Phi công Xô-viết trên Bầu trời Bắc Việt, thời đường mòn Hồ Chí Minh đời đầu.
(Giai đoạn 1961-1963)
(tiếp)
Sau khi hạ cánh xuống Đồng Hới, tôi và hoa tiêu ra khỏi máy bay mà rất hài lòng về kết quả chuyến bay. Chỉ băn khoăn một điều: liệu có liên lạc vô tuyến với đồn biên phòng để truyền tọa độ thềm núi và mệnh lệnh chặt cây và dọn dẹp tạo dựng một sân đáp kích thước 50x50m trên thềm núi.
Anh phiên dịch từ nhóm hành khách đi tới vẻ lo lắng nói rằng các vị hành khách rất không hài lòng và đòi phải báo cáo tại sao không thực hiện hạ cánh xuống sân đáp. Tôi giải thích ngắn gọn rằng các sân đáp đánh dấu bằng các cờ hiệu không phù hợp để hạ cánh an toàn do chướng ngại vật. Tiếp đó tôi nói chúng tôi đã xác định được từ trên không địa điểm hạ cánh an toàn và cần liên lạc với đồn biên phòng và truyền mệnh lệnh. Tôi trao tờ giấy có phần viết cùng các tọa độ địa điểm cần làm việc để chuẩn bị sân đáp. Nếu liên lạc với đồn biên phòng không có thì cần chuẩn bị cờ hiệu hoặc thư tín để ném xuống lãnh địa đồn biên phòng.
Rất may phiên dịch viên cho biết có đường liên lạc điện báo với đồn biên phòng. Phiên liên lạc ấn định vào buổi chiều.
Người ta đề nghị chúng tôi đi tắm biển, chúng tôi vui vẻ đồng ý. Một cơ hội như vậy trong cái nóng bức nhiệt đới thật là đúng lúc. Người ta lấy xe ô tô chở chúng tôi ra bờ biển "Nam Trung Hoa", nơi có một cửa sông. Người phiên dịch đi cùng chúng tôi. Anh ta, là bác sĩ và người bản địa, cho chúng tôi những lời khuyên về xử sự trên biển. Đặc biệt anh cảnh báo chúng tôi không bơi ra xa bờ vì lũ cá mập luôn săn rình những người liều lĩnh. Chúng tôi lặn ngụp trong nước biển và thấy ngay độ mặn cao của nó: ngứa và rát toàn thân. Bởi vậy chúng tôi không ở lâu trong nước biển mà hụp lặn trong sông để rửa muối. Thủ tục này chúng tôi làm 3 lần rồi xin về nhà trong bóng râm dưới mái nhà, bởi vì trên bờ chẳng có chỗ nào tránh được ánh mặt trời gay gắt không thương xót.
Trong thời gian ăn tối người ta thông báo phiên liên lạc với đồn biên phòng đã diễn ra, thông tin đã được thu nhận. Chúng tôi đi nghỉ, thỏa thuận sáng ngày mai sẽ cất cánh sớm hơn.
Chúng tôi cất cánh ngay sau khi mặt trời lên. Từ cư ly tầm 3 km chúng tôi đã thấy một khu vực phát quang không cây cối, khi tới gần hơn thì thấy nhiều người đang làm việc ở cạnh các bụi cây. Tôi quyết định hạ cánh trong hành tiến. Tôi xác định không có chướng ngại. Treo máy bay và tiếp đất, không hề giảm vòng quay trục cánh quạt. Cậu kỹ thuật viên hàng không khẳng định bánh xe đã nằm trên bề mặt bằng phẳng và ra tín hiệu. Tôi tắt động cơ, hãm vòng quay trục cánh quạt. Kỹ thuật viên hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay. Tất cả nhanh chóng rời trực thăng.
Tôi quan sát từ buồng lái thấy những người mới đến vui mừng ra sao, họ ôm nhau thậm chí còn nhảy múa. Khi sự hoan hỉ chấm dứt, tất cả cùng đi rồi khuất sau đám cây. Người phiên dịch của chúng tôi, ông Bác sỹ (tôi bắt đầu gọi anh ta như vậy) nói rằng mọi người đi chọn vị trí để tiến hành các cuộc thảo luận.
- Thảo luận?
- Vâng, thảo luận, - Bác sỹ nói, - với những người tiên phong mở đường của Nam Việt Nam lần đầu tiên đi vòng đường giới tuyến trên lãnh thổ của nước Lào đã được giải phóng.
Các cuộc đàm phán thảo luận đã quen thuộc với chúng tôi từ hồi thi hành nhiệm vụ thứ nhất. Từ sau đám cây một trong các thành viên đoàn đại biểu đi ra nói chuyện với Bác sỹ. Bác sỹ nói với chúng tôi địa điểm đàm phán đã chọn xong nay cần chuyển hàng đến. Tôi chỉ vào các chiến sĩ biên phòng đang tiếp tục mở rộng sân đáp. đề nghị người chỉ huy cho tạm dừng tay và động viên người ra bốc hàng trên trục thăng xuống và chuyển hàng đi.
Bác sỹ chuyển lời của tôi cho người đại biểu, ông ấy lại đi ngay. Rất nhanh chóng ông ấy trở lại cùng một nhóm chiến sĩ biên phòng. Họ lấy hàng mang đi.
Sau một lúc, nhiều người từ sau đám cây đi ra, xét theo trang phục họ là những người mở đường từ phía Nam. Quần áo họ bạc rách nhiều. Vẻ ngoài nhiều người mệt mỏi và kiệt sức. Kèm họ là các chiến sĩ biên phòng giúp một vài người di chuyển. Bốn trong số những người mới đến là người Việt, còn môt người tầm thước có lẽ là người Trung quốc. Bác sỹ của chúng tôi đón họ, nói chuyện với họ một chút rồi mời họ đi theo mình, Tất cả lại khuất sau đám cây.
Mặt trời đã lên khá cao. Những con ruồi trâu hay nhặng tấn công chúng tôi từ mọi hướng. Mặt trời đốt nóng thân trực thăng đã thu hút lũ bọ. Chúng bu kín máy bay, theo cánh cửa mở xông vào trong. Không sao chịu nổi lũ ruồi bọ hung hăng này, chúng tôi chạy ra đám cây, bẻ các cành cây để xua chúng đi. Dễ chịu hơn nhưng chẳng được mấy. Chúng tôi buộc phải tránh lũ côn trùng khát máu bằng cách liên tục di chuyển, chạy, nhảy, vung tay vung chân. Phi công phụ của tôi Alfred Naghibovitch tìm lối thoát bằng cách leo lên nóc trực thăng. Vô ích! Chúng tôi quết định lấy xăng bôi lên người. Chẳng được lâu. Xăng bốc hơi nhanh, chúng tôi tiếp tục lấy các cành cây xua lũ ruồi.
Về chiều muỗi to muỗi nhỏ xông ra cùng ruồi và cả những loại hút máu khác nữa. Bốn giờ chờ đợi như vô tận với chúng tôi. Cuối cùng thì Bác sỹ xuất hiện. Tôi nói với anh ta liệu không thể kết thúc hội họp để có thể bay về đến Đồng Hới khi trời còn sáng hay sao. Trao đổi với đoàn đại biểu, Bác sỹ chuyển đến chúng tôi lời người lãnh đạo đoàn:
- Nếu kíp lái vội thì cứ bay đi!
Tất nhiên bay về mà không có đoàn đại biểu thì chúng tôi không thể làm rồi. Chúng tôi mở động cơ, quay cánh quạt, cho máy bay treo, vòng 180 độ về phía bay đến. Sau các thao tác này chúng tôi lại tắt máy. Có lẽ điều đó có ảnh hưởng đến sự tăng tốc cuộc họp vì 10 phút sau mọi người đã xuất hiện sau đám cây. Họ có 11 người. Phân biệt những người tiên phong mở đường từ phương Nam với người Bắc Việt Nam là không thể. Tất cả bọn họ đều mặc quân phục QDNDVN. Các đại biểu ngồi vào trực thăng và chúng tôi cất cánh.
Tại Đồng Hới, một chiếc Li-2 đã chờ sẵn những người tham gia họp. Bác sỹ thông báo sáng mai chúng tôi có thể bay về Hà Nội. Điều đó làm chúng tôi vui mừng. Trong khi đi trên xe chúng tôi trao đổi ý kiến với Bác sỹ về các cuộc hội họp. Với chúng tôi nó diễn ra quá lâu. Bác sỹ nói anh phải xử lý vết thương cho những người mở đường, chăm sóc các bệnh nhân.
Chơi với trẻ em Việt Nam. Tháng 3 năm 1961.