[Funland] Lượm lặt tin tức quân sự đó đây, có gì đăng nấy

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Bharat Electronics giành được hợp đồng nâng cấp hệ thống BMP-2

Công ty Bharat Electronics (BEL) của Ấn Độ đã trúng thầu cung cấp các hệ thống hỗ trợ nâng cấp xe chiến đấu bộ binh (IFV) BMP-2 của Quân đội Ấn Độ.

Công ty nhà nước này cho biết trong hồ sơ nộp lên Sở giao dịch chứng khoán Bombay vào ngày 28 tháng 6 rằng theo thỏa thuận trị giá 31,72 tỷ INR (380,5 triệu đô la Mỹ), công ty sẽ tích hợp hệ thống ngắm bắn và kiểm soát hỏa lực (FCS) do địa phương phát triển vào BMP-2. Hợp đồng cũng bao gồm một gói hỗ trợ kỹ thuật.

1719886261850.png


BEL đã ký hợp đồng với Armoured Vehicles Nigam Limited (AVNL), một công ty nhà nước khác. AVNL đang nâng cấp BMP-2 của Quân đội Ấn Độ lên tiêu chuẩn BMP-2M theo hợp đồng do Bộ Quốc phòng Ấn Độ (MoD) công bố vào tháng 3. Bản nâng cấp bao gồm 693 xe.

BEL chưa tiết lộ các thông tin chi tiết khác về hợp đồng với AVNL, bao gồm cả ngày hoàn thành dự kiến.

Theo Bộ Quốc phòng, tên gọi BMP-2M bao gồm việc tích hợp các hệ thống chiến đấu ban đêm, kính ngắm chính của pháo thủ, kính ngắm toàn cảnh của chỉ huy và FCS với hệ thống theo dõi mục tiêu tự động.

Bộ Quốc phòng cho biết các hệ thống này được mua thông qua một danh mục mua sắm được gọi là Thiết kế, Phát triển và Sản xuất tại Ấn Độ, trong đó nêu rõ yêu cầu phải có ít nhất 50% nội dung bản địa.

1719886346091.png


Các hệ thống này được BEL phát triển với sự hợp tác của Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng (DRDO) của chính phủ.

Theo thông tin trên trang web của BEL, chương trình nâng cấp BMP-2M bao gồm bốn yếu tố chính: kính ngắm của pháo thủ, kính ngắm của chỉ huy, FCS tích hợp và nâng cấp tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM).

Cả hai bản nâng cấp dành cho pháo thủ và chỉ huy sẽ cho phép sử dụng hệ thống ngắm ổn định hai trục có gắn thiết bị hình ảnh nhiệt, cho phép tìm và tiêu diệt mục tiêu. Chúng cũng bao gồm máy đo khoảng cách laser mới và giao diện người dùng.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Lockheed giành được hợp đồng tên lửa Patriot PAC-3 trị giá 5,2 tỷ đô la từ Quân đội Hoa Kỳ

Lockheed Martin đã giành được hợp đồng trị giá 5,2 tỷ đô la để cung cấp tên lửa Patriot Advanced Capability-3 (PAC-3) cho Quân đội Hoa Kỳ.

Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DoD) không cho biết có bao nhiêu tên lửa sẽ được giao theo hợp đồng.

1719886607734.png


Tuy nhiên, công ty cho biết công việc thực hiện thỏa thuận này sẽ được thực hiện tại các cơ sở của Lockheed ở Alabama, Florida, New York và chín tiểu bang khác.

Việc giao hàng sẽ diễn ra đến hết năm 2027.

Vào tháng 10 năm 2022, Lockheed thông báo sẽ mở một cơ sở mới tại Arkansas để tăng sản lượng tên lửa PAC-3 thêm 500 tên lửa mỗi năm.

Patriot, hay Hệ thống theo dõi mảng pha để đánh chặn mục tiêu, đóng vai trò là hệ thống phòng không và tên lửa chính của Quân đội Hoa Kỳ.

Nó được thiết kế để vô hiệu hóa tên lửa đạn đạo chiến thuật, tên lửa hành trình và máy bay tiên tiến.

Trong những năm qua, vũ khí này đã trải qua nhiều nâng cấp cần thiết để giải quyết các mối đe dọa hiện đại, mở đường cho phiên bản PAC-3 .

1719886691975.png


Với thiết kế lại gần như toàn bộ hệ thống, phiên bản mới tự hào có công nghệ tấn công mục tiêu tiên tiến, cho phép tên lửa tiêu diệt mục tiêu bằng cách tấn công trực tiếp vào chúng.

Máy bay cũng được trang bị hệ thống dẫn đường sóng milimet Ka-band của Boeing cho phép phát hiện, nhận dạng, theo dõi và hỗ trợ tấn công mục tiêu chính xác.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Iran cảnh báo Israel sẽ bị 'xóa sổ' nếu tấn công Lebanon

Hôm thứ Bảy, Iran đã cảnh báo rằng "tất cả các Mặt trận Kháng chiến", một nhóm gồm Iran và các đồng minh khu vực, sẽ đối đầu với Israel nếu nước này tấn công Lebanon.

1719887186473.png

Quân đội Israel gần biên giới với Li Băng

Bình luận từ phái đoàn Iran tại New York xuất hiện cùng với nỗi lo sợ về một cuộc chiến tranh khu vực rộng lớn hơn liên quan đến Israel và phong trào Hezbollah do Iran hậu thuẫn của Lebanon. Hai bên đã tham gia vào các cuộc đấu súng gần như hàng ngày kể từ khi cuộc chiến ở Gaza bắt đầu .

Những cuộc pháo kích như vậy đã leo thang trong tháng này, cùng với những lời lẽ hiếu chiến từ cả hai phía. Quân đội Israel cho biết kế hoạch tấn công Lebanon đã được "phê duyệt và xác nhận", khiến Hezbollah phải đáp trả rằng không ai trong số Israel sẽ sống sót trong một cuộc xung đột toàn diện.

Trong một bài đăng trên nền tảng mạng xã hội X, phái bộ Iran cho biết họ "coi hành động tuyên truyền của chế độ Zionist về ý định tấn công Lebanon là chiến tranh tâm lý".

Nhưng, báo cáo nói thêm, "nếu họ bắt đầu một cuộc xâm lược quân sự toàn diện, một cuộc chiến tranh xóa sổ sẽ xảy ra. Tất cả các lựa chọn, bao gồm cả sự tham gia đầy đủ của tất cả các Mặt trận Kháng chiến, đều nằm trên bàn cân."

Cuộc chiến ở Gaza bắt đầu vào tháng 10 khi phiến quân Hamas của Palestine tấn công miền nam Israel.

Iran, quốc gia ủng hộ Hamas, đã ca ngợi cuộc tấn công là thành công nhưng phủ nhận mọi sự liên quan.

1719887265010.png

Quân đội Israel gần biên giới với Li Băng

Bên cạnh các cuộc tấn công của Hezbollah vào miền bắc Israel, quân nổi dậy được Iran hậu thuẫn ở Yemen đã nhiều lần tấn công các tàu thương mại ở khu vực Biển Đỏ trong những hành động mà họ cho là thể hiện sự đoàn kết với người Palestine.

Iran cũng ủng hộ các nhóm khác trong khu vực.

Cộng hòa Hồi giáo không công nhận Israel kể từ cuộc cách mạng năm 1979 lật đổ vua Shah của Iran được Mỹ hậu thuẫn.

Nỗi lo sợ về chiến tranh khu vực cũng tăng vọt vào tháng 4 sau một cuộc không kích san bằng lãnh sự quán Iran tại Damascus và giết chết bảy Vệ binh Cách mạng , trong đó có hai vị tướng.

Iran đáp trả bằng cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và tên lửa chưa từng có vào Israel vào ngày 13-14 tháng 4.

Truyền thông nhà nước Iran sau đó đưa tin về vụ nổ ở tỉnh miền trung Isfahan khi truyền thông Hoa Kỳ trích dẫn lời các quan chức Mỹ cho biết Israel đã thực hiện các cuộc tấn công trả đũa vào đối thủ truyền kiếp của mình.

Tehran đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của vụ đột kích được đưa tin của Israel.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Chiến tranh Ukraine sẽ kết thúc bằng sự đầu hàng

Và sẽ không có bất kỳ cuộc đàm phán nào với Zelensky khi quân đội Ukraine sụp đổ và một chính phủ thay thế được thành lập.

Cuộc chiến tranh Ukraine sẽ kết thúc bằng sự đầu hàng, không phải bằng một thỏa thuận đàm phán. Đó là cảm nhận của tôi về hướng đi của cuộc chiến và lý do tại sao các bên không thể đàm phán giải quyết.

1719888096083.png


Nếp nhăn mới nhất trong câu chuyện đàm phán còn thiếu này là một tuyên bố dưới hình thức cuộc phỏng vấn do Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky thực hiện với tờ Philadelphia Inquirer.

Trong cuộc phỏng vấn, Zelensky cho biết không thể có đàm phán trực tiếp giữa Ukraine và Nga nhưng có thể có đàm phán gián tiếp thông qua bên thứ ba. Trong kịch bản được Zelensky đề xuất, bên thứ ba sẽ đóng vai trò trung gian và bất kỳ thỏa thuận nào cũng sẽ chỉ diễn ra với bên trung gian, không phải giữa Nga hoặc Ukraine. Zelensky đề xuất rằng Liên Hợp Quốc có thể hành động trong vai trò này.

Tuy nhiên, đề xuất của Zelensky không được chấp nhận vì nhiều lý do, nhưng lý do lớn nhất là các quốc gia tham chiến cần phải trực tiếp đồng ý chấm dứt xung đột.

Không có hy vọng nào về việc bên thứ ba thực hiện bất kỳ thỏa thuận nào, như các thỏa thuận Minsk thất bại (2014, 2015) đã chứng minh. Minsk là một trường hợp kết hợp, trong đó thỏa thuận được ký kết bởi Nga, Ukraine và Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE).

1719888228533.png


Ukraine từ chối thực hiện thỏa thuận và OSCE tỏ ra bất lực và không muốn cố gắng thực thi các thỏa thuận Minsk. Thỏa thuận này có sự ủng hộ chính trị từ Đức và Pháp, mặc dù không bên nào ký kết hoặc có nghĩa vụ pháp lý theo bất kỳ cách nào để hỗ trợ thỏa thuận kết quả.

"Đề xuất" của Zelensky thực sự chỉ là một bức bình phong khác để đánh lạc hướng chỉ trích Ukraine vì không muốn giải quyết với Nga. Ba thế lực mạnh đang ngăn cản Zelensky khỏi bàn đàm phán.

Điều quan trọng nhất là các nước Anglo-Saxon chính trong NATO, cụ thể là Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, phản đối mạnh mẽ bất kỳ cuộc đàm phán nào với Nga. Hoa Kỳ đã làm mọi thứ có thể, bao gồm cả thông qua các biện pháp trừng phạt và ngoại giao, để ngăn chặn bất kỳ cuộc đối thoại nào với Nga về bất kỳ chủ đề nào (ngoại trừ trao đổi tù nhân).

Lý do thứ hai là luật pháp Ukraine, do Zelensky bảo trợ, cấm đàm phán với Nga. Verkhovna Rada (quốc hội Ukraine) có thể hủy bỏ luật đó trong tích tắc nếu Zelensky yêu cầu họ làm như vậy nhưng ông ta có thể sẽ không làm vậy.

Zelensky kiểm soát hoàn toàn quốc hội Ukraine, đã bắt giữ hoặc trục xuất các chính trị gia đối lập và kiểm soát báo chí và các phương tiện truyền thông khác. Nắm đấm sắt của Zelensky có nghĩa là ông sẽ không cho phép đàm phán trực tiếp.

Zelensky cũng đã ký sắc lệnh cấm mọi cuộc đàm phán với tổng thống Nga Vladimir Putin.

Lý do thứ ba liên quan đến áp lực lên Zelensky từ những người theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu, đặc biệt là lữ đoàn Azov tân phát xít. Bằng chứng trực tiếp cho điều này là việc sa thải Trung tướng Yuri Sodol, chỉ huy cấp cao của lực lượng Kiev ở khu vực Kharkov.

1719888357899.png


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Sodol bị các chỉ huy lữ đoàn Azov cáo buộc giết nhiều người Ukraine hơn người Nga trong các trận chiến ở Kharkov. Azov đã chuyển thông điệp của họ đến Rada và Zelensky đã thực hiện bằng cách sa thải Sodol.

1719888823305.png

Tướng Sodol

Kể từ khi Sodol bị sa thải, tình hình của Ukraine đã trở nên tồi tệ hơn dọc theo toàn bộ tuyến tiếp xúc. Tổn thất trong trận chiến của Ukraine rất cao, có ngày lên tới 2.000 người thiệt mạng và bị thương.

Người Nga đã tăng cường các cuộc tấn công bằng bom lượn FAB, bao gồm cả loại bom khổng lồ FAB-3000 vừa tấn công vào một trung tâm chỉ huy của quân đội Ukraine tại thị trấn Donbass ở New York và được cho là đã giết chết 60 quân nhân Ukraine hoặc hơn.

Người Nga nói rằng Zelensky không phải là đối tác đàm phán khả thi vì nhiệm kỳ của ông đã kết thúc vào tháng 5. Có một số nhầm lẫn về tình hình pháp lý ở Ukraine nhưng các chuyên gia trong và ngoài Ukraine cho rằng quyền lãnh đạo đất nước nên chuyển giao cho Chủ tịch Rada kể từ khi Zelensky hoàn thành nhiệm kỳ của mình.

Ruslan Stefanchuk là chủ tịch Rada và đang hoạt động chính trị tích cực hơn, mặc dù ông không phản đối việc Zelensky tiếp tục nắm quyền.

Trong khi đó, xét theo tình hình chiến trường, người Nga chắc chắn cho rằng sẽ sớm đến lúc quân đội Ukraine sụp đổ hoặc đầu hàng, hoặc cả hai.

Trong cả hai trường hợp, chính phủ Ukraine sẽ cần phải được thay thế theo một cách nào đó, có thể là bằng một ban lãnh đạo quân sự tạm thời do Nga lựa chọn. Điều đó sẽ cho phép người Nga lập một thỏa thuận đầu hàng với một chính phủ thay thế.

1719889207415.png


Việc quân đội Ukraine đầu hàng và đạt được thỏa thuận với chính phủ do Nga chỉ định sẽ khiến NATO không thể tiếp tục can dự vào Ukraine.

Điều đó cuối cùng có thể mở ra cánh cửa cho một cuộc đối thoại an ninh giữa NATO và Nga sau khi NATO hiểu được những gì đã xảy ra và lý do tại sao. Thật không may, việc đưa những nhà lãnh đạo chính trị đã hết thời như Marc Rutte vào NATO không phải là điềm lành cho tương lai của liên minh.

Thông điệp chính gửi tới NATO nếu Nga giành chiến thắng ở Ukraine, và có vẻ như ngày càng có khả năng xảy ra, là liên minh an ninh phải ngừng mở rộng và tìm kiếm một thỏa thuận ổn định hơn với Nga ở châu Âu.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Sự mất cân bằng quyền lực thúc đẩy Hoa Kỳ, Nhật Bản đến Biển Đông

Việc Trung Quốc tăng cường quân sự ồ ạt đã làm lu mờ chi tiêu quân sự của Đông Nam Á, nghĩa là lựa chọn tốt nhất của các bên yêu sách đối thủ là ngả sang Tokyo và Washington.

1719889515381.png

Tàu sân bay USS Ronald Reagan (CVN 76) được triển khai ở phía trước của Hải quân Hoa Kỳ đi qua Eo biển San Bernardino, băng qua Biển Philippines vào Biển Đông

Có rất nhiều khoảnh khắc đáng chú ý tại Đối thoại Shangri-La, hội nghị thượng đỉnh quốc phòng khu vực thường niên do Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế tại Singapore tổ chức vào những ngày đầu tháng 6.

Trong đó có một số lời lẽ hung hăng về Đài Loan từ bộ trưởng quốc phòng mới của Trung Quốc, Đô đốc Dong Jun; các cuộc biểu tình rõ ràng về thương vong của dân thường ở Gaza từ cả Tổng thống đắc cử Prabowo Subianto của Indonesia và bộ trưởng quốc phòng Malaysia; và sự xuất hiện bất ngờ của Tổng thống Volodymyr Zelensky của Ukraine, người có mặt ở đó để tập hợp sự ủng hộ từ các cường quốc Đông Nam Á và các nước có thu nhập trung bình khác cho hội nghị thượng đỉnh hòa bình của ông tại Thụy Sĩ vào ngày 15-16 tháng 6.

Nhưng gây ấn tượng nhất chắc chắn thuộc về Tổng thống Ferdinand “Bongbong” Marcos của Philippines, khi ông phát biểu rằng nếu một quân nhân Philippines bị giết bởi vòi rồng của Trung Quốc trong một cuộc đối đầu ở Biển Đông, thì điều đó gần như chắc chắn sẽ được coi là một hành động chiến tranh.

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Lloyd Austin, tỏ ra thận trọng hơn về vấn đề này, vì một "hành động chiến tranh" sẽ viện dẫn hiệp ước phòng thủ chung năm 1951 giữa Hoa Kỳ và Philippines, các điều khoản mà chính Austin đã tái khẳng định khi ký Nguyên tắc phòng thủ song phương mới vào tháng 5 năm 2023. Nhưng thông điệp vẫn được gửi đi, to và rõ ràng.

1719889943641.png


Nhận xét của Tổng thống Marcos, được đưa ra để trả lời câu hỏi của một nhà báo Financial Times, đã khiến cả căn phòng vừa hồi hộp vừa lạnh người. Đối với nhiều người, thật phấn khích khi nghe một nhà lãnh đạo Đông Nam Á phản ứng mạnh mẽ trước sự bắt nạt của Trung Quốc.

Nhưng cũng có sự lạnh lùng vì những hàm ý: rằng một cuộc chiến tranh liên quan đến hai lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới có thể nổ ra không chỉ vì vấn đề có thể dự đoán trước là Đài Loan, nơi mà các cuộc chuẩn bị và đàm phán mang lại hy vọng ngăn chặn xung đột, mà còn vì nhiều rạn san hô và bãi cạn đang tranh chấp ở Biển Đông, nơi tiềm ẩn nhiều khả năng xảy ra tính toán sai lầm và tai nạn trên biển.

Sau đó, vào ngày 15 tháng 6, một sắc lệnh mới của Trung Quốc có hiệu lực cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ bất kỳ công dân nước ngoài nào vi phạm các ranh giới trên biển ở Biển Đông do Trung Quốc đơn phương thiết lập. Sắc lệnh này ngay lập tức dẫn đến vụ va chạm giữa một tàu Trung Quốc và một tàu Philippines vào ngày 17 tháng 6 khiến một thủy thủ Philippines bị thương nặng.

Điều này cũng làm dấy lên khả năng rằng trong khi chúng ta hy vọng rằng không có quân nhân Philippines nào thiệt mạng do áp lực từ Trung Quốc đối với nhiệm vụ của họ, thì Trung Quốc có thể chọn bắt giữ ngư dân, lực lượng bảo vệ bờ biển hoặc những người khác theo sắc lệnh mới của mình và trên thực tế là giữ họ làm con tin, thách thức những người đối lập hành động để đáp trả hoặc buộc họ phải đàm phán.

1719890046899.png


Đây là một viễn cảnh đáng lo ngại. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa rằng sẽ tiếp tục có những cuộc chạm trán xấu xí trên biển và những lời lẽ gay gắt giữa các chính phủ liên quan, có thể là trong nhiều thập kỷ tới.

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã nói về nhu cầu cần có một “bộ quy tắc ứng xử” cho các hoạt động hàng hải ở Biển Đông kể từ giữa những năm 1990, nhưng không có tiến triển nào được thực hiện, ngoài các cuộc đàm phán về nhu cầu đàm phán. Điều này phản ánh hai thực tế cơ bản.

Đầu tiên là Trung Quốc coi toàn bộ Biển Đông, và có thể cả Biển Hoa Đông, là không gian chiến lược quan trọng mà họ muốn kiểm soát.

Trong thời hiện đại, mong muốn này lần đầu tiên được Tướng Tưởng Giới Thạch bày tỏ vào năm 1947 khi nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ đưa ra một bản đồ có “đường mười một đoạn”, uốn cong như một cái lưỡi khổng lồ qua Biển Đông để mô tả khu vực mà Trung Quốc tuyên bố kiểm soát. Bản đồ đó sau đó đã được những người C..S Trung Quốc chấp nhận và điều chỉnh, những người đã đánh bại ông vào năm 1949.

Số lượng đường đứt đoạn trên bản đồ đã thay đổi đôi chút theo thời gian - có 10 đường đứt đoạn trên bản đồ chính thức năm 2023 của Trung Quốc, tăng từ chín đường đứt đoạn trong 70 năm trước - nhưng tuyên bố chủ quyền vẫn được giữ nguyên.

1719890173111.png


Điều này trái ngược với vụ kiện năm 2016 tại Tòa án Trọng tài Quốc tế ở The Hague do Philippines đệ trình, trong đó phán quyết rằng đường đứt khúc không có giá trị theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS).

Trung Quốc chưa bao giờ nêu rõ liệu yêu sách này là về chủ quyền lãnh thổ hay chỉ là kiểm soát chiến lược, có lẽ muốn giữ các lựa chọn của mình mở và để đối thủ đoán. Sắc lệnh ngày 15 tháng 6 của họ cho thấy họ có thể muốn củng cố các định nghĩa đó, ít nhất là ở một số khu vực của Biển Đông.

Thực tế cơ bản khác, thực sự chỉ xuất hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây với sự phát triển quân sự ồ ạt của Trung Quốc, là có sự mất cân bằng quyền lực rất lớn giữa Trung Quốc ở một bên và các quốc gia Đông Nam Á ở bên kia.

Trong khi Trung Quốc hiện sở hữu lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, không một quốc gia nào trong số Indonesia, Malaysia, Philippines hay Việt Nam có thể xây dựng lực lượng riêng của mình để đối phó, do yếu kém về kinh tế hoặc các ưu tiên chính trị cạnh tranh.

Trong số các quốc gia ASEAN nằm trong hoặc xung quanh Biển Đông, chỉ có thành phố-quốc gia Singapore và Brunei nhỏ bé chi hơn 2% GDP hàng năm cho quốc phòng. Ngân sách quốc phòng năm 2023 của Singapore là 13,4 tỷ đô la Mỹ, cao hơn gấp đôi so với 6,1 tỷ đô la mà Philippines chi.

Indonesia, quốc gia ASEAN lớn nhất về dân số (275 triệu người) đã chi 8,8 tỷ đô la, nhưng con số này chỉ chiếm 0,62% GDP. Ngân sách quốc phòng chính thức của Trung Quốc năm 2023 là 219 tỷ đô la.

1719890320182.png


Sự mất cân bằng lớn đó phản ánh tham vọng trở thành cường quốc của Trung Quốc nhưng cũng phản ánh kỷ lục tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của nước này. Có nhiều khả năng sự mất cân bằng này có thể thu hẹp trong những thập kỷ tới, vì tăng trưởng kinh tế ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam hiện đang nhanh hơn ở Trung Quốc.

Ví dụ, nếu những quốc gia đó có thể đạt được mức tăng trưởng trung bình 7% mỗi năm từ nay đến năm 2050, và nếu tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của Trung Quốc chậm lại còn 3%, thì sức nặng kinh tế kết hợp của bốn quốc gia này sẽ đạt tới 45% GDP hàng năm của Trung Quốc vào giữa thế kỷ, so với chỉ 15% hiện nay, hoặc thậm chí còn cao hơn nếu tỷ giá hối đoái biến động theo hướng có lợi cho Đông Nam Á.

Sự tăng trưởng như vậy sẽ giúp Philippines và các nước khác xây dựng lực lượng quân sự mạnh hơn nhiều, ngăn cản Trung Quốc đẩy họ ra Biển Đông. Vấn đề là việc khắc phục sự mất cân bằng kinh tế to lớn đó sẽ mất thời gian, trong khi các cuộc khủng hoảng, xung đột và tính toán sai lầm tiềm tàng đang xảy ra ngay bây giờ.

Chiến lược dài hạn đúng đắn là tìm kiếm tăng trưởng kinh tế bền vững, hưởng lợi từ sự đa dạng hóa khỏi Trung Quốc mà nhiều công ty đang theo đuổi. Tuy nhiên, chiến lược ngắn hạn đúng đắn vẫn phải là duy trì mối quan hệ gần gũi với hai người bạn tốt nhất không phải là ASEAN mà các quốc gia ven biển Biển Đông này có: Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Vai trò của Hoa Kỳ và Nhật Bản trong khu vực sẽ ngày càng tăng cho đến khi sự mất cân bằng quyền lực lớn đó được giảm bớt.

1719890449280.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Hoạt động tác chiến phòng không trong cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine

Xung đột Nga-Ukraine nổ ra vào ngày 24 tháng 2 năm 2022. Liên quan đến cuộc xung đột này, có nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Trong đó, Nga gọi đây là một "chiến dịch quân sự đặc biệt" với mục tiêu chính là "vô hiệu hóa và giải trừ khả năng phát xít của Ukraine" chứ không khơi mào cuộc chiến do các nguyên nhân không kích từ phía Quân đội Mỹ như những gì truyền thông phương Tây thêu dệt.

1719894886579.png

Su-35 của Nga

Kể từ khi cuộc xung đột nổ ra, mặc dù xét về tổng thể chưa có một bên nào đủ khả năng dành hoàn toàn quyền kiểm soát trên không và hạn chế sử dụng vũ khí, trang thiết bị mới của đối phương. Thay vào đó, giới chuyên gian quân sự thế giới đều nhận định, cuộc xung đột này đã trở thành một cuộc chiến cơ giới hóa được hỗ trợ bởi năng lực và công nghệ thông tin hiện đại. Ukraine đã chống chọi được đợt tấn công đầu tiên của quân đội Nga, và với sự hỗ trợ năng lực tình báo, vũ khí trang bị, huấn luyện quân sự và chiến thuật tác chiến của Mỹ và phương Tây, Ukraine cũng dần dần bắt đầu làm quen với tình hình chiến sự căng thẳng và tiếp cận nó như một cuộc chiến tranh công nghệ cao.

Khi đánh giá về cuộc xung đột này, giới phân tích quân sự quốc tế đặc biệt chú ý tới năng lực tác chiến phòng không của hai bên. Theo đó, các ý kiến đều nhận định, năng lực tác chiến phòng không của Nga và Ukraine có tác động quan trọng đến quá trình tác chiến cũng như kết quả từng trận đánh trên thực địa. Do đó, nghiên cứu năng lực tác chiến phòng không trong cuộc xung đột này đáng được nghiên cứu sâu để quân đội các nước khác tham khảo, vận dụng trong hoạt động tác chiến tương lai.

Đặc điểm tác chiến tấn công đường không trong xung đột Nga-Ukraine

Quân đội Nga và quân đội Ukraine đều là những quân đội bị ảnh hưởng sâu sắc bở tâm lý “Lục quân” mạnh mẽ. Điều này có nghĩa là cả hai nước từ trước đến nay luôn tập trung nguồn lực phát triển lực lượng lục quân. Do đó, quá trình phát triển quân đội hai nước cũng luôn tập trung vào chiến thuật tác chiến trên bộ và lực lượng lục quân được hỗ trợ mạnh mẽ bởi sức mạnh không quân.

Quy mô của các cuộc tấn công đường bị hạn chế

Các cuộc không kích của Nga và Ukraine còn hạn chế, điều này khác hẳn với tư tưởng tác chiến tấn công phủ đầu dồn dập bằng không quân như Quân đội Mỹ sử dụng tại một số cuộc chiến tranh trước đây, các biểu hiện chủ yếu như sau:

Thứ nhất, là việc sử dụng giới hạn vũ khí dẫn đường chính xác trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Trong ngày đầu tiên của cuộc chiến, quân đội Nga đã phóng hơn 100 loại vũ khí dẫn đường chính xác vào 83 mục tiêu trọng điểm ở Ukraine (trong đó có 11 sân bay của lực lượng không quân, 3 sở chỉ huy, 1 căn cứ hải quân, 18 trạm radar tên lửa phòng không, v.v.). Như vậy, trung bình mỗi mục tiêu chỉ được sử dụng 1-2 tên lửa. Quân đội Nga đã phóng hơn 320 tên lửa tầm trung và tầm xa trong 4 ngày đầu tiên.

1719895001862.png

Tu-95 của Nga phóng tên lửa hành trình

Theo thống kê, tính đến cuối tháng 5 năm 2022, nước này đã phóng tổng cộng hơn 2.000 tên lửa tầm trung và tầm xa trong 3 tháng. Trong khi đó, trong Chiến tranh Iraq năm 2003, trước khi cuộc chiến chính thức nổ ra, trong thời gian khoảng 14 ngày, quân đội Mỹ đã thả 14.000 quả bom dẫn đường chính xác cao và phóng 750 tên lửa hành trình chính xác tầm xa .Trong Chiến tranh Syria 2018, lực lượng chung gồm Mỹ, Anh và Pháp đã thả 14.000 quả bom dẫn đường và phóng 750 tên lửa hành trình trong vòng khoảng 7 giờ trước khi thời điểm bắt đầu chiến tranh. Điều này cho thấy, cường độ và mật độ hỏa lực từ các lực lượng vũ trang quân đội Nga diễn ra khá khiêm tốn. Điều này là không đủ và không đạt được hiệu quả làm tê liệt hệ thống chiến đấu của quân đội Ukraine và làm tan rã ý chí chiến đấu của quân đội Ukraine.

Về phía quân đội Ukraine, chỉ có 90 xe phóng tên lửa chiến thuật tác chiến Tochka-U được sử dụng, khả năng tấn công chính xác tầm xa cực kỳ hạn chế, thỉnh thoảng họ phóng 1-2 tên lửa rời rạc, hiệu quả xuyên thấu kém và sát thương hạn chế.

1719895090740.png

Tên lửa chiến thuật tác chiến Tochka-U

Thứ hai, máy bay chiến đấu được điều động tác chiến một cách thận trọng hơn. Không có trận không chiến quy mô lớn nào để giành ưu thế trên không trong cuộc xung đột. Theo đó, Nga và Ukraine thường điều động các máy bay chiến đấu theo đội hình hai máy bay. Đối với quân đội Nga, việc triển khai lực lượng không quân thường được sử dụng hạn chế với phương châm "chậm mà chắc". Dữ liệu tình báo công khai từ phương Tây cho thấy quân đội Nga đã sử dụng tổng cộng khoảng 300 máy bay cánh cố định các loại, trong đó có khoảng 150-200 máy bay chiến đấu. Khi xung đột giữa Nga và Ukraine chuyển từ chiến thuật "chiến tranh chớp nhoáng" sang "chiến tranh tiêu hao" và "chiến tranh kéo dài", quân đội Nga ngày càng áp dụng sự kết hợp giữa các cuộc không kích ban đêm và tấn công pháo binh ban ngày, với chiến thuật sử dụng khoảng hơn 100 chiếc máy bay chiến đấu xuất kích mỗi ngày.

Trong khi đó, trong cuộc chiến tranh tại Iraq, Quân đội Mỹ đã huy động một lực lượng lớn không quân, có tần suất cất cánh hơn 2.000 phi vụ/ngày. Về phía quân đội Ukraine, họ bị tổn thất nặng nề trong các cuộc không chiến dưới hỏa lực của Nga và về cơ bản mất đi ưu thế trên không nhưng vẫn luôn duy trì được khả năng cất cánh. Chẳng hạn vào ngày 7/5/2022, quân đội Ukraine đã điều động 2 chiếc máy bay chiến đấu thực hiện các đòn không kích vào một số cơ sở quân sự của Nga trên thực địa ở độ cao cực thấp.

..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Vũ khí tấn công đường không rất đa dạng và có hiệu suất chiến đấu thực tế đáng ngạc nhiên

Các chuyên gia phân tích quân sự đều nhận định rằng, cả Nga và Ukraine đều đã đầu tư rất nhiều nguồn lực vào phát triển và triển khai hầu hết các loại vũ khí tấn công đường không trong cuộc xung đột quân sự này.

1719895268807.png

Su-34 của Nga

Về máy bay cánh cố định, ở giai đoạn đầu của cuộc xung đột, quân đội Nga chủ yếu sử dụng các máy bay không có khả năng tàng hình như Su-27, Su-34 và Su-35. Tuy nhiên, khi tình hình và khả năng giành ưu thế trên không có dấu hiệu bế tắc, tiêm kích tàng hình tối tân nhất của Nga là Su-57 đã được huy động tham gia các hoạt động hỗ trợ tác chiến trên chiến trường. Trong khi đó, quân đội Ukraine chủ yếu sử dụng các máy bay chiến đấu không tàng hình thế hệ cũ như Su-24, Su-25, Su-27 và MiG-29.

Về trang bị trực thăng vũ trang, quân đội Nga đã sử dụng khoảng 400 trực thăng các loại như Ka-52, Mi-8, Mi-28N, Mi-24 và Mi-35. Với các trang bị này, Nga đã khá thành công khi thực hiện chiến thuật “đi tắt đón đầu” để thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ chiến trường khác nhau trên thực địa. Trong khi đó, quân đội Ukraine cũng sử dụng trực thăng vũ trang để thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như cứu hộ chiến trường và hỗ trợ trên không.

Về tên lửa tấn công tầm xa, quân đội Nga chủ yếu sử dụng tên lửa đạn đạo chiến thuật Iskander-M và tên lửa hành trình phóng từ mặt đất Iskander-K, cũng như Kh-555 và Kh-101 đang thuộc biên chế của Lực lượng Hàng không Vũ trụ. Ngoài ra, Nga cũng đã phóng tên lửa hành trình, tên lửa siêu thanh phóng từ trên không Dagger, tên lửa hành trình Calibre và các tên lửa bờ đối hạm thuộc biên chế của Hải quân.

1719895377403.png

Tên lửa hành trình Calibre của Nga

Về phía Ukraine chủ yếu sử dụng tên lửa chiến thuật chiến dịch Tochka-U. Loại tên lửa này có chiều dài 6,4m, đường kính 0,65m và trọng lượng 2.000kg. Tochka-U có thể triển khai cùng lúc nhiều loại đầu đạn khác nhau của loại tên lửa này, từ đầu đạn thông thường, đạn chùm, đạn nhiệt áp, đầu đạn hóa học cho đến đầu đạn hạt nhân. Các loại đầu đạn nổ cực mạnh và đạn chùm của Tochka có trọng lượng 482kg, phạm vi sát thương có bán kính lên đến 200m. Chúng có thể tiêu diệt các loại xe tăng hoặc phá hoại đường băng cất cánh của một căn cứ quân sự.

Về sử dụng pháo phản lực tầm xa, quân đội Nga chủ yếu sử dụng pháo phản lực tầm xa 9K515 Tornado, còn quân đội Ukraine chủ yếu sử dụng pháo phản lực đa nòng tầm xa 9K58 Tornado và pháo phản lực tầm trung M142 HIMARS do Mỹ hỗ trợ. Việc sử dụng các thiết bị này có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, vũ khí siêu vượt âm lần đầu tiên được đưa vào chiến đấu thực tế. Ngày 18/3/2022, Lực lượng Hàng không vũ trụ Nga đã sử dụng tên lửa siêu vượt âm Dagger (được phóng từ máy bay chiến đấu MiG-31K, có độ cao phóng 12-15 km, tốc độ tối đa Mach 10-12, tầm bắn 2.000 km và vòng tròn sai số xác suất là 1 mét, đầu đạn nặng 500 kg) tấn công chính xác vào kho đạn dưới lòng đất của Trung tâm Hỗ trợ vật chất số 136 của Quân đội Ukraine ở tỉnh Ivan-Frankiv/Ukraine. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một tên lửa siêu vượt âm đã được sử dụng trong chiến đấu thực tế.

1719895444002.png

Tên lửa siêu vượt âm Dagger/Kinzhal

Ngày 20 tháng 3 và ngày 11 tháng 4 năm 2022, quân đội Nga một lần nữa sử dụng tên lửa Kinzhal Kh-47M2 tấn công một kho dầu lớn ở tỉnh Nikolaev và một sở chỉ huy ngầm ở tỉnh Donetsk. Đánh giá hiệu quả chiến đấu thực tế, giới chuyên gia kỹ thuật quân sự trên thế giới đều nhận định, tên lửa siêu vượt âm Dagger sở hữu độ chính xác cao, hiệu ứng sát thương tốt và sát thương phụ nhỏ. Dagger sở hữu khả năng xuyên thấu cực mạnh nên có thể bắn trúng và phá huỷ mục tiêu ở độ sâu 20 mét dưới lòng đất, có hầm trú ẩn kiên cố và khả năng phòng thủ hạt nhân. Quân đội Nga không chỉ đạt được kết quả chiến thuật trong việc tiêu diệt các mục tiêu quân sự của quân đội Ukraine mà còn đóng vai trò răn đe chiến lược đối với Mỹ và phương Tây bằng cách thể hiện sức mạnh kỹ thuật của mình.

Thứ hai, máy bay không người lái - UAV (bao gồm cả tên lửa hành trình) tham gia sâu vào hoạt động chiến đấu trên mặt đất. Nga và Ukraine đã sử dụng hơn 10 loại máy bay không người lái. Các UAV quân sự của Nga chủ yếu bao gồm UAV tấn công và trinh sát thu thập thông tin tình báo quy mô lớn. Các máy bay UAV mà Nga triển khai tại Ukraine điển hình phải kể đến như Orion (dài 8 mét, sải cánh 16 mét, tải trọng thực hiện nhiệm vụ 200 kg, 4 giá treo bên ngoài, tốc độ bay 120 km/h và dài nhất, khả năng kiểm soát khu vực có chiều sâu tác chiến lên tới 250 km).

1719895514337.png

UAV Orion của Nga

Máy bay không người lái giám sát và tấn công tích hợp Forpost-R. (Forpost-R được trang bị động cơ nội địa hiện đại APD-85, các thiết bị điện tử tiên tiến, tổ hợp điều khiển mặt đất, đường dây liên lạc và phần mềm đều do Nga sản xuất. Forpost-R được thiết kế với trọng lượng cất cánh tối đa là 500 kg trong đó tải trọng mang theo là 120 kg; chiều dài 5,85 m; sải cánh 8,54 m và chiều cao 1,25 m. Phần thân máy bay được trang bị kiên cố để tăng cường khả năng sống sót trên chiến trường và thời gian bay là 18 giờ.

Ngoài ra, Forpost-R còn có nhiều đặc điểm ưu việt khác như có thể tiến hành trinh sát bất cứ lúc nào không kể ngày hay đêm do được trang bị các thiết bị trinh sát hiện đại như trinh sát quang học, trinh sát vô tuyến và trinh sát radar. Nhờ có thiết bị liên lạc mới, phạm vi hoạt động của máy bay có thể lên đến 100km. Vũ khí chính của Forpost-R là bom lượn hạng nhẹ KAB-20. Có hai phiên bản bom lượn, KAB-20L được điều khiển bằng hệ thống dẫn đường quán tính với sự hỗ trợ của GLONASS và KAB-20S được trang bị thiết bị dẫn đường laser bán chủ động. Bom mang đầu đạn phân mảnh nổ phá mạnh, khối lượng thuốc nổ 7 kg.

Forpost-R cũng có thể được trang bị phiên bản tên lửa chống tăng có điều khiển Kornet-D (còn gọi là X-BPLA) phóng từ trên không. Nó có tầm bắn 8 km và khả năng xuyên thủng giáp thép cán đồng nhất dày 1.300 mm). Máy bay không người lái đa chức năng Orlan-10 có chiều1,8 mét, sải cánh 3,1 mét, tải trọng hiệu dụng 5 kg, tốc độ bay 90 km/h, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ trinh sát, giám sát và hiệu chỉnh pháo binh.

1719895574712.png

UAV Forpost-R

Ngoài ra, Nga còn sử dụng máy bay không người lái tự sát Lancet, chính thức đưa vào biên chế vào năm 2022. Lancet có có nhiều phiên bản khác nhau gồm Lancet-1 và Lancet-3. Theo công bố của Nga, Lancet không cần cơ sở vận hành bổ sung trên mặt đất mà có thể tự định vị, liên lạc, tấn công mục tiêu trong bán kính 40 km. Khi bay lên độ cao 5 km, Lancet có thể tắt động cơ chính nhưng vẫn tiếp tục bay lượn, bắt chước hành vi của các loài chim, làm nhiệm vụ thêm 3 km ở độ cao thấp hơn. Sau đó, UAV tái khởi động động cơ và lại bay lên độ cao 5 km. Với những tính năng độc đáo đó đó, phạm vi quan sát của UAV được tăng lên đến 1.000 km.

Trong khi đó, quân đội Ukraine chủ yếu sử dụng các UAV cỡ nhỏ và vừa, bao gồm UAV tấn công và giám sát tích hợp TB-2. UAV TB-2 có chiều dài 6,5m, sải cánh 12m, trọng lượng cất cánh tối đa 650kg, trọng tải hữu ích 150kg, được trang bị động cơ đốt trong Rotax 912 công suất 100 mã lực, tốc độ hành trình 130km/h, tốc độ tối đa 222km/h, trần bay 8.200m, thời gian bay 25-27 giờ, bán kính điều khiển từ trạm mặt đất 150km. Cấu hình tiêu chuẩn TB-2 bao gồm mô-đun camera quang điện tử (EO), mô-đun camera hồng ngoại (IR), thiết bị, công cụ tìm kiếm và hệ thống điều khiển laser, được tích hợp phần mềm và hệ thống điều khiển tiên tiến.

1719895640150.png

UAV TB-2 của Ukraine

UAV trinh sát Leleka-100 (chiều dài 1,98 mét, sải cánh dài 1,4 mét, khoảng cách liên lạc tối đa 45 km, thời gian hoạt động tối đa 2,5 giờ) và hàng loạt UAV cỡ nhỏ Switchblade do Mỹ và một số quốc gia châu Âu cung cấp (Hệ thống Switchblade có thể được điều khiển từ xa hoặc được vận hành tự động bởi một người điều khiển duy nhất và có khả năng loại bỏ mục tiêu nhanh chóng. Tên lửa dài khoảng 60cm, nặng khoảng 2,5kg và được trang bị cánh song song có thể gập lại. Đầu đạn nổ tiên tiến của tên lửa cho phép tấn công các mục tiêu mềm. Đầu đạn tên lửa có nhiệt và âm thanh rất nhỏ. Tên lửa có thể được phóng từ nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm bệ phóng mặt đất khép kín, phương tiện bay, phương tiện mặt đất và tàu thủy. Tên lửa Switchblade còn được tích hợp với một máy quay video để cung cấp hình ảnh video hồng ngoại và màu thời gian thực cũng như hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để thu thập mục tiêu).

1719895687238.png

UAV trinh sát Leleka-100

Các UAV này có thể thực hiện linh hoạt nhiều loại nhiệm vụ chiến đấu bao gồm: trinh sát, cung cấp thông tin tình báo, dẫn đường cho các loại hỏa lực, gây nhiễu điện tử, tấn công chính xác và đánh giá chiến đấu. Trong đó, tính năng nôit bật nhất đó là dẫn đường cho lực lượng pháo binh. Theo đó, Ukraine đã rất nhiều lần sử dụng thành công máy bay không người lái Sea Eagle-10 được trang bị hệ thống tác chiến điện tử Lear-10 để tấn công quân đội Nga. Có thể thấy, phương thức tác chiến phối hợp trên không của máy bay không người lái và lực lượng mặt đất sẽ trở thành phương thức tác chiến điển hình của các cuộc chiến trên bộ quy mô lớn trong tương lai.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Phương thức tấn công trên không linh hoạt, sử dụng kết hợp tấn công dồn dập và hỏa lực tập trung

Cả Nga và Ukraine đều áp dụng chiến thuật tấn công đường không linh hoạt và đa dạng, sử dụng toàn diện nhiều phương thức chiến đấu như tấn công chính xác tầm xa từ bên ngoài khu vực phòng thủ và hỏa lực tập trung.

Trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, để đạt được mục tiêu thông qua "hiệu quả chiến đấu trên chiến trường để thúc đẩy đàm phán", quân đội Nga chủ yếu thực hiện các cuộc tấn công tầm xa chính xác cao vào cơ sở hạ tầng quân sự quan trọng, các sân bay quân sự, vị trí phòng không, kho vũ khí, kho dầu, sở chỉ huy của quân đội Ukraine. Hoạt động này đã đóng vai trò kép vừa tạo uy lực răn đe vừa mang lại hiệu quả chiến đấu thực tế.

1719895965972.png


Ví dụ, vào ngày 1 tháng 3 năm 2022, quân đội Nga đã phóng một tên lửa phá hủy Tòa nhà Hành chính Nhà nước Kharkov, nơi đặt trụ sở Ban chỉ huy tác chiến của Tiểu đoàn Azov. Trong khi đó, quân đội Ukraine chủ yếu dựa vào máy bay không người lái để săn lùng và tiêu diệt mục tiêu đơn lẻ. Điển hình là trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, họ đã sử dụng máy bay không người lái TB-2 để tấn công các đoàn xe hỗ trợ hậu cần của Nga. Sau khi Mỹ cung cấp 800 bộ tên lửa hành trình Switchblade để hỗ trợ quân sự, quân đội Ukraine thường xuyên sử dụng máy bay không người lái để tìm kiếm chiến thuật tiêu diệt hoặc gây rối khả năng phòng không dã chiến của quân đội Nga.

Sang giai đoạn thứ hai của cuộc xung đột, cường độ chiến tranh tiếp tục leo thang, Nga và Ukraine tăng cường sử dụng hỏa lực pháo binh, triển khai nhiều đợt tấn công hỏa lực cường độ cao vào các thành phố trọng điểm, sở chỉ huy chiến thuật và các mục tiêu trọng điểm khác của nhau. Thực tế chiến đấu cho thấy, pháo binh và các loại vũ khí áp chế khác vẫn là “thần chiến tranh” trong các cuộc xung đột trên bộ quy mô lớn hiện đại ở một mức độ nào đó. Chẳng hạn, quân đội Nga đã sử dụng bệ phóng tên lửa đa năng Hail để tấn công vào thành phố Mariupol, đồng thời Nga cũng sử dụng bom nhiệt áp 9M22S tấn công vào Nhà máy thép Azov, buộc lực lượng phòng thủ của Tiểu đoàn Azov phải đầu hàng.

1719896036558.png

Bom nhiệt áp 9M22S

Trong khi đó, Ukraine đã sử dụng hỏa lực đường không để đánh bại quân Nga trong trận vượt sông ở Bắc sông Donesk, tiêu diệt 14 xe tăng chiến đấu chủ lực T-72 Nga, 53 xe chiến đấu bộ binh BMP-1/2, 5 xe bọc thép MT-LB, 2 xe BMD/BTR, 2 xe cứu hộ xe tăng BREM-1, 1 xe vận tải đổ bộ PTS-3, 5 xe tải quân sự PMP và 2 xe cầu phao BMK. Ngoài ra, quân đội Ukraine cũng nhận được sự hỗ trợ quân sự với các loại vũ khí khác như pháo kéo M777A2 155mm do Mỹ sản xuất và pháo Caesar 155mm của Pháp.

Hoạt động tác chiến phòng không

Tình hình hoạt động phòng không của Nga


Về lực lượng tham gia, lực lượng phòng không Nga tham gia cuộc xung đột lần này chủ yếu bao gồm Lữ đoàn phòng không Quân khu phía Tây (được trang bị chủ yếu hệ thống tên lửa phòng không S-300V2/V4, có tầm bắn tối đa 400 km) và Lữ đoàn Phòng không Lục quân (chủ yếu được trang bị tên lửa Tor-M2/M3. Hệ thống tên lửa phòng không Tor-M2 có khả năng phát hiện, khóa mục tiêu và phá hủy đồng thời 4 mục tiêu trên không. Chỉ mất 2 phút để hệ thống này chiếm lĩnh hỏa điểm, khởi động và dò tìm mục tiêu. Thêm một phút nữa để nhận diện mục tiêu, sau đó tên lửa phòng không sẽ được phóng. Tor-M2 được trang bị tên lửa 9M338 có thể tấn công các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 12km và độ cao lên tới 10km), và trung đoàn phòng không chủ yếu được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Buk -M2.

1719896118561.png

Tên lửa S-300V2/V4

(Giới quân sự phương Tây gọi hệ thống tên lửa Buk-M2 (SA-17) của Nga là “Cây sồi”. Nó là một biến thể mới nhất của hệ thống tự hành nổi tiếng Kub/Kvadrat (SA-6) hiệu quả chiến đấu cao trong cuộc chiến Ả rập - Israel năm 1973. Radar trinh sát của Buk-M2 cho phép ngắm bắn đồng thời tới 4 mục tiêu trong khi đang theo dõi 24 mục tiêu khác. Radar điều khiển hỏa lực nằm trên một bệ đỡ dài 24 m, nhằm cải thiện hiệu suất đối với các mục tiêu bay ở độ cao thấp. Buk sử dụng xe xích, lắp 4 tên lửa. Tên lửa phòng không có điều khiển của Buk-M2 có trọng lượng 328 kg, tiêu diệt mục tiêu ở cự ly đến 50 km và có thể xa hơn nữa. Đài radar của hệ thống phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 150 km).

1719896203757.png

Tên lửa Buk-M2

Ngoài ra, Nga còn sử dụng lữ đoàn bộ binh cơ giới/lữ đoàn xe tăng trực thuộc tiểu đoàn phòng không để tham gia tăng cường hoạt động tác chiến đường không (lực lượng này chủ yếu được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Tor-M2; hệ thống phòng không tích hợp pháo Tunguska có tầm bắn tối đa 8 km). Trong khi đó, lực lượng Hải quân chủ yếu được trang bị hệ thống phòng không tích hợp pháo Armor-S1, có tầm bắn tối đa 20 km.

Từ góc độ tác chiến, quân đội Nga nhìn chung tập trung vào tấn công, xây dựng chiến lược tác chiến củng cố lực lượng phòng không lãnh thổ và tổ chức lực lượng phòng không dã chiến có chiều sâu. Quá trình phòng không, kết hợp giữa lực lượng phòng không mặt đất và sự hỗ trợ tác chiến từ lực lượng trên không từ đó tạo lên hệ thống phòng không khu vực nhiều tầng, nhiều lớp với mật độ hoả lực tập trung cao tại khu vực quan trọng.

Chính vì vậy, lực lượng phòng không tác chiến của Nga đã đảm bảo hình thành ưu thế trên không ở độ cao trung và cao tương đối đáng tin cậy trong khu vực tác chiến, tuy nhiên, khi tác chiến ở độ cao trung bình và độ cao thấp, hiệu quả tác chiến chưa thực sự như mong muốn. Điển hình như trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, các đoàn xe hậu cần của Nga thường xuyên bị tấn công, do các cuộc không kích tầm thấp của Ukraine. Điều này đã làm gián đoạn khả năng tiếp tế nhiên liệu và hậu cần kỹ thuật cho lực lượng tác chiến ở tiền duyên trong thời gian nhất định.

1719896257442.png

Tên lửa phòng không Tor-M2

Từ góc độ sử dụng trang bị, quân đội Nga đã xây dựng một hệ thống phòng không giai đoạn cuối tập trung vào đánh chặn hỏa lực, bổ sung phòng không điện tử, kết hợp phần mềm và phần cứng, đồng thời có khả năng kết nối đa nền tảng hỏa lực nên có thể đánh chặn tương đối hiệu quả máy bay chiến đấu và trực thăng tấn công Ukraine như Su-27 và Mi-8. Tuy nhiên, đối với một số trang bị có kích thước nhỏ, khả năng cơ động cao như các máy bay không người lái nhỏ/nhẹ UJ-22, TB-2 và Switchblabe thì hiệu quả không được như mong muốn.

..........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hoạt động phòng không của quân đội Ukraine

Đánh giá về lực lượng tham gia, hầu hết lực lượng phòng không Ukraine đều tham gia chiến tranh, chủ yếu là lữ đoàn phòng không của Không quân (lực lượng này được trang bị hệ thống phòng không S-300P, tầm bắn 50 - 80 km) và các trung đoàn phòng không độc lập (trang bị chủ yếu là hệ thống phòng không Beech-Ml, với tầm bắn tối đa 35 km), Trung đoàn Phòng không Lục quân (được trang bị chủ yếu hệ thống phòng không chiến thuật S-300V1, với tầm bắn tối đa 70 km) và tiểu đoàn phòng không lữ đoàn (chủ yếu được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Osa-AKM. Hệ thống có chiều dài khoảng 9,1m, bề ngang 2,78m, trọng lượng 18 tấn. Xe sử dụng khung gầm xe bọc thép đổ bộ BAZ-5937, tốc độ đường trường 80km/h, có thể lội nước 8km/h, tầm hoạt động 500km, hoặc được vận chuyển bằng đường không. Nó cũng có một hệ thống turbine khí để cung cấp năng lượng khi động cơ chính bị ngắt).

1719896381935.png

Hệ thống phòng không S-300P

Ngoài ra, Ukraine còn huy động thêm các các đơn vị phòng không được huấn luyện tạm thời (chủ yếu được trang bị tên lửa phòng không FIM-92 Stinger (FIM-92 Stinger là tên lửa đất đối không dài 1,52 m, đường kính 70 mm, trọng lượng toàn bộ 15,2 kg (bản thân tên lửa nặng 10,1 kg), tầm bắn từ 1.000 đến 8.000m, kíp chiến đấu 2 thành viên, có thể được triển khai nhanh chóng trên các nền tảng quân sự trong tình huống chiến đấu. Tên lửa FIM-92B cũng có thể được bắn từ xe quân sự M-1097 Avenger, M6 Linebacker, Humvee Stinger…)

Từ góc độ hoạt động chiến đấu, quân đội Ukraine tập trung vào phòng thủ và có đặc điểm tác chiến phòng không "du kích" khá rõ ràng. Theo đó, sau khi các hệ thống phòng không hứng chịu đợt tấn công đầu tiên từ phía Nga, Ukraine dựa vào tên lửa phòng không do Mỹ và NATO hỗ trợ để đối phó với hoạt động tấn đường không từ phía Nga. Tuy nhiên, do thiếu thốn nghiêm trọng nguồn trang bị và nhân viên vận hành nên hiệu quả tác chiến phòng không của Ukriane bị hạn chế, nhiều mục tiêu quan trọng như kho đạn dược, sở chỉ huy bị tấn công chí mạng.

1719896427807.png

Tên lửa phòng không FIM-92 Stinger

Từ góc độ ứng dụng trang bị, quân đội Ukraine xây dựng hệ thống phòng không nhiều lớp, được bố trí ở nhiều khoảng cách khác nhau. Theo đó, Ukraine đã bố trí nhiều hệ thống phòng không như hệ thống phòng không tầm trung Aster (SAMP/T), hệ thống tên lửa phòng không NASAM, hệ thống chống máy bay không người lái, tên lửa phòng không gắn trên xe IRIS-T, pháo phòng không tự hành Cheeck và các vũ khí hỗ trợ khác do Mỹ và NATO viện trợ. Việc triển khai nhiều loại vũ khí này một mặt giúp Ukraine cải thiện năng lực phòng không, mặt khác còn là cơ hội để Mỹ và NATO đánh giá hiệu quả tác chiến thực tế của một số loại vũ khí mà lực lượng này viện trợ quân sự cho Ukraine.

Phân tích đặc điểm hoạt động phòng không

Hệ thống phòng không mặt đất cố định là mục tiêu đầu tiên và phải đối mặt với các cuộc không kích đa chiều, cường độ cao.


Các cuộc chiến tranh hiện đại thường bắt đầu bằng các cuộc không kích, các trang thiết bị của hệ thống phòng không như radar cảnh báo sớm cỡ lớn, hệ thống tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa là mục tiêu chính của đợt tấn công đầu tiên mà đối phương tiến hành. Trong cuộc xung đột Nga-Ukraine lần này, chiến thuật trên cũng không phải là ngoại lệ.

Thứ nhất, trang bị của hệ thống phòng không nội địa của quân đội Ukraine còn lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu tác chiến phòng không hiện đại. Nhận định về nguyên nhân này, các chuyên gia quân sự cho rằng, do bị giới hạn bởi sức mạnh kinh tế và công nghệ của đất nước, quá trình xây dựng lực lượng phòng không Ukraine đã bị tụt hậu trong một thời gian dài. Trong khi đó, các thiết bị do Liên Xô sản xuất hiện có trong biên chế của lực lượng phòng không Ukraine rất khó xây dựng được một hệ thống phòng không lãnh thổ chặt chẽ, ổn định; có thể tổ chức đa cấp độ, đánh chặn khi đối phó với các mục tiêu điển hình truyền thống như máy bay cánh cố định và trực thăng. Theo đó, các hệ thống phòng không của Ukraine trang bị tên lửa hành trình Kalibr, tên lửa đạn đạo Iskander-M và tên lửa chống bức xạ Kh-31 về cơ bản không có khả năng phòng thủ.

1719896490315.png


Thứ hai, hệ thống trang bị cũ khó có khả năng phòng không toàn diện, thiếu sự đồng bộ, hiệp đồng chặt chẽ và bị tan rã ngay từ đầu. Đối mặt với các cuộc tấn công hỏa lực chính xác tầm xa và bị nhiễu điện tử mạnh mẽ của Nga, hầu hết các thiết bị phòng không của quân đội Ukraine đã bị vô hiệu hoá hoặc thậm chí là phá huỷ ngay khi được bật lên. Theo Bộ Quốc phòng Nga, quân đội Nga đã phá hủy 14 bệ phóng tên lửa phòng không và 36 radar trong ngày đầu tiên của cuộc chiến. Các hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa còn lại của quân đội Ukraine buộc phải di chuyển đến các khu dân cư để tránh tổn thất, nhưng sau đó vẫn trở thành mục tiêu của máy bay không người lái Nga. Thậm chí sau đó, hệ thống S-300 của Slovakia hỗ trợ quân đội Ukraine cũng đã bị phá hủy hoàn toàn khi chính thức tham gia tác chiến trên chiến trường.

1719896591805.png


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hệ thống phòng không dã chiến di động là lực lượng phòng thủ chính và đảm nhận mọi nhiệm vụ đánh chặn trên chiến trường

Dù là quân đội Nga hay quân đội Ukraine, hệ thống phòng không dã chiến có khả năng có động linh hoạt đã trở thành lực lượng chiến đấu chính trong cuộc xung đột này.

Thứ nhất, lực lượng phòng không mặt đất cố định chỉ là vũ khí phòng thủ biên giới và không có nhiệm vụ bảo vệ đi kèm. Hoạt động phòng không của Nga là hoạt động phòng thủ điển hình trong khi họ vẫn tiến hành các cuộc tấn công nhằm vào các mục tiêu bên trong lãnh thổ Ukriane. Các chuyên gia phân tích chiến lược quân sự cho rằng, việc Nga vừa triển khai tấn công đường không tầm xa có độ chính xác cao kết hợp phòng không dã chiến cơ động vừa mang tính răn đe đối với các nước NATO, vừa thể hiện tư duy phát triển các học thuyết quân sự khi đối đầu với những quốc gia có tiềm lực quân sự hạn chế như Ukraine.

1719915632426.png

S-400

Do đó, Nga đã triển khai các đơn vị phòng không dã chiến ở khu vực biên giới để thực hiện các nhiệm vụ tác chiến trực tiếp. Trong khi đó, các đơn vị phòng không chính quy tầm xa được giao nhiệm vụ phòng không khu vực và thể hiện tính răn đe. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, Nga đã không triển khai hệ thống phòng không chống tên lửa tầm xa S-400 tại khu vực biên giới với Ukriane mà thay vào đó triển khai khẩn cấp 2 tiểu đoàn S-400 tới Belarus và triển khai nhiều hệ thống S-400 về hướng Crimea. Các Tiểu đoàn S-400 này đã góp phần duy trì khả năng răn đe trên không và không gian, đồng thời hỗ trợ tình hình trên không rất hiệu quả.

Thứ hai, lực lượng phòng không dã chiến không đạt được hiệu quả bảo đảm an ninh đường không toàn diện. Nga có lẽ là quốc gia coi trọng việc xây dựng lực lượng phòng không nhất thế giới. Quân đội Nga có lực lượng phòng không được phân cấp mạnh mẽ, với tổng số gần 20 lữ đoàn tên lửa phòng không. Mỗi lữ đoàn được biên một tiểu đoàn tên lửa phòng không và một tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp. Ngoài ra, Quân đội Nga cũng đã thí điểm thành lập mới một số đơn vị chống máy bay không người lái kết hợp thiết bị tác chiến điện tử và thiết bị đánh chặn hỏa lực, tuy nhiên còn hạn chế do ngân sách quốc phòng hạn chế và tỷ lệ nhân lực/trang thiết bị đầy đủ tương đối thấp.

1719915733539.png

Nga thiếu các hệ thống phòng không lục quân dẫn đến việc các đơn vị lục quân bị tập kích trên không

Trên chiến trường Ukraine, một số hoạt động quân sự của Nga đã không đạt được hiệu quả như mong muốn do lực lượng phòng không dã chiến không đủ khả năng chi viện hoả lực cho mọi lực lượng. Ví dụ như trong chiến dịch vượt sông Severodonetsk, tiểu đoàn quân sự Nga do không có đơn vị phòng không hỗ trợ nên đã bị quân đội Ukraine sử dụng đội hình máy bay không người lái tiến hành trinh sát, sau đó sử dụng tên lửa để tấn công chính xác phương tiện bắc cầu của Nga. Trong quá trình này, Nga đã bị động, hoàn toàn không có khả năng tự vệ, tổn thất khoảng 40 xe tăng và 3 cầu phao, tổn thất trong chiến đấu lên tới 80% và chiến dịch vượt sông đã buộc phải huỷ bỏ.

Nhiều mối đe dọa mới xuất hiện và tính hiệu quả của trang bị phòng không đang phải đối mặt với các thách thức mới

Xung đột Nga-Ukraine cho thấy tên lửa tác chiến chiến thuật, UAV (tên lửa hành trình) và tên lửa dẫn đường tầm trung/xa đang ngày càng trở thành mối đe dọa tấn công đường không nguy hiểm trong khu vực chiến đấu. Ví dụ như ngày 20/6/2023. Quân đội Nga đã sử dụng Pantsir-S1 trên đảo Rắn để đánh chặn thành công 4 tên lửa hành trình của quân đội Ukraine trong thời gian 136 giây (Radar của Pantsir-S1 có phạm vi phát hiện 32-36km và phạm vi theo dõi 24-28 km đối với mục tiêu có mặt cắt ngang radar (RCS) là 2m². Radar có thể theo dõi các mục tiêu và tên lửa đất đối không khi đang bay.

1719915828364.png

Hệ thống Pantsir-S1

Hệ thống Pantsir-S1 bao gồm 12 tên lửa dẫn đường bằng sóng vô tuyến, 2 pháo tự động 2A38 30mm bắn nhanh, các cảm biến quang điện và radar). Khi S-400 được triển khai ở Crimea đã hỗ trợ Pantsir-S1 khả năng phát hiện và phòng thủ từ xa, từ đó nâng cao năng lực phòng không cho Nga tại khu vực đảo Rắn. Điều đó cũng có nghĩa là khi hệ thống vũ khí phòng không tầm ngắn thu được thông tin trinh sát và cảnh báo sớm kịp thời và chính xác, nó có thể thực hiện đánh chặn khẩn cấp tên lửa hành trình tầm ngắn.

Thứ hai là mặc dù thực hiện nhiều biện pháp tác chiến cùng lúc nhưng hiệu quả chống UAV vẫn là một vấn đề. Quân đội Nga triển khai tiểu đoàn chiến thuật 9K35 Arrow-10, Doyle, Pantsir-S1 và Willow cùng các đơn vị phòng không tầm ngắn khác, thậm chi Nga còn liên tục triển khai các hệ thống tác chiến điện tử chống máy bay không người lái Krasuha và Repellent-1, tuy nhiên hiệu quả chiến đấu chống máy bay không người lái của Ukraine vẫn không hiệu quả. Ví dụ, quân đội Ukraine đã sử dụng máy bay không người lái T-2 để dẫn đường cho các cuộc tấn công hỏa lực của UAV cảm tử từ khoảng cách 48km và độ cao đạt tới 5.800 mét - nằm ngoài tầm bắn của vũ khí phòng không Nga, khiến số lượng lớn trực thăng Nga bị tiêu diệt.

1719915938760.png

Hệ thống tác phòng không 9K35 Arrow-10

Thứ ba, năng lực phòng thủ của hệ thống tên lửa chống hoả lực pháo binh chưa đủ hiệu quả khiến lực lượng mặt đất bị tổn thất nặng nề. Sau thời gian dài nhận chịu các đòn tập kích pháo binh từ quân đội Nga, Ukraine bắt đầu chuyển sang phản công nhờ được chi viện các bệ phóng tên lửa HIMARS do Mỹ viện trợ. Trong khi đó, quân đội Nga chủ yếu sử dụng hệ thống phòng không Beech và S-300 để đánh chặn tên lửa từ hệ thống HIMARS.

Tuy nhiên, hiệu quả vẫn không được như mong đợi, thậm chí Nga còn đang gặp nhiều tổn thất trên nhiều chiến trường. Ví dụ, ngày 20/7/2023, quân đội Ukraine đã phóng 14 tên lửa thuộc hệ thống HIMARS (Mỗi hệ thống HIMARS được biên chế kíp vận hành 3 người, có thể mang 6 quả đạn M31 cỡ nòng 227mm với tầm bắn 70-80km hoặc một tên lửa chiến thuật MGM-140 ATACMS có khả năng đánh trúng mục tiêu từ khoảng cách 300km) dẫn đường bằng vệ tinh vào khu vực cầu Antonov ở Kherson khiến lực lượng Nga bị tổn thất nặng nề. Trong khi đó, quân đội Nga chỉ đánh chặn thành công 4 quả tên lửa, với tỷ lệ đánh chặn dưới 29%.

1719916048089.png

HIMARS của Ukraine

................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Phòng không “du kích” (sử dụng tên lửa vác vai) có thể giành chiến thắng bất ngờ với chi phí thấp, phương thức tác chiến linh hoạt nhưng hiệu quả chưa đủ tầm mức để ảnh hưởng tới cục diện cuộc chiến tranh

Trong các hoạt động tác chiến với máy bay ném bom bay tầm thấp, tên lửa phòng không vác vai di động vẫn có thể có tác dụng tác chiến bất ngờ. Quân đội Ukraine sử dụng số lượng lớn tên lửa phòng không vác vai di động do nước ngoài hỗ trợ như Stinger và Starlight để phục kích du kích máy bay chiến đấu và trực thăng của Nga.

1719916173672.png


Đầu tiên là hình thành khả năng ngăn chặn ở độ cao thấp nhất định. Quân đội Ukraine đã nhận được ít nhất 6.500 tên lửa phòng không di động và triển khai rộng rãi, với sự hỗ trợ của tình báo Mỹ và phương Tây, họ tổ chức phục kích, bắn tỉa và liên tục bắn hạ các máy bay Su-34, Su-30SM, Su-35, Mi-28N, Ka-52 và các loại máy bay chiến đấu khác của Nga.

Thứ hai là buộc quân đội Nga phải thay đổi chiến thuật không kích. Hầu hết các tên lửa phòng không vác vai di động đều sử dụng hệ thống dẫn đường hồng ngoại và không có khả năng chiến đấu trong mọi thời tiết. Chiến thuật tấn công đường không của Nga buộc phải chuyển sang "ném bom tầm thấp vào ban đêm + tấn công tầm xa vào ban ngày." Lực lượng không quân thận trọng hơn, giảm việc sử dụng bom thông thường thả ở độ cao thấp và tăng cường sử dụng số lượng đạn dẫn đường được thả ở độ cao trung bình và cao, làm tăng đáng kể chi phí chiến đấu.

1719916297826.png

Máy bay Nga bị tên lửa tầm thấp bắn hạ

Thứ ba, hiệu quả tác chiến chưa đủ ảnh hưởng đến cục diện chung của chiến tranh. Tên lửa phòng không vác vai di động là vũ khí phòng không sử chủ yếu với các đối tượng tác chiến là máy bay chiến đấu bay ở độ cao thấp. Khi máy bay đối phương được trang bị đạn dẫn đường có độ cao ném bom cao hơn (hơn 3 km) và tầm bắn xa hơn (hơn 8 km), tên lửa phòng không vác vai di động sẽ khó có thể đánh chặn. Ngoài ra, các phương tiện tấn công đường không hiện đại thường được trang bị hệ thống bảo vệ chủ động và thụ động, có khả năng can thiệp vào tên lửa phòng không dẫn đường bằng tia hồng ngoại. Video chiến trường cho thấy, khi quân đội Ukraine phóng tên lửa phòng không di động Stinger, trực thăng vũ trang của Nga đã kịp thời bắn bom mồi hồng ngoại để tránh bị trúng đạn.

Lời kết

Lực lượng phòng không là lực lượng quan trọng để quân đội các nước kiểm soát trên không từ trên bộ và cả trên không. Với lợi thế áp đảo, quân đội Nga đã tiêu diệt phần lớn lực lượng không quân Ukraine trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, nhưng quân đội Ukraine vẫn giữ được khả năng không kích nhất định. Các máy bay chiến đấu cánh cố định của Ukraine tiếp tục cất cánh tham gia tác chiến, tên lửa chiến thuật thỉnh thoảng vẫn tiến hành được một số cuộc tấn công, lực lượng trực thăng vũ trang thỉnh thoảng xuyên thủng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờvà chớp nhoáng, máy bay không người lái thường xuyên tiến hành các cuộc tấn công do thám đối với các lực lượng quân sự Nga.

1719916418430.png

Không quân Ukraine vẫn thực hiện các phi vụ chiến đấu mặc dù bị tổn thất

Chính vì vậy, để nâng cao năng lực và hiệu quả tác chiến phòng không, trong tương lai chúng ta cần kết hợp sức mạnh tổng hợp của nhiều loại vũ khí khác nhau ở cả trên không, trên bộ và trên biển, từ đó hình thành hệ thống mạng lưới phòng không nhiều tầng, nhiều lớp. Bên cạnh đó, việc tăng cường năng lực tác chiến điện tử trong phòng không và sử dụng kết hợp các loại UAV tấn công cảm tử với tên lửa hành trình tấn công chính xác sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tấn công đường không trong tương lai./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Săn lùng tàu ngầm trong đại dương đang ấm lên

Biến đổi khí hậu sẽ có tác động đáng kể đến sức mạnh quân sự, khả năng, hiệu quả và việc triển khai. Tuy nhiên, các học giả lại ít quan tâm đến chủ đề này. Chúng tôi giải quyết khoảng trống này bằng cách nghiên cứu tác động của việc thay đổi điều kiện đại dương đối với tác chiến chống tàu ngầm. Khả năng tác chiến chống tàu ngầm khai thác các hiện tượng vật lý khác nhau để phát hiện tàu ngầm đối phương, chủ yếu là truyền âm thanh dưới nước.

Việc truyền âm thanh dưới nước phụ thuộc vào các yếu tố ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, chẳng hạn như nhiệt độ nước và độ mặn. Thông qua mô phỏng âm thanh đại dương, chúng tôi ước tính tác động của biến đổi khí hậu đến phạm vi phát hiện của tàu ngầm đối phương ở Bắc Đại Tây Dương và Tây Thái Bình Dương. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng, ở hầu hết các khu vực, phạm vi phát hiện thông qua âm học dưới nước đang bị thu hẹp do biến đổi khí hậu.


Liệu biến đổi khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh quân sự, khả năng, hiệu quả và việc triển khai lực lượng? Liệu nócó giúp tăng cường sức mạnh của một số quốc gia và trong khi suy yếu những quốc gia khác? Đây là những câu hỏi chính sách cấp bách đề cập đến các cuộc tranh luận quan trọng trong khoa học xã hội, chẳng hạn như về tác động của các yếu tố môi trường đối với sự phân bổ sức mạnh quân sự trên phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, bất chấp sự chú ý ngày càng tăng đến biến đổi khí hậu trong lĩnh vực quan hệ quốc tế và những cuộc tranh luận kéo dài về tác động của nó đối với an ninh quốc tế, các học giả vẫn ít chú ý đến việc biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh quân sự và hoạt động quân sự như thế nào. Sự thờ ơ này đặc biệt có liên quan khi chúng ta cho rằng các sự kiện khí hậu và khí tượng đã đóng một vai trò quan trọng trong các vấn đề quân sự và quốc tế, chẳng hạn như góp phần vào sự sụp đổ của Đế chế La Mã, sự thất bại của “Đội quân bất khả chiến bại” của Tây Ban Nha, hay sự thất bại của Napoléon ở Waterloo.

Biến đổi khí hậu trong các nghiên cứu về an ninh

Biến đổi khí hậu và thay đổi công nghệ sẽ có tác động lớn đến các quốc gia, nền kinh tế và xã hội trong những thập kỷ tới. Nghiên cứu học thuật về quan hệ quốc tế đã cố gắng khám phá những tác động của biến đổi khí hậu và thay đổi công nghệ đối với chính trị quốc tế. Tuy nhiên, các công trình hiện tại phần lớn tuân theo các ranh giới tiểu ngành nghiêm ngặt, do đó, đã hạn chế quy mô và phạm vi tiếp cận của các cuộc điều tra này.

1719916701068.png

Biến đổi khí hậu làm tăng tốc độ tan băng trên các đại dương

Các học giả nghiên cứu an ninh “phi truyền thống” đã xem xét những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với hòa bình và ổn định quốc tế, tập trung vào việc nó có thể làm xói mòn khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng như thế nào và do đó làm tăng nguy cơ xung đột ra sao. Tuy nhiên, những công trình này ít chú ý đến tác động của biến đổi khí hậu đối với cán cân quân sự hoặc các hoạt động quân sự. Ngược lại, các học giả nghiên cứu an ninh “truyền thống” đã nghiên cứu sâu rộng ý nghĩa của sự thay đổi công nghệ đối với an ninh quốc tế, đặc biệt tập trung vào việc nó có thể ảnh hưởng như thế nào đến cán cân quân sự giữa các quốc gia. Tuy nhiên, những công trình này ít quan tâm đến biến đổi khí hậu.

Theo các nghiên cứu an ninh “truyền thống”, cán cân quân sự là sản phẩm của hai nhóm yếu tố chính: năng lực tổ chức và năng lực công nghệ (trong đó năng lực công nghệ đề cập đến cả số lượng và chất lượng của các nền tảng quân sự sẵn có). Một giả định quan trọng trong những công trình này là môi trường tự nhiên là không đổi. Nhưng nếu môi trường tự nhiên thay đổi, cán cân quân sự cũng có thể thay đổi. Trong các hoạt động quân sự, môi trường tự nhiên đóng vai trò trung tâm, tạo cơ hội cho việc ẩn nấp. Trong chiến tranh trên bộ, đồi núi, các khe, rãnh và thảm thực vật cung cấp cho binh sĩ một vỏ bọc tự nhiên trước hỏa lực của kẻ thù và những phương thức sẵn có để che giấu trước các cảm biến của kẻ thù.

Tương tự như vậy, trong chiến tranh trên không, độ cong của trái đất và sự hiện diện của ống "siêu khúc xạ" (super-refracting duct) trong khí quyển giúp máy bay bay ở cả độ cao thấp và độ cao lớn có cơ hội hạn chế sự phát hiện của radar trên mặt đất của đối phương. Trong tác chiến tàu ngầm, các ống dẫn bề mặt và vùng bóng tối cho phép tàu ngầm tránh bị phát hiện bởi sonar gắn trên thân tàu của kẻ thù. Một số đặc điểm môi trường - chẳng hạn như những ngọn đồi, độ cong của trái đất và địa hình dưới đáy biển - thực sự là không đổi. Tuy nhiên, những loại khác thì không, vì chúng là sản phẩm của các điều kiện khí hậu cụ thể như nhiệt độ, mật độ, hơi nước và độ mặn. Khi môi trường tự nhiên thay đổi, một số cơ hội để ẩn nấp cũng thay đổi. Đây là trọng tâm của bài viết của chúng tôi.

Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc tế và các hoạt động quân sự theo nhiều cách. Mực nước biển dâng, hạn hán, nạn phá rừng, các hiện tượng thời tiết cực đoan, thay đổi mô hình khí tượng và mùa (ví dụ: tần suất và cường độ của bão) sẽ ảnh hưởng đến cơ sở vật chất, hệ thống vũ khí, hoạt động và cảm biến. Ví dụ, những thay đổi về mực nước biển có thể ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và tiện ích của một số cảng hải quân, trong khi hạn hán và nạn phá rừng có thể khiến một số căn cứ quân sự khó hoạt động hơn.

1719916856692.png


Tương tự như vậy, do xu hướng thay đổi theo mùa - thời tiết mùa đông sang mùa xuân hoặc thời tiết mùa hè sang mùa thu - cũng như tần suất xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan cao hơn, một số hoạt động quân sự, chẳng hạn như hoạt động đổ bộ, có thể trở nên khó khăn hơn, và một số hoạt động huấn luyện và tập trận quân sự ít thường xuyên hơn hoặc có phạm vi hạn chế. Ngoài ra, biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến hiệu suất hoặc chu trình bảo trì của tàu, xe tăng hoặc máy bay. Biển động dữ dội hơn sẽ rút ngắn vòng đời của cánh quạt và trục, trong khi nước có tính axit và mưa làm tăng tốc độ ăn mòn. Biến đổi khí hậu cũng có thể ảnh hưởng đến các cảm biến thu thập dữ liệu, chẳng hạn như radar, laser và sonar.

Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến việc thu thập và phân tích dữ liệu. Bởi vì chúng ta đang sống trong thời đại thông tin nên khả năng thu thập dữ liệu thông qua các cảm biến hiện đại và phân tích dữ liệu một cách chính xác là vô cùng quan trọng. Trong chiến tranh, thông tin thời gian thực chính xác là một thành phần quan trọng của tổ hợp tấn công chính xác tầm xa, đòi hỏi khả năng phát hiện, xác định, theo dõi và định vị địa lý các vũ khí của kẻ thù ở khoảng cách xa.

Biến đổi khí hậu có thể cản trở khả năng đó. Ví dụ, nạn phá rừng có thể làm mất đi tán lá và thảm thực vật của lực lượng mặt đất, vốn là cơ sở để ẩn náu chính bên ngoài khu vực Bắc Cực và sa mạc. Ngược lại, thời tiết ấm lên có thể làm giảm hiệu quả của cảm biến nhiệt trong những tháng mùa đông. Các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, độ ẩm cao hơn và nhiệt độ cao hơn cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động phòng không và phòng thủ tên lửa vì một số tần số radar dễ bị ảnh hưởng hơn bởi thời tiết. Tương tự, những thay đổi trong môi trường đại dương có thể ảnh hưởng đến hiệu suất của sonar. Trong các phần sau, chúng tôi sẽ giải thích điều này có thể xảy ra như thế nào.


..............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tàu ngầm và tác chiến chống tàu ngầm

Trước khi thảo luận về việc môi trường đại dương bị thay đổi có thể ảnh hưởng như thế nào đến việc phát hiện của sonar, điều quan trọng là phải hiểu cách các tàu ngầm ẩn nấp và tìm kiếm lẫn nhau. Về cơ bản, đại dương là môi trường (mờ đục) rất khó cho các cảm biến phát huy hiệu quả trong việc phát hiện, xác định và định vị tàu thuyền của kẻ thù trên đất liền hoặc trên không, chẳng hạn như tầm quan sát của con người, cảm biến quang điện, camera hồng ngoại và hệ thống radar.

1719917079162.png

Tàu ngầm ẩn mình trong đại dương

Tàu ngầm lợi dụng sự mờ đục này để che giấu sự hiện diện của mình. Vì lý do này, tàu ngầm được coi là “hệ thống vũ khí ‘tàng hình’ đầu tiên”. Khả năng ẩn nấp dưới nước mang lại cho tàu ngầm lợi thế quan trọng trong các hoạt động quân sự. Trong một số trường hợp, tàu ngầm ven biển có thể là phương tiện hiệu quả để ngăn chặn một hạm đội lớn hơn nhiều tiếp cận bờ biển của kẻ thù. Tương tự, tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo được nhiều người coi là thế mạnh nhất trong bộ ba hạt nhân vì rất khó để có thể phát hiện và theo dõi chúng.

Tàu ngầm tấn công cũng có thể đe dọa các tuyến giao thông chiến lược của kẻ thù: Chúng có thể được sử dụng để nhắm mục tiêu vào tàu thương mại nhằm áp đặt lệnh phong tỏa hải quân, cũng như âm thầm truy đuổi và đe dọa các tàu quân sự của kẻ thù, bao gồm các tàu phòng thủ bờ biển như tàu tuần tra và tàu hộ tống, và các tàu để triển khai sức mạnh như tàu chiến đổ bộ và tàu sân bay.

Tuy nhiên, tàu ngầm có thể ẩn nấp dưới nước không có nghĩa là chúng không thể bị phát hiện, nhận dạng và theo dõi. Môi trường đại dương, như Leonardo da Vinci đã hiểu từ hơn 500 năm trước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền âm thanh, đôi khi ở khoảng cách rất xa. Kể từ Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, việc phát hiện tàu ngầm được tiến hành chủ yếu thông qua kỹ thuật âm thanh: sonar. Sonar thực hiện điều tương tự trong nước mà radar thực hiện trong không khí, với điểm khác biệt là sonar tận dụng sóng âm trong khi radar khai thác sóng điện từ. Trong khi sóng điện từ có thể quét phạm vi trên không hàng trăm hoặc, trong một số điều kiện, hàng ngàn km, thì nó chỉ có thể xuyên qua nước từ vài cm đến chỉ 100 mét (1 đến 330 feet), một hạn chế làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của chúng trong việc tác chiến chống tàu ngầm. Ngược lại, sóng âm có thể lan truyền dưới nước hàng chục, hàng trăm hoặc trong một số điều kiện, thậm chí hàng nghìn km.

1719917133942.png

Sonar thủy âm

Đầu tư vào âm học dưới nước trùng hợp với đầu tư vào các tàu, máy bay, năng lực và công nghệ khác. Nổi bật nhất là vào những năm 1950, Mỹ bắt đầu triển khai mạng lưới hydrophone cố định (micro dưới nước) tại các điểm chiến lược dưới đáy đại dương, nhằm phát hiện âm thanh do tàu ngầm Liên Xô tạo ra. Trong những thập kỷ tiếp theo, năng lực của Mỹ đã tăng lên đáng kể, đến mức Hải quân Mỹ có thể phát hiện, xác định và định vị các tàu ngầm Liên Xô, thậm chí “xác định danh tính của các tàu ngầm Liên Xô bằng số hiệu thân tàu”. Kể từ những năm 1970, những cải tiến trong công nghệ cảm biến và xử lý tín hiệu đã nâng cao đáng kể độ nhạy và độ chính xác của sonar thụ động cũng như sonar chủ động. Hơn nữa, sự gia tăng các loại cảm biến hiện có trên nhiều nền tảng tác chiến chống tàu ngầm - tàu ngầm, tàu mặt nước, máy bay cánh quay và cánh cố định cũng như vệ tinh - đã nâng cao hơn nữa khả năng phát hiện tàu ngầm.

Việc sử dụng sonar trong tác chiến chống tàu ngầm đã dẫn tới cuộc cạnh tranh “tìm kiếm kẻ ẩn nấp” giữa các công nghệ phát hiện ngày càng hiệu quả hơn và các tàu ngầm ngày càng yên tĩnh hơn. Trong 50 năm qua, cuộc cạnh tranh này đã dẫn đến sự phát triển các cảm biến mới cho tác chiến chống tàu ngầm, chẳng hạn như sonar chủ động tần số thấp, radar khẩu độ tổng hợp trên vệ tinh và trên không có thể phát hiện sóng bề mặt do tàu ngầm tạo ra dưới nước, các cảm biến có thể theo dõi các phản ứng của thực vật đại dương (phát quang sinh học) và những thay đổi nhiệt do tàu ngầm đi qua, công nghệ laser có khả năng xuyên qua vùng nước bên dưới mặt biển (laser xanh lam), các hệ thống có thể ghi lại sự can thiệp của tàu ngầm với môi trường biển, trường điện từ của trái đất (máy dò dị thường từ tính), các tàu thăm dò phát hiện sự phát tán của các chất gây ô nhiễm trong đại dương và các chất khác.

Tuy nhiên, âm thanh dưới nước vẫn là biện pháp quan trọng nhất để phát hiện tàu ngầm đối phương. Hầu hết các cảm biến không âm thanh mới đều có những hạn chế cố hữu, đáng chú ý nhất là đưa ra cảnh báo sai và có phạm vi không đủ xa, có nghĩa là ngay cả khi hoạt động hoàn toàn, chúng không thể giám sát các khu vực rộng lớn hoặc các lớp sâu hơn của đại dương để phát hiện tầm xa. Ví dụ, máy dò dị thường từ tính có thể bao phủ phạm vi lên tới 1.500 mét, vẫn chưa đủ so với sự rộng lớn của đại dương.

1719917181337.png

Máy bay chống ngầm

Các radar khẩu độ tổng hợp dựa trên vệ tinh, cùng với sự gia tăng đáng kể số lượng vệ tinh, mang đến một hệ thống thay thế tiềm năng để giám sát liên tục đại dương. Nhưng phạm vi tiếp cận của chúng vẫn bị hạn chế bởi hai thách thức kép là bao phủ các khu vực rộng lớn của đại dương và phát hiện cũng như xác định chính xác những thay đổi nhỏ do tàu ngầm tạo ra ở độ sâu. Vì lý do này, trong tương lai gần, việc truyền âm thanh dưới nước sẽ vẫn là một trụ cột quan trọng trong tác chiến chống tàu ngầm. Để đánh giá cao vai trò của âm học dưới nước, hãy xem xét ví dụ như Tổ chức Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện chỉ có 11 trạm thủy âm so với 170 trạm địa chấn để theo dõi vụ nổ hạt nhân toàn cầu. Sự khác biệt được giải thích là do phạm vi âm thanh dưới nước xa hơn nhiều, cho phép giám sát tầm xa.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Xử lý tín hiệu, phát hiện tàu ngầm và biến đổi khí hậu

Trong phần này, chúng tôi giải thích lý do tại sao biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến việc phát hiện tàu ngầm thù địch, bằng cách giới thiệu những kiến thức cơ bản về xử lý tín hiệu - tức là cách phân biệt tín hiệu do tàu ngầm phát ra (hoặc phản xạ) với tiếng ồn xung quanh. Như chúng tôi thảo luận dưới đây, cả thay đổi công nghệ và biến đổi khí hậu đều ảnh hưởng đến việc xử lý tín hiệu. Tuy nhiên, công việc hiện tại về tương lai của chiến tranh tàu ngầm chỉ tập trung vào vấn đề trước mà bỏ qua vấn đề sau.

Dương tính giả và âm tính giả

Phát hiện mục tiêu của kẻ thù, dù trên không, trên bộ, trên mặt biển hay dưới nước, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các tổ chức quân sự, vì lý do rất đơn giản là bạn không thể tự vệ trước những gì bạn không thể nhìn thấy. Phát hiện là về việc phân biệt một đối tượng với nền của nó. Ngược lại, các nền tảng quân sự hoạt động trong môi trường thù địch sẽ cố gắng che giấu sự hiện diện của chúng hoặc giảm thiểu sự khác biệt giữa chúng với bối cảnh mà chúng đang hoạt động, tức là ngụy trang.

1719971597129.png


Các nền tảng quân sự sử dụng các loại chiến thuật che giấu và ngụy trang khác nhau để đánh lừa các cảm biến khác nhau của kẻ thù: sử dụng sơn màu cho cảm biến thị giác (thị giác của con người), sử dụng cơ chế làm mát cho cảm biến nhiệt (như camera hồng ngoại), hình dạng làm lệch hướng cho cảm biến điện từ (radar) và sử dụng công nghệ làm im lặng cho cảm biến âm thanh thụ động (sonar). Vấn đề chính đối với các hệ thống quân sự được giao nhiệm vụ phát hiện mục tiêu của kẻ thù là các cảm biến thường nhận được thông tin tổng hợp chỉ chứa tiếng ồn xung quanh khi mục tiêu không có mặt hoặc tiếng ồn xung quanh và tín hiệu do mục tiêu tạo ra khi mục tiêu có mặt. Vì vậy, việc phát hiện đòi hỏi phải phân biệt tín hiệu với nhiễu. Đây là một suy luận thống kê dựa trên các nguyên tắc toán học rất giống nhau mà các nhà khoa học xã hội sử dụng để kiểm tra các giả thuyết.

Cho rằng cả nhiễu và tín hiệu đều dao động, chúng có thể được coi là hai biến ngẫu nhiên. Việc phân biệt tín hiệu với nhiễu đòi hỏi phải xác định xem xét liệu nhiễu có khác biệt về mặt thống kê với tín hiệu hay không. Trong thực tế, vì tiếng ồn xung quanh luôn hiện diện nên việc phát hiện đòi hỏi phải xác định một ngưỡng rất khó có thể bị vượt qua bởi tiếng ồn xung quanh nhưng rất có thể bị vượt qua bởi tiếng ồn xung quanh cộng với tín hiệu của mục tiêu. Khi âm thanh đến vượt qua ngưỡng phát hiện, hệ thống phát hiện sẽ bác bỏ giả thuyết không có mục tiêu.

Tuy nhiên, vì cả tiếng ồn và tín hiệu đều dao động nên có hai rủi ro cố hữu: nguy cơ bỏ sót và nguy cơ báo động sai. Lỗi xảy ra khi nhiễu và tín hiệu không vượt qua ngưỡng phát hiện và hệ thống tuyên bố không chính xác rằng mục tiêu không có ở đó. Điều này tương đương với một kết quả âm tính giả đối với các nhà khoa học xã hội. Cảnh báo sai xảy ra khi ngưỡng phát hiện bị vượt qua chỉ vì tiếng ồn xung quanh, nhưng hệ thống lại tuyên bố không chính xác rằng có mục tiêu. Điều này giống như một kết quả dương tính giả đối với các nhà khoa học xã hội. Cả xác suất bỏ lỡ và xác suất cảnh báo sai đều là một hàm của ngưỡng phát hiện: Ngưỡng phát hiện càng cao thì khả năng nhận được cảnh báo sai càng thấp nhưng càng có nhiều khả năng bị nhầm. Ngược lại, ngưỡng phát hiện càng thấp thì khả năng nhận được cảnh báo sai càng cao nhưng khả năng xảy ra cảnh báo nhầm càng ít.

Phương trình Sonar

Có hai loại sonar: chủ động và thụ động. Sonar chủ động phát ra một xung âm thanh (“ping”) và thu lại tiếng vang của nó khi xung này bị phản xạ sau khi chạm vào một vật thể. Sonar thụ động hoạt động giống như một cái tai: Nó ghi lại âm thanh phát ra từ môi trường. Sonar thụ động cho phép phát hiện ở tầm xa bằng cách thu âm thanh tần số thấp (5–500 hertz) phát ra từ các tàu ngầm ồn ào cách xa từ 10 đến hàng trăm km. Sau khi phát hiện tàu ngầm của đối phương, cuộc tìm kiếm sẽ tập trung vào một khu vực cụ thể nơi các phương tiện tác chiến chống tàu ngầm có thể sử dụng sonar chủ động để định vị, xác định và theo dõi mục tiêu chính xác hơn.

1719971632849.png


Hầu hết các sonar hoạt động đều phát ra âm thanh “ping” tần số trung bình (1000–10000 hertz) để ghi lại tiếng vang do tàu ngầm đối phương phản xạ. So với âm thanh tần số thấp, âm thanh tần số trung bình bị suy giảm nhiều hơn và do đó có phạm vi ngắn hơn. Hạn chế này được kết hợp bởi thực tế là âm thanh phát ra từ sonar chủ động phải truyền đi xa gấp đôi - đến và đi - so với âm thanh phát ra từ tàu ngầm và được phát hiện bởi sonar thụ động. Tuy nhiên, các tàu ngầm hiện đại rất yên tĩnh và do đó chỉ có thể bị phát hiện bằng sonar thụ động ở khoảng cách cực ngắn. Kết quả là, sonar chủ động thường tạo ra phạm vi phát hiện xa hơn so với sonar thụ động.

Sonar chủ động có một ưu điểm là người vận hành có thể kiểm soát cường độ tín hiệu phát ra (tức là mức nguồn), sẽ có cường độ lớn hơn tín hiệu phát ra từ tàu ngầm. Tuy nhiên, bằng cách phát ra tiếng ping, sonar đang hoạt động sẽ thông báo cho tàu ngầm đối phương đang ẩn náu rằng có kẻ đang truy tìm nó ở gần đó. Đây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng vì với khả năng phát hiện tương đương, tàu ngầm lẩn trốn có thể nghe thấy tiếng ping trước khi thiết bị tìm kiếm nghe thấy tiếng vang dội lại và phát hiện ra kẻ thù.

Ngoài ra, sonar chủ động thường phát ra âm thanh có tần số từ trung bình đến cao, âm thanh này có thể bị suy yếu nhiều hơn và do đó có thể bị hạn chế hơn về phạm vi. Ngược lại, sonar thụ động nhằm mục đích thu được âm thanh tần số thấp chủ yếu và do nó ít bị suy giảm hơn nhiều nên nó có thể cho phép phát hiện từ xa, ít nhất là các tàu ngầm ồn ào. Sonar thụ động cũng có thể thu được âm thanh tần số trung bình và cao, mặc dù nó có phạm vi truyền ngắn hơn nhiều.

Các phương trình sonar là công cụ cơ bản để dự đoán hiệu suất của các hệ thống sonar hiện có trong các điều kiện đã chọn hoặc để thiết kế chúng hoạt động trong các điều kiện mong muốn. Theo xác suất phát hiện và cảnh báo sai đã chọn, người dùng xác định tỷ lệ tín hiệu trên tạp âm cần thiết để thiết lập phát hiện, được gọi là Ngưỡng phát hiện (DT). Việc phát hiện tàu ngầm bằng hệ thống sonar thụ động sẽ thành công nếu phương trình sau đúng:

SL – TL – NL + AG + PG ≥ DT

Trong phương trình này, SL là Cấp độ ồn do nguồn phát ra, biểu thị mức âm thanh do mục tiêu phát ra - mức độ ồn của tàu ngầm đối phương. TL là Tổn thất truyền tải, biểu thị sự mất đi cường độ của âm thanh (tức là độ suy giảm) khi nó truyền qua môi trường. NL là Mức ồn hoặc tiếng ồn xung quanh nơi sonar hoạt động. AG là tín hiệu thu được (Array Gain) của máy thu thụ động (còn được gọi là Chỉ số định hướng hoặc DI), định lượng khả năng của máy thu sonar trong việc phân biệt giữa tín hiệu và tiếng ồn bằng cách lắng nghe từ một hướng cụ thể trong một góc rất nhỏ. PG là Processing Gain (Xử lý tín hiệu thu được – ND), bao gồm thông tin có thể được thông qua công nghệ xử lý tín hiệu tiên tiến. Một tàu ngầm được phát hiện khi âm thanh nó phát ra cộng với khả năng của sonar thụ động để phân biệt âm thanh theo một hướng cụ thể cộng với khả năng phân biệt tín hiệu từ tiếng ồn lớn hơn tổn thất khi truyền tải, cộng với tiếng ồn xung quanh và tiếng ổn tự tạo ra.

Theo trực giác, trong khi một số số hạng của phương trình sonar về cơ bản được quyết định bởi sự thay đổi công nghệ, thì những số hạng khác lại bị ảnh hưởng bởi môi trường đại dương xung quanh và do đó chúng có thể bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.

.................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Thay đổi công nghệ ảnh hưởng đến việc phát hiện của sonar như thế nào

Như đã đề cập ở trên, những thay đổi về công nghệ tác động đến hiệu suất của sonar theo hai cách chính: thông qua những cải tiến về công nghệ giảm tiếng ồn và thông qua những cải tiến về công nghệ phát hiện (bao gồm cả xử lý tín hiệu). Những cải tiến này ảnh hưởng đến bốn số hạng của phương trình sonar: cấp độ ồn do nguồn phát ra, tín hiệu thu được từ radar, xử lý tín hiệu thu được và ngưỡng phát hiện.

1719971746579.png

Tàu ngầm Kilo

Những tiến bộ trong công nghệ giảm tiếng ồn làm giảm cấp độ ồn do nguồn phát ra, khiến việc phát hiện trở nên khó khăn hơn. Công nghệ giảm tiếng ồn nhằm mục đích giảm tiếng ồn do tàu ngầm phát ra hoặc phản xạ. Trong 70 năm qua, một số cải tiến đã làm cho tàu ngầm yên tĩnh hơn đáng kể: hình dạng thân tàu thủy động lực học hơn, hình dạng cánh quạt của động cơ đẩy phức tạp hơn, số lượng cánh quạt trên động cơ đẩy nhiều hơn, những tiến bộ trong hệ thống đẩy thông thường, hệ thống đẩy hạt nhân dạng ống dẫn và các kỹ thuật giảm cách âm hiệu quả giúp thiểu tiếng ồn bức xạ hoặc hấp thụ hoặc làm chệch hướng các ping đến.

Mặc dù có thể có những tiến bộ hơn nữa trong công nghệ giảm tiếng ồn nhưng nhìn chung người ta chấp nhận rằng hầu hết các cơ hội chính để giảm tiếng ồn đã được khai thác và những cải tiến bổ sung về công nghệ giảm tiếng ồn sẽ chỉ mang lại hiệu quả không cao. Tuy nhiên, một số quốc gia vẫn chưa bắt kịp Mỹ về công nghệ giảm tiếng ồn, vì vậy có lý do để tin rằng họ sẽ cố gắng giảm tín hiệu âm thanh bức xạ của tàu ngầm trong tương lai.

Những tiến bộ trong công nghệ phát hiện làm giảm ngưỡng phát hiện và tăng tín hiệu thu được, do đó giúp việc phát hiện dễ dàng hơn. Công nghệ phát hiện là tập hợp các công cụ và phương pháp được sử dụng để phát hiện tàu ngầm của đối phương. Vì việc phát hiện có nghĩa là phân biệt giữa tín hiệu do tàu ngầm đối phương phát ra hoặc phản xạ và tiếng ồn xung quanh, để tăng cơ hội phát hiện, người tìm kiếm cần tăng tín hiệu nhận được và giảm thiểu tiếng ồn đến, tức là tăng tỉ lệ tín hiệu trên tiếng ồn.

1719971833133.png

Tàu ngầm Soryu của Nhật Bản

Trong lĩnh vực sonar thụ động, những cải tiến có thể đến từ việc thu thập và xử lý nhiều dữ liệu hơn cũng như lọc tiếng ồn xung quanh hiệu quả hơn. Việc có được nhiều mẫu tín hiệu hơn từ mục tiêu sẽ cải thiện kiến thức về dấu hiệu âm thanh của mục tiêu và do đó nâng cao hơn nữa cơ hội phát hiện trong tương lai. Mặc dù về mặt lý thuyết, điều này là có thể, nhưng trên thực tế, về cơ bản không có không gian cho những cải tiến liên quan trong tương lai trong việc phân biệt tín hiệu do tàu ngầm phát ra với tiếng ồn xung quanh ở tầm xa, do mức độ yên tĩnh cao mà các tàu ngầm hiện đại nhất đã đạt được và mức độ tiếng ồn xung quanh đại dương tăng lên.

Các chuyên gia và nhà quan sát hy vọng rằng những cải tiến trong công nghệ phát hiện trong những năm tới sẽ khắc phục được việc những tàu ngầm trở nên yên tĩnh hơn. Những cải tiến này sẽ đến từ ba lĩnh vực chính: số lượng cảm biến lớn hơn (cảm biến phân tán, kết nối đa cảm biến và phương tiện tự hành trên mặt nước và dưới nước), kết quả là khối lượng lớn hơn và tính đa dạng hơn của dữ liệu (“dữ liệu lớn”) và phân tích dữ liệu chính xác hơn (tức là xử lý tín hiệu số và học máy).

Do những xu hướng này, theo một số nhà phân tích và nhà quan sát, sự thay đổi công nghệ trong cuộc cạnh tranh ẩn náu - tìm kiếm này sẽ có lợi cho bên tìm kiếm và thậm chí có thể dẫn đến sự kết thúc của khả năng tàng hình dưới nước - hướng tới sự minh bạch của đại dương. Mặc dù kỳ vọng này là đúng về mặt logic nhưng nó đã bỏ qua những thay đổi đồng thời trong đại dương cũng đang ảnh hưởng đến việc truyền và phát hiện âm thanh dưới nước. Chúng tôi thảo luận về khía cạnh này trong tiểu mục tiếp theo.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng như thế nào đến việc phát hiện của sonar

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hai khía cạnh của phương trình sonar: tiếng ồn xung quanh và tổn thất truyền tải, cả hai yếu tố này đều có thể tăng hoặc giảm. Tiếng ồn xung quanh có thể tăng ở một số khu vực do giao thông hàng hải nhiều hơn, trong khi giảm ở những nơi khác do một số loài sinh vật biển bị tuyệt chủng. Sự gia tăng tiếng ồn xung quanh có thể lấn át các tín hiệu âm thanh do tàu ngầm phát ra.

Mặt khác, việc giảm tiếng ồn xung quanh sẽ dẫn đến kết quả ngược lại. Suy hao truyền dẫn tăng có nghĩa là tiếng ồn do tàu ngầm phát ra hoặc phản xạ sẽ bị suy giảm nhiều hơn và do đó tín hiệu thu được sẽ yếu hơn. Việc giảm tổn thất truyền tải sẽ có tác dụng ngược lại. Nói tóm lại, cả nhiễu xung quanh mạnh hơn và tín hiệu yếu hơn đều góp phần tạo ra tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu thấp hơn, do đó, sẽ khiến việc phát hiện trở nên khó khăn hơn, trong khi nhiễu xung quanh thấp hơn và tín hiệu mạnh hơn góp phần tạo ra tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu cao hơn, do đó sẽ làm cho việc phát hiện dễ dàng hơn.

1719971873200.png


Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến tiếng ồn xung quanh theo nhiều cách. Mức ồn xung quanh được xác định bởi các hiện tượng tự nhiên như sóng, băng biển, mưa, gió cũng như hoạt động của con người và động vật như giao thông hàng hải, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sinh vật biển. Những thay đổi về đặc tính của sóng cũng như mô hình mưa và gió làm thay đổi mức độ tiếng ồn cục bộ nhưng hiện tại rất khó đánh giá. Tương tự như vậy, sự di cư của các loài sinh vật biển và sự thay đổi trong các tuyến giao thông và vận chuyển hàng hải do biến đổi khí hậu, mặc dù khó dự đoán nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến mức độ tiếng ồn. Ở một số khu vực, tiếng ồn xung quanh có thể sẽ tăng lên, trong khi ở những khu vực khác, tiếng ồn sẽ giảm.

Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến tổn hao truyền tải theo nhiều cách. Sự lan truyền âm thanh là một hàm của nhiệt độ nước, độ mặn và độ sâu. Do đó, bằng cách thay đổi nhiệt độ và độ mặn trong đại dương, biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tổn hao truyền tải. Hơn nữa, do sự hấp thụ carbon dioxide ngày càng tăng, một số phần của đại dương đang trở nên có tính axit hơn và tính axit ảnh hưởng đến cả tổn hao truyền tải và tiếng ồn xung quanh. Cuối cùng, những thay đổi về nhiệt độ khí quyển và đại dương, chế độ mưa và tốc độ tan băng sẽ làm thay đổi các đặc trưng của truyền âm.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là tác động của biến đổi khí hậu đến tổn hao truyền tải và mức tiếng ồn xung quanh là khác nhau và sẽ tiếp tục thay đổi theo từng khu vực và do đó cần được hiểu là theo từng khu vực cụ thể.

Do điều kiện môi trường của đại dương ảnh hưởng trực tiếp đến việc truyền âm thanh dưới nước nên chúng cũng ảnh hưởng đến hoạt động tác chiến chống tàu ngầm. Ví dụ, hãy xem xét rằng ở khu vực phía bắc và trung tâm của Biển Đông, nhiệt độ và độ mặn của nước hạn chế sự lan truyền âm thanh và do đó khiến việc phát hiện tàu ngầm trở nên khó khăn hơn. Theo đó, những thay đổi về nhiệt độ và độ mặn do biến đổi khí hậu gây ra có thể làm thay đổi các điều kiện hiện có và do đó khiến việc phát hiện trở nên dễ dàng hơn hoặc khó khăn hơn. Điều này đặc biệt đúng vì trong những thập kỷ tới, đại dương dự kiến sẽ trải qua những biến đổi đáng kể do biến đổi khí hậu.

1719971899946.png


Tác động của biến đổi khí hậu đối với đại dương là rõ ràng khi chúng ta nhìn vào nhiệt độ bề mặt nước biển, dự kiến sẽ tăng tới 4°C trong 80 năm tới, so với thời kỳ cơ sở (1961–1990). Sự gia tăng nhiệt độ bề mặt nước biển như vậy là có liên quan, bởi vì khi nói đến việc truyền âm dưới nước, những thay đổi nhỏ trong điều kiện hải dương học cũng đủ để tạo ra những hiệu ứng đáng kể. Yếu tố chính quyết định sự lan truyền âm thanh dưới nước là tốc độ âm thanh, xấp xỉ 1.500 mét mỗi giây ở vùng nước ôn đới và xích đạo, với các biến thể có thể có trong phạm vi cộng và trừ 1 đến 4%. Tuy nhiên, “mặc dù những thay đổi về tốc độ âm thanh này là nhỏ nhưng chúng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự truyền âm trong đại dương.” Trên thực tế, sự thay đổi không nhiều về tốc độ âm thanh này tạo ra những biến đổi đáng kể về mặt địa lý, theo mùa, hàng tuần và hàng ngày trong đặc trưng của truyền âm.

Ví dụ, vào mùa hè, nước mặt ấm lên vào buổi chiều ở một số vùng biển, khiến âm thanh phát ra từ nguồn gắn trên thân tàu bị uốn cong xuống dưới và ra ngoài lớp bề mặt (còn gọi là ống dẫn âm bề mặt), do đó hạn chế cơ hội phát hiện một tàu ngầm hoạt động tương đối nông ở tầm xa - một hiện tượng được gọi là “hiệu ứng buổi chiều”. Tương tự như vậy, ở vĩ độ thấp hoặc vào mùa hè ở vĩ độ trung bình, hơi nóng từ mặt trời làm nóng lớp trên bề mặt của đại dương, tầng này “không hỗ trợ việc truyền âm thanh tầm xa mà thay vào đó tạo ra vùng bóng âm thanh tầng sâu”.

Theo đó, biến đổi khí hậu có thể có tác động rõ rệt đến tác chiến chống tàu ngầm ngay cả khi nó chỉ tạo ra những thay không đáng kể trên đại dương. Hãy xem xét rằng những thay đổi nhỏ trong tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu cũng đủ để làm thay đổi đáng kể xác suất phát hiện tàu ngầm. Ví dụ: trong một số điều kiện, việc giảm chỉ một vài decibel trong tín hiệu vượt quá có thể làm giảm xác suất phát hiện từ 90% xuống 50% hoặc giảm phạm vi phát hiện 50%.


....................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
JF-17 của Pakistan được thấy với vũ khí hạt nhân dưới cánh

1719972631251.png


Ấn Độ đang bổ sung máy bay chiến đấu Rafale của Pháp có thể mang tên lửa hạt nhân. Để theo kịp, Pakistan đang nâng cấp máy bay phản lực JF-17 'Thunder' của mình cho các nhiệm vụ tương tự.

JF-17, từ sự hợp tác giữa Trung Quốc và Pakistan, từ lâu đã được cho là có vai trò hạt nhân. Giờ đây, một bức ảnh gần đây xác nhận rằng JF-17 của Pakistan được trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật.

Theo một phân tích của Liên đoàn các nhà khoa học Hoa Kỳ [FAS] vào năm 2023, những bức ảnh này cho thấy RA'AD I, Tên lửa hành trình phóng từ trên không có khả năng hạt nhân duy nhất của Pakistan [ALCM], hiện đang được sử dụng với máy bay phản lực JF-17. Trước đó, máy bay Mirage III/V đảm nhiệm chức năng răn đe trên không. RA'AD ALCM, được thử nghiệm lần đầu tiên vào năm 2007, có thể thực hiện cả nhiệm vụ "thông thường và hạt nhân" .

1719972732721.png

Tên lửa hành trinh RA'AD ALCM

Pakistan đang có kế hoạch cho nghỉ hưu các máy bay Mirage III và V cũ của mình. JF-17 sẽ trở thành máy bay chính cho hệ thống phòng thủ hạt nhân trên không của nước này. Những hình ảnh đầu tiên về một chiếc JF-17 được thiết lập cho vai trò hạt nhân đã được nhìn thấy trong buổi diễn tập Diễu hành Ngày Pakistan năm 2023. Để xác nhận khả năng hạt nhân của tên lửa RAAD trong các hình ảnh, FAS đã mua những bức ảnh gốc để xem xét kỹ hơn.

Khi so sánh hình ảnh của Tên lửa hành trình phóng từ trên không [ALCM] với hình ảnh cũ hơn của RAAD I và II, các nhà phân tích nhận thấy sự khác biệt về thiết kế. Điều này cho thấy Pakistan đang nỗ lực nâng cấp JF-17 của mình để cuối cùng thay thế các máy bay Mirage cũ hơn trong vai trò tấn công hạt nhân. Theo phân tích của FAS, “Những quan sát này cho thấy Pakistan đang đạt được tiến bộ đáng kể trong việc chuẩn bị cho các máy bay JF-17 của mình để tiếp quản nhiệm vụ tấn công hạt nhân từ các máy bay Mirage III/V cũ kỹ”.

1719972873270.png

Tên lửa hành trinh RA'AD ALCM trên máy bay Mirage III/V

Phân tích của FAS lưu ý thêm, “Pakistan đã thiết kế lại RAAD-II ALCM, nhưng không có nhiều thông tin về mục đích hoặc khả năng của nó. Cũng không rõ liệu một trong hai hệ thống RAAD đã được triển khai hay chưa, nhưng điều này có thể chỉ là vấn đề thời gian.”

JF-17 Thunder còn được gọi là FC-1 Xiaolong ở Trung Quốc, là một máy bay chiến đấu một động cơ hạng nhẹ. Nó được Pakistan và Trung Quốc cùng nhau phát triển. JF-17 dài khoảng 49 feet, sải cánh 31 feet và cao 15,6 feet. Nó có thể cất cánh với trọng lượng tối đa khoảng 28.000 pound.

JF-17 được trang bị động cơ phản lực cánh quạt Klimov RD-93. Động cơ này cung cấp cho máy bay lực đẩy 11.100 pound khi không đốt tăng lực và 19.000 pound khi đốt tăng lực. Với động cơ này, JF-17 có thể đạt tốc độ tối đa Mach 1.6 và có thể bay cao tới 55.500 feet. JF-17 đi kèm với công nghệ tiên tiến giúp tăng cường sức mạnh chiến đấu. Nó có hệ thống điều khiển hiện đại, buồng lái với nhiều màn hình hiển thị và các nút điều khiển dễ sử dụng. Máy bay cũng có hệ thống điện tử và hệ thống hàng đầu để chống lại các mối đe dọa.

1719973288075.png


Thiết bị điện tử của JF-17 bao gồm hệ thống radar như radar băng tần X KLJ-7, có thể xử lý cả nhiệm vụ trên không và trên bộ. Nó cũng có màn hình hiển thị thông tin trên đầu, hệ thống dẫn đường quán tính và GPS.

Trong một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân có rủi ro cao, sự cạnh tranh giữa Ấn Độ và Pakistan đang nóng lên. Pakistan đang tiến triển sau khi Ấn Độ thử nghiệm thành công nhiều đầu đạn cho tên lửa Agni của mình. Để đáp trả, Pakistan đang phát triển tên lửa Ababeel.

Trung Quốc đã bổ sung nhiều đầu đạn vào một số tên lửa đạn đạo của mình, và Ấn Độ đang nỗ lực mở rộng tầm bắn tên lửa của mình để bao phủ toàn bộ Trung Quốc. Trong khi đó, Pakistan tập trung chiến lược hạt nhân của mình vào Ấn Độ, đầu tư mạnh vào vũ khí hạt nhân chiến thuật. Kho vũ khí hạt nhân của Ấn Độ đã bao phủ Pakistan, và hiện đang thúc đẩy để vươn tới toàn bộ Trung Quốc.

1719973439599.png

Tên lửa Agni có khả năng mang đầu đạn hạt nhân của Ấn Độ

Ấn Độ có thể đang thay đổi chính sách hạt nhân của mình. Theo truyền thống, đầu đạn hạt nhân của Ấn Độ được cất giữ riêng biệt với bệ phóng trong thời bình. Tuy nhiên, những động thái gần đây, như cất giữ tên lửa trong hộp phóng và sử dụng tàu ngầm hạt nhân, cho thấy động thái hướng tới việc giữ đầu đạn và bệ phóng cùng nhau ngay cả trong thời bình.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Cách Mỹ vượt 'lằn ranh đỏ' tại Ukraine

Vào cuối tháng 5, chính quyền Biden đã công bố một thay đổi chính sách lớn: Washington hiện sẽ cho phép lực lượng Ukraine bắn vũ khí do Mỹ cung cấp vào Nga — mặc dù chỉ xung quanh một khu vực ở phía đông bắc.

Điều này từ lâu đã là ranh giới đỏ trong sự ủng hộ của chính quyền đối với Kyiv vì lo ngại chiến tranh sẽ lan rộng.

Chỉ mất vài ngày để Ukraine nói rằng như vậy là chưa đủ.

“Như vậy đã đủ chưa? Không,” Tổng thống Volodymyr Zelenskyy phát biểu tại một cuộc họp báo ở Singapore vài giờ sau cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin.

1719974244548.png


Bình luận này là một mô hình thu nhỏ của một thách thức dài hạn hơn nhiều đối với Washington. Trong nỗ lực tránh leo thang, chính quyền đã giữ lại một số vũ khí mà Ukraine yêu cầu, chỉ để sau đó thay đổi hướng đi. Kết quả là một chính sách luôn thay đổi thường khiến Kyiv không hài lòng — tại sao chấp nhận một thay đổi đối với các quy tắc khi thúc đẩy một thay đổi khác có thể nới lỏng chúng hơn?

Ví dụ mới nhất và có lẽ là quan trọng nhất về tình hình này là các cuộc tấn công xuyên biên giới. Quyền hạn hạn chế mà Nhà Trắng trao cho Ukraine để bắn vào Nga đã được mở rộng. Và nếu điều này tiếp tục, các nhà phân tích cho biết, nó có thể tạo ra tác động thực sự trong cuộc chiến.

“Nó thực sự có thể thay đổi cuộc chiến”, George Barros, người đứng đầu nhóm tình báo Nga và địa không gian tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh, một tổ chức nghiên cứu chính sách công, cho biết .

Hai tuần sau bình luận của Zelenskyy, một viên chức quốc phòng cấp cao của Hoa Kỳ cho biết chính sách này có thể chỉ đang chuyển động theo hướng đó. Bên lề cuộc họp vào tháng 6 tại trụ sở NATO ở Brussels, viên chức này đã liệt kê các ví dụ về những thứ mà Ukraine muốn nhưng Hoa Kỳ đã thay đổi quyết định: máy bay chiến đấu, tên lửa tầm xa, bắn vào Nga.

“Nếu bạn nhìn lại quá trình xung đột, bạn có thể thấy một số lĩnh vực mà chúng tôi đã miễn cưỡng làm điều gì đó và sau đó chúng tôi đã làm điều đó”, vị quan chức này cho biết, nói với điều kiện giấu tên, theo chính sách của Lầu Năm Góc. “Vì vậy, đừng bao giờ nói không bao giờ”.

Một cách tiếp cận khác

Con đường dẫn đến sự thay đổi chính sách vào cuối tháng 5 đã bắt đầu vài tuần trước những bình luận của Zelenskyy tại Singapore.

1719974048106.png


Vào đầu tháng 5, Nga đã phát động một cuộc tấn công mới gần Kharkiv, thành phố lớn thứ hai của Ukraine. Không giống như các khu vực đô thị lớn khác trong nước, Kharkiv nằm gần biên giới Nga - cách đó khoảng 20 dặm. Phần lớn là do những hạn chế về cách Ukraine có thể sử dụng vũ khí do phương Tây cung cấp, Nga đã có thể khai hỏa từ phía biên giới của mình mà không bị trả đũa đáng kể.

"Bạn chỉ cần nhìn vào bản đồ ... cho thấy quân đội Nga đang tập trung ngay bên kia biên giới và sử dụng điều đó để tấn công vào Ukraine", quan chức quốc phòng Hoa Kỳ cho biết.

Ukraine đã yêu cầu được phép bắn vào Nga, điều mà Washington đã chấp thuận sau khi một số đối tác châu Âu công khai ủng hộ yêu cầu này. Nhưng điều này sẽ bị hạn chế: Ukraine có thể bắn vũ khí của Hoa Kỳ - như Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao, có tầm bắn gần 50 dặm - qua biên giới để tự vệ xung quanh Kharkiv. Họ vẫn không thể bắn vũ khí tầm xa của Hoa Kỳ - như tên lửa ATACMS có tầm bắn khoảng 186 dặm - vào các mục tiêu sâu hơn vào Nga.

Trong vòng vài tuần, các quan chức Hoa Kỳ đã ghi nhận sự thay đổi này, một phần, là do tiền tuyến ổn định hơn. Khi Austin đến thăm trụ sở NATO vào tháng 6, các thành viên của phái đoàn Hoa Kỳ đã gọi tâm trạng đó là "lạc quan".

Austin cho biết: “Những gì tôi thấy là quân Nga đang chậm lại và ổn định lại khu vực mặt trận cụ thể đó”.

Một số nhà phân tích tỏ ra nghi ngờ về lời giải thích đó.

Michael Kofman, người nghiên cứu về chiến tranh Ukraine tại tổ chức tư vấn Carnegie Endowment for International Peace, cho biết vào thời điểm chính sách của Mỹ thay đổi, Nga đã bắt đầu mất đà.

“Cuộc tấn công của Nga đã lên đến đỉnh điểm trước khi sự thay đổi chính sách có hiệu lực”, ông nói.

Điều đó không có nghĩa là việc chấp thuận bắn vào Nga là vô ích. Theo Barros, vấn đề là tạo ra những tình huống khó xử. Theo chính sách hiện tại, lực lượng Nga sẽ phải phân tán xa hơn, nếu không họ sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng. Điều đó sẽ khiến việc phát động các cuộc tấn công mới trở nên khó khăn hơn.

Nhưng Barros nói với rằng đó chỉ là lợi ích hạn chế.

Ông cho biết: “Về lâu dài, hiện tại, điều này sẽ không tạo ra sự khác biệt lớn”.

..................
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
28,161
Động cơ
654,890 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

'Quyền tự vệ'

Do đó, một nhóm các quan chức ở Hoa Kỳ và nước ngoài đã thúc đẩy việc chấm dứt các hạn chế còn lại. Trong nhóm này có tổng thư ký NATO.

Ngay trước cuộc họp tháng 6 tại Brussels, Jens Stoltenberg đã bước vào sảnh trụ sở để nói chuyện với các phóng viên. Về các cuộc tấn công vào Nga, ông đã đưa ra hai điểm: Vì biên giới và tiền tuyến rất gần Kharkiv, Ukraine sẽ phải vật lộn để tự vệ nếu không thể bắn vào Nga. Và gánh nặng không nên đặt lên vai Ukraine để tránh leo thang.

1719974336667.png


“Ukraine có quyền tấn công các mục tiêu quân sự trên lãnh thổ Nga - một phần của quyền tự vệ - và chúng tôi có quyền hỗ trợ họ tự vệ”, ông nói.

Các thành viên của Quốc hội, trong đó có những người Dân chủ nổi tiếng, đã thúc giục chính quyền Biden nới lỏng các hạn chế đối với Ukraine. Nhiều đối tác châu Âu đã tham gia cùng họ.

“Nga đang tổ chức các cuộc tấn công từ lãnh thổ Nga, và chúng tôi áp đặt các hạn chế đối với Ukraine,” Bộ trưởng Quốc phòng Litva Laurynas Kasčiūnas cho biết trong một cuộc phỏng vấn : “Điều đó thật vô lý.”

Nhưng dựa trên một số tuyên bố gần đây của các quan chức Mỹ, vẫn chưa rõ những hạn chế đó là gì.

Khi được yêu cầu làm rõ chính sách của Hoa Kỳ về các cuộc tấn công vào Nga, viên chức quốc phòng Hoa Kỳ phát biểu tại Brussels đã dừng lại và mở một tập tài liệu ghi chép đã chuẩn bị. Đọc chúng, viên chức này đã liệt kê một số điểm chính mà chính quyền đã sử dụng khi thảo luận về chính sách: "giới hạn", "mục tiêu quân sự", "ngay bên kia biên giới".

"Đó không phải là thông tin chi tiết hơn nhiều", vị quan chức nói, trong khi các phóng viên trong phòng bật cười.

Trong một cuộc họp báo sau đó vào ngày hôm đó, Austin đã trả lời các câu hỏi về chính sách này, đưa nó vào vùng đông bắc Ukraine. "Khả năng phản công trong cuộc giao tranh cận chiến này ở khu vực Kharkiv chính là mục đích của việc này", ông nói.

1719974473425.png


Nhưng vài ngày sau đó, trong một cuộc phỏng vấn với PBS , cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan cho biết quyền được tấn công "mở rộng tới bất kỳ nơi nào mà lực lượng Nga đi qua biên giới từ phía Nga sang phía Ukraine để cố gắng chiếm thêm lãnh thổ".

“Đây không phải là vấn đề địa lý,” Sullivan nói thêm. “Mà là vấn đề về lẽ thường.”

Theo quan điểm của Ukraine, chính sách này "khá rõ ràng", theo Dmytro Klimenkov, thứ trưởng quốc phòng phụ trách mua sắm. Ông từ chối bình luận về việc liệu chính sách có nên nới lỏng hơn hay không.

................
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top