[Funland] Nhà Tây Sơn - Đỉnh- cao và sụp -đổ

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Năm 1752 thì không thể là năm Quý Dậu
Can Quý có đuôi số 3 nên phải là năm 1753 cụ ạ
Em không thạo mấy cái này lắm, nhưng mà gúc ra được cái này:

Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792) Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai

Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu -1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang
 

HuyArt

Xe lăn
Biển số
OF-85656
Ngày cấp bằng
18/2/11
Số km
12,624
Động cơ
566,530 Mã lực
Em không thạo mấy cái này lắm, nhưng mà gúc ra được cái này:

Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792) Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai

Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu -1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang
Wikipedia là mã nguồn mở, và nó có thể sai là chuyện rất thường, do người tải lên cụ ạ
1752 là Nhâm Thân, 1753 là Quý Dậu cụ ạ
 
Chỉnh sửa cuối:

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Wikimedia là mã nguồn mở, và nó có thể sai là chuyện rất thường, do người tải lên cụ ạ
1752 là Nhâm Thân, 1753 là Quý Dậu cụ ạ
https://www.wattpad.com/364390-quang-trung-nguyễn-huệ-1752-1792
http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/quangtrung.htm
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.

http://www.hodangbinhnghi.com/index.php?id=32
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Trong khi Nguyễn Ánh lao mình chạy trốn khắp nơi như vậy thì một số tướng lĩnh của nhà Nguyễn còn ẩn náu được ở miền Gia Định. Đỗ Thanh Nhân, thủ lĩnh quân Đông Sơn, trước đây chịu lệnh của Nguyễn Phúc Thuần ra Bình Thuận gặp Chu Văn Tiếp xin quân cứu viện, nhưng việc không thành. Quân cứu viện do Trần Văn Thức chỉ huy đã bị tiêu diệt ngay từ khi còn ở trong địa phận Bình Thuận. Mà quân còn lại của Chu Văn Tiếp thì quá ít không dám tiến xuống Gia Định. Khi thấy dạy quân của Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn, Chu Văn Tiếp mới cho em rể là Lê Văn Quân và một số tùy tướng đi cùng Đỗ Thanh Nhân về Gia Định hoạt động. Đỗ Thanh Nhân và bọn Lê Văn Quân lại tới Ba Giòng là căn cứ cũ của quân Đông Sơn để mộ quân. Trong khi mộ quân, Đỗ Thanh Nhân một mặt cho người đi tìm bọn bại tướng của nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Dương Công Trừng, Hồ Văn Lân đang lẩn trốn ở các nơi, đem tàn binh về hội quân. Một mặt, Đỗ Thanh Nhân cho quân ra Thổ Châu - đón Nguyễn Ánh về. Cuối tháng Mười năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Ánh về tới nơi.

Tháng Một âm lịch, bọn Đỗ Thanh Nhân mở cuộc tiến công vào quân Tây Sơn và đánh chiếm được dinh Long Hồ. Tháng Chạp âm lịch, bọn Đỗ Thanh Nhân đánh chiếm được Gia Định. Các tướng Tây Sơn ở Gia Định phải chạy về Qui Nhơn.
Tháng Hai năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Nhạc cho quân theo hai đường thủy bộ vào đánh quân Nguyễn. Tổng đốc Tây Sơn là Chu chỉ huy thủy quân tiến vào đánh phá các miền ven sông ở Biên Hòa và Gia Định. Hộ giá Tây Sơn Phạm Ngạn đem bộ binh đánh xuống Biên Hòa. Nhưng cả hai đạo quân đều không thắng lợi. Tới tháng Năm âm lịch, cả hai đạo quân đều rút về Qui Nhơn. Đã mất Gia Định, Tây Sơn lại mất thêm Bình Thuận.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Nhận thấy chưa thể giải quyết ngay được vấn đề Gia Định và cần phải có thời gian xây dựng hậu phương, tăng cường lực lượng, các lãnh tụ Tây Sơn quyết định ngừng những cuộc tiến công hàng năm vào Gia Định cho tới khi có đầy đủ điều kiện chiến thắng.

Về phía đối phương, cũng trong thời gian này, Nguyễn Ánh đã có cơ hội thuận lợi để xây dựng lực lượng và tiến tới mưu đồ tiến công lại nghĩa quân Tây Sơn. Đầu năm 1781, Nguyễn Ánh đã có ba vạn quân thủy bộ, 80 thuyền chiến hạng vừa, 3 thuyền chiến lớn[1], 2 chiếc tàu kiểu Âu châu và 3 tàu Bồ Đào Nha do các sĩ quan và thủy thủ Bồ Đào Nha điều khiển, cả 3 tàu này đều đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là cai cơ Mạn Hòe (Manuel)[2]. Nhưng vì nội bộ có nhiều xung đột về quyền lợi, địa vị, nên bọn Nguyyễn Ánh không đủ sức tiến công quân Tây Sơn. Tháng Ba năm Tân Sửu (1781) Nguyễn Ánh ám sát Đỗ Thanh Nhân, người đã lấy lại đất Gia Định cho hắn, đem hắn từ đảo Thổ Châu về Gia Định, đăt hắn lên ngôi chúa. Đỗ Thanh Nhân đã tô nặn cho Nguyễn Ánh từ một đứa trẻ 16 tuổi trở thành một ông chúa, có quân, có đất, có quyền thống trị. Vậy mà Nguyễn Ánh giết Đỗ Thanh Nhân. Nguyễn nhân chỉ vì Nguyễn Ánh lo sợ uy quyền của Đỗ Thanh Nhân sẽ ảnh hưởng không lợi tới địa vị và quyền hành của hắn. Khi Đỗ Thanh Nhân bị giết chết, các thuộc tướng của Đỗ Thanh Nhân và quân Đông Sơn lập tức nổi dậy chống lại Nguyễn Ánh và các tướng lĩnh thân cận của Nguyễn Ánh. Cuộc xung đột đã làm cho cả hai bên hao binh tổn tướng khá nhiều và làm cho lực lượng của Nguyễn Ánh bị suy sút nghiêm trọng.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Tháng Năm năm Tân Sửu (l781), Nguyễn Ánh cử binh tiến đánh quân Tây Sơn tại Bình Khang (tức Khánh Hoà ngày nay, cách Nha Trang 11 kí-lô-mét).
Ba đạo quân được điều động. Hai đạo bộ binh do Chu Văn Tiếp và Tôn Thất Dụ chỉ huy, từ Bình Thuận, Phú Yên chuyển sang tiến công. Một đạo thủy quân đo Tống Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy, Dương Công Trừng chỉ huy, xuất phát từ Gia Định phối hợp với bộ binh đánh Bình Khang và chặn đánh thuỷ quân ứng cứu của Tây Sơn.
Quân Nguyễn tiến sát Bình Khang. Đạo Quân Chu Văn Tiếp đóng tại Diên Khánh (cách Bình Khang 2 ki-lô-mét). Đạo quân Tôn Thất Dụ đóng tại Hòn Khói (cách Nha Trang 40 ki-lô-mét). Quân Nguyễn đào công sự, đáp lũy đối
diện với quân Tây Sơn [1].
Tại Bình Khang quân Tây Sơn có một đội tượng binh khá lớn. Khi quân Nguyễn tới nơi, chưa kịp khiêu chiến thì quân Tây Sơn đã tiến công trước. Quân Tây Sơn cho toàn đội voi chiến xung trận, quân Nguyễn hoảng sợ, bỏ chạy hỗn loạn. Quân Tây Sơn đuổi đánh dồn đập. Trong tình hình nguy ngập đó, đạo thủy quân của Tống Phước Thiêm ở Gia Định lại không ra được, vì quân Đông Sơn ở Ba Giòng nổi loạn. Quân tướng nhà Nguyễn ở Gia Định cũng đương thất bại nặng nề trước sự tiến công của quân Đông Sơn.
Thấy không thể ngăn chặn được sức đánh đuổi mãnh liệt của quân Tây Sơn ở Bình Khang, Tôn Thất Dụ đành phải đem tàn quân chạy về Bình Thuận, còn Chu Văn Tiếp thì đem quân theo đường núi chạy về Trà Lang là căn cứ cũ ở Phú Yên để chờ thời cơ hoạt động.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
âm mưu đánh chiếm Bình Khang của Nguyễn Ánh như thế là hoàn toàn thất bại.
Sau thắng lợi Bình Khang, các lãnh tụ Tây Sơn thấy không thể để yên cho Nguyễn Ánh phát triển lực lượng và đặt ách thống trị lâu dài ở Gia Định.
Tháng Ba năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy một đạo bộ binh và một đạo thủy quân [1] gồm vài trăm thuyền chiến [2] xuất phát từ Qui Nhơn tiến đánh Gia Định. Thủy quân đi thẳng vào cửa biển
Cần Giờ.
Lần này, Nguyễn Ánh đã chuẩn bị sẵn sàng đối phó [3]. Khi được tin thủy quân Tây Sơn đã tiến vào cửa biển Cần Giờ, Nguyễn Ánh hạ lệnh cho Tống Phước Thiêm đưa thủy quân ra nghênh chiến. Đạo thủy quân này của Nguyễn Ánh gồm hơn 400 [4] thuyền chiến và có một số tàu của Pháp và Bồ Đào Nha tham dự [5]. Tống Phước Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng ngang ở Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang). Kế hoạch của quân Nguyễn là chặn đứng và đánh tan thủy quân Tây Sơn tại Ngã Bảy.
Nhưng mặc cho thuyền chiến quân Nguyễn bắn chặn dữ dội, thủy quân Tây Sơn đang trên chiều thuận gió, vẫn ào ạt tiến lên và tiến công rất mạnh.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
Nguyễn Huệ chỉ huy thủy quân dũng cảm tiến sát thuyền chiến địch và tung hoả công đánh phá [1]. Trận thủy chiến diễn ra rất ác liệt. Trước sức mạnh của thủy quân Tây Sơn và tài chỉ huy của Nguyễn Huệ, các thuyền chiến của Nguyễn Ánh phải lui dần. Thủy quân Tây Sơn vẫn bám sát thuyền chiến địch và tập trung hỏa lực bắn phá rất dữ dội. Những tàu Bồ Đào Nha và Pháp đều bỏ chạy [2].
Chỉ còn lại một tàu kiểu châu Âu có 10 đại bác[3] do cai cơ[4] pháp Mạn Hòe (Manuel) chỉ huy. Nguyễn Ánh bỏ thuyền, lên tàu để điều khiển cuộc rút lui. Nhưng thủy quân Tây Sơn đuổi rát quá, Nguyễn Ánh lại phải bỏ tàu[5] xuống thuyền nhẹ để chạy nhanh vào bờ. Chiếc tàu của Mạn Hòe bị hãm trong vòng vây của thuyền chiến Tây Sơn. Mặc dù Mạn Hòe cố sức chống cự, thuyền chiến Tây Sơn vẫn bao vây chặt. Cuối cùng chiếc tàu Tây bị đốt cháy và đánh đắm. Tên tướng Pháp Mạn Hòe tử trận.
 

Krupta

Xe điện
Biển số
OF-365995
Ngày cấp bằng
8/5/15
Số km
2,312
Động cơ
278,530 Mã lực
cũng lúc đó, Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy một đội thuyền chiến đến cứu viện, nhưng bị hỏa lực trên thuyền chiến Tây Sơn chặn đánh rất dữ dội. Thuyền của Nguyễn Ánh bị bắn gãy cột buồm. Nguyễn Ánh phải rút chạy về Bến Nghé.
Bến Nghé là một đồn quân ở phía nam thành Gia Định (trên đường đi Chợ Lớn ngày nay). Nguyễn Ánh rút quân về Bến Nghé là nhằm mục đích tìm nơi an toàn và thuận lợi đối phó với nghĩa quân Tây Sơn. Trước Bến Nghé là thành Gia Định, trong đó vẫn có quân Nguyễn đóng giữ, làm bình phong bảo vệ cho Bến Nghé. Phía bắc thành Gia Định có một đồn tiền tiêu là đồn Thị Nghè khá kiên cố.
Đồn này lập tại một địa điểm trên ngã ba sông Thị Nghè và có thể khống chế tất cả mấy ngả sông Thị Nghè và sông Gia Định. Do đấy, đồn Thị Nghè che chở cho thành Gia Định rất kín đáo. Đồn này được lập từ năm 1772 , có một chiến lũy lớn, chu vi 15 dặm, tức khoảng 7 ki-lô-mét [1]. Năm 1780, chiến luỹ Thị Nghè lại được làm bằng thân cây dừa ken với nhau, ngoài đắp đất [2]. Thời bấy giờ chiến lũy làm bàng thân cây dừa hay cây cọ, đặt xen vào nhau, được coi như là bất khả xâm phạm [3] , súng thường và cả đại bác bắn đều không suy xuyển vì thân cây dừa, gỗ xốp, không bị đạn bắn vỡ, mà trái lại, đạn bị thân cây dừa giữ chặt, không xuyên qua và lọt ra ngoài được.
 

Nokfev

Xe cút kít
Biển số
OF-188258
Ngày cấp bằng
4/4/13
Số km
16,314
Động cơ
521,505 Mã lực
Tuổi
47
Nơi ở
Trương Định phố , Hoàng Mai quận , Hà Nội tỉnh ...
Website
www.nhattao.com
Cụ doctor76 bốt cà giựt quá :( Em mạn phép tổng hợp cho các cụ nhảy lầu đỡ phải lội page ;))
Vài lời phi-lộ:
Các cụ OF cũng như cá-nhân em, rất thích tìm hiểu lịch-sử nước nhà.
Sau thời gian dài chuẩn bị tài-liệu, dịch, biên- tập, em xin mở thớt nói về nhà Tây Sơn, đây là giai đoạn nước ta có nhiều biến- động về chính -trị, đời- sống nhân- dân..
Thời gian trong phạm- vi thớt, em xin bắt đầu từ giai- đoạn chúa Trịnh Sâm ở Đàng ngoài và chúa Nguyễn Phúc Thuần ở Đàng trong cho đến khi vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn, thống- nhất đất nước đồng thời với cuộc trả -thù tàn -bạo con cháu nhà Tây Sơn, năm 1802.

Sử- liệu viết về giai- đoạn này nhiều, nhưng em hầu như không sử dụng sử trong nước, mà sử dụng chủ yếu tài- liệu các giáo sỹ phương Tây có mặt tại Vn hồi ấy, hiện lưu giữ rất nhiều tại Văn khố hội truyền giáo Paris ( Archives de Mission Etrangères de Paris) và Văn khố dòng Tên, dòng Đa-minh lưu giữ tại thư viện Vatican.
Ngoài ra cũng có tham khảo một số tài liệu của Trung Quốc.

Xin nhiệt tình vodka các cụ bổ xung thêm thông tin, sử liệu cho thớt.
Từ năm 1627 đến năm 1672, sau trong 46 năm ròng rã, hai bên Trịnh - Nguyễn đánh nhau lớn bảy lần và một số lần đánh nhau quy mô nhỏ hơn. Chiến- trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ An, Hà TĩnhQuảng Bình ngày nay.

Tất nhiên, chúa Trịnh không dám " đốt cháy dãy Trường Sơn" mà oánh chúa Nguyễn, cũng như chúa Nguyễn không dại gì lấp sông Gianh để " Bắc tiến" thành ra 2 bên coi như hòa -hoãn cùng mang khẩu hiệu "Phù Lê".

Sông Gianh, sử sách hay gọi là Linh Giang, trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng TrongĐàng Ngoài.
Miền Bắc ( Đàng NGoài) thời các chúa Trịnh phải nói tương đối yên -bình, các chúa Trịnh trị -nước giỏi, sống có điều- độ, nên có tuổi thọ cao, các chúa một mặt tuy có áp- chế các vua Lê, nhưng vẫn giữ lễ Quân- Thần, các chúa khi vào chầu vua Lê vẫn mặc quan phục màu Tím, chứ không phải màu vàng như phim -ảnh các cụ thường xem.
Đời sống nhân dân ổn- định, kinh thành Thăng Long là một thành phố lớn, sầm- uất không kém thủ đô các nước Châu Âu cùng thời.
Ngoại- thương cũng phát- triển, đặc- biệt ở Phố Hiến, Thăng Long và thương cảng Vân Đồn, các chúa Trịnh thực hiện chính -sách mềm- dẻo, các hiệu buôn của Anh, Bồ Đào Nha,Hà Lan, Nhật, Ý san- sát.

Về lãnh- thổ, không xảy ra tranh- chấp hay chiến- tranh gì với nhà Thanh, lúc đó đang rất mạnh, chứng tỏ đường- lối đối -ngoại vừa cứng- rắng, vừa khôn- khéo của các chúa Trịnh là rất tốt.

Nhân dân miền Bắc được hưởng thái -bình khoảng 100 năm
Trong khi đó ở Đàng Trong ( miền Nam) các chúa Nguyễn vẫn không ngừng mở -rộng lãnh -thổ Đại Việt, các chúa vẫn xưng tước Công, nhận là Quân thần nhà Lê.

Sự việc bắt đầu rắc- rối khi nhà Thanh tiêu- diệt nhà Minh, nhiều thần dân, quan lại, tướng tá nhà Minh người Hán không phục nhà Thanh, bắt đầu tràn xuống nước ta, ở ngoài Bắc, chúa Trịnh vì gần lửa rát mặt nên không dám thu- nhận nhiều, đám dân Hoa Kiều này bèn vượt biển chạy xuống phương Nam nước ta, được chúa Nguyễn thu- nhận, gọi là người Minh Hương, đến năm 1780, số Hoa Kiều đã chiếm gần 1/3 dân số Đàng Trong.

Dân Hoa Kiều nắm dần kinh -tế, hố-i lộ các quan Đàng Trong, thu nhiều mối lợi, đặc- biệt văn -hóa TQ bắt đầu có ảnh hưởng mạnh đến tầng lớp cai- trị. Manh nha xuất hiện mâu- thuẫn giữa người Việt và người Hoa
TRịnh Sâm, chúa Trịnh thứ 9 ( 1739-1782) là người bắt đầu làm cho Đàng Ngoài suy tàn dần.
Nếu như cha ông, chúa Trịnh DOanh, là người tài -giỏi, trị nước, an- dân, kính vua tốt, thì Trịnh Sâm, tuy thông -minh, giỏi văn thơ, tài võ -nghệ, nhưng lại đắm chìm sắc- dục bằng việc sủng- ái Đặng Thị Huệ, giết thái tử Lê Duy Vỹ.

Đặc biệt, việc chúa phế con trưởng Trịnh Khải, lập con của Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán làm Thế tử đã làm nạn kiêu binh xuất hiện.
Quan trọng hơn, chúa đã phá vỡ nền hòa bình 100 năm với Đàng Trong, bằng việc đánh vào Thuận Hóa năm 1774.

Từ đây, đất nước bắt đầu loạn lạc.
Sau sự kiện ở Thuận Hóa, chúa Trịnh đã giành khỏi tay chúa Nguyễn một vùng đất rộng- lớn. Nhưng cũng kể từ đó, chính quyền Lê-Trịnh tiếp tục lún sâu vào lục đục, suy yếu; chúa Trịnh Sâm ngày một sa- đọa, bỏ- bê việc nước, gian- thần Hoàng Đình Bảo thừa cơ lộng- hành, cùng với Đặng Thị Huệ mưu giết Trịnh Khải.
Năm, 1776, Miền Bắc gặp hạn- hán, mất- mùa, dân bị đói, giá gạo cao, mà ruộng chiêm thì khô -nẻ, công việc làm ruộng không được tiện lợi. Người giàu phải xin làm thuê hoặc vay mượn mà sống, họ hợp nhau ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp. Nhân dân không được yên- nghiệp làm ăn như trước.
Các giáo sĩ mô tả: ngoài đói, dân ta ở các tỉnh Nghệ An ( bây giờ) Hải Dương còn dính bệnh dịch hạch, người chết đến 3/4 có làng. Thây người chết nằm chồng lên nhau...

Đã thế, Trịnh Sâm lại có ý cướp ngôi nhà Lê, nhân gặp kỳ tuế cống năm 1777, Sâm làm tờ biểu mật- tâu với nhà Thanh nói:
-Nhà Lê không có người con cháu nào hiền -tài.

Trịnh Sâm cho người sang nhà Thanh cầu phong Vương, nhưng quên mất là nhân dân cả nước, dù gì, vẫn còn rất tôn- phù nhà Lê, nên 2 viên quan này sang đến TQ, đều tự-tử và đốt bỏ tờ biểu.
Vài hình ảnh về thời đó để các cụ cùng xem

Chúa Trịnh Sâm uống trà với Đặng Thị Huệ ở Tả Vọng Đình ( Hồ Gươm)




Cảnh trong phủ chúa Trịnh, xin lưu -ý các cụ là chính -quyền hồi ấy tạm hiểu thế này:

Quá trình lập ra Ngũ phủ (ban võ) và Phủ liêu (Ban văn) cùng các cơ- quan giúp việc (Lục phiên) là một quá- trình thâu -tóm quyền hành từ cung vua về phủ chúa. Triều -đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư- hàm làm nhiệm- vụ nghi- thức.

Về danh- nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng vương và đứng đầu Ngũ phủ, Phủ liêu nhưng trên thực tế lại nắm hết quyền điều- hành việc nước
Vua Lê làm vua, nhưng không có thực- quyền, triều đình vẫn có các bộ : Công, Binh, Hình, Lễ, Hộ, Lại..đứng đầu các bộ vẫn là quan Thượng Thư nhưng chỉ làm hư -danh. Thực- quyền bên phủ chúa là phủ -liêu gọi là Lục phiên:Binh phiênHộ phiên đặt từ trước, sau đó đặt thêm Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, tương đương 6 Bộ của triều đình vua Lê (Thủy sư phiên thuộc về Binh phiên). Kể từ lúc này, toàn bộ việc tiền- tài, thuế -khóa, việc quân, việc dân đều thuộc cả về các phiên ty


Cảnh rước các chúa Trịnh ( tranh do các họa sỹ Tây vẽ)





Quân đội thời Lê -Trịnh



Xa giá vua Lê




Thương cảng Vân Đồn thời Lê -Trịnh




1 đám rước ( có lẽ đàng Ngoài)


Miền Bắc vào những năm cuối cùng của nhà Lê là một khu vực nghèo -khổ, nhiều nơi mất -mùa, đói- kém.

Theo lá thư của Lefro gửi cho Bandin thì “… mùa này tháng Mười (âm lịch) năm 1788 đã bị mất vì đại hạn vào mùa hè năm trước. Gạo cũ còn lại của mùa trước thì bị vơ vét vào kho lương địch thành thử ngay cả lái buôn cũng chết đói [có cả bệnh dịch nữa]
Người dân lại bị tham- quan- nhũng- nhiễu, sưu- cao thuế- nặng nên có làng chết mất đến một nửa hay ba phần tư, những người còn lại thì đều bị bắt lính cả. Những tỉnh địa đầu như Thanh Nghệ còn bi- đát hơn. Tình hình đó không phải chỉ một vài tháng mà kéo dài nhiều năm khiến chúng ta hiểu được rằng trong hoàn cảnh nhiễu- nhương, người dân gần như không còn biết gì đến những thay đổi thượng- tầng mà chỉ mong đợi một chính- quyền ít hà- khắc...."


Theo số -liệu do các giáo-sĩ thu -thập và phỏng -đoán, vào đầu thế kỷ XIX, 11 đạo ở miền Bắc có tổng cộng 9,445 xã 578,400 suất đinh, dân số miền Bắc ước lượng khoảng từ 5 đến 6 triệu người, trong khi dân số miền Nam chỉ chừng non 1 triệu người Việt, còn lại là người Hoa và người Chăm Pa và các sắc- tộc thiểu số.

Những con số này dĩ- nhiên không tuyệt- đối chính- xác nhất là ở Ðàng Trong một số đông các sắc tộc thiểu số vốn dĩ thần phục chúa Nguyễn trên danh- nghĩa nhưng giữ sinh hoạt- kinh tế, văn- hoá riêng, sống du -canh di- chuyển luôn luôn nên không có con số rõ- rệt.
Cũng vì thế, quân -đội của chúa Nguyễn có thể chỉ bằng 1/4 quân chúa Trịnh như giáo sĩ Cristophoro Borri miêu tả.
Loạn Kiêu -Binh ở miền Bắc

Chính quyền Lê-Trịnh vốn xuất- thân từ Thanh Hóa, gọi là đất " Thang Mộc" nên ưu- tiên tuyển lính ở ba phủ là Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.

Quân ở ba phủ trên (tục gọi là lính tam -phủ) được coi là thân- binh hay ưu- binh, nhất -binh; và được vua chúa tin -dùng làm quân túc -vệ bởi họ đã đóng góp nhiều công - lao trong chiến- đấu. Chính vì có công lớn, lại được vua chúa nuông- chiều, nên họ sinh ra thói kiêu- căng, xem thường luật vua phép nước. Cho nên dân chúng thời bấy giờ gọi họ là kiêu -binh.

Năm 1781

Trịnh Cán (con Tuyên phi) đỡ bệnh,các quan xin lập Cán làm thế tử. Trịnh Sâm nghe theo. Phế Trịnh Khải, con trưởng, đem giam lỏng.
Lúc đó Trịnh Sâm mắc bệnh trĩ không ra ngoài, quyền- hành đều do Tuyên phi và Đình Bảo thao- túng. Trịnh Sâm rất sợ nắng gió, thường ở trong cung sâu kín, ban ngày cũng phải đốt nến, nếu không phải ngày đại- triều, không bao giờ ra ngoài.

Tháng 9 ÂL năm 1782, bệnh trở nặng, chỉ có Đình Bảo, Doanh Thùy và Đình Châu được vào hầu.Hoàng Đình Bảo làm đại thần cố mệnh, Đặng thị Huệ lên triều nghe chính, cùng với vương thúc Trịnh Kiều, quốc sư Nguyễn Hoàn phụ tá. Sau đó Trịnh Sâm mất.

Trịnh Khải tất nhiên không chịu, ngay sau khi Trịnh Sâm mất, Khải bàn với biện -lại thuộc đội Tiệp- bảo tên là Nguyễn Bằng người Nghệ An, đứng lên cầm -đầu, vào phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu- binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.Trịnh Khải phong quan- tước cho Nguyễn Bằng và trọng -thưởng cho quân tam- phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp- phá các nhà, không ai kiềm- chế được.

Bọn này cậy có công nên chúng đòi- hỏi chúa Trịnh được thu- phế những chỗ như: điếm- tuần, bến -đò, đầm -hồ, gò- bãi, cửa -ải, chợ- búa...

Dân chúng khổ -sở vì sự quấy nhiễu hà- khắc của chúng, có thể nói người dân miền Bắc căm bọn kiêu binh hơn cả giặc, lính với dân coi nhau như kẻ- thù. Triều- đình phải đặt ra đội Phong vân để tuần- phòng trong kinh- kỳ, dò xét quân -lính, hễ ai còn có thói cũ, rủ nhau tập -hợp phá nhà lấy của thì lập tức bắt giải về triều xét-xử. Bọn kiêu binh, như các giáo sĩ mô tả, mỗi khi đi ra ngoài là phải đi theo tốp đông, đi lẻ là chúng bị dân ta giết ngay.

Có thể nói xã hội miền Bắc đại loạn
Tình hình Đàng Trong

Đàng trong cũng bắt đầu không còn yên ổn.

Ban đầu, các chúa Nguyễn vẫn tôn -phò nhà Lê, nhận tước Công,dùng niên- hiệu vua Lê, tuy xây- dựng một chính- quyền độc- lập, nhưng nhân dân ta cả 2 miền ít nhiều vẫn có sự trao- đổi, đi- lại.

Các chúa Nguyễn mở- rộng bờ- cõi, chiêu- tập dân lưu- tán, đặc biệt là ở Thanh-Nghệ vào Nam khai- khẩn, mở -đất. Các chúa Nguyễn là những người có thực- tài, có đức- độ, cộng với đất đai màu- mỡ, phì -nhiêu nên Đàng Trong cũng là một xứ phát- triển mạnh, có thể nói ít nhiều hơn cả Đàng NGoài.

Các chúa Nguyễn cũng rất chăm lo phát -triển quân -sự theo lối phương Tây, nên thủy- binh Đàng Trong cũng rất mạnh.

Về Ngoại thương, các chúa Nguyễn cũng phần nào cho tự do thông- thương, nên tàu buôn các nước ra vào các bến thương -cảng nhộn- nhịp.

Từ sau khi người Hoa đến Đàng Trong, quan- hệ sản -xuất đã thay- đổi, người Hoa, để làm -ăn, làm giàu, đã hối -lộ, mua -chuộc các quan của chúa Nguyễn, dần dần nắm kinh- tế. Điều này khiến người Việt không hài- lòng, mâu thuẫn xảy ra.

Năm 1737.

CHúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chú bắt người dân Đàng Trong cải -cách sắc- phục, thay đổi phong- tục theo lời chúa là để: mọi người đều theo lối- mới, tránh cái thô- lậu của Bắc hà từ trước tới nay (lúc ấy từ sông Linh Giang thuộc châu Bố Chính trở vào Nam gọi là Nam hà, trở ra Bắc gọi là Bắc hà). Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y -quan văn- vật.

Cụ thể, chúa bắt dân đàng trong nhất nhất mặc theo lối Tàu, từ Y phục đến văn hóa.

Chúa bắt đầu xưng Vương, ban- hành các từ cấm, gọi là phạm- húy, ví dụ : kiêng Nguyễn Hoàng nên tất cả chữ Hoàng đổi là Huỳnh, Vũ thành Võ...v/v
Điều này khiến người Việt không đồng tình, mâu thuẫn bắt đầu nổ ra.
Một nguyên- nhân không nhỏ dẫn đến sự sụp- đổ của các chúa Nguyễn và sự ra -đời của phong -trào Tây Sơn chính là nạn quyền thần, đó là nhân- vật Trương Phúc Loan.

Trương Phúc Loan là con thứ của Thái bảo Phan quốc công Trương Phúc Phan cũng là cậu ruột của Chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Nhờ vậy mặc dù không có công- trạng, ông vẫn được cho phụ- chính thân cận với Chúa. Phúc Loan đã dùng nhiều cách dẫn dụ chúa Nguyễn vào con đường tửu- sắc, bỏ- bê việc nước hòng âm -mưu chiếm đoạt quyền- lực sau này.

Loan tạo điều- kiện để Vũ Vương quan -hệ với người chị con bác ruột của chúa là công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu (con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền là em ruột của Chúa Nguyễn Phúc Chú, sinh được một người con trai là công tử Nguyễn Phúc Thuần. Để tránh tai tiếng, Nguyễn Phúc Thuần được nuôi kín ở hậu -cung.
Xin tiếp thu góp ý của các cụ, em xin bỏ dấu gạch giữa.

Xin cảm ơn các cụ đã bổ xung thông tin, nhất là cụ Nokfev.

Về nguồn gốc anh em Tây Sơn

Vào khoảng cuộc chiến Trịnh -Nguyễn lần 6, diễn ra vào năm 1661-1662, quân Nguyễn vượt sông Gianh tiến ra chiếm 7 huyện của đất Nghệ An. Do bất bình giữa hai vị tướng tài gốc xứ Thanh là Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn phải triệt thoái khỏi đất Nghệ, mang theo đám tù binh và những nông dân bắt được trong chiến tranh đưa về Nam như một nguồn thu chính đáng thành một thứ chiến lợi phẩm có ích cho sự phát triển sản xuất. Vì Đàng Trong đất mới, cần người...

Trong những dân nghèo của huyện Hưng Nguyên bị quân Nguyễn bắt về Nam có ông tổ bốn đời của Nguyễn Huệ. Theo các giáo sĩ, từ sau năm 1786. Nguyễn Huệ ra xứ Nghệ tìm lại cội nguồn gia đình, nhận gia phả họ Hồ ở làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên làm đồng tộc, nhận Thái Lão làm tổ quán.
Năm 1789, vua Quang Trung truyền cho dân làng Thái Lão tu tạo tổ miếu để phụng tự. Sau khi Nhà Tây Sơn sụp đổ thì di tích tổ miếu ở Thái Lão cũng bị Gia Long triệt hạ.


Những nông dân này, không hẳn là bị ép buộc, trong số họ có rất nhiều tự nguyện theo quân Nguyễn vào đàng Trong, chúa Nguyễn cho dân đi khai phá đi nhiều nơi, một số trong họ có tổ tiên Nguyễn Huệ lại đưa lên khai phá vùng Cao Nguyên từ thế kỷ XVII lấy tên ấp Tây Sơn, hiện nay thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai. Đó là quê hương đầu tiên của tổ tiên Nguyễn Huệ ở đất Đàng Trong.

Đến đời Hồ Phi Phúc, ông có vợ là Nguyễn Thị Đồng, ông Phúc lại chuyển về ngụ tại quê vợ ở thôn Phú Lạc.

Sau một thời gian trú ngụ ở thôn Phú Lạc, ông Hồ Phi Phúc lại đưa gia đình về lập cư ở thôn Kiên Mỹ, cũng ở gần đó. Kiên Mỹ và Phú Lạc đều thuộc ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn. Nay là đất của xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Tại đây, ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng đã sinh ra các anh em Tây Sơn, theo các giáo sĩ, Nguyễn Huệ sinh khoảng năm 1753.

Thuở nhỏ, anh em Tây Sơn có học với một thầy giáo xứ Huế là Giáo Hiến.Không rõ vì sao ông thầy này lại bị Trương Thúc Loan trù dập, hăm diệt.
Giáo Hiến trốn vào phủ Quy Nhơn, mở trường dạy học ở đất An Thái, tại đây, ông đã khám phá ra tài năng khác thường của anh em Tây Sơn nên hết lòng đầu tư cho sự nghiệp lớn về sau.

Nguyễn Huệ lúc nhỏ còn được gọi là chú Ba Thơm (Hồ Thơm).

Giáo Hiến cho thơm là hoa Huệ, thơm nên đổi thành tên Huệ, vì Huệ vẫn là Thơm nhưng hay hơn. Thầy giáo ngày xưa, trong giềng mối “tam cương” - Sư vẫn thường coi hơn cha: Phụ - tử nên lẽ thường vẫn đặt tên cho học trò, thì đây cũng là một cách giải thích có lý.
Có lẽ ông giáo này muốn các học trò mình làm được những việc kinh thiên động địa, nên đã đổi họ Hồ của anh em Tây Sơn ra họ Nguyễn, bởi lẽ đơn giản là vì các chúa Nguyễn mang họ này, hi vọng anh em Tây Sơn sẽ giúp thu lại miền BẮc, lập công lớn.

Theo các giáo sỹ, thì các anh em nhà Tây Sơn có tổng cộng 7 anh chị em, anh cả là Thái Đức, có lẽ là Nguyễn Nhạc, sau đó đến 4 nguời chị, rồi đến Nguyễn Lữ ( các giáo sĩ gọi là Đức ông Bảy), Nguyễn Huệ là em út ( có tài liệu gọi là Đức Ông Tám)

Không thấy nói nhiều đến các bà chị của Nguyễn Huệ.
Người đầu tiên có công gây dựng nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất.

Nguyễn Nhạc không phải là nông dân như sử sách thường nói, theo các giáo sĩ, không rõ ông đi buôn bán gì, nhưng trước khi phất cờ khởi nghĩa năm 1771, thì ông đã rất giàu có, tập hợp xung quanh mình nhiều môn khách, có lẽ là để bàn kế khởi binh.
Để chính danh, và có cơ hội đi lại, Nguyễn Nhạc lợi dụng lúc chính quyền rối ren, có bỏ tiền mua chức quan, đi thu thuế các vùng xung quanh Quy Nhơn, gọi là chức Biện lại.

Năm 1770, Nguyễn Nhạc định khởi nghĩa, nhưng chưa tìm được lý do xác đáng,cól lẽ e ngại lực lượng của chúa Nguyễn.

Cái cớ để khởi nghĩa nổ ra chính là khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời (1765), chính sự Đàng Trong rối ren quanh việc chọn người lên ngôi chúa, vốn trước lập con thứ 9 (nhưng do chính cung sinh) là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử, nhưng Hiệu mất sớm, để lại người con là Nguyễn Phúc Dương.
Con cả là Nguyễn Phúc Chương cũng đã mất. Đáng lý ra theo thứ tự khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời, phải lập người con thứ hai là Nguyễn Phúc Luân lên ngôi, nhưng quyền thần Trương Phúc Loan nắm lấy triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Luân mà lập người con thứ 16 của Vũ vương là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương, để dễ bề thao túng. Trong triều cũng như bên ngoài dư luận nhiều người bất bình vì khi Luân đã chết thì ngôi chúa lẽ ra phải thuộc về Nguyễn Phúc Dương.

Năm 1771.
Nguyễn Nhạc tập hợp lực lượng nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Quân Tây Sơn bao gồm người Kinh, người Thượng, người Hoa tham gia rất đông. Khởi phát từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là người Thượng, đứng lên khởi nghĩa.
Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát.
Nhân dân gọi quân Tây Sơn lúc đầu là binh Hoàng Tôn ( Dương) để phân biệt với quân triều của Nguyễn Phúc Loan.

Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, không chỉ những người nông dân nghèo mà cả một số sắc dân thiểu số và lực lượng người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài ( hải tặc TQ) , Tập Đình ( người gốc Hoa) , . Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo.

Nghĩa quân đã từng nêu lên khẩu hiệu: "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo"

Các giáo sĩ đã nghi nhận:

"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có ngưòi mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..."

Quân Tây Sơn lúc này được sự ủng hộ tích cực của người dân, các nhà giàu cũng góp tiền bạc.

Năm 1773.

Nguyễn Nhạc tự xưng là Đệ nhất trại chủ, cai quản hai huyện Phù Ly, Bồng Sơn, Nguyễn Thung xưng là Đệ nhị trại chủ, Huyền Khê xưng Đệ tam trại chủ, coi việc quân lương.
Quân Nguyễn có tới đàn áp, nhưng đều bị đánh bại.

Tháng 6 năm 1773.

Nguyễn Nhạc dùng mưu hạ thành Quy NHơn, một trọng trấn quan trọng của Đàng Trong, vốn xưa là kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm Thành cũ. Quy Nhơn là trung tâm của khu vực Nam Trung bộ, nếu làm chủ Quy Nhơn có thể làm chủ cả khu vực này. Hơn nữa, ở đây còn giam giữ một số nhà buôn, vốn bất bình với chính sách thuế khóa và nạn tham ô của Trương Phúc Loan.

Các giáo sĩ thuật lại:

Khoảng 8 giờ tối, cổng thành Quy Nhơn đã đóng, quan trấn thủ Nguyễn Khắc Tuyên đang đi từ vọng lâu xuống thì bên ngoài có tiếng huyên náo, rồi có bẩm tâu là quân Tây Sơn làm phản, bắt trói Hai Trầu ( Nguyễn Nhạc) đem nộp.
Người bị bắt cởi trần, trói trong cũi, xung quanh có khoảng 20 người cầm đuốc, giáo mác, kiếm. Lúc đầu Tuyên không tin, sau đó một người cầm đuốc gí sát cái cũi,Tuyên nhận ra đúng Hai Trầu ( Nguyễn Nhạc) bèn vui mừng bảo lính mở cổng thành. Đích thân Tuyên đến gần cũi xem xét.

Khi toán quân khiêng cũi vào hết trong, bất ngờ một tiếng thét vang lên, cái cũi tung ra, Nguyễn Nhạc vùng lên cầm cây giáo phóng vào cổ Tuyên, cánh quân khiêng cũi cũng lao vào xáp chiến với đám lính giữ thành, cánh quân giữ thành bị giết gần hết, khi một số lính định cầm súng từ trên bắn xuống, Nhạc cầm đầu Tuyên giơ lên, cánh lính giữ thành đầu hàng.
Tháng 7 đến tháng 12 năm 1773

Nguyễn Nhạc tiến ra đánh chiếm Quảng Ngãi. Sau đó ông đem quân vào đánh Phú Yên. Tây Sơn thắng như chẻ tre, nhanh chóng chiếm được Phú Yên, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận, quân Nguyễn phải rút chạy vào Nam bộ.

Đầu năm 1774

Lúc này, quân Nguyễn đã chỉnh đốn lại được đội ngũ.
chúa Nguyễn sai Tôn Thất Thăng mang quân từ Quảng Nam vào đánh Tây Sơn nhưng vừa thấy quân Tây Sơn, Thăng đã bỏ chạy. Nguyễn Nhạc đánh Bến Ván, uy hiếp Quảng Nam, tuy nhiên ông bị cai đội Nguyễn Cửu Dật đánh lui, phải rút về Thiên Lộc.

Giữa năm 1774.

chúa Nguyễn lại cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thuỷ bộ ra đánh Nam Trung bộ, nhanh chóng lấy lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Nguyễn Nhạc chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.

Cuối năm 1774.

Chả hiểu do ai báo tin, mà chúa Trịnh Sâm Đàng Ngoài cũng biết tai tiếng Trương Phúc Loan, chúa Trịnh bèn cử lão tướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam thượng tướng quân, mang 3 vạn quân vượt sông Gianh nam tiến, cũng lấy lý do trừ khử Trương Phúc Loan, lập Nguyễn Phúc Dương ( chả hiểu sao chúa Trịnh tốt với chúa Nguyễn thế)

Quân Trịnh lần lượt chiếm Bố Chính, Đồng Hới và tiến đến Thuận Hoá. Quân Nguyễn yếu thế, chúa Nguyễn phải trói Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh, nhưng sau đó Hoàng Ngũ Phúc vẫn tiến quân.

Đầu năm 1775.
Quân Trịnh đánh chiếm Phú Xuân ( kinh đô lúc ấy),Chúa Nguyễn không chống nổi lại phải bỏ chạy vào Quảng Nam.
Thấy quân Nguyễn ở Quảng Nam yếu, Nguyễn Nhạc nhân thời cơ đó mang quân hai đường thuỷ bộ ra đánh, Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, phong Nguyễn Phúc Dương làm thế tử, ở lại Quảng Nam, quân Tây Sơn vì mang danh tôn phò Nguyễn Phúc Dương, nên khi gặp quân Nguyễn ở lại không giao tranh, lại còn đối xử tốt với Dương.

Lúc này, bọn tướng sĩ người Hoa bao gồm quân của Tập Đình và Lý Tài được dịp thỏa sức cướp bóc, hãm hiếp dân ta. Chúng làm đủ điều bạo ngược, ít nhiều làm ô danh quân Tây Sơn. Tin báo về, Nguyễn Nhạc vô cùng tức giận,định đem chém cả 2 tên, nhưng lúc đó, tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Quảng Nam.

Nguyễn Nhạc bèn sai Lý Tài rước Phúc Dương về Hội An.

Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Nguyễn Nhạc cử Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân đánh Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa.

Tập Đình bỏ chạy tháo thân, theo đường biển về Trung Quốc, vì hắn biết Nguyễn Nhạc muốn nhân cơ hội thua bắt giết, sau đó hắn bị nhà Thanh bắt chém.

Nguyễn Nhạc thua to, phải rút quân về Quy Nhơn.

Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp lại từ Bình Khang ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải co về Quy Nhơn. Như vậy địa bàn của Nguyễn Nhạc chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi.
Có thể nói, những năm đầu tiên này, vai trò của Nguyễn Nhạc là rất lớn, và, bản thân ông, cũng là một tướng chỉ huy kiệt xuất.

Năm 1775.

Đầu năm,
Tình thế của Nguyễn Nhạc và quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập. Cả quân Trịnh lẫn quân Nguyễn từ hai đằng đánh tới đều đang ở thế thắng trận. Nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Nguyễn Nhạc sẽ bị tiêu diệt. Đứng trước tình thế đó, ông đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn.

Nhận thấy quân Trịnh đang ở thế thắng liên tiếp từ khi vào Nam, tiềm lực của Bắc Hà lại lớn, hơn nữa, Hoàng Ngũ Phúc là một viên tướng cực kỳ giỏi binh pháp và lão luyện trong chiến trận, không thể đương đầu, Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với quân Trịnh để tập trung oánh quân Nguyễn.

Nguyễn Nhạc sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân".

Dù thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn.

Tống Phúc Hiệp sai sứ bắt Nguyễn Nhạc trả lại thế tử Nguyễn Phúc Dương,Nguyễn Nhạc giả vờ nhận lời, rồi bí mất đưa thế tử ra Hà Liêu.
Tháng 7 năm 1775.

Từ đầu tới giờ, linh hồn của cuộc khởi nghĩa vẫn là Nguyễn Nhạc, vai trò của Nguyễn Lữ quá mờ nhạt.
Nhận thấy các tướng Tây Sơn phần đông đều là quân ô hợp, nếu đánh lâu dài và kiên trì với quân Nguyễn và Trịnh, sớm muộn cũng sẽ bị tiêu diệt.
Chỉ mới sau mấy trận thua, các tướng đều bạc nhược,đặc biệt đám quân lính của tướng người Hoa Lý Tài bỏ trốn nhiều, phần nhiều sang hàng quân Nguyễn, bản thân Lý Tài cũng đầu hàng năm 1776.

Nguyễn Nhạc bấy giờ mới nghĩ đến các em, và có lẽ ông đặc biệt ấn tượng với Nguyễn Huệ, lúc đó mới 23 tuổi làm chủ tướng mang quân vào nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh.

Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay. Quân Nguyễn rối loạn, Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, chém tướng tâm phúc của Hiệp là Nguyễn Văn Hiền.

Hiệp bỏ chạy. Tướng Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.

Có thể nói, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ đã bộc lộ ngay từ trận đầu, chém tại trận 2 tướng giỏi của quân Nguyễn.

Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào nam liền lấn tới đóng quân ở Chu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa.

Để tăng thêm thanh thế,được đà, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em và Nguyễn Huệ được phong làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân".

Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về bắc, sau ông bệnh chết dọc đường. Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc là một tướng tài, lão luyện chiến trận. Đáng tiếc ông mất vì tuổi cao và có lẽ không quen khí hậu. Nếu không, cục diện chiến trận chưa biết ra sao.
Năm 1776

Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc lại điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam.

Lý Tài, tướng người Hoa, bất mãn vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Tây Sơn lại mất Phú Yên, do Nguyễn Huệ cử Tài giữ.

Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia Định. Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy về Bà Rịa. Nguyễn Lữ chiếm được Gia Định nhưng không lâu sau các tướng Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, Mạc Thiên Tứ, Tống Phúc Hiệp, Lý Tài đang tụ tập dần về Nam Bộ. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rút về Quy Nhơn.

Tại đây, đã diễn ra vụ thảm sát Cù Lao Phố, mang đến không ít tiếng xấu cho quân Tây Sơn.

Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720), người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), nguyên là tổng binh ba châu: Cao Châu, Lôi Châu, Liêm Châu dưới triều Minh.

Ông được coi là người đầu tiên có công khai khẩn với quy mô lớn vùng đất Biên Hòa, là người được chúa Nguyễn ban danh hiệu cao quý ''Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt'' (Họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dứt)

Trần Thượng Xuyên là tướng của chúa Nguyễn và rất trung thành.
Năm 1679, có 4 tướng nhà Minh cùng 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền sang các cửa biển Tư Dung (Thuận An) và Đà Nẵng, xin ở làm dân nước Việt.

Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân( Biên Hòa) lập nghiệp.

Dân vùng Đông Nam Trung Quốc, vốn thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và phía Nam có thể ra biển Cần Giờ hay sang tận Campuchia.

Cho nên một phần lớn nhóm người Hoa, đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố. Và cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thượng Xuyên và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định.

Từ sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v...

Tháng 2 năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân vào đánh Gia Định, việc Trần Thượng Xuyên cầm binh giúp Chúa Nguyễn lại trở thành một tai họa khi xảy ra cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn.

Quân Tây Sơn đốt sạch nhà cửa, tiệm buôn, phố xá, kho tàng đều bị phá hủy. Đường xá bị đào bới vì nghĩ người Hoa chôn vàng. Gần như toàn bộ người Hoa ở đây đều bị chém chết, xác người lấp hết dòng sông quanh cù lao, nước đỏ ngầu vì máu. Đến cả tháng sau, những người sống sót không ai dám dùng nước ở sông vì ô nhiễm. Cả một vùng thương cảng sầm uất đã thành chiến địa tan hoang.

Những người Hoa còn sống sót đã bồng bế nhau lánh nạn về Bến Nghé và là những người đã gây dựng lại sự nghiệp, thành lập vùng Chợ Lớn về sau này.

Nguyễn Lữ cùng đạo quân đã cướp được của cải, thóc lúa chở trên 200 chiếc thuyền chạy về Quy Nhơn.

Các sử liệu trên đây, căn cứ theo các giáo sĩ, thể chưa đúng sự thực, em cứ tạm để chờ ngâm cứu kỹ thêm. Các cụ chỉ xem đây là tham khảo.
KHoảng tháng 3 năm 1776.

Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Lữ đem quân oánh Gia Định. Nguyễn Phúc Thuần không có quân trong tay nên không chống lại, chạy vào Trấn Biên.
Tháng 6 năm 1776.
Viên tướng tài của quân Nguyễn là Tống Phước Hiệp qua đời, một tướng tài khác của quân Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, thủ lĩnh quân Đông Sơn,Nhân rất nghét tên tướng TQ Lý TÀi, cho rằng y la kẻ xảo trá, bèn đem quân đến oánh, tuy nhiên bọn lính TQ cũng rất thiện chiến, thành ra Nhân đánh mãi chả hạ được.

Tháng 10 năm 1776.

Nguyễn Phúc Dương, lúc này trên danh nghĩa vẫn là Hoàng tôn, con rể Nguyễn Nhạc, lập mưu mua chuộc lính canh, bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định. Dương bèn liên kết với tên tướng Lý Tài, có lẽ do thấy quân Lý Tài đang mạnh, về phần Lý Tài, y cũng thấy Dương là chính danh, có thể nhờ đó kiếm ăn được.

Dương bảo Lý Tài đem quân về ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Dương làm Tân chính vương, còn Thuần làm Thái thượng vương.
Trước áp lực của bọn lính TQ, Thuần đành chấp nhận.

Đỗ Thanh Nhân thấy Lý Tài được ưu ái, lại đem quân tới oánh, nhưng lần này Nhân bị bọn Lý Tài oánh cho thảm bại, quân mang đi 3000, chết mất hơn 2000, Nhân bỏ chạy về Ba Giòng.
Tháng 3 năm 1777.

Thấy Nguyễn Lữ oánh mãi chả thắng được quân Nguyễn, lại chỉ giỏi cướp phá và đồ sát, Nguyễn Nhạc bèn cử Nguyễn Huệ vào oánh Gia Định. Và Nguyễn Huệ, quả không hổ danh là vị tướng bách chiến bách thắng, tài năng quân sự thiên bẩm, đã làm thay đổi cục diện chiến trường, đặt dấu chấm hết cho dòng họ chúa Nguyễn.

Nguyễn Huệ thống lĩnh thủy quân Tây Sơn, gồm 50 chiến thuyền và khoảng 6000 quân, tiến đánh Gia Định.
Ngày 14 tháng 3 năm 1777.
Quân Nguyễn Huệ chạm trán với quân TQ do Lý Tài chỉ huy, chỉ trong buổi sáng, quân Tây Sơn đã hạ được thành, quân Tàu chết gần 2000, Lý Tài đại bại, dẫn tàn quân bỏ chạy, đem theo 2 chúa Nguyễn chạy về Hóc Môn.

Nguyễn Huệ quả là con người đầy mưu trí, biết Đỗ Thanh Nhân vẫn căm Lý Tài, bèn cho người mật báo cho Đỗ Thanh Nhân biết hướng chạy của bọn Lý Tài, Nhân đem 1000 quân trang bị cung nỏ và súng hỏa mai, phục kích, quân Tàu chết như rạ, Lý Tài bị bắt sống, Nhân đem phanh thây tại chỗ.

Không còn cách nào khác, 2 chúa Nguyễn là THuần và Dương phải phong chức cho Nhân, Nguyễn Phúc Thuần ở lại cùng Nhân oánh Tây Sơn, còn Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ.

Không để cho quân Nguyễn có cơ hội quân, Nguyễn Huệ chia quân làm 2 hướng, phục kích và oánh tan 2 cánh quân này, quân Nguyễn thua trận, bị giết gần hết, Thuần và Nhân may mắn thoát chết bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Mạc Thiên Tứ (tướng người Hoa), còn Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre).
Một viên tướng TQ khác cũng đáng để nói ở đây, là MẠc Thiên Tứ ( 1718-1780) là con của tổng binh Mạc Cửu, được chúa Nguyễn phong tước hầu.

Khi cha Mạc Cửu chết(1735), lúc ấy Mạc Thiên Tứ 29 tuổi, nối nghiệp cha mở mang đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc tấn công của các lân bang Xiêm La và Chân Lạp. Kể ra, ông cũng có nhiều công lao khai phái và bảo vệ nước ta.

Lúc này Xiêm LA ( Thái Lan) cũng đang chịu dòng dân di cư TQ đến rất nhiều, và, khác với Đại Việt, dân TQ ở đây còn nắm cả quyền chính trị, khuynh đảo triều đình Xiêm La, đỉnh cao là cả vua Xiêm Taksin ( Trình QUốc Anh) cũng là dân TQ ( gốc Triều Châu).

Xiêm La nhiều lần tấn công Đại Việt, lý do là MẠc Thiên Tứ che dấu 1 hoàng tử Xiêm ( chả hiểu sao cùng là người Hoa với nhau mà không giúp nhau giết hết các dòng dõi hoàng tộc người Xiêm đi cho gọn???)

Năm 1765, giáo sĩ Bá Đa Lộc (Béhaine de Pigneau) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện. Và có lẽ cũng do trời tính, sau này chính giáo sĩ Bá Đa Lộc là người đã che chở, giúp sức Nguyễn Ánh cực nhiều trong cuộc chiến trường kỳ với Nguyễn Huệ.

Vào khoảng năm 1776.

Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ tiến công vào Gia Định, truy kích tàn quân của chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ cùng Tôn Thất Xuân mộ nhiều dân Hoa Kiều oánh lại Nguyễn Huệ, nhưng tất cả đều không phải là đối thủ của vị tướng bách chiến, quân Tàu của MẠc Thiên Tứ bị oánh bại, bị chém chết " thây nằm ngổn ngang".

Cùng đường, Mạc Thiên Tứ phải chạy sang Xiêm.

Tháng 4 năm 1780, vua Xiêm là Taksin (Trịnh Quốc Anh) nghi ngờ ông làm gián điệp cho Gia Định và có lẽ, cũng sợ Nguyễn Huệ, bắt giết các con lớn của ông là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày. Quá phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc.
Sau khi Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ, chúa Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức, 2 tướng tài khác, có khoảng 7000 quân.

Nguyễn Nhạc, nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Gia Định cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận.
Nguyễn Huệ dẫn cánh quân Tây Sơn ở Biên Hoà gồm 2000 quân chặn đánh giết chết Trần Văn Thức tại chỗ. Nghe tin Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc ung dung chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.

Ngày 24 tháng 9 năm 1777.

Nguyễn Huệ mang 4000 quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định chém đầu, số quân Việt đa số đầu hàng theo Tây Sơn, khoảng 600 lính TQ, bao gồm cả các thương nhân, đều bị chém chết.

Ngày 27 tháng 9 năm 1777.

Nguyễn Huệ tấn công quân Nguyễn Phúc Thuần, khoảng từ 6 giờ đến trưa, quân Nguyễn thua to.

Đến chiều, Nguyễn Phúc Thuần bại trận, đem toàn bộ gia quyến các chúa Nguyễn, khoảng 270 người già trẻ lớn bé, bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Thuần và toàn bộ gia quyến họ Nguyễn.

Tháng 10 năm 1777.

Tây Sơn đem giết hết toàn bộ gia tộc chúa Nguyễn, khoảng 277 người đến 280 người, trong đó có nhiều trẻ em, phụ nữ, người già về Gia Định, không rõ Nguyễn Huệ hay Nguyễn Nhạc ra lệnh, Tây Sơn đã hành hình toàn bộ gia tộc Nguyễn này.

Trong số 277 người gia tộc chúa Nguyễn, chỉ còn Nguyễn Phúc Ánh ( Nguyễn Ánh) và 1 người nữa may mắn thoát chết và bỏ trốn được, năm đó Nguyễn Ánh khoảng 15 tuổi.
Từ đây, bắt đầu một cuộc đối đầu mới giữa 2 người, có thể gọi là anh hùng, là Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh. CÒn Nguyễn Nhạc, có lẽ chưa phải là đối thủ của Nguyễn Ánh trên chiến trường.

Năm 1778.

Nguyễn Nhạc tự phong vương cho mình, làm chủ toàn bộ đất đai từ Quảng Nam đến Hà Tiên, ông tự xưng Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thái Đức. Coi như dứt hẳn với chính quyền vua Lê chúa Trịnh đàng ngoài.

Lúc này, lên làm vua, Nguyễn Nhạc bắt đầu lo ngại về tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ, sợ Nguyễn Huệ thể cũng lại xưng vương và cai quản vùng Gia Định, nên ông cho gọi Nguyễn Huệ về Quy Nhơn. Đó là một sai lầm chiến thuật, bởi vì chủ ý Nguyễn Huệ muốn tận diệt nốt Tướng Đỗ Thanh Nhân, Nguyễn Ánh và một số tướng nhà Nguyễn khác không đầu hàng Tây Sơn. Bị gọi về, Nguyễn Huệ cử một tướng Tây Sơn coi giữ, đóng quân ở dinh Long Hồ ( dinh (doanh) Long Hồ, lúc này có lẽ thuộc vùng đất mới là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) do vua Chân Lạp là Sâtha (Nặc Tha) vừa dâng để cầu hòa)

Nguyễn Ánh trốn ra đảo, có lẽ là Thổ Chu, và được Bá Đa Lộc che chở, hơn thế nữa, nghe Ánh trình bày thảm cảnh, Lộc cũng xúc động, liền quyết tâm giúp Ánh khôi phục giang sơn, đổi lại, Ánh hứa hẹn các kiểu: tự do buôn bán, tự do truyền Đạo, v/v..

Lộc cho người đi liên lạc được với Đỗ Thanh Nhân và Lê Văn Quân, các tướng này ra Thổ Chu gặp Ánh, mưng tủi khôn xiết, cùng nhau bàn việc oánh Tây Sơn, tiền bạc một phần do Lộc giúp.
Năm 1777.

Tháng 11, được sự giúp đỡ của Lộc, Nguyễn Ánh và tàn quân Nguyễn tụ tập lại, dần mạnh lên. Lộc bỏ tiền ra mua vũ khí trên các tàu buôn Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp cho Ánh.
Nguyễn Ánh, xét về võ công, như các giáo sĩ nhận xét, thua Nguyễn Huệ, nhưng về mặt mưu kế, kể cả mưu hèn, thì có phần vượt trội.

Ngày 14 tháng 11 năm 1777.
Nguyễn Ánh đem theo 400 quân, cùng Đỗ Thành Nhân đóng giả một đám tang, nhân lúc quân Tây Sơn không phòng bị, oánh chiếm được dinh Long Hồ, tại đây, Ánh, dù ít tuổi, cũng tỏ ra có máu đồ sát chả kém Tây Sơn, trong số 500 tù binh bắt được, Ánh cho chém đầu hết, còn vợ con binh lính, người già,ánh cho trói lại rồi dìm chết đuối cả.

tháng 12 năm 1777.

Lộc có thuê được 1 số lính Tây giúp Ánh, trong đó có 16 lính Bồ ĐÀo Nha, 14 lính Pháp. Ánh cũng tập hợp được thêm 2000 lính TQ, không rõ kiếm được ở đâu.
Ánh và Lộc cho bọn này lập công ngay, ngày 21 tháng 12 năm 1777, toán quân này do Ánh và một số sĩ quan Pháp nổ súng oánh thành Sài Côn, do 1 viên tướng tây Sơn là tổng đốc Châu giữ, quân Tây Sơn bị bất ngờ bởi cách đánh mới, bị đại bác và hỏa lực áp đảo, nhanh chóng vỡ trận. Tướng Tây Sơn nào bị bắt, Ánh cho đem chém, số lính Tây Sơn phần đông hàng Ánh.

NĂm 1778.

Nguyễn Ánh được các tướng Nguyễn phong làm "Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính". Lúc này, lực lượng Ánh mạnh hơn nhiều, Ánh thu nạp được nhiều tướng tài giỏi, đặc biệt là Lê Văn Duyệt.

Ngoài ra, Lộc tiếp tục mời được nhiều lính Tây về giúp Ánh, trong số này, có 1 sỹ quan Pháp tên là Manuel ( phiên âm Hán Việt : Mạn Hòe), Manuel vốn là sỹ quan bảo kê áp tải các tàu buôn Pháp, không rõ Lộc gạ gẫm ra sao,đã theo Ánh phục vụ, chính Manuel đã huấn luyện thủy quân Nguyễn, làm cho đội quân này tinh nhuệ không kém quân Tây Sơn.
Manuel được Ánh phong chức " Cai cơ"
Lúc này Nguyễn Nhạc đã lên ngôi Hoàng Đế, tuy nhiên tài năng tổ chức kinh tế của ông được các giáo sĩ coi là kém cỏi, dù xuất thân thương gia. Trong vùng Nhạc cai quản, thuế má còn tăng hơn thời chúa Nguyễn gấp mấy lần, đời sống nhân dân có phần cơ cực hơn. Nguyễn Nhạc ráo riết tổ chức bắt lính, thậm chí thu nạp hết cả bọn trộm cướp, du thủ du thực.

Nghe tin quân Nguyễn Ánh, được Tây giúp, đang làm mưa gió ở Gia Định, Nguyễn Nhạc lo sợ, bèn ra lệnh cho Nguyễn Huệ vào oánh, nhưng không hiểu vì sao Nguyễn Huệ từ chối, Nhạc bèn điều Tổng đốc Chu, Tư khấu Uy và Hộ giá Phạm Ngạn mang 7000 quân vào đánh Gia Định.

Tất cả các tướng Tây Sơn này, đều không phải là đối thủ của Nguyễn Ánh và lính Tây.

Cho dù quân Tây Sơn nhanh chóng đánh chiếm các vùng Trấn Biên, Phiên Trấn và một số khu vực ven biển. Nguyễn Ánh để Đỗ Thanh Nhân giữ Gia Định, quân Tây Sơn bị lính Tây và lính TQ chặn lại, dùng hỏa lực áp chế phản công, bị giết tại trận 2000 quân.

Thừa thắng, Ánh cùng Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Hoằng đi đánh nhau ở khu vực Bến Lức. Tại Bến Lức, quân Nguyễn chặn được Tây Sơn rồi sau đó mở cuộc phản công, đạo quân thủy do Manuel chỉ huy ngăn chặn và đẩy lùi được thủy binh Tây Sơn do Tư khấu Uy chỉ huy ở Bến Nghé rồi chiếm lại được Trấn Biên.

Thủy binh của Phạm Ngạn thì bị Lê Văn Duyệt phá, buộc ông này phải rút về lại Quy Nhơn.
Năm 1779.

Nguyễn Ánh thu lại toàn bộ vùng Gia Định, gọi là Phiên An Trấn (Sài Gòn-Gia Định-Long An)

Ánh cho tổ chức phân chia hành chính đất Gia Định dưới sự cố vấn của Bá Đa Lộc, đặt quan coi giữ, đóng thuyền, trữ lương chuẩn bị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ.

Ánh lo tổ chức phát triển kinh tế, dựa vào bọn người Hoa, bọn thương nhân, bọn địa chủ, còn người Việt,Ánh cũng bóc lột thậm tệ. Cá giáo sĩ cho biết, thuế má của Ánh cũng cao chả kém Tây Sơn, tuy nhiên do vùng đất này trù phú, màu mỡ, nên kinh tế ở đây vẫn phát triển mạnh, đặc biệt là ngoại thương, do Lộc mời đến.

Trong đó Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm tới thủy binh: khi ngay sau khi vừa được tôn làm đại nguyên soái, ông liền cho đóng ngay 50 chiến hạm đầu nhọn gọi là Long Lâm Thuyền. Hai năm sau, tướng Đỗ Thanh Nhân lại đưa ra sáng kiến đóng thủy sư hai bánh (thuyền hai lái).

Năm 1779, Chân Lạp tranh thủ quân Việt đang gặp rối loạn mà nổi dậy, Nguyễn Ánh bèn sai binh đi chiếm Chân Lạp và biến quốc gia này thành chư hầu, đồng thời cũng thu nạp thêm được nhiều lính.

Tháng 1 năm 1780.

Nguyễn Ánh xưng vương, và, đúng là Ánh cực kỳ khôn hơn Nguyễn Nhac, biết lòng dâN Đại Việt vẫn tưởng nhớ nhà Lê,Ánh bèn dùng theo niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê và lấy ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu" làm ấn truyền quốc, phong cho Đỗ Thanh Nhân chức Ngoại hữu, Phụ chính, Thượng tướng công.

Nguyễn Ánh cũng đặt quan hệ ngoại giao với Xiêm la, hứa sẽ trả lại cho Xiêm La tầm ảnh hươởng Chân Lạp nếu giúp oánh Tây Sơn.
Tháng 10 năm 1781.

Nguyễn Ánh thu được của Chân Lạp, theo các giáo sĩ, là cướp bóc, rất nhiều vàng bạc, đồ quý, số tiền này Ánh không giữ riêng mà đem phân phát hết cho bọn lính và sĩ quan Tây, lính TQ, lính Việt có công. Còn lại, Ánh đem mua vũ khí của Tây Ban Nha và Hà Lan. Vì khôn khéo như thế, nên Ánh được lòng quân sĩ, và, có nhiều lính TÂy Sơn bắt đầu bỏ hàng ngũ sang phe Ánh.

Thấy Ánh kiếm được nhiều vàng bạc của Chân lạp, mà chả chịu chia chác gì, Vua Trịnh Quốc Anh, một người Tàu chính gốc, đưa quân sang đánh Chân Lạp.

Nguyễn Ánh cho quân sang cứu Chân Lạp. Khi quân Việt và quân Xiêm còn đang đánh nhau thì ở Xiêm La, Trịnh Quốc Anh bắt vợ con hai tướng Xiêm là Chất Tri và Sô si, Ánh bèn gặp 2 tướng này,bảo sao chúng mày người Xiêm lại để thằng Tàu nó cai trị? 2 tướng Xiêm ớ người, Ánh bày mưu là bây giờ giả vờ thắng rút quân về, tao cho 500 võ sĩ tinh nhuệ, chúng mày bảo đấy là tù binh, nhân khi thằng vua Tàu kia nó không đề phòng, giết đi mà cướp ngôi.

Nghe lời Ánh, 2 tướng Xiêm về nước, giết chết được vua Xiêm gốc Tàu Trình Quốc Anh, Chất Tri lên ngôi, tức vua Rama I của Xiêm La, mở đầu nhà Chakri.

Chính biến ở Xiêm khiến quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Xiêm thay đổi: từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh. Và vì thế, mới có trận Rạch Gầm-Xoài Mút nổi tiếng.
Năm 1781.

Quân đội của Nguyễn Ánh phát triển lên đến khoảng 40.000 quân với 80 chiến thuyền đi biển, 3 thuyền lớn và 2 tàu đánh thuê Bồ Đào Nha và 200 lính do Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được.
Trong đó, thủy binh do Maniel chỉ huy, có khoảng 300 lính Pháp thiện chiến.

Thấy đã đủ lông đủ cánh, Ánh bèn tấn công Tây Sơn.

Quân thủy của Ánh áp đảo Tây Sơn, quân của ÁNh đã đánh ra đến Phú yên, quân Nguyễn đổ quân lên bộ, nhưng vấp phải lực lượng mạnh của Tây Sơn, do Nguyễn Huệ chỉ huy, và Nguyễn Huệ, đã mua chuộc được bọn lính Bồ Đào Nha, khiến bọn này không dùng pháo binh trên tàu yểm trợ quân Nguyễn. Quân Nguyễn đại bại, bị giết chết 1000 quân tại chỗ. Số còn lại bỏ chạy xuống tàU, may mắn có Manuel chỉ huy bắn pháo kịp lúc, nếu không, ắt quân Nguyễn và Nguyễn Ánh đã tàn đời.

QUá tức bọn lính Bồ, nên Ánh và Manuel lập mưu chuốc rượu bọn này, rồi đem giết gần hết bọn lính này, cướp lâý thuyền và vũ khí.
Tháng 3 năm 1782.

Nguyễn Nhạc gặp một phái đoàn thương nhân Anh, tại đây, Nguyễn Nhạc đã mua thêm được một số vũ khí của Anh, phát triển thêm thủy quân. Nguyễn Nhạc cũng bày tỏ tham vọng là muốn oánh chiếm luôn Bắc hà.

Nghe tin Nguyễn Ánh giết chết Đỗ Thanh Nhân, Nguyễn Huệ rất vui, vì có thể nói, Nhân là một viên tướng cực kỳ tài giỏi và trung thành với các chúa Nguyễn. Nguyễn Huệ giục Nhạc phải đem quân vào oánh Gia Định, dứt điểm được Nguyễn Ánh mới " kê gối cao mà ngủ"

Đỗ Thanh Nhân vốn không thích kiểu đồ sát trả thù của Nguyễn Ánh với tù binh Tây Sơn và cả gia đình họ, Nguyễn Ánh có lần úp mở với Nhân là sẽ mời quân Xiêm sang trợ giúp, nếu cần, tuyển thêm lính TQ, Nhân nói làm thế sau này người đời phỉ nhổ, có thắng cũng chả vinh, Ánh tức tím mặt.

Có viên tướng Nguyễn là Tống Phúc Thiêm, cũng bị Nhân ghét, bèn xàm tấu với Ánh là Nhân có mưu phản, Ánh rụng rời chân tay vì biết quân của Nhân rất mạnh, nếu có mưu phản Ánh hết đường sống.

Ngày 24 tháng 3 năm 1781.

Theo mưu kế của Thiêm, Ánh giả vờ bệnh, gọi Nhân sang bàn bạc việc quân, Nhân không đề phòng, chỉ đem theo 10 lính, khi Nhân vừa vào trong nhà Ánh, bọn võ sĩ TQ ùa vào chém chết Nhân tại chỗ. Ánh mừng rú.

Quân của Nhân nghe tin chủ tướng bị giết, vô cùng căm Nguyễn Ánh, họ phản kháng bằng cách oánh lại.
Tháng 3 năm 1782

Nghe theo Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đem 10.000 quân thủy bộ oánh Gia Định, phong Nguyễn Huệ là tướng tiên phong, chỉ huy toàn bộ đội quân này.

Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1782, thủy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đụng độ với thủy quân Nguyễn do Nguyễn Ánh và Manuel chỉ huy ở sông Ngã Bảy và cửa biển Cần Giờ , tại trận này, ta mới tài năng quân sự của Nguyễn Huệ quả là xuất chúng, dù quân Nguyễn với số lượng chiến thuyền áp đảo, nhưng Nguyễn Huệ thực hiện tài tình việc che dấu, khi tàu quân Nguyễn, do chủ quan, tưởng quân Tây Sơn chỉ có đại bác thường, đâu ngờ Nguyễn Huệ đã đem các đại bác mua của Anh lên tàu.

Tàu chiến quân Nguyễn đến gần, Nguyễn Huệ ra lệnh khai hỏa đại bác kiểu Anh, quân Nguyễn và lính Pháp bất ngờ, chết tại trận vô số, các tàu trúng đạn, bốc cháy ngùn ngụt.
Nguyễn Ánh run bắn, một quả đạn bắn trúng tàu, hơn 10 lính tan xác, Ánh không hiểu sao chỉ bị thương, Nguyễn Huệ cho quân xông sang định bắt sống Ánh, bất ngờ Manuel xuất hiện, rút kiếm chống cự quyết liệt đám quân Tây Sơn, kịp cho Ánh chạy thoát. Nguyễn Huệ cho tập trung pháo bắn tan nát con tàu này, quân lính chết gần hết, Manuel vẫn một mình cầm kiếm chỉ huy các tàu còn lại phản pháo, quân TâY Sơn thiệt hại cũng nặng.

Manuel bị thương nặng, rút súng băắn vào thái dương tự sát.
Nguyễn Ánh, đúng là quá nhiều may mắn, đã thoát chết. Có lẽ cũng tại may và cũng do số Trời. NHưng đúng là Ánh có lòng tin bền bỉ, và, quan trọng hơn, gặp được không ít " quý nhân" cứu mạng,kể cả người Tây như Manuel. Còn bên Tây Sơn, có lẽ chỉ có mình Nguyễn Huệ mới là đối thủ xứng tầm của Nguyễn Ánh.

Thua thảm, Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp (rừng Romdoul là khoảng khu vực phía bắc tỉnh Svay Rieng). Tây Sơn đuổi theo vào cuối tháng 4, bắt vua quan Chân Lạp hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp.

Quân Tây Sơn chiếm lại được Nam Bộ, nhưng bọn người Hoa, vốn được Ánh ưu đãi nhiều, nay đang giàu có sung sướng, bỗng nhiên bị Tây Sơn cướp hết, đây cũng có thể là một sai lầm lớn của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, lẽ ra nên có những chính sách mềm mỏng hơn.

Dân Hoa kiều nổi dậy oánh TâY Sơn

Tháng 4 năm năm 1782

Nguyễn Nhạc đem 4000 lính tới 18 thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm bại, hộ giá Phạm Ngạn, một tướng tài, lại có chị gái lấy Nguyễn Nhạc, rất thân với Nguyễn Huệ , bị tử trận. Nhạc nhận ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn Ánh. Nhạc kêu gào trả thù, cho dù Nguyễn Huệ có lời can ngăn.

Quân Tây Sơn bắt được hơn 10.000 người Hoa tại vùng Chợ Lớn, NGuyễn Nhạc ra lệnh " Phàm người Hoa mới cũ già trẻ đều không tha". Cuộc đồ sát bắt đầu vào buổi sáng ngày 26 tháng 4 năm 1782, quân Tây Sơn đem chém đầu tất cả đàn ông, đàn bà trẻ thì hãm hiếp rồi đâm chết, trẻ con và người già thì buộc chân lại rồi quăng xuống sông, ai bò vào gần bờ lấy giáo đâm vào đầu.

Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa.

Lưu ý các cụ là các số liệu, mô tả trên đây là lời các giáo sĩ, chưa có kiểm chứng,các cụ chỉ coi là tham khảo
Tháng 9 năm 1782.

Thua trận thê thảm, Nguyễn Ánh cùng tàn quân bỏ chạy về Hậu Giang. QUân Tây Sơn truy đuổi, suýt lại bắt được Ánh thì thình lình tướng Nguyễn là Chu Văn Tiếp mang 8000 quân từ Bình Thuận vào cứu, quân Nguyễn bị oánh tơi tả, chết mất 6000 quân, còn tàn binh cùng Tiếp mở đường máu chạy trốn.

Nguyễn Ánh vừa trốn thoát được về Hậu Giang, đã nghĩ kế sai 1 đoàn tay chân sang Xiêm cầu viện. Nguyễn Nhạc lúc này đã chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh, Chân lạp đồng ý, do sợ Nguyễn Huệ.

Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm của Nguyễn Ánh và suýt giết chết Ánh, may mắn, khi tên lính giương súng bắn chết Ánh thì súng không nổ, mấy tên lính TQ đi cùng Ánh lao vào cứu, Ánh chạy thoát.

Nguyễn Ánh phải trốn ra đảo Phú Quốc.

Nguyễn Huệ xin Nguyễn Nhạc cho quân ra Phú Quốc lùng diệt Ánh, nhưng Nhạc bảo bây giờ nó chỉ như "con mèo con gãy chân" chả còn gì đáng sợ, nên ra lệnh thu quân về Quy Nhơn. Chỉ để lại phò mã Trương văn Đa giữ Gia Định.

Ánh gặp Lộc, xin Lộc sang Pháp cầu viện oánh Tây Sơn, Lộc bảo Ánh muốn thế thì hãy theo Đạo Thiên Chúa cho dễ bề ăn nói với vua PháP, Ánh khéo léo từ chối, Lộc không giúp vụ này.
Tháng 1 năm 1783.

Biết Nguyễn Nhạc đã kéo quân về Quy Nhơn, giữ thành là phò mã Trương văn Đa cùng khoảng 10.000 quân lính. Đa là kẻ tham lam, vơ vét, bóc lột dân thậm tệ, thả cho quân lính cướp bóc, hoành hành. Dân Nam bộ oán hận quân Đa.

Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang 5000 quân vào oánh, quân của Đa tuy đông, nhưng không được lòng dân, nhanh chóng bị oánh bại, Tiếp dễ dàng chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về.

Tháng 2 năm 1783.

Nguyễn Nhạc đành sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang 10.000 quân nam tiến.

Tiếp cho lập phòng tuyến, gồm 6000 lính TQ, vòng trong nữa, Tiếp cho 4000 lính Việt và lính TQ, cùng 100 lính Tây do Ánh chỉ huy. Nguyễn Huệ cho quân tiến đánh, phòng tuyến ngoài vỡ tan, quân Nguyễn chết như ngả rạ, phòng tuyến trong cũng vỡ, Ánh cùng tàn quân chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Ánh bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc.

Tháng 8 năm 1783.

Nguyễn Huệ đem thủy quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh Phú Quốc, bắn chìm gần hết các thuyền của Ánh, chỉ còn lại 4 chiếc, Nguyễn Huệ cho quân đuổi theo, Ánh tàn nhẫn ra lệnh ném bớt lính già, lính bị thương, lương thực xuống biển cho nhẹ bớt để chạy, tàu Tây Sơn sắp đuổi kịp, nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm La cầu viện.
Tháng 7 năm 1783.

Tàn quân Nguyễn lại tụ tập, Ánh phái Châu Văn Tiếp men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Lúc ấy Xiêm đang mạnh, Vua Xiêm vẫn nhớ ơn Nguyễn ÁNh đã bày mưu và cho võ sĩ giúp mình giết vua Xiêm gốc Tàu, nên bằng lòng.

Thực ra vua Xiêm cũng chả tử tế như thế, chủ yếu đợt này vua Xiêm muốn chiếm lấy Cao Miên ( Cam Bốt) và bảo Tiếp là muốn giúp, thì Ánh phải nhường cho Xiêm mấy tỉnh Nam Bộ, trong đó có Long An và An Giang.., Tiếp không dám quyết, bèn tâu lại với Ánh.

Tháng 3 năm 1784.

Ánh đích thân sang Xiêm, được đón tiếp trọng vọng do có ơn bày kế giết vua Xiêm gốc Tàu.

Vua Xiêm và Ánh hội đàm tại Vọng Các ( Băng-cốc), các điều kiện để Xiêm cho quân cứu viện đưa ra, Ánh đồng ý tất.

Tháng 4 năm 1784.

Vua Xiêm lệnh cho cháu là Chaofa Kromluang Thepharirak chỉ huy một đội chiến thuyền và 5.000 quân, với lệnh là tấn công và tái chiếm, lãnh thổ Gia Định cho Nguyễn Ánh .

Một toán quân đường bộ do Phraya Wichinarong chỉ huy được lệnh tiến theo đường Cam Bốt và điều động thêm một đoàn quân Cao Miên, tổng cộng 6000 quân.

Một tướng Xiêm khác là Chaophraya Aphaiphubet tuyển thêm một lực lượng 5.000 quân Cam Bốt để đi cùng quân Xiêm.

Nguyễn Ánh cũng kiếm được một số quân khoảng 3, 4 ngàn, đây là bọn hải tặc TQ, cho Chu Văn Tiếp chỉ huy với chức Bình Tây đại đô đốc và Mạc Tử Sanh (hay Sinh) làm tham tướng dẫn đường.
Quân Xiêm trang bị tốt, các thuyền chiến đều có đại bác kiểu Tây. Súng ống tương đối đầy đủ.

Quân Tây Sơn có khoảng 10.000, cộng thêm đám tàn binh của Trương Văn Đa, có khoảng 16.000 quân, quân Tây Sơn cũng được trang bị tốt, do tất cả các nguồn thu được, từ thuế, từ cướp bóc, đều dồn vào mua súng ống Tây.
Khoảng tháng 7 năm 1784.

Quân Xiêm, theo các giáo sĩ, thì có khoảng 20.000 ( 2 vạn) chứ không nhiều hơn, toán quân này cũng ô hợp, vì còn có cả lính Chân Lạp, lính TQ của Nguyễn Ánh, 1 số lính Khmer...

Thủy quân Xiêm nhanh chóng oánh tan quân Tây Sơn ở các trận đầu, chiếm Rạch Giá, tiến đánh quân Tây Sơn của Đô đốc Nguyễn Hóa ở Trấn Giang (Cần Thơ), tiến chiếm các miền Ba Thắc (Srok Pra-sak, Sóc Trăng), Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít, rồi chia quân đóng giữ.
Phò mã Trương Văn Đa liền đem quân thủy từ Gia Định tiến xuống Vĩnh Long) tiếp ứng, nhưng cũng không ngăn được quân Xiêm, trận này, quân của Đa bị tàu chiến Xiêm bắn chìm mất nhiều.

Ngày 26 tháng 11 năm 1784.

Viên tướng tài giỏi của Nguyễn Ánh, Chu ( Châu) Văn Tiếp, hăng hái đem 1000 lính TQ và khoảng 2000 lính Chân Lạp, 1 số lính Việt ( không rõ con số) theo đường thủy vào oánh Tây Sơn ở Mân Thít, vì mới nghe tin Đa bị oánh tơi tả, lần này oánh chắc dễ.

Quân của Tiếp vừa vào đến cửa sông Mân Thít, liền bị phục binh Tây Sơn do Tiền quân Chưởng cơ Tây Sơn tên là Bảo (Chưởng tiền Bảo) chỉ huy dùng đại bác 2 bên bờ nã tới tấp vào thuyền, quân của Tiếp rối loạn, thuyền chiến bốc cháy, số chết, số bỏ chạy, Tiếp bị 1 nhóm quân Tây Sơn dùng thuyền nhẹ áp sát thuyền chỉ huy của Tiếp, xông lên chém chết tại trận.

Nguyễn Ánh nghe tin cực kỳ uất ức, có lẽ thương tiếc cho vị tướng tài ba và trung thành của mình, Ánh bèn tự mình dẫn 2000 quân, vừa TQ vừa Việt và Chân lạp, dùng đường thủy tức tốc tiến vào Mân Thít để trả thù cho Tiếp, Ánh ra lệnh, khi đến gần sông thì dừng thuyền, đổ bộ phần lớn số lính lên bộ, còn thuyền chiến vẫn tiến vào.

QUân Tây Sơn mắc mưu Ánh, bị 2 cánh quân cả thủy bộ tiến đánh, Tây Sơn nhanh chóng thua trận, số lính trên bờ vừa bị quân Ánh tấn công, không kịp khai hỏa đại bác, bị đại bác dưới tàu nã tới tấp, xác chết tan tành vô số. Ánh cho quân đổ bộ lên bờ truy tìm Tiền quân Chưởng cơ Tây Sơn tên là Bảo, bắt được Bảo, Ánh tự mình chém đầu Bảo để tế hồn cho Tiếp.

Phò mã Đa ra lệnh lui quân về
Quân Xiêm tiếp tục tiến quân, oánh cho Tây Sơn tan tành, liên quân hội quân, đóng dọc sông Tiền, sông Hậu, từ cù lao Năm Thôn trở lên hướng Mỹ Tho và đặt đại bản doanh tại Trà Tân.

Rõ ràng, các tướng Tây Sơn đều không thể địch lại quân Xiêm.

Sợ quá, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo rõ tình hình nguy cấp. Nguyễn Nhạc liền cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đem đại binh vào.

tháng 1 năm 1785.

Nguyễn Huệ thống lĩnh 20.000 quân theo đường thủy vào đến nơi và đóng ở Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cử một ít quân mở những cuộc tập kích nhỏ để thăm dò.

Lúc này, quân Xiêm cậy thế thắng, chúng bèn thỏa sức cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc dân ta không gớm tay. Chứng kiến tận mắt những cảnh này, Nguyễn Ánh cũng đâm hoảng, dân chúng oán thán quân Xiêm và Ánh quá trời, Ánh phải kêu than: ( trong thư đề ngày 25 tháng 1 năm 1785, Nguyễn Ánh đã than phiền với giáo sĩ J. Liot, 1 người bạn thân của Lộc)

"Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược, dâm nhơn phụ nữ, lược nhân tài vật, túng sát bất dung lão thiếu. Vậy nên Tây tặc binh thế nhựt thạnh, Xiêm binh thế nhựt suy..."

Tạm dịch: Nay thì Xiêm binh tự do cướp giật, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc tài sản, giết bừa không tha già trẻ. Vậy nên, "giặc" Tây Sơn ngày một mạnh, thế quân Xiêm ngày một suy

Riêng câu : Túng Sát bất lão thiếu là câu nói chua chát nhất mà Nguyễn Ánh phải thừa nhận về sự độc ác của quân Xiêm với dân ta.

Có lẽ Nguyễn Ánh cũng quá kinh sợ trước sự tàn ác của quân Xiêm, nên ông giao lại quyền hành cho các tướng Việt và bỏ đi không tham chiến nữa.
Ngày 10 tháng 1 năm 1785.

Nguyễn Huệ đích thân cùng vài tướng Tây Sơn đi thám thính tình hình, các tướng đề nghị oánh úp quân Xiêm bằng 2 cánh quân từ Sa Đéc và oánh thẳng vào đại bản doanh Trà Tân, Nguyễn Huệ không đồng tình, ông xem xét địa hình, thăm dò lòng dân ở đây và tìm hiểu điểm mạnh, yếu của đối phương.

Cuối cùng, ông quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, cách Mỹ Tho khoảng 12 km, làm trận địa quyết chiến, vì theo ông, quân Xiêm mạnh hơn ta, nếu oánh tay bo e khó thắng, chi bằng nhử chúng vào bẫy, rồi dùng hỏa công dễ tiêu diệt hơn.

Nguyễn Huệ bố trí:

- 4000 quân thủy tinh nhuệ, chia làm 2 mũi, ém sẵn 2 bên bờ sông, chặn 2 đầu quân Xiêm
- 5000 quân, cùng nhiều đại bác vài hỏa hổ, có lẽ là súng phun lửa??? bố trí dọc hai bờ sông Tiền (đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút) và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa.
- Một đoàn thuyền Tây Sơn khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn.
- NHiều thuyền nhẹ chở vật liệu dễ cháy ém sát bên bờ sông.

Ngày 16 thÁNG 1 năm 1785.

Nguyễn Huệ cho quân khiêu chiến

Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn bộ binh men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối họp; còn hắn, cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn hàng trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh của Tây Sơn, quyết bắt hết bộ sậu của Tây Sơn.

Đêm ngày 18 tháng 1 năm 1785

Lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm cùng rầm rộ tấn công.

Mờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1785.

Đoàn thuyền chiến của Xiêm lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở Rạch Gầm-Xoài Mút.

Pháo lệnh tấn công nổ . Hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút bất ngờ lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân Xiêm vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, từ hai bờ sông Tiền các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn ra dữ dội vào khúc giữa đoàn thuyền quân Xiêm lúc bây giờ đang bị ùn lại. Quân Xiêm kêu la vàng trời, nhiều lính bị trúng đạn, bị hỏa hổ đốt cháy, nhảy cả xuống sông, các thuyền nhẹ chứa chất dễ cháy cũng lao vào các tàu chiến, thuốc đạn bén lửa, nổ tung.

Cảnh tượng thật hoành tráng.

Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, quân Xiêm cũng bắt đầu phản công, khai hỏa đại bác bắn vài Tây Sơn, nhiều thuyền chiến Tây Sơn cũng bốc cháy, 1 số lính bỏ chạy, Nguyễn Huệ cho chém ngay những tên lính hay chỉ huy nào bỏ chạy. Quân lính sợ Huệ, lại liều chết xông lên, đằng nào cũng chết.

Bấy giờ, thuyền chiến lớn Tây Sơn mới bắt đầu xuất trận, quân lính dùng dây móc câu, nhảy sang thuyền quân Xiêm giáp chiến. Quân Xiêm bị giết chết quá nhiều, xác trôi đầy sông, số lính còn lại bò vào bờ, bị quân Tây Sơn bắn chết gần hết. Các chiến thuyền bốc cháy ngùn ngụt trên sông.

Đến sáng, gần 20.000 quân Xiêm, vài ngàn quân TQ và Việt cùng Chân lạp của Nguyễn Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt, chỉ còn lại độ 2000 quân, 2 tướng Xiêm cùng đám tàn quân mở đường máu bỏ chạy trối chết.

Nguyễn Ánh nghe tin cấp báo, rụng rời tay chân, vội cùng đoàn tùy tùng rút chạy theo sông Trà Luật ra sông Tiền rồi tìm đường sang Trấn Giang (Cần Thơ), rồi sang Hà Tiên.

Còn quân tay chân Nguyễn Ánh thì tan tác mỗi người một ngả. Viên cai cơ chỉ huy quân thủy là Nguyễn Văn Oai bị chết tại trận. Những viên tướng khác như Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội...mỗi người cũng chỉ còn được dăm chục quân. Mạnh ai nấy chạy.

Thật là một trận thua thê thảm.
 

xdthienha

Xe điện
Biển số
OF-55451
Ngày cấp bằng
21/1/10
Số km
4,719
Động cơ
494,625 Mã lực
Nơi ở
Quê em có Đồ Sơn cơ
Sao cụ vơ em vào làm gì nhỉ
Hóng thớt này của cụ mãi :-bd

Em xin phép làm căn mặt tiền bán trà đá kiếm ít Quang Trung ạ ;))



Trong lúc bàn loạn " " nổi nóng thì qua phố Nguyễn Quang Bích gặp em cho hạ hỏa nhá :))

 

traderdoclap

Xe tăng
Biển số
OF-377305
Ngày cấp bằng
12/8/15
Số km
1,528
Động cơ
261,210 Mã lực
Vâng. Tài năng quân sự của vua Quang Trung thì không thể phủ nhận cũng như những công lao của ông khi đánh đuổi giặc ngoại xâm. Chả thế mà ngày xưa trong MN có trường võ bị rất lớn mang tên ông (trại Quang Trung). Nhưng chỉ tiếc là lịch sử ngày nay đã quá thiên vị vì nhiều lý do khiến cho nhân vật Gia Long lu mờ thậm tạo sự căm ghét trong một bộ phận giới trẻ. Không riêng gì vua Gia Long mà ngay cả vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại cũng lâm vào tình thế như vậy. Ông là một mắc xích cực kỳ quan trọng của lịch sử nhưng lại bị lịch sử bỏ quên.
P/s : Việc lịch sử lãng quên Bảo Đại đã và sẽ dẫn đến những hệ lụy rất tai hại về chủ quyền lãnh thổ nhưng em sẽ không luận bàn tại đây.
Em thì nghĩ hơi khác cụ, vc lịch sử lãng quên vua gia long hay bảo đại đơn giản là ko muốn nhắc đến những giai đoạn ô nhục của dân tộc. Vì dù gia long có công lớn trong vc thống nhất nước nhà nhưng tội của ông: cõng rắn cắn gà nhà thì mãi mãi rửa ko sạch.
Vua bảo đại cũng gần tương tự thế. Thực tế nếu tìm hiểu kỹ thì bđ mặc dù là vị vua ăn chơi có tiếng nhưng lại đc đào tạo có bài bản, có tư tưởng khá cải cách và yêu nc khi nhiều lần ko chịu thỏa hiệp với pháp, chỉ tiếc ông ko gặp thời. Sau năm 45, ông cũng đc cụ hồ mời ra miền bắc làm cố vấn.
vị vua của triều nguyễn đc nhắc đến nhiều nhất chắc chỉ có Minh Mạng ko hẳn là ông có công lao lớn nhất hay tài giỏi nhất mà tại thời của ông đất nc yên ổn nhất.
Nhưng dù sao e cũng rất ủng hộ các cụ về lịch sử thì nên có cái nhìn chân thực dù tốt, dù xấu, ai đúng sai cũng ko còn quan trọng nữa vì dù sao đó cũng là lịch sử. Thế nên những thớt như của cụ đốc là rất đáng quý.
 

nambo85

Xe tải
Biển số
OF-324157
Ngày cấp bằng
19/6/14
Số km
245
Động cơ
290,150 Mã lực
Nơi ở
Ngã tư sở Hà Nội
Vài lời phi-lộ:
Các cụ OF cũng như cá-nhân em, rất thích tìm hiểu lịch-sử nước nhà.
Sau thời gian dài chuẩn bị tài-liệu, dịch, biên- tập, em xin mở thớt nói về nhà Tây Sơn, đây là giai đoạn nước ta có nhiều biến- động về chính -trị, đời- sống nhân- dân..
Thời gian trong phạm- vi thớt, em xin bắt đầu từ giai- đoạn chúa Trịnh Sâm ở Đàng ngoài và chúa Nguyễn Phúc Thuần ở Đàng trong cho đến khi vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn, thống- nhất đất nước đồng thời với cuộc trả -thù tàn -bạo con cháu nhà Tây Sơn, năm 1802.

Sử- liệu viết về giai- đoạn này nhiều, nhưng em hầu như không sử dụng sử trong nước, mà sử dụng chủ yếu tài- liệu các giáo sỹ phương Tây có mặt tại Vn hồi ấy, hiện lưu giữ rất nhiều tại Văn khố hội truyền giáo Paris ( Archives de Mission Etrangères de Paris) và Văn khố dòng Tên, dòng Đa-minh lưu giữ tại thư viện Vatican.
Ngoài ra cũng có tham khảo một số tài liệu của Trung Quốc.

Xin nhiệt tình vodka các cụ bổ xung thêm thông tin, sử liệu cho thớt.
Em rất hâm mộ cụ, chúc cụ luôn mạnh khoẻ và có nhiều thớt ý nghĩa nữa cho ae thưởng thức cũng như bổ sung kiến thức
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
13,442
Động cơ
434,773 Mã lực
Em thì nghĩ hơi khác cụ, vc lịch sử lãng quên vua gia long hay bảo đại đơn giản là ko muốn nhắc đến những giai đoạn ô nhục của dân tộc. Vì dù gia long có công lớn trong vc thống nhất nước nhà nhưng tội của ông: cõng rắn cắn gà nhà thì mãi mãi rửa ko sạch.
Vua bảo đại cũng gần tương tự thế. Thực tế nếu tìm hiểu kỹ thì bđ mặc dù là vị vua ăn chơi có tiếng nhưng lại đc đào tạo có bài bản, có tư tưởng khá cải cách và yêu nc khi nhiều lần ko chịu thỏa hiệp với pháp, chỉ tiếc ông ko gặp thời. Sau năm 45, ông cũng đc cụ hồ mời ra miền bắc làm cố vấn.
vị vua của triều nguyễn đc nhắc đến nhiều nhất chắc chỉ có Minh Mạng ko hẳn là ông có công lao lớn nhất hay tài giỏi nhất mà tại thời của ông đất nc yên ổn nhất.
Nhưng dù sao e cũng rất ủng hộ các cụ về lịch sử thì nên có cái nhìn chân thực dù tốt, dù xấu, ai đúng sai cũng ko còn quan trọng nữa vì dù sao đó cũng là lịch sử. Thế nên những thớt như của cụ đốc là rất đáng quý.
Cụ lý luận, nhận định về sử cứ như đọc thơ đọc tiểu thuyết thế thì đau lòng sử gia lắm ợ.
Lão tử đã có câu "TThánh nhân bất nhân,dĩ thế nhân vi sô cẩu" tức là những người đã gánh trọng trách, không thể hành động vì sự yêu ghét cá nhân, điển hình như cụ Thiệu họ Viên, vì lo cho quý tử mọc mụn đến nỗi không cất nổi quân đi đánh nhau, thế là không thành được nghiệp bá.

Đọc sử để hiểu được những hành động nào là tác động tốt hay xấu đến một hệ thống hay một cộng đồng mới quan trọng; hành động đó có giá trị trong hoàn cảnh mới, thời đại mới không; đó mới là đọc sử với con mắt học hỏi người xưa.
Đọc sử mà vẫn vướng bận với món luận công tội rồi mấy câu chữ kiểu cõng rắn với áo vải cờ đào là lối đọc sử kiểu "tiên sư anh Tào Tháo", nên đọc trên giường cho dễ ngủ như cụ Bằng đã viết ;))
 
Chỉnh sửa cuối:

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
13,442
Động cơ
434,773 Mã lực
Mà cụ traderdoclap bảo Gia Long có công thống nhất đất nước là sai so với sự kiện: xóa sông Gianh là nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn là chơi kiểu phòng thủ chặt, phản công nhanh. Đầu tiên đang cù nhầy với đội Trịnh thì bị khán giả Tây Sơn thấy đá xấu ngứa mắt tràn xuống sân dẹp loạn đuổi phăng cả hai đội Trịnh Nguyễn.Nhà Nguyễn dù bị đối phương Tây Sơn ghi bàn trước đá đýt chạy bạt ra biên nhưng thuê cầu thủ ngoại, HLV ngoại về lật cánh đánh đầu chiếm lại thế thượng phong. Sau có chiếm cả sân đấu nhưng cái việc dẹp loạn toàn sân là của đội Tây Sơn cụ nhé ;))
Còn chuyện chiếm sân rồi còn lao vào phòng thay quần áo bóp cổ đập đầu cầu thủ đối phương, xé hợp đồng quỵt tiền HLV ngoại thì là chuyện bên lề lịch sử, dành cho các báo lá cải khóc thuê, cụ nhẩy ;))
 

en lờ 100

Xe tải
Biển số
OF-346713
Ngày cấp bằng
14/12/14
Số km
418
Động cơ
274,080 Mã lực
Nơi ở
Vĩa hè kế bên NewWord Sài Gòn
Mà cụ traderdoclap bảo Gia Long có công thống nhất đất nước là sai so với sự kiện: xóa sông Gianh là nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn là chơi kiểu phòng thủ chặt, phản công nhanh. Đầu tiên đang cù nhầy với đội Trịnh thì bị khán giả Tây Sơn thấy đá xấu ngứa mắt tràn xuống sân dẹp loạn đuổi phăng cả hai đội Trịnh Nguyễn.Nhà Nguyễn dù bị đối phương Tây Sơn ghi bàn trước đá đýt chạy bạt ra biên nhưng thuê cầu thủ ngoại, HLV ngoại về lật cánh đánh đầu chiếm lại thế thượng phong. Sau có chiếm cả sân đấu nhưng cái việc dẹp loạn toàn sân là của đội Tây Sơn cụ nhé ;))
Còn chuyện chiếm sân rồi còn lao vào phòng thay quần áo bóp cổ đập đầu cầu thủ đối phương, xé hợp đồng quỵt tiền HLV ngoại thì là chuyện bên lề lịch sử, dành cho các báo lá cải khóc thuê, cụ nhẩy ;))
Nhưng Tây Sơn chỉ là danh từ chung thôi cụ chứ thực tế nó có đến 3 đội đấy : Inter Tây Sơn, AC Tây Sơn và United Tây Sơn :))
 

panameraf

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-158475
Ngày cấp bằng
27/9/12
Số km
2,243
Động cơ
377,128 Mã lực
Mà cụ traderdoclap bảo Gia Long có công thống nhất đất nước là sai so với sự kiện: xóa sông Gianh là nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn là chơi kiểu phòng thủ chặt, phản công nhanh. Đầu tiên đang cù nhầy với đội Trịnh thì bị khán giả Tây Sơn thấy đá xấu ngứa mắt tràn xuống sân dẹp loạn đuổi phăng cả hai đội Trịnh Nguyễn.Nhà Nguyễn dù bị đối phương Tây Sơn ghi bàn trước đá đýt chạy bạt ra biên nhưng thuê cầu thủ ngoại, HLV ngoại về lật cánh đánh đầu chiếm lại thế thượng phong. Sau có chiếm cả sân đấu nhưng cái việc dẹp loạn toàn sân là của đội Tây Sơn cụ nhé ;))
Còn chuyện chiếm sân rồi còn lao vào phòng thay quần áo bóp cổ đập đầu cầu thủ đối phương, xé hợp đồng quỵt tiền HLV ngoại thì là chuyện bên lề lịch sử, dành cho các báo lá cải khóc thuê, cụ nhẩy ;))
Công lao đội Tây Sơn rõ rồi cơ mà theo em phải đặt mình vào hoàn cảnh và trình độ lúc bấy giờ đồng thời có nhìn nhận khách quan thì:
Sân chơi của 2 đội Trịnh nguyễn đang đá, đội TS tự dưng nhảy vào éo ai chịu, nếu đội Nguyễn dùng thủ đoạn chơi lại đội TS cũng là bình thường thôi.
Đội Nguyễn chiếm lại được sân khi đội TS bắt đầu loạn rồi, nếu cứ để nguyên thì có khi cũng loạn như lúc 2 đội Trịnh Nguyễn đá nên đội Nguyễn cũng có công (tất nhiên công ấy ko lớn nhưng em nghĩ bị chửi như bây giờ là quá đáng).

Sau này đội Trịnh (phẩy) và đội Nguyễn (phẩy) gặp lại nhau, đội Nguyễn (phẩy) thuê cầu thủ Mỹ đá thuê còn đội Trịnh (phẩy ) ko thuê cầu thủ ngoại nhưng thuê huấn luyện viên ngoại người Liên xô thì khác éo gì. Có phải giống Nguyễn Ánh không?
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top