rộng hơn trong một khu vực tác chiến. Khi thông tin tình báo xác định các mục tiêu dễ bị tấn công bằng máy bay không người lái, nhiều máy bay không người lái có thể được phóng từ các khu vực khác nhau và tập hợp thành một nhóm tiến công vào mục tiêu. Một đàn sói bay không người lái có thể bao gồm mọi thứ, từ các hệ thống thương mại được sửa đổi đơn giản đến các hệ thống quân sự được thiết kế đặc biệt. Giống như chiến tranh tàu ngầm, một bầy sói có thể tỏ ra đặc biệt thành thạo trong việc tấn công các đoàn xe hậu cần dễ bị tổn thương.

5. Máy bay không người lái đang mở rộng môi trường thông tin

Phương tiện truyền thông xã hội, điện thoại thông minh và máy bay không người lái đã giúp tạo ra một bức tranh toàn cảnh ảo trong cuộc xung đột Ukraine. Quân đội Ukraine, dân thường Ukraine và các nhà quan sát trên khắp thế giới đã có được nhận thức chưa từng có về cuộc xung đột hàng ngày, ghi lại những câu chuyện kinh dị và chủ nghĩa anh hùng. Dòng thông tin hữu ích theo ba cách. Đầu tiên, quân đội Ukraine giám sát hoạt động chuyển quân của Nga và sử dụng thông tin để dẫn đường cho các cuộc tấn công. Thứ hai, có yếu tố tinh thần, theo đó quân đội và dân thường Ukraine có thể được khuyến khích về nỗ lực chiến tranh. Thứ ba, nhận thức cung cấp cái nhìn sâu sắc chưa từng có, điều này chắc chắn khuyến khích các đồng minh toàn cầu hỗ trợ ngoại giao, kinh tế và quân sự.

1659062568948.png

Sân bay Antonov của Ukraine

Vai trò của máy bay không người lái trong việc ghi hình là gấp đôi, mở rộng phạm vi tầm nhìn và tăng cường các nỗ lực tuyên truyền. Ngay cả những máy bay không người lái thương mại có thể bay xa người điều khiển hàng km, cung cấp một trường nhìn rộng hơn nhiều so với một người bình thường. Máy bay không người lái cũng ghi lại hình ảnh và video trực tiếp về các sự kiện trên chiến trường, có thể giúp chứng minh sự thành công của quân đội Ukraine. Chính phủ Ukraine khuyến khích điều này bằng cách kêu gọi dân thường quyên góp máy bay không người lái của họ cho nỗ lực chiến tranh.

1659062925012.png

1659063067921.png

UAV Ukraine chỉ thị mục tiêu cho hỏa lực pháo binh tấn công xe tăng Nga

6. Chiến tranh bằng máy bay không chỉ dành cho những nước lớn

Quân đội Ukraine đã hoàn toàn chứng tỏ được dũng khí của mình trước các lực lượng Nga; tuy nhiên, Ukraine hầu như không được coi là một cường quốc. Ukraine xếp hạng thứ 20 trên thế giới về chi tiêu quốc phòng, vượt trội so với Việt Nam và Kuwait. Thành công của máy bay không người lái của Ukraine bổ sung bằng chứng cho những tuyên bố rộng rãi hơn rằng máy bay không người lái cung cấp khả năng quân sự đáng kể với chi phí tương đối thấp. Xung đột Armenia-Azerbaijan củng cố thêm điều đó: Azerbaijan đứng thứ sáu mươi về chi tiêu quốc phòng, chỉ kém Cộng hòa Séc. Máy bay không người lái cung cấp khả năng tiếp cận lực lượng không quân tương đối rẻ và các yêu cầu huấn luyện có thể nhỏ hơn nhiều so với máy bay có người lái, đặc biệt là vì các hoạt động khác nhau có thể được tự động hóa dễ dàng: TB-2 có thể tự động bay, cất cánh, hạ cánh và thực thi nhiệm vụ.

7. Các khái niệm về ưu thế trên không có thể cần được điều chỉnh

Không thể nghi ngờ rằng Nga đã phải vật lộn để thiết lập ưu thế trên không trước Ukraine. Nhưng ngay cả khi Nga thành công hơn nhiều, máy bay không người lái vẫn làm phức tạp bức tranh. Bay nhiều phi vụ giành ưu thế trên không ở độ cao lớn, thành công không có nhiều ý nghĩa đối với các mối đe dọa từ máy bay không người lái ở độ cao thấp. Một chiếc máy bay không người lái thương mại sẽ không tham gia một cuộc đấu với máy bay Sukhoi Su-35 của Nga, nhưng chiếc Su-35 đó cũng không được trang bị tốt để ngăn máy bay không người lái đó thực hiện một cuộc tấn công đường không.

Ngay cả khi Nga cố gắng phá hủy mọi đường băng của Ukraine, máy bay không người lái cũng không cần quá nhiều đường băng để cất cánh. Điều này tạo ra một thách thức tương tự đối với các hệ thống phòng không di động: các mối đe dọa trên không có thể rất phân tán, khó xác định và thậm chí khó ngăn chặn hơn. Các khái niệm về ưu thế trên không không cần thiết phải được loại bỏ, nhưng máy bay không người lái làm tăng thêm sự phức tạp đối với việc kiểm soát trên không.

Trong một số trường hợp nhất định, ngay cả những máy bay không người lái đơn giản cũng có thể tạo ra những mối đe dọa thực sự đối với các thiết bị đường không. Vào tháng 9/2020, một chiếc máy bay không người lái do người đam mê điều khiển đã vô tình va phải trực thăng cảnh sát ở Los Angeles. Một bản khai trong vụ án hình sự tiếp theo ghi nhận rằng nếu bị va chạm vào cánh quạt chính của máy bay trực thăng sẽ khiến máy bay trực thăng rơi xuống. Mặc dù quân đội từ lâu đã thử nghiệm máy bay về khả năng chống lại các vụ va chạm với chim, nhưng máy bay không người lái có vật liệu cứng hơn nhiều, có thể bay nhanh hơn nhiều và có thể mang theo chất nổ. Máy bay không người lái cũng cho phép tạo ra các bãi mìn trên không, trong đó máy bay không người lái bay tới và tự động nhắm mục tiêu vào các máy bay gần đó. Theo báo cáo, loại đạn bay lơ lửng trên không Lancet-3 của Nga là nhằm mục đích tạo ra khả năng như vậy.

1659063345107.png

1659063371939.png

1659063391651.png

Đạn bay Lancet-3

Tất nhiên, mọi cuộc xung đột đều có những nét riêng. Các cuộc xung đột trong tương lai sẽ có những bên tham gia khác nhau với các khả năng và tổ chức quân sự khác nhau, và sẽ chiến đấu trên các lãnh thổ khác nhau với các mục tiêu chiến lược khác nhau. Công nghệ máy bay không người lái, các khái niệm tác chiến và khả năng chống máy bay không người lái cũng đang phát triển. Nhưng cuộc chiến ở Ukraine đang làm cho một điều rất rõ ràng: máy bay không người lái có một vị trí trong chiến tranh hiện đại và bất kỳ quân đội nào hy vọng đạt được các mục tiêu trên chiến trường đều cần phải chú ý./.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Chiến thuật vùng xám của Trung Quốc trên biển Hoa Đông

Những năm gần đây, tranh chấp chủ quyền trên biển trở thành một trong những vấn đề được quốc tế hết sức quan tâm. Trong đó, tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản là một trong những vấn đề nóng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới phân tích và truyền thông quốc tế. Liên quan tới vấn đề này, bài viết dưới đây sẽ cung cấp những nội dung chủ yếu của Trung Quốc khi thực hiện chiến lược vùng xám tại khu vực biển Hoa Đông trên 3 khía cạnh đó là: mục tiêu chiến lược, năng lực thực hiện hành động và tác động có liên quan.

Mục tiêu chiến lược

Năm 2012, hai tàu hải cảnh của Trung Quốc thực hiện cuộc tuần tra quanh khu vực quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, khu vực đang có tranh chấp chủ quyền lãnh hải giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Từ đó đến nay, lực lượng chức năng của Trung Quốc liên tục duy trì các cuộc tuần tra, kiểm soát đối với khu vực biển này. Trong đó, Lực lượng cảnh sát biển và Lực lượng Chi viện Chiến lược là hai lực lượng chính đảm nhận nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, Lực lượng Dân quân biển của các địa phương cũng được huy động để tham gia nhiệm vụ trên.

1659148831733.png

1659148882513.png

1659148772054.png

Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku

Về mặt ý nghĩa, lãnh đạo cấp cao Trung Quốc luôn coi duy trì ổn định trên biển tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là một trong những nhân tố quan trọng cấu thành mục tiêu chiến lược của quốc gia này. Vấn đề này có quan hệ mật thiết đối với tư tưởng "Giấc mộng Trung Hoa". Theo đó, "Giấc mộng Trung Hoa" là thành tố quan trọng cấu thành ý nguyện to lớn "Phục hưng dân tộc" mà nhân dân và lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đang theo đuổi. Để thực hiện ý nguyện này, Trung Quốc phải tiến hành tổng thể nhiều biện pháp trên tất cả các lĩnh vực như ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự. Trong đó, việc duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đặc biệt là hai vùng biển Hoa Đông và Biển Đông hết sức quan trọng. Đây là cơ sở để Trung Quốc nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ đó tạo cơ sở để phát triển sức mạnh tổng thể quốc gia.

Cùng với sự cạnh tranh lãnh hải gay gắt giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang ngày càng gia tăng, việc duy trì và nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền tại khu vực biển Hoa Đông là một trong những nhân tố hết sức cần thiết của Trung Quốc hiện nay. Với mục tiêu chiến lược đó, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh thực hiện chiến lược vùng xám trên biển Hoa Đông, tập trung vào một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuần tra, kiểm soát trên không, trên biển để thể hiện rõ năng lực quân sự thực tế trên thực địa;
Thứ hai, duy trì khả năng kiểm soát đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nguồn cá trên biển Hoa Đông trong phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở;
Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng luật, quy định pháp lý đối với các vùng biển tranh chấp để nâng cao khả năng ảnh hưởng cũng như căn cứ pháp lý tiến hành các hoạt động tuần tra, kiểm soát;
Cuối cùng là, thông quan hoạt động tuần tra, kiểm soát đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku để thăm dò động thái và chiến lược của lãnh đạo Nhật Bản, từ đó xây dựng các kịch bản xung đột có thể xảy ra.

Năng lực thực hiện hành động

Hiện nay, có rất nhiều câu hỏi liên quan đến việc bố trí lực lượng tác chiến truyền thống và phi truyền thống cũng như việc thực hiện năng lực hành động của Trung Quốc như thế nào khi tiến hành chiến thuật vùng xám. Theo đó, hiện nay Trung Quốc đang sử dụng hai lực lượng chính để thực hiện chiến thuật vùng xám đó là Cảnh sát biển và Lực lượng dân quân biển. Trong khi đó, các biện pháp tác chiến phi truyền thống đang được Trung Quốc áp dụng đối với chiến thuật vùng xám phải kể đến là: tác chiến thông tin, tác chiến mạng, tác chiến vũ trụ, công nghệ AI, phân tích dữ liệu lớn.

1659149122063.png


Tuần duyên Nhật Bản tại quần đảo Điếu Ngư/Senkaku

Kể từ năm 2012 trở lại đây, quy mô tổ chức lực lượng và mật độ tuần tra chấp pháp của hai lực lượng tác chiến truyền thống là Hải cảnh và Dân quân biển của Trung Quốc tại khu vực biển Hoa Đông ngày càng tăng lên rõ rệt và ngày càng phát huy, thể hiện rõ hơn vai trò của mình trong quá trình khẳng định chủ quyền và duy trì dự hiện diện tại biển Hoa Đông. Theo đó, Cảnh sát biển là lực lượng có nhiệm vụ duy trì quyền lợi trên biển của Trung Quốc, thực hiện các cuộc tuần tra trên biển, bảo vệ chủ quyền lãnh hải, đánh bắt tội phạm trên biển, bảo vệ ngư dân, đánh bắt buôn lậu, cướp biển. Kể từ năm 2008 trở lại đây, Lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc thuộc biên chế của Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc. Trong khi đó, Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc lại thuộc biên chế chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương Trung Quốc. Chính vì vậy, có thể trong tương lai, Cảnh sát biển Trung Quốc sẽ thuộc biên chế của Quân đội Trung Quốc, từ đó nâng cao khả năng chấp pháp và hiệp đồng chấp pháp trên biển. Cảnh sát biển Trung Quốc là lực lượng cảnh sát biển có quy mô tổ chức lực lượng lớn nhất trên thế giới hiện nay, với 130 tàu tuần tra cỡ lớn, 70 tàu tuần tra cao tốc, hơn 400 tàu tuần tra vẹn biển và hơn 1000 tàu tuần tra nhỏ các loại. Các tàu tuần tra cỡ lớn của Cảnh sát biển Trung Quốc còn được biên chế máy bay trực thăng tuần tra, vòi rổng áp suất lớn và pháo cỡ nòng từ 30 đến 76mm. Lực lượng này còn được phép nổ súng đối với các tàu nước ngoài xâm phạm bất hợp pháp lãnh hải Trung Quốc trong các trường hợp được pháp luật Trung Quốc quy định.

1659149168940.png

1659149272835.png

1659149295874.png

1659149334596.png

Tuần duyên Nhật Bản và hải cảnh Trung Quốc tại quần đảo Điếu Ngư/Senkaku

Trong khi đó, Lực lượng dân quân biển là lực lượng hỗ trợ cho Cảnh sát biển. Các trang bị của Lực lượng dân quân biển được cung cấp bởi chính quyền các địa phương và huy động từ nguồn lực xã hội hóa. Hiện nay vẫn đang có nhiều ý kiến xoay quanh chức năng, nhiệm vụ của lực lượng này. Theo đó, với chức năng hiện tại, Lực lượng dân quân biển chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ chấp pháp và bảo đảm hậu cần cho Cảnh sát biển. Những năm gần đây, hai lực lượng trên được nhà chức trách Trung Quốc thường xuyên sử dụng để thực hiện các chuyến tuần tra trên biển xung quanh khu vực quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Tháng 8/2016, khi xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và Nhật Bản xung quanh quần đảo này, Trung Quốc đã cử hơn 300 tàu thuyền thuộc Lực lượng dân quân biển phối hợp với 15 tàu chấp pháp của Cảnh sát biển tiếp cận khu vực Điếu Ngư/Senkaku.

Trong thời gian trước đây, những va chạm trên biển giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên diễn ra. Ví dụ như tháng 3/2020, một tàu khu trục của Lực lượng tự vệ Nhật Bản đã va chạm với một tàu cá của Trung Quốc. Tháng 5 năm 2020, hải tàu Cảnh sát biển Trung Quốc khi tiến hành tuần tra xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đã va chạm với một tàu cá của Nhật Bản. Tháng 10 năm 2020, hai tàu cá của Trung Quốc đã va chạm với một tàu tuần tra của Nhật Bản. Những sự vụ như vậy nếu như không có sự kiềm chế của các bên sẽ rất dễ gây lên căng thẳng. Do đó, sự hiện diện của Cảnh sát biển và Lực lượng dân quân biển là hết sức cần thiết.

1659149463263.png

1659149535411.png

1659149591148.png

1659149709733.png

Tàu cá Trung Quốc và tàu tuần duyên Nhật Bản tại quần đảo Điếu Ngư/Senkaku

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Nhà khoa học hạt nhân hàng đầu Iran bị robot sát thủ đoạt mạng?

Ông Fakhrizadeh, được xem là người sáng lập chương trình hạt nhân của Iran, bị ám sát gần thủ đô Tehran vào ngày 27-11-2020. Trong khi chưa có quốc gia hoặc tổ chức nào nhận trách nhiệm, cựu Giám đốc Cơ quan tình báo Israel (Mossad) Yossi Cohen mùa hè này ám chỉ sự liên quan của Tel Aviv.

1659181575194.png

Ông Fakhrizadeh

Báo The New York Times ngày 18-9-2021 tiết lộ ông Fakhrizadeh "bị giết bởi một khẩu súng máy gắn trên robot trang bị trí tuệ nhân tạo (AI) và nhiều máy ảnh", có thể bắn 600 viên đạn/phút, đặt trên xe bán tải. Người điều khiển robot là "một tay súng bắn tỉa của Mossad" từ vị trí không xác định ở khoảng cách xa, sử dụng công nghệ vệ tinh.
Theo báo The New York Times, AI được sử dụng để tính toán độ trễ 1,6 giây giữa hiện trường vụ ám sát và địa điểm tay súng bắn tỉa hoạt động cũng như các biến động do đạn bắn và chuyển động của chiếc xe chở ông Fakhrizadeh. Nhờ công nghệ vũ khí này, vợ của ông Fakhrizadeh ngồi ở ghế hành khách bên cạnh không hề hấn gì, chỉ có nhà khoa học này thiệt mạng.

1659181605905.png

1659181674083.png

1659181752540.png

Chiếc xe chở ông Fakhrizadeh bị phục kích

Các máy ảnh trên chiếc xe chở vũ khí giúp xác định mục tiêu là ông Fakhrizadeh, sau đó truyền dữ liệu trở lại cho tay súng bắn tỉa. Tên này được cho là đã bắn 15 phát đạn vào ông Fakhrizadeh khiến nạn nhân sau đó tử vong trong vòng tay vợ.
Súng máy được sử dụng dựa trên khẩu FN MAG gắn vào robot. Cả bộ nặng khoảng 900 kg, cần phải tháo rời và vận chuyển từng bộ phận trước khi lắp ráp hoàn chỉnh trên chiếc xe bán tải Zamyad.

1659181812500.png

1659182211583.png

Súng FN MAG

1659181842395.png

Súng máy FN MAG phiên bản đặc biệt do Bỉ sản xuất.

Báo The New York Times cho biết thêm vụ ám sát ông Fakhrizadeh được lên kế hoạch trong nhiều năm. Nhà khoa học hạt nhân này được cho là đã được các cơ quan đặc biệt cảnh báo về nguy cơ bị ám sát và được yêu cầu không đi lại. Tuy nhiên, ông Fakhrizadeh bỏ qua cảnh báo vì muốn tổ chức buổi dạy học tại Trường ĐH Tehran vào ngày 28-11-2020.
Sau vụ ám sát, chiếc Zamyad bị kích nổ nhưng không bị phá huỷ hoàn toàn. Do vậy, Tehran có thể xây dựng lại các sự kiện để vén màn sự thật.

Tình báo Israel ám sát nhà khoa học hạt nhân Iran thế nào?

Theo The New York Times, tình báo Israel đã sử dụng súng máy được điều khiển từ xa và sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) tiên tiến: FN MAG, một phiên bản đặc biệt do Bỉ sản xuất.
Súng máy, FN MAG do Bỉ thiết kế, là súng máy hạng trung cỡ nòng 7,62 nạp đạn. Đó là loại súng máy mà Lục quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sử dụng. Loại súng đặc biệt này được chọn vì khả năng xuyên thấu - đầu đạn xuyên đủ mạnh để dễ dàng xuyên thủng kính chắn gió ô tô mà không bị chuyển hướng hoặc chệch hướng, tấn công mục tiêu.
Súng máy FN MAG gắn vào một robot hiện đại, được điều khiển bởi các đặc nhiệm Mossad bên ngoài lãnh thổ Iran.
The New York Times cho biết, vũ khí và robot được tình báo Israel tháo rời từng bộ phận, bí mật đưa vào Iran.
Mossad đã theo dõi nhà khoa học Fakhrizadeh từ năm 2007 và cơ quan tình báo quốc gia Israel được cho là đã lên kế hoạch ám sát "cha đẻ" của chương trình vũ khí hạt nhân Iran vào cuối năm 2019, sau khi có sự tham vấn từ các quan chức cấp cao của Mỹ.
Giới chức Israel nhận định, nhà khoa học Fakhrizadeh đi đầu trong việc chế tạo bom hạt nhân của Iran.

1659182059380.png

1659182138144.png

1659182550911.png

Súng máy FN MAG được điều khiển từ xa trên hệ thống CROWS

Các đặc vụ Israel chỉ sử dụng 15 viên đạn súng máy để giết nhà khoa học hạt nhân Iran trên một chiếc xe đang di chuyển mà không gây hại cho những người xung quanh. Vụ giết ông Fakhrizadeh cho thấy rằng chúng ta hiện đang ở trong thời đại chiến tranh được điều khiển từ xa, và thời gian và khoảng cách ngày càng ít hạn chế đối với việc giết người. Những hạn chế, nếu có, sẽ phải do người dân đưa ra.
Kallenborn, được mệnh danh là "nhà khoa học điên rồ" của Lục quân Hoa Kỳ cho biết: "Một vũ khí tự trị không thể phân biệt ông Fakhrizadeh là một nhà khoa học hay một người lính, nhưng nó đã giết chết ông ấy mà không cần chạm vào người vợ bên cạnh. Điều đó củng cố cho lập luận của các cường quốc quân sự rằng việc sử dụng AI để dẫn đường cho vũ khí có thể giúp giảm thương vong dân sự, mặc dù rất yếu. Giết người bằng AI và nhận dạng khuôn mặt không phải là tương lai, mà là thực tế".

1659182627313.png

1659182728593.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
SỰ CỐ GIÁN ĐIỆP U-2

Đầu năm 1960, một máy bay do thám U-2 của Mỹ đã bị bắn hạ trong khi đang tiến hành hoạt động gián điệp trên vùng trời của Liên Xô. Vụ việc đã khiến cuộc họp thượng đỉnh quan trọng giữa Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower và lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đã được lên lịch vào cuối tháng đó bị hủy.
“Vụ gián điệp U-2” là một trong những “kỳ án” điển hình của thời Chiến tranh Lạnh, trong bối cảnh đối đầu Đông - Tây với những bột phát dễ gây xung đột, cùng nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân như vụ khủng hoảng Berlin tại Đức vào cuối năm 1958, hay vụ Vịnh con lợn ở Cuba năm 1961…

1659244168989.png

1659244187917.png

1659244216530.png

Máy bay U-2

Máy bay do thám U-2 là sản phẩm của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), và đó là một thành tựu công nghệ phức tạp. Bay ở độ cao trên 21km, máy bay được trang bị thiết bị chụp ảnh hiện đại mà theo lời CIA là có thể chụp được ảnh độ phân giải cao, thậm chí “cả tựa đề các bài báo trên các tờ báo của Liên Xô” khi nó bay qua. Các chuyến bay qua Liên Xô bắt đầu được tiến hành vào giữa năm 1956. Để lấy lòng tin của chính phủ, CIA khẳng định với Tổng thống Eisenhower rằng, Liên Xô không sở hữu loại vũ khí chống máy bay nào đủ phức tạp để bắn hạ U-2.

Hoạt động gián điệp

Được cảnh báo về sự phát triển nhanh chóng trong công nghệ quân sự của Liên Xô, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã phê duyệt kế hoạch thu thập thông tin về khả năng và ý định của Liên Xô. Máy bay do thám tầm cao U-2 bắt đầu thực hiện các chuyến bay trinh sát qua Liên Xô vào năm 1956, giúp Mỹ có cái nhìn chi tiết đầu tiên về các cơ sở quân sự của Liên Xô. Ông Eisenhower hài lòng với thông tin thu thập được từ các chuyến bay. Các bức ảnh do máy bay do thám chụp được cho thấy năng lực hạt nhân của Liên Xô không mạnh như những gì mà nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev đã từng tuyên bố. Eisenhower nhận thấy rằng, mặc dù Mỹ đang có “lỗ hổng tên lửa” như nhiều chính trị gia nước này khẳng định, nhưng thay vào đó họ có lực lượng hạt nhân vượt trội hơn hẳn so với kẻ thù trong Chiến tranh Lạnh.

1659244302884.png

1659244337696.png

1659244360965.png

1659244375300.png

1659244425305.png

Phi công U-2 trong một chuyến bay

Liên Xô đã biết về các chuyến bay do thám của Mỹ, vì họ dễ dàng phát hiện nó trên màn hình radar. Tuy nhiên, trong gần 4 năm, Moscow đã bất lực trong việc ngăn chặn chúng, do U-2 bay ở độ cao trên 21km so với mặt đất, nên ban đầu cả máy bay phản lực và tên lửa của Liên Xô không thể tiếp cận nó. Với sự nỗ lực của chính phủ, đầu năm 1960, Liên Xô đã phát triển thành công tên lửa đất đối không S-75 với tầm bắn xa hơn. Và vào ngày 1/5, vũ khí đó đã bắn hạ U-2 của Mỹ.

1659244503776.png

1659244534885.png

1659244584569.png

Tên lửa phòng không S-75

Liên Xô bắn hạ máy bay Mỹ

Cũng như mọi ngày, Powers lái máy bay do thám U-2 xuyên qua không phận Liên Xô để chụp ảnh các cơ sở quân sự. Nếu tất cả diễn ra theo đúng kế hoạch, chuyến bay kéo dài 9 giờ của Powers sẽ đưa anh ta từ Pakistan đến một bãi đáp ở Na Uy. Tuy nhiên, không giống như các lần thực hiện nhiệm vụ trước đó, lần này U-2 đã bị bắn hạ.

1659244700547.png

1659244718420.png

1659244872759.png

Phi công Powers

Khi Powers lái máy bay qua Sverdlovsk (hiện là Yekaterinburg, Nga), một tên lửa không đối đất của Liên Xô đã phát nổ gần máy bay U-2. Quả tên lửa thứ hai bắn trúng máy bay Powers đang lái và khiến nó rơi thẳng từ trên cao xuống. Powers kích hoạt dù để thoát khỏi máy bay, nhưng khi dù vừa chạm đất, Powers đã bị bắt.

1659245052082.png

1659244803346.png

1659244837122.png

Máy bay U-2 của Powers bị bắn hạ

1659244893774.png

Vũ khí của phi công Powers bị thu giữ

Mỹ khăng khăng phủ nhận, Liên Xô bắt bài

Ngày 5/5, nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev thông báo rằng, quân đội nước này đã bắn hạ một máy bay do thám của Mỹ, nhưng ông không đề cập đến việc bắt giữ phi công. Các quan chức trong chính quyền Eisenhower cho rằng, sẽ chẳng còn bằng chứng nào tồn tại sau khi máy bay rơi, bởi vì nó được trang bị cơ chế tự hủy khiến đối phương không thể nhận dạng và phi công được hướng dẫn phải tự sát trong tình huống như vậy. Theo đó, Chính phủ Mỹ đã trả lời Liên Xô rằng đó chỉ là máy bay thu thập thông tin thời tiết "vô tình" đi chệch hướng. Tuy nhiên, với những chứng cứ không thể phủ nhận, bởi xác chiếc U-2 đã được Liên Xô đưa ra trưng bày công khai, kèm theo những đồ vật tìm thấy trong người viên phi công gián điệp Franci Powers như súng ngắn giảm thanh, tiền, vàng..., với dụng ý mua chuộc mạng sống…, không thể là những đồ vật để cho một viên phi công bay cao nhằm mục đích khoa học thuần túy. Trước thềm chuyến bay của Powers, tại Paris, một hội nghị thượng đỉnh đã được lên kế hoạch với sự tham gia của các nhà lãnh đạo Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp để thảo luận về tình trạng chia cắt của nước Đức, phác thảo đối thoại giữa các nước phương Tây và Liên Xô về các vấn đề chung sống hòa bình, bao gồm khả năng kiểm soát vũ khí, ngăn chặn vũ khí hạt nhân... Trước khi các nhà lãnh đạo thế giới khai mạc cuộc họp, chính quyền Tổng thống Eisenhower đã nhận trách nhiệm về các chuyến bay do thám và thừa nhận rằng lời giải thích về máy bay thời tiết là sai. Nhưng lời thú nhận của tổng thống Mỹ không thể cứu vãn hội nghị thượng đỉnh.

1659245173668.png

1659245184936.png

Phiên tòa xét xử phi công Powers

Trước khi cuộc họp khai mạc, nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev đã đưa ra một loạt các chỉ trích đối với Mỹ, cũng như Tổng thống Eisenhower và rời Paris chỉ vài giờ sau khi cuộc họp bắt đầu. Cuộc họp sụp đổ ngay lập tức và hội nghị thượng đỉnh bị hủy bỏ. Những sự kiện này diễn ra trong năm cuối cùng của Eisenhower ở Nhà Trắng, đã “đóng băng” quan hệ giữa Mỹ - Liên Xô và tạo tiền đề cho những cuộc đối đầu tiếp theo trong chính quyền của người kế nhiệm John F. Kennedy. Còn về phi công Powers, tháng 8/1960, ông bị Liên Xô đưa ra xét xử vì tội gián điệp, bị kết án 10 năm tù giam. Tuy nhiên, vào tháng 2/1962 Powers nhận được tự do, khi ông và điệp viên Liên Xô Rudolf Abel trở thành đối tượng của cuộc “hoán đổi gián điệp” đầu tiên giữa Mỹ và Liên Xô.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
TARAWA: TRẬN ĐÁNH ĐẪM MÁU NHẤT CỦA THỦY QUÂN LỤC CHIẾN MỸ

Trận Tarawa là một trận đánh thuộc chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall, diễn ra từ ngày 20 đến 23/11/1943, trong Thế chiến thứ Hai và chứng kiến lực lượng Mỹ mở cuộc tiến công đầu tiên vào trung tâm Thái Bình Dương. Mặc dù sử dụng hạm đội lớn nhất từ trước đến nay và giành thắng lợi, nhưng Mỹ đã phải chịu tổn thất rất nặng nề.
Trong Trận chiến Tarawa kéo dài 76 giờ, Thủy quân lục chiến Mỹ phải gánh chịu số thương vong gần bằng quân số nước này phải gánh chịu trong chiến dịch kéo dài 6 tháng tại đảo Guadalcanal.

1659371777350.png

1659371853018.png

1659371981619.png

Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên đảo Tarawa

Bối cảnh

Sau cuộc tiến công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng tháng 12/1941 gây cho Mỹ nhiều tổn thất, Washington bắt đầu tăng cường mở các chiến dịch ngăn chặn quân Nhật bằng những chiến thắng quan trọng tại đảo Midway (tháng 6/1942) và Guadalcanal (từ tháng 8/1942 đến tháng 2/1943) ở Nam Thái Bình Dương. Trong khi quân đội của Tướng Douglas MacArthur tiến qua phía Bắc New Guinea, các kế hoạch cho một chiến dịch “nhảy đảo” qua trung tâm Thái Bình Dương đã được Đô đốc Chester Nimitz (chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương) xây dựng. Các chỉ huy Mỹ định hình một loạt chiến dịch tiến công đảo qua trung tâm Thái Bình Dương, với các mục tiêu: đánh chiếm quần đảo Marshall, sau đó là quần đảo Mariana, rồi tiến thẳng vào Nhật Bản.
Quần đảo Gilbert, một nhóm gồm 16 đảo san hô gần xích đạo, được Mỹ xem là bàn đạp để tiến tới Marshalls và trở thành mục tiêu đầu tiên của chiến dịch Trung Thái Bình Dương. Tháng 11/1943, Mỹ tiến hành một cuộc tiến công mang mật danh “chiến dịch Galvanic”, trong đó mục tiêu chính là hòn đảo nhỏ Betio trong đảo san hô Tarawa thuộc quần đảo Gilbert cách Hawaii khoảng 4.000km về phía Tây Nam. Cuối tháng 12/1941, Tarawa đã bị quân Nhật chiếm giữ.

1659372177177.png

1659372089700.png

1659372125193.png

Đảo Tarawa

Chuẩn bị cho chiến dịch

Đảo Tarawa nằm ở vị trí chiến lược trên hướng tiếp cận của quân đồng minh tới quần đảo Marshall, chia cắt tuyến đường liên lạc và tiếp tế của Mỹ với quần đảo Hawaii. Nhận thấy tầm quan trọng của hòn đảo này, quân đồn trú Nhật Bản do Chuẩn đô đốc Keiji Shibasaki chỉ huy, đã xây dựng trận địa phòng ngự, nhằm biến Tarawa thành một pháo đài kiên cố. Theo đó, với hơn 3.600 binh sĩ và nhân công Nhật đồn trú tại đây đã ngày đêm xây dựng một mạng lưới hệ thống công sự khổng lồ với hơn 500 hầm ngầm và cứ điểm mạnh, cùng vô số cạm bẫy trên đảo. Ngoài ra, lính Nhật còn bố trí 14 khẩu pháo phòng thủ bờ biển (4 trong số đó đã được mua từ Anh trong chiến tranh Nga - Nhật), được bố trí xung quanh hòn đảo cùng với 40 khẩu pháo và 14 xe tăng hạng nhẹ Kiểu 95.

1659372292505.png

1659372334592.png

Xe tăng hạng nhẹ type-95

Kế hoạch của quân Mỹ

Để phá vỡ hệ thống phòng thủ Tarawa, Đô đốc Chester W. Nimitz (đã giao nhiệm vụ cho Phó Đô đốc Raymond Spruance chỉ huy trận chiến gồm 17 tàu sân bay các loại, 12 thiết giáp hạm, 8 tuần dương hạm hạng nặng, 4 tuần dương hạm hạng nhẹ và 66 khu trục hạm; Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 2. Lực lượng phối hợp chiến đấu có Sư đoàn bộ binh 27 của Lục quân Mỹ. Tổng quân số Mỹ tung vào trận này bao gồm 18.000 lính thuỷ quân lục chiến và 35.000 lính của hải quân và không quân hải quân.
Betio là hòn đảo nhỏ có hình dạng giống như một tam giác dẹt trong cụm đảo Tarawa, sở hữu một sân bay chạy từ Đông sang Tây và giáp với đầm phá Tarawa về phía Bắc. Các bãi ở bờ biển phía Bắc có một rạn san hô kéo dài khoảng 1.200m, nước sâu hơn, nên đổ bộ thuận lợi hơn so với các bãi biển ở phía Nam. Mặc dù có một số lo ngại ban đầu về việc liệu tàu đổ bộ có thể vượt qua rạn san hô ở phía Bắc để tiếp cận đảo hay không? Sau khi tính toán và theo dõi thủy triều lên xuống, các nhà lập kế hoạch tin rằng khi thủy triều đủ cao tàu đổ bộ sẽ tiếp cận được đảo.
Đến rạng sáng ngày 20/11, lực lượng của Đô đốc Spruance đã có mặt ở ngoài khơi Tarawa. Pháo tàu ngoài khơi bắt đầu bắn phá dữ dội vào hệ thống phòng thủ của Nhật trên đảo Tarawa, sau đó các máy bay chiến đấu xuất kích từ tàu sân bay tiến công mục tiêu chi viện cho 3 đơn vị thủy quân lục chiến Red 1, Red 2 và Red 3 lên các tàu, xuồng đổ bộ tiến về phía đảo.
Tuy nhiên, do hiệp đồng không chặt chẽ, xuồng đổ bộ chỉ xuất phát khi máy bay chiến đấu thực hiện những đợt oanh tạc cuối cùng lên đảo. Lính Nhật ra khỏi hầm trú ẩn, và bắt đầu bắn dữ dội vào các tàu, xuồng của quân Mỹ đang tiến vào bờ. Khi đến gần bờ biển, nhiều xuồng đổ bộ bị mắc kẹt trong rặng san hô do thủy triều không đủ cao để vượt qua. Từ trên đảo, hỏa lực các loại của quân Nhật bắn mãnh liệt vào các tàu, xuồng đang mắc kẹt, lính Mỹ buộc phải nhảy xuống nước và bơi vào bờ dưới làn đạn xối xả của các loại hỏa lực. Chỉ có một lực lượng nhỏ lên được bờ nhưng bị quân Nhật nhanh chóng bắt sống.

1659372582852.png

1659372476992.png

1659372498050.png

1659372606415.png

1659372517140.png

1659372632866.png

Thủy quân lục chiến Mỹ tại vịnh Đỏ, đảo Tarawa

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Một cuộc chiến đẫm máu

Chỉ sau khi tăng quân và triển khai thêm các xe tăng M4-A2 Sherman, Thủy quân lục chiến Mỹ mới có thể đổ bộ thành công và bẻ gãy phòng tuyến đầu tiên của Nhật vào chiều cùng ngày. Nhờ hỏa lực từ xe tăng, đến đêm quân Mỹ chiếm được 1/2 đảo. “Kế hoạch hậu cần được tập dượt cẩn thận lại trở thành một thảm họa, thủy quân lục chiến đã tính toán sai thời gian thủy triều lên”, sử gia Oscar Gilbert viết. Ngày hôm sau, các đơn vị thủy quân lục chiến Red 1 (bãi biển phía Tây) được lệnh đánh chiếm Green Beach trên bờ biển phía Tây của Betio. Trong quá trình chiến đấu, Red 1 được hỏa lực của hải quân chi viện. Lực lượng thủy quân lục chiến Red 2 và 3 được giao nhiệm vụ tập kích đường băng trên đảo. Sau đợt giao tranh dữ dội, trận chiến kết thúc vào đầu giờ chiều. Cùng lúc đó, lực lượng quan sát cảnh giới báo cáo quân Nhật đang rút lui theo hướng Đông qua bãi cát hướng về mỏm Bairiki. Để ngăn địch trốn thoát, các đơn vị của Trung đoàn thủy quân lục chiến số 6 đổ bộ lên khu vực này lúc 5 giờ chiều. Kết thúc ngày giao tranh thứ hai, quân Mỹ đã tiến thêm và củng cố vị trí chiếm được.
Trong quá trình giao tranh, Chuẩn đô đốc Keiji Shibasaki tử trận, khiến Bộ chỉ huy Nhật Bản lo lắng. Sáng ngày 22/11, quân tiếp viện được đổ bộ và chiều hôm đó Tiểu đoàn 1/Trung đoàn thủy quân lục chiến số 6 bắt đầu tiến công trên khắp bờ Nam của đảo.

1659409531934.png

1659409659339.png

1659409773758.png

1659410432057.png

1659410260441.png

1659410278658.png

Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên đảo Tarawa

Kháng cự cuối cùng

Rạng sáng ngày 23/11, 300 lính Nhật phát động một đợt tiến công cảm tử vào lực lượng Mỹ, nhưng bị hỏa lực chi viện từ pháo binh và hải quân trên tàu chiến Mỹ vùi dập. Trong 3 giờ tiếp theo, pháo binh và Không quân Mỹ liên tục bắn phá các cứ điểm còn lại của quân Nhật. Những ổ đề kháng đơn lẻ của Nhật sau đó cũng bị lực lượng thiết giáp và các cuộc không kích Mỹ tiêu diệt. Trong những ngày tiếp theo, Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên các đảo trong chuỗi đảo Tarawa và quét sạch các cứ điểm phòng thủ cuối cùng của quân Nhật.

1659409719847.png

1659410216927.png

1659410356061.png

1659409752279.png

Thủy quân lục chiến Mỹ giao tranh với quân Nhật

Hậu quả

Trong số 3.600 lính Nhật phòng thủ trên đảo, chỉ có 17 người sống sót. Trận chiến kết thúc khi “gần như mọi cấu trúc trên đảo bị phá hủy và đầy rẫy xác chết nhanh chóng thối rữa dưới cái nắng chói chang”, Gilbert viết. Thủy quân lục chiến Mỹ cũng phải hứng chịu thương vong nặng nề sau trận chiến Tarawa, với gần 1.000 lính tử trận, hơn 2.100 lính khác bị thương trong 3 ngày giao tranh. Trận chiến Tarawa được coi là một trong những trận đánh có nhiều người tử trận nhất trong Thế chiến II, nhưng cũng từ trận đánh này, các lực lượng thủy quân lục chiến đã có nhiều kinh nghiệm quý giá cho các chiến dịch sau này. Đây cũng là một trong những nền tảng xây dựng nên học thuyết tác chiến đổ bộ của Thủy quân lục chiến Mỹ, chuyên gia quân sự Robert Beckhusen của WarIsBoring nhấn mạnh.

1659409691903.png

1659409601154.png

Xác thủy quân lục chiến Mỹ tại bãi đổ bộ đảo Tarawa

1659410007389.png

1659410053135.png

1659410144872.png

Xác lính Nhật sau trận chiến đảo Tarawa
 
Biển số
OF-806509
Ngày cấp bằng
4/3/22
Số km
3,181
Động cơ
193,841 Mã lực
Kế hoạch Mỹ tấn công hạt nhân Trung Quốc năm 1958

Giới quân sự Mỹ từng thúc đẩy Nhà Trắng chuẩn bị các kế hoạch tấn công vũ khí hạt nhân nhằm vào Trung Quốc đại lục vào năm 1958.

Tài liệu trên lần đầu tiên tiết lộ mức độ các cuộc thảo luận của Washington về việc sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn Trung Quốc Đại lục đưa quân vào đảo Đài Loan, bao gồm cả việc một số lãnh đạo quân đội Mỹ đã chấp nhận khả năng các căn cứ Mỹ bị tấn công hạt nhân trả đũa.
Thông tin mới này được cung cấp cho tờ New York Times bởi Daniel Ellsberg, người từng rò rỉ Hồ sơ Lầu Năm Góc về sai lầm của chính phủ Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
“Việc Mỹ là bên đầu tiên sử dụng vũ khí hạt nhân không nên được dự tính, chuẩn bị hoặc đe doạ tiến hành ở bất cứ đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả bảo vệ Đài Loan”, ông Ellsberg đăng trên Twitter hôm 23/5.
Việc rò rỉ thông tin liên quan đến khủng hoảng Eo biển Đài Loan xuất phát từ những phần tài liệu mật nằm trong báo cáo năm 1966 của tổ chức Rand Corporation về cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan 1958, được viết bởi M. H. Halperin, thuộc Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó.

1659454807083.png

1659454982831.png

Đội hình chiến đấu của tài sân bay USS Lexington (CVA-16) tại eo biển Đài Loan năm 1958

1659454997932.png

1659455149173.png

1659455198113.png

Máy bay chiến đấu F-104 của Mỹ tại Đài Loan năm 1958

Sau khi Đảng CS Trung Quốc lên cầm quyền ở Trung Quốc đại lục vào năm 1949 sau cuộc nội chiến, chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch phải chạy sang Đài Loan. Nhưng Bắc Kinh coi hòn đảo này là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc, và hai bên đã xung đột liên tục trong nhiều thập kỷ sau đó.
Lần gần nhất giữa Mỹ và Trung Quốc xảy ra xung đột vũ trang là trong cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1958, khi Trung Quốc nã pháo vào các đảo xa của Đài Bắc. Washington lo ngại vụ pháo kích có thể là dấu hiệu báo trước một chiến dịch quân sự toàn diện từ đại lục nhằm sáp nhập Đài Loan.
Các cuộc pháo kích tập trung vào các nhóm đảo Quemoy và Matsu, nằm giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục, được Rand Corporation mô tả là "tuyến phòng thủ đầu tiên" của Đài Bắc.
Mặc dù công chúng đều biết chính quyền Tổng thống Mỹ Eisenhower khi đó đã tranh luận về việc có nên sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn cản Trung Quốc tấn công Đài Loan hay không, nhưng đây mới là lần đầu tiên các tài liệu rò rỉ tiết lộ mức độ của các kế hoạch này.
Trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công trên không và trên biển vào các hòn đảo, Tướng Không quân Mỹ Nathan Twining cho biết Mỹ sẽ phải sử dụng vũ khí hạt nhân nhằm vào các căn cứ không quân Trung Quốc “để ngăn chặn một chiến dịch tấn công đường không thành công”. Kế hoạch này sẽ mở màn bằng vũ khí hạt nhân “công suất thấp, từ 10-15 kiloton”.

1659455283585.png

1659455336961.png

Bom hạt nhân của Mỹ

Nếu một cuộc không kích như vậy vẫn không phá vỡ được chiến dịch tấn công từ Trung Quốc đại lục, “Mỹ sẽ không có lựa chọn nào khác là tiến hành tấn công hạt nhân vào sâu lãnh thổ Trung Quốc, đến tận Thượng Hải ở phía bắc”.
Theo tài liệu rò rỉ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã thừa nhận một cuộc tấn công như vậy “gần như chắc chắn” sẽ dẫn đến trả đũa hạt nhân đối với Đài Loan và căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa, Nhật Bản. “Nhưng ông ấy nhấn mạnh rằng nếu chính sách quốc gia là nhằm bảo vệ các đảo ngoài khơi thì hậu quả phải được chấp nhận” – tài liệu cho biết.
Do Trung Quốc khi đó vẫn chưa phát triển năng lực hạt nhân của riêng mình, bất kỳ đòn trả đũa hạt nhân nào sẽ đến từ Liên Xô, có thể châm ngòi cho một cuộc xung đột toàn cầu thậm chí còn tàn khốc hơn. Tuy vậy, báo cáo không cho biết đòn trả đũa hạt nhân sẽ bắt nguồn từ đâu.
Tài liệu trên cũng cho biết các Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, đặc biệt là Tướng Twining, coi việc sử dụng vũ khí hạt nhân là "không thể tránh khỏi”. Ở một đoạn của tài liệu, Tướng Laurence S. Kuter, một tư lệnh Không quân hàng đầu của Mỹ ở Thái Bình Dương, "thẳng thừng" tuyên bố rằng bất kỳ hành động không quân nào của Mỹ chống lại một cuộc tấn công của Trung Quốc vào các đảo ở Eo biển Đài Loan sẽ "không có cơ hội thành công trừ khi vũ khí nguyên tử được sử dụng ngay từ đầu”.

1659455584090.png

Binh lính Đài Loan trên đảo Quemoy, một điểm nóng trong cuộc khủng hoảng năm 1958

1659455628913.png

Đảo Quemoy bị oanh tạc trong cuộc khủng hoảng Eo biển Đài Loan 1958

Nhưng cuối cùng, Tổng thống Eisenhower đã do dự trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân và yêu cầu quân đội Mỹ sử dụng vũ khí thông thường. Sau đó, một lệnh ngừng bắn ở Eo biển Đài Loan đã đạt được vào ngày 6/10/1958.
Joshua Pollack, biên tập viên của Tạp chí Nonproliferation Review, bình luận trên Twitter hôm 23/5 rằng ý tưởng Mỹ mạo hiểm “trao đổi” hạt nhân với Liên Xô vì những hòn đảo "không có giá trị quân sự" là "nghịch tai". "Không có gì ngạc nhiên khi Nhà Trắng nói không", ông Pollack nói.
Trong bài phát biểu vào tháng 1/2019, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cảnh báo ông sẽ thực hiện "mọi biện pháp cần thiết" và không "từ bỏ việc sử dụng vũ lực" để đưa Đài Loan trở lại Trung Quốc đại lục.
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền hoàn toàn đối với Đài Loan, hòn đảo gần 24 triệu dân nằm ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Trung Quốc đại lục, mặc dù hai bên đã được kiểm soát bởi hai chính quyền riêng biệt trong hơn 7 thập kỷ qua.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Vụ ném bom kinh hoàng hơn cả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki

Hai vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm nghìn người. Đây được coi là một trong những vụ tấn công tàn phá nhất trong lịch sử.

Tuy nhiên trên thực tế, một vụ ném bom khác xảy ra trước đó đã để lại hậu quả khủng khiếp hơn. Đó là trận bom cháy hủy diệt của không quân Mỹ nhằm vào thủ đô Tokyo của Nhật Bản diễn ra vào đêm mồng 9, rạng sáng ngày 10-3-1945.

Chiến lược “Bão lửa”

Những vụ ném bom tập trung xuống các thành phố lớn của kẻ địch nhằm tiêu diệt dân chúng và làm tê liệt ý chí kháng cự là thành tố quan trọng nhất trong chiến dịch của Mỹ và Anh trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những hành động như vậy thường được thanh minh là “nhằm tiêu diệt tiềm năng công nghiệp” tập trung tại các thành phố lớn.

1659575442153.png

1659575476705.png

Máy bay ném bom B-29 oanh tạc Tokyo

Trong các vụ ném bom rải thảm, Bộ Chỉ huy Quân sự liên quân đã nỗ lực đạt được hiệu quả của chiến lược “Bão lửa” (hay “Vòi rồng lửa”). Thực chất của chiến lược này là biến những đám cháy cục bộ khi ném bom thành một đám cháy lớn. Lượng ôxy bị đốt cháy nhanh ở giữa đám cháy sẽ hình thành nên trạng thái chân không, gây ra hiện tượng hút không khí từ những vùng bên ngoài vào. Khi đó, sức gió có thể đạt vận tốc mạnh như một cơn lốc xoáy. Những khối không khí mới tràn vào tâm bão sẽ tiếp tục tạo ra lửa. Do nhiệt độ cao, nên bão lửa tiếp tục bao trùm toàn bộ những vật thể khác và lan rộng. Việc dập tắt một trận bão lửa như vậy là không thể, bởi nó chỉ chấm dứt sau khi cháy hết những vật thể mà đám cháy đi qua.

Ngày 28-7-1943, khi ném bom tập trung xuống Hamburg (Đức), không quân Mỹ và Anh đã thành công trong việc tạo ra hiện tượng khí tượng mang tính hủy diệt này. Chỉ trong một đêm, trung tâm thành phố này đã bị phá hủy trên diện tích 21 km2 với hơn 40.000 người tử nạn.

1659575674124.png

1659575725764.png

1659575749903.png

1659575762296.png

Hamburg bị oanh tạc ngày 28-7-1943

Giết người hàng loạt

Trước năm 1944, người Mỹ chưa thể làm được như vậy trong những vụ ném bom xuống Nhật Bản do những căn cứ không quân của Hoa Kỳ nằm ở xa. Để đạt được tầm bay xa cần thiết trong các vụ ném bom, họ phải lắp thêm thùng nhiên liệu phụ, đồng thời giảm trọng tải bom xuống.
Tháng 8-1944, quân Mỹ chiếm quần đảo Mariana và không lâu sau chuyển đến đó “pháo đài bay” B-29. Việc áp dụng chiến thuật mới chống Nhật Bản được bắt đầu với việc bổ nhiệm Tướng Curtis LeMay làm Chỉ huy Quân đoàn ném bom số 21 trên quần đảo Mariana vào tháng 1-1945.
LeMay yêu cầu các phi công dưới quyền phải đạt được mục tiêu trong các vụ ném bom. Theo hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Tổng thống John Kennedy, Robert McNamara, tướng LeMay ra lệnh đe dọa sẽ đưa ra tòa án binh những phi công tự ý ngừng bay giữa chừng và không chịu tiến đến mục tiêu ném bom.
Sau chiến tranh, LeMay đã công nhận rằng, trong trường hợp quân đồng minh thất bại trong Thế chiến thứ hai, thì ông ta sẽ bị đưa ra xét xử như tội phạm chiến tranh. Ông lưu ý rằng, phần lớn các thành phố của Nhật Bản được xây lên những tòa nhà bằng gỗ rất dễ bắt lửa. Trong trận không chiến với quân Nhật, việc sử dụng những trái bộc phá hạng nặng không mang lại hiệu quả như trong những trận ở các thành phố xây dựng bằng đá của Đức. Ngược lại, việc sử dụng bom cháy có khả năng gây ra những vụ cháy lớn là rất khả thi.

1659575927836.png

1659575941911.png

1659575954746.png

1659575998923.png

1659576014039.png

Nạn nhân trong các vụ không kích Tokyo

Tính từ tháng 2 đến tháng 8-1945, Tướng Curtis LeMay đã ra lệnh tiến hành 67 vụ không kích tập trung xuống các thành phố Nhật Bản, ngoại trừ hai vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6-8-1945 và Nagasaki ngày 9-8-1945 (hai vụ này được thực hiện theo lệnh của Tổng thống Mỹ Harry Truman). Theo đánh giá của nhà sử học John Bradley trong cuốn sách “Không còn mục tiêu chiến lược: Những vụ ném bom rải thảm góp phần kết thúc Thế chiến II”, số nạn nhân tử vong trực tiếp trong những phi vụ này là hơn nửa triệu dân. Trong khi đó, số người chết nhiều nhất trong một ngày (chính xác hơn là trong một đêm) đó là vụ không kích xuống Tokyo.

............................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(tiếp)

Mỗi máy bay ném 5 tấn bom napalm

Trước ngày 9-3-1945, không quân Hoa Kỳ đã nhiều lần không kích xuống Tokyo, nhưng theo ý kiến của người Mỹ, kết quả của những vụ không kích đó vẫn chưa được như ý muốn. Chiều ngày 9-3, Không quân Mỹ bắt đầu tiến hành chiến dịch “Nhà nguyện”. Trên 334 chiếc “pháo đài bay” B-29 đồn trú tại đảo Guam được lắp 1.665 tấn bom cháy và bom napalm. Để những chiếc oanh tạc cơ này có thể mang được nhiều bom hơn, người Mỹ đã bỏ bớt phần thiết giáp và vũ khí. Trong khi đó, chúng phải bay ở độ cao từ 1,5km đến 2,5km và cứ 15m ném bom một lần, tức là cứ 10 giây thả một quả bom ở vận tốc máy bay trung bình.

1659928314340.png

1659928300945.png

1659928356421.png

1659928415082.png

1659928760401.png

Máy bay ném bom B-29

Tướng LeMay đã cố tình giảm mức phòng vệ của những “pháo đài bay” nhằm đạt được kết quả tối đa. Ông ta quyết định mạo hiểm như vậy bởi hai lý do. Thứ nhất, vũ khí của máy bay ném bom vẫn đảm bảo cho người Mỹ thế vượt trội hơn hẳn ở trên không, và hầu hết trong số chúng sẽ hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí nếu có chiếc bị bắn rơi. Thứ hai, hệ thống phòng không của Nhật Bản về cơ bản lúc này là rất yếu, vì lực lượng không quân tiêm kích của nước này đã chịu tổn thất nặng nề trong các trận chiến trên Thái Bình Dương.

1659928962331.png

Tướng Thomas Power (phải), sĩ quan cấp cao trong cuộc tấn công ngày 10 tháng 3 của hơn 300 chiếc B-29 vào Tokyo, nói chuyện với Thiếu tướng Curtis E. LeMay, Tư lệnh Bộ chỉ huy Máy bay ném bom XXI, và Tướng Lauris Norstad (trái), Tham mưu trưởng Lực lượng Không quân 20, sau khi trở về sau cuộc tấn công thiêu rụi nhiều khu vực rộng lớn ở thủ đô Nhật Bản.

1659929069395.png

Các kỹ thuật viên lắp ráp bom cháy nặng 500 vào máy bay ném bom B-29 Superfortress.

Phi công Mỹ cảm nhận mùi khét đặc trưng

Trong đêm rạng sáng ngày 10-3-1945, ba đợt máy bay B-29 liên tục ném bom xuống Tokyo. Trong số 334 chiếc “pháo đài bay”, người Nhật chỉ bắn rơi được 14 chiếc.
Không lâu sau vụ ném bom, nhiều đám cháy cục bộ đã biến thành trận bão lửa bao trùm Tokyo vài ngày liền. Mọi người không thể chạy trốn khỏi ngọn lửa. Tốc độ gió khi thành lốc xoáy đạt 80m/giây. Lửa làm nóng chảy cả những tuyến đường ray xe điện.
Theo số liệu chính thức của Mỹ, ít nhất có 83.000 người tử vong trong đợt tấn công này. Trong khi đó, theo ước tính của nhà sử học John Buckley, tác giả cuốn sách “Sức mạnh không quân trong chiến tranh tổng lực”, thì tổng số nạn nhân chết cháy và chết ngạt trong các đám cháy, bao gồm chết vì bỏng và trúng độc trong những ngày sau đó, là trên 100.000 người.
Trong khi đó, số người chết trực tiếp do vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima ít nhất là 70.000 người, còn ở Nagasaki là 44.000 người (không tính những người chết về sau do nhiễm chất phóng xạ). Trận ném bom thảm khốc nhất ở châu Âu là vụ Hamburg, tiếp đó là vụ Dresden ngày 13-2-1945, theo số liệu chính thức hiện nay của Chính phủ Đức, đã cướp đi sinh mạng của 25.000 người. Như vậy, trận ném bom xuống Tokyo vẫn là trận tàn phá khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh.

1659928527940.png

1659928546487.png

1659928570669.png

1659928594638.png

1659928616397.png

Tokyo bị oanh tạc

Trong trận đó, thủ đô Nhật Bản đã bị phá hủy 250.000 công trình xây dựng. Thành phố này bị thiêu cháy hoàn toàn trên diện tích hơn 40km2. Diện tích bị phá hủy ở Tokyo tuy không bằng tại Hiroshima hay Nagasaki, nhưng số người chết thì nhiều hơn. Bởi lẽ, thủ đô Nhật Bản có mật độ dân số cao hơn. Trong cuốn sách của mình, nhà sử học John Buckley khẳng định rằng, các phi công máy bay ném bom Hoa Kỳ tham gia không kích đợt cuối cho biết rằng, khi bắt đầu xảy ra các đám cháy, họ đã cảm nhận mùi khét đặc trưng bốc ra từ những nơi đó.

1659928792054.png

1659928667043.png

1659928644748.png

1659928931502.png

1659929204630.png

1659929375215.png

1659929356244.png

Nạn nhân trong vụ máy bay Mỹ ném bom Tokyo
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải
Top