THẢM HỌA KINH HOÀNG đối với tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô
Vào giữa những năm 1980, Liên Xô đã chế tạo một siêu tàu ngầm hạt nhân mang tên Komsomolets, đây được coi là một hướng đi mới cho Hải quân Liên Xô. Tuy nhiên, chỉ 5 năm sau, Komsomolets, toàn bộ vũ khí và 2/3 thủy thủ đoàn đã nằm dưới đáy đại dương.
Đến nay, Nga đã liên tục thực hiện các kế hoạch trục vớt tàu ngầm Komsomolets nhằm ngăn chặn thảm họa rò rỉ phóng xạ khi tàu bị nước biển mặn ăn mòn nhưng chưa thành công. Để tránh nguy cơ rò rỉ, Nga đã dùng các biện pháp đặc biệt bao kín con tàu, biến nó thành “nấm mồ chôn titan” khổng lồ dưới đáy biển ở độ sâu 1,6km.
Tàu ngầm hạt nhân mang tên Komsomolets
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, với tham vọng chế tạo tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới, Liên Xô đã cho ra đời tàu ngầm Komsomolets K-278, lớp Plavnik thuộc Dự án 685 duy nhất từng được đóng. Tàu ngầm Komsomolets có chiều dài 122m, cao 11,2m, với thân tàu bên trong rộng khoảng 7,3m; trọng lượng dãn nước 6.500 tấn và việc sử dụng titan thay vì thép khiến nó nhẹ hơn đáng kể. K-278 có một thân tàu đôi độc đáo, với thân bên trong được làm bằng titan, mang lại cho nó khả năng lặn sâu. Vỏ bên trong được chia thành 7 khoang, 2 trong số đó được gia cố để tạo khu vực an toàn cho thủy thủ đoàn và 1 khoang thoát hiểm được tích hợp vào khoang điều khiển cho phép thủy thủ đoàn rời tàu khi tàu lặn ở độ sâu lên đến 1.500m.
Mô phỏng khoang thoát hiểm của tàu ngầm Komsomolets K-278
K-278 được trang bị một lò phản ứng hạt nhân OK-650B-3 công suất 190MW, dẫn động 2 động cơ tuabin hơi nước 45.000 mã lực, cho phép con tàu cơ động dưới nước với vận tốc 30 hải lý/h và tốc độ trên mặt nước là 14 hải lý/h. K-278 được trang bị 6 ống phóng ngư lôi đường kính tiêu chuẩn 533mm, với 22 ngư lôi Kiểu 53 và ngư lôi chống tàu ngầm siêu trọng lực Shkval và tên lửa chống ngầm SS-N-15 Starfish. Mặc dù tàu K-278 ban đầu được chế tạo để thử nghiệm công nghệ nhưng nó sau cùng được vũ trang và sẵn sàng tác chiến vào năm 1988.
K-278 Komsomolets gia nhập sư đoàn 6, Hạm đội Phương Bắc của Hải quân Liên Xô vào tháng 1 năm 1984 và từ đây con tàu bắt đầu thực hiện một loạt các thử nghiệm lặn sâu. Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Yuri Zelensky, tàu K-278 đã đạt kỷ lục lặn sâu với độ sâu đến 1020 m tại biển Na Uy - một độ sâu thực sự đáng kinh ngạc nếu so với các tàu ngầm của Mỹ. Chẳng hạn như USS Los Angeles có khả năng lặn sâu tối đa chỉ ở 450 m. Thêm vào đó, độ sâu giới hạn (crush depth - độ sâu giới hạn của cấu trúc tàu) của K-278 lên đến 1371 m.
Hải quân Liên Xô xem K-278 là con tàu bất khả xâm phạm ở độ sâu hơn 1000 m bởi ở độ sâu như vậy, con tàu gần như biến mất trong lòng biển, thủy âm cũng rất khó phát hiện và ngư lôi của địch của khó với tới. Chẳng hạn như loại ngư lôi Mark 48 của Mỹ có độ sâu hoạt động tối đa chỉ 800 m.
Thiết kế tối tân của tàu ngầm dự án 685 của Liên Xô bao gồm nhiều hệ thống tự động từ đó giảm nhân sự cần có trên tàu. Theo đề xuất năm 1982 của Bộ quốc phòng Liên Xô thì thủy thủ đoàn chỉ cần 57 người, sau đó tăng lên thành 64 người trong đó bao gồm 30 sĩ quan, 22 chuẩn úy, 12 hạ sĩ và thủy thủ.
Sau khi được hạ thủy, tàu ngầm Komsomolets bắt đầu thực hiện các chuyến tuần tra dưới lòng biển và được biên chế vào đơn vị tác chiến chống ngầm của Hạm đội Phương Bắc. Tuy nhiên, vào ngày 7/4/1989, một ngọn lửa bùng phát trên khoang đã biến Komsomolets thành cỗ quan tài titan khổng lồ dưới đáy biển Na Uy.
Hỏa hoạn từ tia dầu
Lúc đó, tàu ngầm Komsomolets đang hoạt động ở độ sâu 381m dưới lòng biển Na Uy, cách đất liền Na Uy 514,9km về phía Bắc. Tính đến hôm đó, tàu đã tiến hành chuyến tuần tra được 39 ngày. Sau khi kết thúc cuộc tuần tra, Komsomolets trở về căn cứ như dự kiến. Vào lúc 11 giờ trưa, báo cáo của sĩ quan trực tàu cho biết các khoang của tàu vẫn hoạt động bình thường. Thế nhưng, chỉ 3 phút sau, hệ thống báo động hú vang khi nhiệt độ ở khoang 7 của tàu (gần đuôi tàu) cao bất thường ở mức 70 độ C. Cùng với đó, một tia dầu đã xịt lên bề mặt nóng trong khoang làm bùng lên ngọn lửa lớn. Sĩ quan đang trực tại khoang 7 liên lạc với thuyền trưởng nhưng không được.
Sau khi được báo cáo xảy ra hỏa hoạn ở khoang số 7 và liên tục liên lạc với thủy thủ khoang 7 nhưng không có tín hiệu, thuyền trưởng tàu quyết định xả khí freon (một loại khí làm lạnh không màu, không mùi, không cháy nhưng lại gây tử vong cho người nếu tiếp xúc phải) nhằm dập tắt đám cháy trước khi nó lan rộng ra các khoang khác, gây nguy hiểm cho toàn bộ con tàu và 69 thủy thủ. Áp suất khổng lồ tại khoang 7 đã đẩy dầu sang các khoang 6 khiến lửa cháy lan sang các khoang bên cạnh. Ngọn lửa khủng khiếp tới mức, các thủy thủ khoang 6 không kịp đeo mặt nạ khí và đồ bảo hộ. Họ nhanh chóng tử vong trong biển lửa và khí độc freon.
Lúc này, lo sợ lò phản ứng tan chảy, thủy thủ đoàn buộc phải dừng máy phát điện còn lại trong khi máy phát điện trước đã bị hỏng, con tàu dừng lại đột ngột ở độ sâu 152m và bắt đầu mất sức nâng. 10 phút sau, hệ thống bơm dầu trên tàu bị ngắt, tàu bị mất hệ thống kiểm soát hệ thống áp suất thủy lực để nổi lên mặt nước. Thuyền trưởng tàu buộc phải ra lệnh quá trình nổi khẩn cấp bằng cách cho nổ các bể nước dằn để tạo phản lực đẩy tàu lên. Sau tiếng nổ đầu tiên, tàu Komsomolets nổi lên được gần 91,4m. Quá trình này được lặp lại với các bể nước dằn khác, và cuối cùng tàu ngầm cũng nổi được lên mặt nước.
Theo Norman Polmar và Kenneth Moore - 2 chuyên gia nghiên cứu về hoạt động và thiết kế tàu ngầm của Nga thì tàu K-278 Komsomolets vốn dĩ là nền tảng để thử nghiệm công nghệ và với thủy thủ đoàn ít người, nó thiếu đi các biện pháp kiểm soát hư hại và bản thân thủy thủ đoàn trên tàu đa phần là là lính mới. Trong cuốn sách Cold War Submarines: The Design and Construction of U.S. and Soviet Submarines, 1945 - 2001, Polmar và Moore mô tả rằng đám cháy trên tàu Komsomolets lớn đến nỗi các thuyền viên sau khi lên được boong tàu đã chứng kiến được cảnh tượng lớp cao su chống dội âm phủ bên ngoài thân tàu bị bóc ra do quá nóng.
Vào 11:37 giờ địa phương, thuyền trưởng Vanin đã phát tín hiệu cầu cứu và Hải quân Liên Xô đã nhận được nhưng thông điệp mà họ nhận lại không trọn vẹn khiến họ không biết được tình trạng nguy hiểm của tàu. Đến 11:54 thuyền trưởng Vanin quyết định bỏ qua các quy định phát sóng mã hóa của Liên Xô để phát tín hiệu SOS, kêu gọi mọi sự giúp đỡ có sẵn với thông điệp: “Trong vùng biển gần đảo Bear có một con tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô đang cháy. Con tàu đang nổi trên mặt nước, thủy thủ đoàn đang giành giật sự sống.”
Tuy nhiên, Hải quân Liên Xô gặp khó khăn trong công tác triển khai cứu hộ bởi họ đứng trước rất nhiều giải pháp. Một là có thể cử các máy bay trực thăng có thể hạ cánh trên mặt nước đến vị trí tàu Komsomolets gặp nạn nhưng vị trí của tàu cách biên giới Liên Xô đến gần 1000 km, thế nên trực thăng chỉ đủ nhiên liệu để bay đến, không thể bay về. Thứ 2 là họ có thể gởi máy bay cánh bằng tầm bay xa đến thả bè cứu sinh dù không thể hạ cánh trên biển. Quyết định sau cùng được đưa ra là cử máy bay Il-38 Dolphin đến ứng cứu.
Il-38 Dolphin
Chiếc Il-38 lăn ra đường băng từ 12:43 và đến 14:40, phi công trên chiếc Il-38 nhìn thấy các thủy thủ trên mặt biển nhưng họ không mang bộ đồ chống nước. Có thể là họ nghĩ họ sẽ sớm được giải cứu nhưng nhiệt độ nước ở biển Na Uy lúc này gần đóng băng (~ 2 độ C) và nếu ngâm mình trong nước biển lạnh giá như vậy trong chỉ 15 phút, họ sẽ bất tỉnh. Trong khi đó, tàu K-278 Komsomolets nằm bất động trên mặt biển, khói đen bốc ra từ đuôi. Chiếc Ilyushin Il-38 thả những chiếc bè cứu hộ nhưng chỉ một số thủy thủ lên được bè và cũng không đủ bè cho tất cả. Nhiều thủy thủ do ngâm mình trong làn nước lạnh giá đã tê cóng và không thể bám vào bè.
Thuyền trưởng Vanin cùng 4 thủy thủ khác quay trở lại bên trong tàu Komsomolets để tìm kiếm những người khác - những người vẫn đang tìm cách cứu con tàu này trong vô vọng. Tuy nhiên, đám cháy dữ dội khiến Vanin cùng những đội cứu hộ không thể tiến vào sâu hơn, con tàu thì đã chúi mũi xuống và bắt đầu chìm.
Vanin và đội giải cứu tìm được đến buồng thoát hiểm nhưng nó bị kẹt, không thể phóng ra ngoài được. Khi con tàu chìm xuống độ sâu gần 400 m nước, áp suất khiến nó bị xé toạc và nhờ đó buồng thoát hiểm được nhả ra. Khi buồng thoát hiểm lên gần đến mặt nước, chênh lệch áp suất thổi bay nắp buồng thoát hiểm, 2 người bị đẩy ra ngoài, nước tràn vào nhanh chóng. Sau cùng chỉ có 1 người lên được mặt nước và sống sót, thuyền trưởng Vanin cùng những người còn lại chìm theo buồng thoát hiểm cùng với con tàu Komsomolets.
17:08, sau nhiều giờ nổi trên mặt biển thì tàu K-278 Komsomolets chìm xuống độ sâu 1680 m ở góc 80 độ. Những thủy thủ nổi trên mặt nước được giải cứu nhưng không phải tất cả đều sống sót. 81 phút sau khi K-278 Komsomolets chìm thì 2 con tàu là Aleksey Khlobystov và Oma đến cứu nhưng chỉ 27 người sống sót, 42 người chết trong đó 9 người chìm cùng với chiếc tàu ngầm, 30 người chết vì hạ thân nhiệt hoặc chấn thương và 3 người chết trên thuyền.
Phóng xạ vẫn rò rỉ đến ngày nay
Tàu K-278 Komsomolets chìm với lò phản ứng hạt nhân, 22 ngư lôi Type 53 và tên lửa chống ngầm SS-N-15 Starfish. Trong số ngư lôi này có 2 ngư lôi mang đầu đạn hạt nhân. Trước áp lực từ Na Uy, Liên Xô đã sử dụng các tàu lặn sâu, được điều hành từ tàu nghiên cứu đại dương Keldysh để tìm kiếm tàu ngầm K-278. Vào tháng 6 năm 1989 tức 2 tháng sau sự cố, xác tàu được tìm thấy và các quan chức Liên Xô khẳng định rằng phóng xạ rò rỉ không đáng kể và không gây hại đến môi trường.
Vào năm 1992, cuộc thăm dò thứ 2 diễn ra với sự góp mặt của một nhóm các nhà khoa học trong đó có chuyên gia từ Na Uy đã tiến hành khảo sát mẫu nước, trầm tích và sinh vật đáy biển nhưng không phát hiện rò rỉ phóng xạ nguy hiểm. Đến năm 1993 thì một khảo sát khác của Nga với các chuyên gia từ Hà Lan, Na Uy và Mỹ mới phát hiện ra phóng xạ Cesium-137 và họ cũng tìm thấy một lỗ lớn tại khoang chứa ngư lôi. Từ năm 1989 và năm 1998, đã có tổng cộng 7 cuộc thăm dò để bảo quản lò phản ứng và niêm phong các ngư lôi nhằm chống rò rỉ phóng xạ.
Tengiz Borisov - người đứng đầu Ủy ban đặc biệt của Nga về các nhiệm vụ dưới nước từng nói với các phóng viên rằng: "Nếu có rò rỉ, hoạt động đánh bắt cá sẽ không thể xảy ra tại biển Na Uy trong khoảng từ 600 đến 700 năm."
Xác tàu ngầm Komosolets
Hilde Elise Heldal - một nhà nghiên cứu đến từ Viện nghiên cứu biển, từng tham gia các chuyến thăm dò đến xác tàu Komosolets cho biết: "Những cuộc thăm dò trước đó của Nga, vào những năm 1990 và lần cuối là vào năm 2007 đã phát hiện ra tình trạng rò rỉ phóng xạ từ một ống thông hơi của tàu." Sau khi lấy 5 mẫu vật từ chiếc ống này, các nhà nghiên cứu đã đo được nhiều mức độ ô nhiễm phóng xạ khác nhau. Một mẫu không cho thấy mức ô nhiễm quá cao so với bình thường, một mẫu cho thấy nồng độ cao hơn 30 ngàn lần so với bình thường, 2 mẫu cho thấy độ ô nhiễm gấp 100 ngàn lần và đặc biệt là một có nồng độ đến gần 1 triệu lần.
Năm 2019, lần đầu tiên các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận gần và đo trực tiếp nồng độ phóng xạ tại tàu Komsomolets nhờ một tàu lặn không người lái là Aegir 6000. Họ cũng đã quay phim và chụp hình cũng như thu thập các mẫu vật tại tàu. Máy đo phóng xạ trên Aegir 6000 xác nhận phóng xạ rò rỉ từ ống thông hơi của con tàu đắm có nồng độ cao từ hàng trăm ngàn đến gần một triệu lần so với nước biển không ô nhiễm. Dù vậy, Heldal vẫn bày tỏ sự lạc quan khi nói "kết quả có thể rất đáng sợ" nhưng vẫn chưa đáng báo động bởi phóng xạ rò rỉ sẽ nhanh chóng bị pha loãng và bằng chứng là ở khu vực chỉ cách ống thông hơi nửa mét thì máy đo không phát hiện ra phóng xạ.
Kiểm tra mức độ phóng xạ tại xác tàu ngầm Komsomolets bằng tàu lặn không người lái Aegir 600
Vào giữa những năm 1980, Liên Xô đã chế tạo một siêu tàu ngầm hạt nhân mang tên Komsomolets, đây được coi là một hướng đi mới cho Hải quân Liên Xô. Tuy nhiên, chỉ 5 năm sau, Komsomolets, toàn bộ vũ khí và 2/3 thủy thủ đoàn đã nằm dưới đáy đại dương.
Đến nay, Nga đã liên tục thực hiện các kế hoạch trục vớt tàu ngầm Komsomolets nhằm ngăn chặn thảm họa rò rỉ phóng xạ khi tàu bị nước biển mặn ăn mòn nhưng chưa thành công. Để tránh nguy cơ rò rỉ, Nga đã dùng các biện pháp đặc biệt bao kín con tàu, biến nó thành “nấm mồ chôn titan” khổng lồ dưới đáy biển ở độ sâu 1,6km.
Tàu ngầm hạt nhân mang tên Komsomolets
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, với tham vọng chế tạo tàu ngầm lặn sâu nhất thế giới, Liên Xô đã cho ra đời tàu ngầm Komsomolets K-278, lớp Plavnik thuộc Dự án 685 duy nhất từng được đóng. Tàu ngầm Komsomolets có chiều dài 122m, cao 11,2m, với thân tàu bên trong rộng khoảng 7,3m; trọng lượng dãn nước 6.500 tấn và việc sử dụng titan thay vì thép khiến nó nhẹ hơn đáng kể. K-278 có một thân tàu đôi độc đáo, với thân bên trong được làm bằng titan, mang lại cho nó khả năng lặn sâu. Vỏ bên trong được chia thành 7 khoang, 2 trong số đó được gia cố để tạo khu vực an toàn cho thủy thủ đoàn và 1 khoang thoát hiểm được tích hợp vào khoang điều khiển cho phép thủy thủ đoàn rời tàu khi tàu lặn ở độ sâu lên đến 1.500m.
Mô phỏng khoang thoát hiểm của tàu ngầm Komsomolets K-278
K-278 được trang bị một lò phản ứng hạt nhân OK-650B-3 công suất 190MW, dẫn động 2 động cơ tuabin hơi nước 45.000 mã lực, cho phép con tàu cơ động dưới nước với vận tốc 30 hải lý/h và tốc độ trên mặt nước là 14 hải lý/h. K-278 được trang bị 6 ống phóng ngư lôi đường kính tiêu chuẩn 533mm, với 22 ngư lôi Kiểu 53 và ngư lôi chống tàu ngầm siêu trọng lực Shkval và tên lửa chống ngầm SS-N-15 Starfish. Mặc dù tàu K-278 ban đầu được chế tạo để thử nghiệm công nghệ nhưng nó sau cùng được vũ trang và sẵn sàng tác chiến vào năm 1988.
K-278 Komsomolets gia nhập sư đoàn 6, Hạm đội Phương Bắc của Hải quân Liên Xô vào tháng 1 năm 1984 và từ đây con tàu bắt đầu thực hiện một loạt các thử nghiệm lặn sâu. Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Yuri Zelensky, tàu K-278 đã đạt kỷ lục lặn sâu với độ sâu đến 1020 m tại biển Na Uy - một độ sâu thực sự đáng kinh ngạc nếu so với các tàu ngầm của Mỹ. Chẳng hạn như USS Los Angeles có khả năng lặn sâu tối đa chỉ ở 450 m. Thêm vào đó, độ sâu giới hạn (crush depth - độ sâu giới hạn của cấu trúc tàu) của K-278 lên đến 1371 m.
Hải quân Liên Xô xem K-278 là con tàu bất khả xâm phạm ở độ sâu hơn 1000 m bởi ở độ sâu như vậy, con tàu gần như biến mất trong lòng biển, thủy âm cũng rất khó phát hiện và ngư lôi của địch của khó với tới. Chẳng hạn như loại ngư lôi Mark 48 của Mỹ có độ sâu hoạt động tối đa chỉ 800 m.
Thiết kế tối tân của tàu ngầm dự án 685 của Liên Xô bao gồm nhiều hệ thống tự động từ đó giảm nhân sự cần có trên tàu. Theo đề xuất năm 1982 của Bộ quốc phòng Liên Xô thì thủy thủ đoàn chỉ cần 57 người, sau đó tăng lên thành 64 người trong đó bao gồm 30 sĩ quan, 22 chuẩn úy, 12 hạ sĩ và thủy thủ.
Sau khi được hạ thủy, tàu ngầm Komsomolets bắt đầu thực hiện các chuyến tuần tra dưới lòng biển và được biên chế vào đơn vị tác chiến chống ngầm của Hạm đội Phương Bắc. Tuy nhiên, vào ngày 7/4/1989, một ngọn lửa bùng phát trên khoang đã biến Komsomolets thành cỗ quan tài titan khổng lồ dưới đáy biển Na Uy.
Hỏa hoạn từ tia dầu
Lúc đó, tàu ngầm Komsomolets đang hoạt động ở độ sâu 381m dưới lòng biển Na Uy, cách đất liền Na Uy 514,9km về phía Bắc. Tính đến hôm đó, tàu đã tiến hành chuyến tuần tra được 39 ngày. Sau khi kết thúc cuộc tuần tra, Komsomolets trở về căn cứ như dự kiến. Vào lúc 11 giờ trưa, báo cáo của sĩ quan trực tàu cho biết các khoang của tàu vẫn hoạt động bình thường. Thế nhưng, chỉ 3 phút sau, hệ thống báo động hú vang khi nhiệt độ ở khoang 7 của tàu (gần đuôi tàu) cao bất thường ở mức 70 độ C. Cùng với đó, một tia dầu đã xịt lên bề mặt nóng trong khoang làm bùng lên ngọn lửa lớn. Sĩ quan đang trực tại khoang 7 liên lạc với thuyền trưởng nhưng không được.
Sau khi được báo cáo xảy ra hỏa hoạn ở khoang số 7 và liên tục liên lạc với thủy thủ khoang 7 nhưng không có tín hiệu, thuyền trưởng tàu quyết định xả khí freon (một loại khí làm lạnh không màu, không mùi, không cháy nhưng lại gây tử vong cho người nếu tiếp xúc phải) nhằm dập tắt đám cháy trước khi nó lan rộng ra các khoang khác, gây nguy hiểm cho toàn bộ con tàu và 69 thủy thủ. Áp suất khổng lồ tại khoang 7 đã đẩy dầu sang các khoang 6 khiến lửa cháy lan sang các khoang bên cạnh. Ngọn lửa khủng khiếp tới mức, các thủy thủ khoang 6 không kịp đeo mặt nạ khí và đồ bảo hộ. Họ nhanh chóng tử vong trong biển lửa và khí độc freon.
Lúc này, lo sợ lò phản ứng tan chảy, thủy thủ đoàn buộc phải dừng máy phát điện còn lại trong khi máy phát điện trước đã bị hỏng, con tàu dừng lại đột ngột ở độ sâu 152m và bắt đầu mất sức nâng. 10 phút sau, hệ thống bơm dầu trên tàu bị ngắt, tàu bị mất hệ thống kiểm soát hệ thống áp suất thủy lực để nổi lên mặt nước. Thuyền trưởng tàu buộc phải ra lệnh quá trình nổi khẩn cấp bằng cách cho nổ các bể nước dằn để tạo phản lực đẩy tàu lên. Sau tiếng nổ đầu tiên, tàu Komsomolets nổi lên được gần 91,4m. Quá trình này được lặp lại với các bể nước dằn khác, và cuối cùng tàu ngầm cũng nổi được lên mặt nước.
Theo Norman Polmar và Kenneth Moore - 2 chuyên gia nghiên cứu về hoạt động và thiết kế tàu ngầm của Nga thì tàu K-278 Komsomolets vốn dĩ là nền tảng để thử nghiệm công nghệ và với thủy thủ đoàn ít người, nó thiếu đi các biện pháp kiểm soát hư hại và bản thân thủy thủ đoàn trên tàu đa phần là là lính mới. Trong cuốn sách Cold War Submarines: The Design and Construction of U.S. and Soviet Submarines, 1945 - 2001, Polmar và Moore mô tả rằng đám cháy trên tàu Komsomolets lớn đến nỗi các thuyền viên sau khi lên được boong tàu đã chứng kiến được cảnh tượng lớp cao su chống dội âm phủ bên ngoài thân tàu bị bóc ra do quá nóng.
Vào 11:37 giờ địa phương, thuyền trưởng Vanin đã phát tín hiệu cầu cứu và Hải quân Liên Xô đã nhận được nhưng thông điệp mà họ nhận lại không trọn vẹn khiến họ không biết được tình trạng nguy hiểm của tàu. Đến 11:54 thuyền trưởng Vanin quyết định bỏ qua các quy định phát sóng mã hóa của Liên Xô để phát tín hiệu SOS, kêu gọi mọi sự giúp đỡ có sẵn với thông điệp: “Trong vùng biển gần đảo Bear có một con tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô đang cháy. Con tàu đang nổi trên mặt nước, thủy thủ đoàn đang giành giật sự sống.”
Tuy nhiên, Hải quân Liên Xô gặp khó khăn trong công tác triển khai cứu hộ bởi họ đứng trước rất nhiều giải pháp. Một là có thể cử các máy bay trực thăng có thể hạ cánh trên mặt nước đến vị trí tàu Komsomolets gặp nạn nhưng vị trí của tàu cách biên giới Liên Xô đến gần 1000 km, thế nên trực thăng chỉ đủ nhiên liệu để bay đến, không thể bay về. Thứ 2 là họ có thể gởi máy bay cánh bằng tầm bay xa đến thả bè cứu sinh dù không thể hạ cánh trên biển. Quyết định sau cùng được đưa ra là cử máy bay Il-38 Dolphin đến ứng cứu.
Il-38 Dolphin
Chiếc Il-38 lăn ra đường băng từ 12:43 và đến 14:40, phi công trên chiếc Il-38 nhìn thấy các thủy thủ trên mặt biển nhưng họ không mang bộ đồ chống nước. Có thể là họ nghĩ họ sẽ sớm được giải cứu nhưng nhiệt độ nước ở biển Na Uy lúc này gần đóng băng (~ 2 độ C) và nếu ngâm mình trong nước biển lạnh giá như vậy trong chỉ 15 phút, họ sẽ bất tỉnh. Trong khi đó, tàu K-278 Komsomolets nằm bất động trên mặt biển, khói đen bốc ra từ đuôi. Chiếc Ilyushin Il-38 thả những chiếc bè cứu hộ nhưng chỉ một số thủy thủ lên được bè và cũng không đủ bè cho tất cả. Nhiều thủy thủ do ngâm mình trong làn nước lạnh giá đã tê cóng và không thể bám vào bè.
Thuyền trưởng Vanin cùng 4 thủy thủ khác quay trở lại bên trong tàu Komsomolets để tìm kiếm những người khác - những người vẫn đang tìm cách cứu con tàu này trong vô vọng. Tuy nhiên, đám cháy dữ dội khiến Vanin cùng những đội cứu hộ không thể tiến vào sâu hơn, con tàu thì đã chúi mũi xuống và bắt đầu chìm.
Vanin và đội giải cứu tìm được đến buồng thoát hiểm nhưng nó bị kẹt, không thể phóng ra ngoài được. Khi con tàu chìm xuống độ sâu gần 400 m nước, áp suất khiến nó bị xé toạc và nhờ đó buồng thoát hiểm được nhả ra. Khi buồng thoát hiểm lên gần đến mặt nước, chênh lệch áp suất thổi bay nắp buồng thoát hiểm, 2 người bị đẩy ra ngoài, nước tràn vào nhanh chóng. Sau cùng chỉ có 1 người lên được mặt nước và sống sót, thuyền trưởng Vanin cùng những người còn lại chìm theo buồng thoát hiểm cùng với con tàu Komsomolets.
17:08, sau nhiều giờ nổi trên mặt biển thì tàu K-278 Komsomolets chìm xuống độ sâu 1680 m ở góc 80 độ. Những thủy thủ nổi trên mặt nước được giải cứu nhưng không phải tất cả đều sống sót. 81 phút sau khi K-278 Komsomolets chìm thì 2 con tàu là Aleksey Khlobystov và Oma đến cứu nhưng chỉ 27 người sống sót, 42 người chết trong đó 9 người chìm cùng với chiếc tàu ngầm, 30 người chết vì hạ thân nhiệt hoặc chấn thương và 3 người chết trên thuyền.
Phóng xạ vẫn rò rỉ đến ngày nay
Tàu K-278 Komsomolets chìm với lò phản ứng hạt nhân, 22 ngư lôi Type 53 và tên lửa chống ngầm SS-N-15 Starfish. Trong số ngư lôi này có 2 ngư lôi mang đầu đạn hạt nhân. Trước áp lực từ Na Uy, Liên Xô đã sử dụng các tàu lặn sâu, được điều hành từ tàu nghiên cứu đại dương Keldysh để tìm kiếm tàu ngầm K-278. Vào tháng 6 năm 1989 tức 2 tháng sau sự cố, xác tàu được tìm thấy và các quan chức Liên Xô khẳng định rằng phóng xạ rò rỉ không đáng kể và không gây hại đến môi trường.
Vào năm 1992, cuộc thăm dò thứ 2 diễn ra với sự góp mặt của một nhóm các nhà khoa học trong đó có chuyên gia từ Na Uy đã tiến hành khảo sát mẫu nước, trầm tích và sinh vật đáy biển nhưng không phát hiện rò rỉ phóng xạ nguy hiểm. Đến năm 1993 thì một khảo sát khác của Nga với các chuyên gia từ Hà Lan, Na Uy và Mỹ mới phát hiện ra phóng xạ Cesium-137 và họ cũng tìm thấy một lỗ lớn tại khoang chứa ngư lôi. Từ năm 1989 và năm 1998, đã có tổng cộng 7 cuộc thăm dò để bảo quản lò phản ứng và niêm phong các ngư lôi nhằm chống rò rỉ phóng xạ.
Tengiz Borisov - người đứng đầu Ủy ban đặc biệt của Nga về các nhiệm vụ dưới nước từng nói với các phóng viên rằng: "Nếu có rò rỉ, hoạt động đánh bắt cá sẽ không thể xảy ra tại biển Na Uy trong khoảng từ 600 đến 700 năm."
Xác tàu ngầm Komosolets
Hilde Elise Heldal - một nhà nghiên cứu đến từ Viện nghiên cứu biển, từng tham gia các chuyến thăm dò đến xác tàu Komosolets cho biết: "Những cuộc thăm dò trước đó của Nga, vào những năm 1990 và lần cuối là vào năm 2007 đã phát hiện ra tình trạng rò rỉ phóng xạ từ một ống thông hơi của tàu." Sau khi lấy 5 mẫu vật từ chiếc ống này, các nhà nghiên cứu đã đo được nhiều mức độ ô nhiễm phóng xạ khác nhau. Một mẫu không cho thấy mức ô nhiễm quá cao so với bình thường, một mẫu cho thấy nồng độ cao hơn 30 ngàn lần so với bình thường, 2 mẫu cho thấy độ ô nhiễm gấp 100 ngàn lần và đặc biệt là một có nồng độ đến gần 1 triệu lần.
Năm 2019, lần đầu tiên các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận gần và đo trực tiếp nồng độ phóng xạ tại tàu Komsomolets nhờ một tàu lặn không người lái là Aegir 6000. Họ cũng đã quay phim và chụp hình cũng như thu thập các mẫu vật tại tàu. Máy đo phóng xạ trên Aegir 6000 xác nhận phóng xạ rò rỉ từ ống thông hơi của con tàu đắm có nồng độ cao từ hàng trăm ngàn đến gần một triệu lần so với nước biển không ô nhiễm. Dù vậy, Heldal vẫn bày tỏ sự lạc quan khi nói "kết quả có thể rất đáng sợ" nhưng vẫn chưa đáng báo động bởi phóng xạ rò rỉ sẽ nhanh chóng bị pha loãng và bằng chứng là ở khu vực chỉ cách ống thông hơi nửa mét thì máy đo không phát hiện ra phóng xạ.
Kiểm tra mức độ phóng xạ tại xác tàu ngầm Komsomolets bằng tàu lặn không người lái Aegir 600
Chỉnh sửa cuối: