Ngày 13 tháng 6 năm 1801.
Hay tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Quang Thùy vội vã điều 64 tàu chiến từ BẮc HÀ vào cứu nguy cho CẢnh Thịnh, dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền có trang bị đại bác của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực của quân Nguyễn.
Cảnh Thịnh nghe tin có tiếp viện, cũng tự mình mang đại quân ra cửa Thuận An chống với quân Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân, nhưng chưa giao chiến, thấy khí thế quân Nguyễn mạnh quá, Thịnh bỏ hết cả mũ áo, gươm lệnh mà chạy.
SÁng sớm hôm đó, Nguyễn Ánh ra lệnh thừa thắng tấn công các chiến thuyền Tây Sơn mà Quang Thùy vừa gửi vào tiếp viện, các sĩ quan Tây tham chiến mô tả:
" Suốt ngày, quân sĩ sửa soạn đánh các đồn lũy khác. Nhưng trong dòng sông, địch có 9 chiếc tàu thuộc hải-quân gồm 65 tàu đã từ Đàng Ngoài vào và thả neo trong bến từ đêm hôm 10; các tàu khác ở cách xa quân đội chúng tôi hai dặm nhưng nhờ tốc-độ cao nên đã chạy thoát. Ngoài số 1o tàu, địch còn có 14 chiến thuyền với nhiều pháo-hạm đặt dưới quyền chỉ-huy của Tư-mã Nội và đầy nhóc quân. Chúng tôi đứng trong đài ngắm sẵn ống viễn kính và thấy rõ mặt của những tuớng sĩ chủ-động. Vào khoảng 10 giờ sáng thì hàng tiên-phong của chúng tôi gồm các pháo-hạm do Đại tá liên đội Phấn-đức chỉ-huy tiến tới tầm súng của pháo-binh địch; hải-quân địch thả neo đậu theo hình lưỡi liềm dưới sự bảo vệ của các pháo-đội bắn giao xạ (chéo nhau);những chiến-thuyền của chúng tôi từ từ tiến và mò đường vì không thông tỏ lòng sông bấy giờ cạn nước lại trùng lúc triều xuống. Chúng tôi thấy các pháo-hạm địch chuyển động và đếm được 27 chiếc, họ tiến về phía chiến-thuyền của chúng tôi. Tướng địch mà người ta nhận ta được nhờ pháo-hạm và hạm kỳ bằng lụa đỏ treo trên ngọn cột buồm dựng ở phía trước. Ngọn cờ ấy cứ phấp phới bay như muốn thóc giục quân sĩ.
Nguyễn- Vương chưa kịp tỏ nỗi kinh-hoàng. Đại tá chỉ huy liên-đội Phấn-đức không bắn qua một phát súng vào, xông vào áp mạn các pháo-hạm. Bấy giờ chúng tôi chứng kiến-một trận kịch-chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu; các đồn địch nổ súng bừa bãi, chẳng phân biệt nỗi tàu nhà vói tàu thù. Nhưng chỉ trong vòng năm phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng ( cờ quân Nguyễn) thay thế ngọn cờ đỏ ( cờ Tây Sơn) trên cột buồm.
Trong khoảng thời gian ấy, các chiến-thuyền và đoàn pháo-hạm của chúng tôi tiến tới; chúng tôi thấy tất cả đều xông vào áp mạn các thuyền và tàu địch; rồi họ đổ bộ ở chân đồn xông lên công phá. Đến trưa, khắp nơi đều im lặng. Lửa cháy trên nhiều tàu bày ra một quang-cảnh duyệt- mục; bãi cát đối diện với nơi hải-quân chúng tôi thả neo đông nghẹt người đào tẩu vừa tầm mắt thấy rõ.
Nguyễn-Vương đã ngược dòng sông cùng với toàn thể quân-đội và hồi 3 giờ chiều thì tới bến tiếp-giáp với hoàng-cung của tiên-tổ. Dân cư phủ-phục ở bờ sông như chờ- nghe phán-quyết do Thắng-Vương sắp tuyên-đọc. Trong cảnh im lặng như tờ, họ hồi-tưởng những vụ đã làm mích lòng chúa Nguyễn mà kinh sợ và khó bề yên tâm."
Hay tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Quang Thùy vội vã điều 64 tàu chiến từ BẮc HÀ vào cứu nguy cho CẢnh Thịnh, dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là “Noe”. Hai mươi bảy thuyền có trang bị đại bác của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực của quân Nguyễn.
Cảnh Thịnh nghe tin có tiếp viện, cũng tự mình mang đại quân ra cửa Thuận An chống với quân Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân, nhưng chưa giao chiến, thấy khí thế quân Nguyễn mạnh quá, Thịnh bỏ hết cả mũ áo, gươm lệnh mà chạy.
SÁng sớm hôm đó, Nguyễn Ánh ra lệnh thừa thắng tấn công các chiến thuyền Tây Sơn mà Quang Thùy vừa gửi vào tiếp viện, các sĩ quan Tây tham chiến mô tả:
" Suốt ngày, quân sĩ sửa soạn đánh các đồn lũy khác. Nhưng trong dòng sông, địch có 9 chiếc tàu thuộc hải-quân gồm 65 tàu đã từ Đàng Ngoài vào và thả neo trong bến từ đêm hôm 10; các tàu khác ở cách xa quân đội chúng tôi hai dặm nhưng nhờ tốc-độ cao nên đã chạy thoát. Ngoài số 1o tàu, địch còn có 14 chiến thuyền với nhiều pháo-hạm đặt dưới quyền chỉ-huy của Tư-mã Nội và đầy nhóc quân. Chúng tôi đứng trong đài ngắm sẵn ống viễn kính và thấy rõ mặt của những tuớng sĩ chủ-động. Vào khoảng 10 giờ sáng thì hàng tiên-phong của chúng tôi gồm các pháo-hạm do Đại tá liên đội Phấn-đức chỉ-huy tiến tới tầm súng của pháo-binh địch; hải-quân địch thả neo đậu theo hình lưỡi liềm dưới sự bảo vệ của các pháo-đội bắn giao xạ (chéo nhau);những chiến-thuyền của chúng tôi từ từ tiến và mò đường vì không thông tỏ lòng sông bấy giờ cạn nước lại trùng lúc triều xuống. Chúng tôi thấy các pháo-hạm địch chuyển động và đếm được 27 chiếc, họ tiến về phía chiến-thuyền của chúng tôi. Tướng địch mà người ta nhận ta được nhờ pháo-hạm và hạm kỳ bằng lụa đỏ treo trên ngọn cột buồm dựng ở phía trước. Ngọn cờ ấy cứ phấp phới bay như muốn thóc giục quân sĩ.
Nguyễn- Vương chưa kịp tỏ nỗi kinh-hoàng. Đại tá chỉ huy liên-đội Phấn-đức không bắn qua một phát súng vào, xông vào áp mạn các pháo-hạm. Bấy giờ chúng tôi chứng kiến-một trận kịch-chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu; các đồn địch nổ súng bừa bãi, chẳng phân biệt nỗi tàu nhà vói tàu thù. Nhưng chỉ trong vòng năm phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng ( cờ quân Nguyễn) thay thế ngọn cờ đỏ ( cờ Tây Sơn) trên cột buồm.
Trong khoảng thời gian ấy, các chiến-thuyền và đoàn pháo-hạm của chúng tôi tiến tới; chúng tôi thấy tất cả đều xông vào áp mạn các thuyền và tàu địch; rồi họ đổ bộ ở chân đồn xông lên công phá. Đến trưa, khắp nơi đều im lặng. Lửa cháy trên nhiều tàu bày ra một quang-cảnh duyệt- mục; bãi cát đối diện với nơi hải-quân chúng tôi thả neo đông nghẹt người đào tẩu vừa tầm mắt thấy rõ.
Nguyễn-Vương đã ngược dòng sông cùng với toàn thể quân-đội và hồi 3 giờ chiều thì tới bến tiếp-giáp với hoàng-cung của tiên-tổ. Dân cư phủ-phục ở bờ sông như chờ- nghe phán-quyết do Thắng-Vương sắp tuyên-đọc. Trong cảnh im lặng như tờ, họ hồi-tưởng những vụ đã làm mích lòng chúa Nguyễn mà kinh sợ và khó bề yên tâm."