- Biển số
- OF-806509
- Ngày cấp bằng
- 4/3/22
- Số km
- 2,964
- Động cơ
- 191,568 Mã lực
Mỹ dự đoán ba kịch bản điển hình thống nhất Đài Loan bằng vũ lực
Ngày 3/11, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố báo cáo sức mạnh quân sự Trung Quốc năm 2021 với nội dung là các dự đoán tập trung vào tình hình an ninh eo biển Đài Loan và cách thức bố trí quân sự của Trung Quốc. Báo cáo nhấn mạnh PLA có thể sử dụng vũ lực để thống nhất vào năm 2027, các lựa chọn hành động bao gồm đổ bộ quy mô lớn, chiếm các đảo bên ngoài Đài Loan, phong tỏa vùng trời và vùng biển trong thời gian dài, sử dụng lực lượng đặc công hoặc hacker của PLA để tấn công các cơ sở hạ tầng của Đài Loan… Đồng thời, báo cáo dự đoán rằng PLA sẽ ra sức ngăn chặn Mỹ can dự vào xung đột hai bờ eo biển để tránh rắc rối kéo dài. Nếu thực sự có bên thứ ba can dự, Trung Quốc có thể sẽ đe dọa sử dụng các cuộc tấn công mạng, chiến tranh không gian hoặc hạt nhân để giải quyết.
Tuy nhiên, mặc dù bản báo cáo này miêu tả tham vọng mạnh mẽ của PLA, nhưng thực tế lại không đánh giá cao thực lực tác chiến của PLA. Chẳng hạn, trong phần “đổ bộ chiếm đảo quy mô lớn”, Bộ Quốc phòng Mỹ cho rằng, động thái này không chỉ đòi hỏi sự tiếp tế quân sự và hậu cần mạnh mẽ, mà có thể dẫn đến sự can dự quốc tế. Ngay cả khi đổ bộ thành công, thì PLA cũng phải đối diện với chi phí chiến tranh đô thị, có thể gây nên rủi ro chính trị và quân sự nghiêm trọng đối với CT Tập Cận Bình.
Về kịch bản chiếm các đảo bên ngoài, Bộ Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh, việc đổ bộ lên các đảo vừa như Kim Môn và Mã Tổ có thể giúp PLA phô trương được sức mạnh quân sự và quyết tâm chính trị của mình, đồng thời có thể chiếm đóng trên thực tế. Tuy nhiên, động thái này sẽ kích động tâm lý đòi độc lập mạnh mẽ của Đài Loan cũng như lôi kéo sự can dự của quốc tế. Ngoài ra, các chi phí liên quan không thể xem nhẹ.
Tóm lại, bản báo cáo này cho rằng, trên cơ sở Trung Quốc liên tục tổ chức các cuộc tập trận quy mô lớn, PLA tiếp tục thúc đẩy xây dựng sức mạnh quân đội, rủi ro xung đột ở eo biển Đài Loan đang gia tăng. Tuy nhiên, Trung Quốc không thể hành động theo ý mình, thậm chí hành động này có thể khiến Trung Quốc tự chuốc vạ vào thân.
1. Xung đột eo biển Đài Loan năm 1958
18 giờ 30 phút ngày 23/8/1958, mấy trăm khẩu trọng pháo của Giải phóng quân Trung Quốc (GPQTQ) do MTĐ lãnh đạo bố trí trên chiều dài bờ biển 30 km ở Hạ Môn bất ngờ bắn những loạt đạn đầu tiên lên đảo Kim Môn do quân đội Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, mở đầu trận pháo kích lớn nhất lịch sử Trung Quốc. Trong 2 giờ liền, hơn 50 nghìn quả đạn dội xuống đối phương.
Nghe tin ấy, Tưởng Giới Thạch hôm trước vừa thị sát Kim Môn trở về Đài Bắc, chẳng hiểu MTĐ định làm gì. Tưởng điện ngay cho Tổng thống Mỹ Eisenhower đề nghị viện trợ, và bảo con trai là Tưởng Kinh Quốc đến ngay Kim Môn để động viên binh sĩ. Mỹ, Liên Xô và toàn thế giới sửng sốt, không biết Trung Quốc muốn gì? Giải phóng Đài Loan ư?
Quần đảo Kim Môn cách đại lục Trung Quốc chỗ gần nhất chừng 2 km; đảo chính Kim Môn rộng 132 km2, cách đảo Đài Loan 210 km nhưng cách thành phố Hạ Môn của Trung Quốc chỉ khoảng 10 km. Trên đảo hồi ấy có 50 nghìn dân và 100 nghìn lính QDĐ. Đòn đánh bất ngờ làm phía QDĐ thương vong hơn 600 lính, 3 viên Trung tướng chết, chưa kể dân thường. Ngoài ra còn 2 cố vấn Mỹ thiệt mạng.
Thực ra trước đó Kim Môn đã mấy lần bị GPQTQ tấn công.
Cuối năm 1949, sau khi giải phóng Hạ Môn, đêm 24/10, nhân lúc nước triều cao nhất, GPQTQ cho tàu thuyền chở quân đổ bộ lên Kim Môn. Đợt đầu đổ bộ lên đảo được 3 trung đoàn (hơn 9000 quân), nhưng sáng ra khi tàu thuyền quay về chở quân đợt hai thì thủy triều rút mạnh làm nhiều tàu thuyền bị mắc cạn, không thể chở thêm 11.000 lính của đợt 2 và 3. Số binh lính đã lên đảo bị quân QDĐ bao vây, phải chiến đấu trong tình trạng không có tiếp viện, hầu hết bị tiêu diệt hoặc bắt sống, một số tản ra đánh du kích, cuối cùng do hết đạn, hết lương thực, họ đành buông súng. Đến sáng 27/10, toàn bộ 9.086 binh sĩ GPQTQ bị tiêu diệt, trong đó hơn 7.000 quân đầu hàng. Trận đổ bộ Kim Môn kết thúc.
Đây là thất bại lớn chưa từng có của GPQTQ, chủ yếu do chủ quan khinh địch, nóng vội, không có tập luyện đổ bộ, và do không nắm vững tình hình thủy triều.
Rút kinh nghiệm thất bại trận đó, tháng 3/1950, GPQTQ tiến hành chiến dịch đổ bộ đảo Hải Nam theo chiến thuật đổ bộ lén từng đợt nhỏ kết hợp tổng tấn công, dùng hơn 40 nghìn quân đổ bộ thành công chiếm được đảo Hải Nam.
Việc Tưởng Giới Thạch thất bại liên tiếp, để mất đại lục rồi mất Hải Nam đã làm Tổng thống Truman có ý định bỏ rơi Tưởng. Ngày 5/1/1950 Truman tuyên bố “Không can thiệp tranh chấp ở eo biển Đài Loan” tuy vẫn viện trợ kinh tế cho Tưởng. Trong tình trạng không được Mỹ viện trợ quân sự, Tưởng sợ Mao Trạch Đông thừa thắng xông lên tấn công Đài Loan. Tưởng cử mật sứ sang Thượng Hải liên lạc với ************* Trung Quốc (ĐCSTQ), để lộ ý định Tưởng muốn QDĐ hợp tác với ĐCSTQ, thuyết phục Bắc Kinh tạm thời để Đài Loan được yên bình. Bắc Kinh đồng ý với đề nghị này, nhưng sau đó hy vọng “Quốc-Cộng hợp tác” bị chặn đứng vì bất ngờ Kim Nhật Thành làm nổ ra Chiến tranh Triều Tiên (25/6/1950).
Thấy rõ vai trò quan trọng của Đài Loan trong cuộc chiến này, Truman chuyển từ chính sách “Bỏ Tưởng” sang “Bảo vệ Tưởng”, phục hồi viện trợ quân sự cho Tưởng. Ngày 27/6, Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan. Để tập trung lực lượng vào chiến trường Triều Tiên, Mỹ không cho Tưởng gây sự với Bắc Kinh. Mao Trạch Đông cũng quyết định hoãn nhiệm vụ giải phóng Kim Môn và Đài Loan mà tập trung Kháng Mỹ viện Triều. Nhờ thế tình hình eo biển Đài Loan được yên tĩnh trong vài năm.
Năm 1952 Đài Loan trả về Trung Quốc hơn 3.000 tù binh GPQTQ. Họ đều bị tước đảng tịch và quân tịch, đuổi về quê làm ruộng, một số bị ra tòa. Các tù binh còn lại đều xin ở lại Đài Loan.
Tháng 7/1953, Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Trung Quốc lập tức đẩy mạnh xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ đưa không quân vào tỉnh Phúc Kiến, chuẩn bị tấn công Đài Loan.
Ngày 3/9/1954, GPQTQ bất ngờ pháo kích Kim Môn liên tục cho tới 22/9. Ngày 18/11/1954, lại dùng lục quân, hải quân, không quân với binh lực áp đảo tấn công đảo Nhất Giang Sơn, một đảo nhỏ ở gần cửa sông Tiêu Giang tỉnh Chiết Giang, do QDĐ chiếm giữ; ngày 18/1/1955 chiếm được đảo này. Trong tình hình đó, tháng 2/1955, chính quyền QDĐ rút quân ra khỏi đảo Đại Trần, một đảo nhỏ rộng 13,6 km2, cách đảo Nhất Giang Sơn 11 km. Sau đó GPQTQ chiếm Đại Trần.
Cho là Bắc Kinh muốn dùng vũ lực giải phóng Đài Loan, tháng 12/1954, Mỹ và chính quyền Tưởng Giới Thạch ký “Hiệp ước Phòng ngự chung Mỹ-Trung [Đài Loan]”. Sau đó hạm đội 7 được điều đến eo biển Đài Loan. Một số nghị sĩ Mỹ hô hào dùng bom nguyên tử ngăn cản Trung Quốc đánh Đài Loan. Tổng thống Eisenhower chủ trương dùng luật pháp để trung lập hóa Đài Loan, như để Đài Loan do quốc tế quản trị hoặc Liên Hợp Quốc ủy quyền cho một quốc gia nào đó quản trị (chế độ ủy trị). Viện lý do trong Hiệp ước Phòng ngự chung Mỹ-Đài Loan, phần định nghĩa về lãnh thổ của chính quyền QDĐ không nói đến hai đảo Kim Môn, Mã Tổ, Eisenhower khuyên Tưởng Giới Thạch bỏ hết các đảo nhỏ gần đại lục TQ, chỉ giữ hai quần đảo lớn là Đài Loan và Bành Hồ để tiện quản lý.
Nhưng Tưởng phản đối chủ trương đó. Mặc cho Mỹ dọa cắt giảm viện trợ, Tưởng chỉ chịu bỏ hai đảo nhỏ (Nhất Giang Sơn và Đại Trần) mà vẫn tăng quân đóng ở hai đảo Kim Môn, Mã Tổ. Mâu thuẫn Mỹ-Tưởng căng thẳng tới mức dân Đài Bắc biểu tình đập phá Sứ quán Mỹ. Về sau Eisenhower phải nghe theo Tưởng, tăng cường viện trợ Đài Loan.
Năm 1958, trong không khí cả nước Trung Quốc phấn khởi tiến hành xây dựng CNXH theo “Đường lối chung”, phong trào Công xã nhân dân, Đại Nhảy vọt… báo đài Trung Quốc ra sức tuyên truyền chủ trương “Đánh chiếm Kim Môn, Mã Tổ, dùng vũ lực giải phóng Đài Loan”. Ngày 23/8 MTĐ nói: Ta yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Đài Loan, Tưởng rút quân khỏi Kim Môn, Mã Tổ. Mi không rút, ta sẽ đánh; ta pháo kích thì Mỹ mới đồng ý quay lại dự cuộc hội đàm Trung Quốc-Mỹ cấp Đại sứ.
Chập tối hôm đó, pháo binh GPQTQ tập trung bắn phá các mục tiêu quân sự ở Kim Môn, phong tỏa vùng biển quanh đảo nhằm cắt đường tiếp tế. Ngoài ra tàu chiến và máy bay hai bên cũng nhiều lần chạm trán nhau. Thời gian đầu, quân QDĐ bị động, phản kích muộn. Sau khi được Mỹ cho tàu chiến tới hộ tống các tàu tiếp tế, và viện trợ 6 khẩu pháo tự hành tầm xa M55 (203 mm), 6 lựu pháo M2, quân QDĐ Kim Môn đã gây thiệt hại nặng cho đối phương, làm tê liệt hoạt động của ga xe lửa Hạ Môn.
Có thể vì việc pháo kích ngày càng kém hiệu quả nên ngày 6/10/1958, Bắc Kinh công bố “Thư gửi đồng bào Đài Loan”, tuyên bố ngừng bắn 7 ngày, bãi bỏ phong tỏa hai đảo Kim Môn, Mã Tổ. Hết thời hạn, pháo kích lại tiếp tục nhưng từ 25/10, Bắc Kinh thực thi chiến thuật “Bắn ngày lẻ, ngừng bắn ngày chẵn”, giảm dần sức tấn công. Tình hình đó kéo dài cho tới ngày 1/1/1979.
Kết quả của 21 năm đấu pháo ở vùng Kim Môn, Mã Tổ như thế nào? Số liệu mỗi bên công bố khác nhau khá nhiều.
Phía QDĐ cho biết: Tổng cộng TQ đã bắn khoảng 470 nghìn đạn pháo, phí tổn 47 triệu USD (1 viên trọng pháo giá khoảng 100 USD), tự làm hỏng 50 khẩu pháo (mỗi khẩu pháo chỉ bắn được 10.000 lần là hỏng), phí tổn 5 triệu USD. Phía QDĐ còn bắn rơi 30 máy bay MIG, bắn chìm 16 tàu phóng lôi, phá hủy 280 khẩu pháo, 23 kho đạn, 2 kho xăng dầu của đối phương. Tóm lại tổng phí tổn hơn 200 triệu USD, chưa kể thiệt hại về người và hạ tầng cơ sở…, nhưng GPQTQ chưa chiếm được hai đảo này.
......
Ngày 3/11, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố báo cáo sức mạnh quân sự Trung Quốc năm 2021 với nội dung là các dự đoán tập trung vào tình hình an ninh eo biển Đài Loan và cách thức bố trí quân sự của Trung Quốc. Báo cáo nhấn mạnh PLA có thể sử dụng vũ lực để thống nhất vào năm 2027, các lựa chọn hành động bao gồm đổ bộ quy mô lớn, chiếm các đảo bên ngoài Đài Loan, phong tỏa vùng trời và vùng biển trong thời gian dài, sử dụng lực lượng đặc công hoặc hacker của PLA để tấn công các cơ sở hạ tầng của Đài Loan… Đồng thời, báo cáo dự đoán rằng PLA sẽ ra sức ngăn chặn Mỹ can dự vào xung đột hai bờ eo biển để tránh rắc rối kéo dài. Nếu thực sự có bên thứ ba can dự, Trung Quốc có thể sẽ đe dọa sử dụng các cuộc tấn công mạng, chiến tranh không gian hoặc hạt nhân để giải quyết.
Tuy nhiên, mặc dù bản báo cáo này miêu tả tham vọng mạnh mẽ của PLA, nhưng thực tế lại không đánh giá cao thực lực tác chiến của PLA. Chẳng hạn, trong phần “đổ bộ chiếm đảo quy mô lớn”, Bộ Quốc phòng Mỹ cho rằng, động thái này không chỉ đòi hỏi sự tiếp tế quân sự và hậu cần mạnh mẽ, mà có thể dẫn đến sự can dự quốc tế. Ngay cả khi đổ bộ thành công, thì PLA cũng phải đối diện với chi phí chiến tranh đô thị, có thể gây nên rủi ro chính trị và quân sự nghiêm trọng đối với CT Tập Cận Bình.
Về kịch bản chiếm các đảo bên ngoài, Bộ Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh, việc đổ bộ lên các đảo vừa như Kim Môn và Mã Tổ có thể giúp PLA phô trương được sức mạnh quân sự và quyết tâm chính trị của mình, đồng thời có thể chiếm đóng trên thực tế. Tuy nhiên, động thái này sẽ kích động tâm lý đòi độc lập mạnh mẽ của Đài Loan cũng như lôi kéo sự can dự của quốc tế. Ngoài ra, các chi phí liên quan không thể xem nhẹ.
Tóm lại, bản báo cáo này cho rằng, trên cơ sở Trung Quốc liên tục tổ chức các cuộc tập trận quy mô lớn, PLA tiếp tục thúc đẩy xây dựng sức mạnh quân đội, rủi ro xung đột ở eo biển Đài Loan đang gia tăng. Tuy nhiên, Trung Quốc không thể hành động theo ý mình, thậm chí hành động này có thể khiến Trung Quốc tự chuốc vạ vào thân.
1. Xung đột eo biển Đài Loan năm 1958
18 giờ 30 phút ngày 23/8/1958, mấy trăm khẩu trọng pháo của Giải phóng quân Trung Quốc (GPQTQ) do MTĐ lãnh đạo bố trí trên chiều dài bờ biển 30 km ở Hạ Môn bất ngờ bắn những loạt đạn đầu tiên lên đảo Kim Môn do quân đội Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, mở đầu trận pháo kích lớn nhất lịch sử Trung Quốc. Trong 2 giờ liền, hơn 50 nghìn quả đạn dội xuống đối phương.
Nghe tin ấy, Tưởng Giới Thạch hôm trước vừa thị sát Kim Môn trở về Đài Bắc, chẳng hiểu MTĐ định làm gì. Tưởng điện ngay cho Tổng thống Mỹ Eisenhower đề nghị viện trợ, và bảo con trai là Tưởng Kinh Quốc đến ngay Kim Môn để động viên binh sĩ. Mỹ, Liên Xô và toàn thế giới sửng sốt, không biết Trung Quốc muốn gì? Giải phóng Đài Loan ư?
Quần đảo Kim Môn cách đại lục Trung Quốc chỗ gần nhất chừng 2 km; đảo chính Kim Môn rộng 132 km2, cách đảo Đài Loan 210 km nhưng cách thành phố Hạ Môn của Trung Quốc chỉ khoảng 10 km. Trên đảo hồi ấy có 50 nghìn dân và 100 nghìn lính QDĐ. Đòn đánh bất ngờ làm phía QDĐ thương vong hơn 600 lính, 3 viên Trung tướng chết, chưa kể dân thường. Ngoài ra còn 2 cố vấn Mỹ thiệt mạng.
Thực ra trước đó Kim Môn đã mấy lần bị GPQTQ tấn công.
Cuối năm 1949, sau khi giải phóng Hạ Môn, đêm 24/10, nhân lúc nước triều cao nhất, GPQTQ cho tàu thuyền chở quân đổ bộ lên Kim Môn. Đợt đầu đổ bộ lên đảo được 3 trung đoàn (hơn 9000 quân), nhưng sáng ra khi tàu thuyền quay về chở quân đợt hai thì thủy triều rút mạnh làm nhiều tàu thuyền bị mắc cạn, không thể chở thêm 11.000 lính của đợt 2 và 3. Số binh lính đã lên đảo bị quân QDĐ bao vây, phải chiến đấu trong tình trạng không có tiếp viện, hầu hết bị tiêu diệt hoặc bắt sống, một số tản ra đánh du kích, cuối cùng do hết đạn, hết lương thực, họ đành buông súng. Đến sáng 27/10, toàn bộ 9.086 binh sĩ GPQTQ bị tiêu diệt, trong đó hơn 7.000 quân đầu hàng. Trận đổ bộ Kim Môn kết thúc.
Đây là thất bại lớn chưa từng có của GPQTQ, chủ yếu do chủ quan khinh địch, nóng vội, không có tập luyện đổ bộ, và do không nắm vững tình hình thủy triều.
Rút kinh nghiệm thất bại trận đó, tháng 3/1950, GPQTQ tiến hành chiến dịch đổ bộ đảo Hải Nam theo chiến thuật đổ bộ lén từng đợt nhỏ kết hợp tổng tấn công, dùng hơn 40 nghìn quân đổ bộ thành công chiếm được đảo Hải Nam.
Việc Tưởng Giới Thạch thất bại liên tiếp, để mất đại lục rồi mất Hải Nam đã làm Tổng thống Truman có ý định bỏ rơi Tưởng. Ngày 5/1/1950 Truman tuyên bố “Không can thiệp tranh chấp ở eo biển Đài Loan” tuy vẫn viện trợ kinh tế cho Tưởng. Trong tình trạng không được Mỹ viện trợ quân sự, Tưởng sợ Mao Trạch Đông thừa thắng xông lên tấn công Đài Loan. Tưởng cử mật sứ sang Thượng Hải liên lạc với ************* Trung Quốc (ĐCSTQ), để lộ ý định Tưởng muốn QDĐ hợp tác với ĐCSTQ, thuyết phục Bắc Kinh tạm thời để Đài Loan được yên bình. Bắc Kinh đồng ý với đề nghị này, nhưng sau đó hy vọng “Quốc-Cộng hợp tác” bị chặn đứng vì bất ngờ Kim Nhật Thành làm nổ ra Chiến tranh Triều Tiên (25/6/1950).
Thấy rõ vai trò quan trọng của Đài Loan trong cuộc chiến này, Truman chuyển từ chính sách “Bỏ Tưởng” sang “Bảo vệ Tưởng”, phục hồi viện trợ quân sự cho Tưởng. Ngày 27/6, Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan. Để tập trung lực lượng vào chiến trường Triều Tiên, Mỹ không cho Tưởng gây sự với Bắc Kinh. Mao Trạch Đông cũng quyết định hoãn nhiệm vụ giải phóng Kim Môn và Đài Loan mà tập trung Kháng Mỹ viện Triều. Nhờ thế tình hình eo biển Đài Loan được yên tĩnh trong vài năm.
Năm 1952 Đài Loan trả về Trung Quốc hơn 3.000 tù binh GPQTQ. Họ đều bị tước đảng tịch và quân tịch, đuổi về quê làm ruộng, một số bị ra tòa. Các tù binh còn lại đều xin ở lại Đài Loan.
Tháng 7/1953, Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Trung Quốc lập tức đẩy mạnh xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ đưa không quân vào tỉnh Phúc Kiến, chuẩn bị tấn công Đài Loan.
Ngày 3/9/1954, GPQTQ bất ngờ pháo kích Kim Môn liên tục cho tới 22/9. Ngày 18/11/1954, lại dùng lục quân, hải quân, không quân với binh lực áp đảo tấn công đảo Nhất Giang Sơn, một đảo nhỏ ở gần cửa sông Tiêu Giang tỉnh Chiết Giang, do QDĐ chiếm giữ; ngày 18/1/1955 chiếm được đảo này. Trong tình hình đó, tháng 2/1955, chính quyền QDĐ rút quân ra khỏi đảo Đại Trần, một đảo nhỏ rộng 13,6 km2, cách đảo Nhất Giang Sơn 11 km. Sau đó GPQTQ chiếm Đại Trần.
Cho là Bắc Kinh muốn dùng vũ lực giải phóng Đài Loan, tháng 12/1954, Mỹ và chính quyền Tưởng Giới Thạch ký “Hiệp ước Phòng ngự chung Mỹ-Trung [Đài Loan]”. Sau đó hạm đội 7 được điều đến eo biển Đài Loan. Một số nghị sĩ Mỹ hô hào dùng bom nguyên tử ngăn cản Trung Quốc đánh Đài Loan. Tổng thống Eisenhower chủ trương dùng luật pháp để trung lập hóa Đài Loan, như để Đài Loan do quốc tế quản trị hoặc Liên Hợp Quốc ủy quyền cho một quốc gia nào đó quản trị (chế độ ủy trị). Viện lý do trong Hiệp ước Phòng ngự chung Mỹ-Đài Loan, phần định nghĩa về lãnh thổ của chính quyền QDĐ không nói đến hai đảo Kim Môn, Mã Tổ, Eisenhower khuyên Tưởng Giới Thạch bỏ hết các đảo nhỏ gần đại lục TQ, chỉ giữ hai quần đảo lớn là Đài Loan và Bành Hồ để tiện quản lý.
Nhưng Tưởng phản đối chủ trương đó. Mặc cho Mỹ dọa cắt giảm viện trợ, Tưởng chỉ chịu bỏ hai đảo nhỏ (Nhất Giang Sơn và Đại Trần) mà vẫn tăng quân đóng ở hai đảo Kim Môn, Mã Tổ. Mâu thuẫn Mỹ-Tưởng căng thẳng tới mức dân Đài Bắc biểu tình đập phá Sứ quán Mỹ. Về sau Eisenhower phải nghe theo Tưởng, tăng cường viện trợ Đài Loan.
Năm 1958, trong không khí cả nước Trung Quốc phấn khởi tiến hành xây dựng CNXH theo “Đường lối chung”, phong trào Công xã nhân dân, Đại Nhảy vọt… báo đài Trung Quốc ra sức tuyên truyền chủ trương “Đánh chiếm Kim Môn, Mã Tổ, dùng vũ lực giải phóng Đài Loan”. Ngày 23/8 MTĐ nói: Ta yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Đài Loan, Tưởng rút quân khỏi Kim Môn, Mã Tổ. Mi không rút, ta sẽ đánh; ta pháo kích thì Mỹ mới đồng ý quay lại dự cuộc hội đàm Trung Quốc-Mỹ cấp Đại sứ.
Chập tối hôm đó, pháo binh GPQTQ tập trung bắn phá các mục tiêu quân sự ở Kim Môn, phong tỏa vùng biển quanh đảo nhằm cắt đường tiếp tế. Ngoài ra tàu chiến và máy bay hai bên cũng nhiều lần chạm trán nhau. Thời gian đầu, quân QDĐ bị động, phản kích muộn. Sau khi được Mỹ cho tàu chiến tới hộ tống các tàu tiếp tế, và viện trợ 6 khẩu pháo tự hành tầm xa M55 (203 mm), 6 lựu pháo M2, quân QDĐ Kim Môn đã gây thiệt hại nặng cho đối phương, làm tê liệt hoạt động của ga xe lửa Hạ Môn.
Có thể vì việc pháo kích ngày càng kém hiệu quả nên ngày 6/10/1958, Bắc Kinh công bố “Thư gửi đồng bào Đài Loan”, tuyên bố ngừng bắn 7 ngày, bãi bỏ phong tỏa hai đảo Kim Môn, Mã Tổ. Hết thời hạn, pháo kích lại tiếp tục nhưng từ 25/10, Bắc Kinh thực thi chiến thuật “Bắn ngày lẻ, ngừng bắn ngày chẵn”, giảm dần sức tấn công. Tình hình đó kéo dài cho tới ngày 1/1/1979.
Kết quả của 21 năm đấu pháo ở vùng Kim Môn, Mã Tổ như thế nào? Số liệu mỗi bên công bố khác nhau khá nhiều.
Phía QDĐ cho biết: Tổng cộng TQ đã bắn khoảng 470 nghìn đạn pháo, phí tổn 47 triệu USD (1 viên trọng pháo giá khoảng 100 USD), tự làm hỏng 50 khẩu pháo (mỗi khẩu pháo chỉ bắn được 10.000 lần là hỏng), phí tổn 5 triệu USD. Phía QDĐ còn bắn rơi 30 máy bay MIG, bắn chìm 16 tàu phóng lôi, phá hủy 280 khẩu pháo, 23 kho đạn, 2 kho xăng dầu của đối phương. Tóm lại tổng phí tổn hơn 200 triệu USD, chưa kể thiệt hại về người và hạ tầng cơ sở…, nhưng GPQTQ chưa chiếm được hai đảo này.
......