Phi công Xô-viết trên Bầu trời Bắc Việt, thời đường mòn Hồ Chí Minh đời đầu.
(Giai đoạn 1961-1963)
(tiếp)
Buổi sáng chúng tôi đi xe đến sứ quán. Chúng tôi vùa đi vừa quay đầu tứ phía. Muốn nhìn và ghi nhớ tất cả những gì diễn ra trên các đường phố của VNDCCH. Thật sửng sốt với một số lượng xe đạp kinh hoàng, đi trên toàn bộ chiều rộng dải lưu thông của đường phố, những người đạp xích-lô, chở khách trên những chiếc xe ba bánh. Những người bộ hành trên vai là chiếc đòn gánh, gánh những đôi sọt lớn chở hàng. Tất cả tạo nên một màu sắc đặc biệt cho thành phố, khác hẳn các thành phố của chúng ta.
Tại sứ quán người ta dẫn chúng tôi vào phòng làm việc của tùy viên quân sự Liên Xô tại VNDCCH tướng Antipov mà chúng tôi đã quen biết. Chúng tôi trình diện. Chào mừng chúng tôi, quan tâm xem chúng tôi ăn ở tại khách sạn thế nào rồi tướng Antipov giải thích tình hình tại Lào một cách ngắn gọn, nơi ấy đang diễn ra chiến sự ác liệt tại Cánh Đồng Chum. Quân đội đang bị bao vây của đại úy Coong-Le cần sự giúp đỡ. Khả năng duy nhất giúp lực lượng bị bao vây - đó là tiến hành đàm phán với chính quyền kiểm soát các tỉnh Bắc Lào, mà trước đó đã tách khỏi Nam Lào. Cần thuyết phục ban lãnh đạo của nó giúp đỡ các đồng bào của mình trong thời điểm khó khăn này. Đóng tại các tỉnh Bắc Lào có một sư đoàn bộ binh được vũ trang tốt. Qua điện báo đã đạt được thỏa thuận với chính quyền các tỉnh Bắc Lào về một cuộc gặp gỡ của các đoàn đại biểu. Cũng đã định được địa điểm gặp gỡ để tiến hành đàm phán. Nó nằm trên lãnh thổ Lào. Địa điểm này được giữ tuyệt mật. Nếu đối phương biết địa điểm gặp nhau của các đoàn đàm phán, họ có thể gây khó dễ cho cuộc gặp hoặc đổ quân đổ bộ đường không xuống khu vực trên.
Tiếp theo viên tướng nói rằng người ta đã tin tưởng giao phó cho chúng tôi một bí mật tầm cỡ quốc gia và chúng tôi sẽ chịu bản án nghiêm khắc nếu làm lộ bí mật này. Trên bản đồ viên cố vấn chỉ ra điểm mà chúng tôi cần phải đưa đoàn đại biểu đến. Đó là một vùng núi cao có thung lũng sâu và một con sông chảy qua. Trên bờ sông có một lô cốt của Pháp (một hỏa điểm kiên cố lâu dài) từ thời mà quân đội Pháp còn đóng ở đó. Chỗ có lô cốt đó chính là chỗ hạ cánh của chúng tôi.
Tín hiệu để hạ cánh là 3 đống lửa, sẽ được đốt khi chúng tôi xuất hiện trên điểm hẹn. Khi không thấy đốt lửa hoặc đốt không đủ số đống lửa thì không được hạ cánh mà phải bay về.
Sau đó viên tướng bảo chúng tôi đưa bản đồ bay ra, ngồi xuống xung quanh bàn chuẩn bị cho chuyến bay. Khi chuẩn bị xong ông ra lệnh trao lại cho ông bản đồ. Ông nói sẽ giữ bản đồ trong két sắt của mình, chúng tôi chỉ nhận lại nó trước khi cất cánh từ tay người trưởng đoàn đại biểu.
Chào tạm biệt, chúng tôi ra sân bay. Tại SCH tôi làm quen với người lãnh đạo chuyến bay, với ban đảm bảo khí tượng hàng không. Dự báo thời tiết không tốt. Bản thân tôi cũng thấy thời tiết giống như thời tiết xuân-hè ở Sakhalin. Đêm và sáng sương mù thấp và có sương giá. Ban ngày sương mù bốc lên cùng với rìa mây dưới đến độ cao 50-100 m. Mỗi ngày lại lặp lại như vậy. Thời tiết như thế tại Sakhalin thường kéo dài một tháng rưỡi cuối xuân - đầu hè. Ở đây thời tiết giống như vậy quan sát thấy vào mùa đông. Kinh nghiệm bay trong kiểu thời tiết này thì tôi đã có. Trong 5 năm bay ở Sakhalin mọi chuyện đã trải qua.
Bắt đầu đến sự chờ đợi mệt mỏi. buổi sáng chúng tôi ở trên sân bay, nổ máy, chuẩn lại các hệ thống của trực thăng, làm công tác kiểm tra. Tại trạm khí tượng chúng tôi phân tích tình trạng và dự báo các điều kiện khí tượng. Chúng tôi xác định lại chính xác quy trình liên lạc vô tuyến. Chúng tôi chờ đợi lệnh cho đến giữa trưa. Sau đó lại trở về khách sạn. Ăn trưa, nghỉ ngơi, ăn tối, ngủ đến sáng. Và luôn luôn sẵn sàng cất cánh theo tín hiệu.
Sang ngày thứ hai trình tự đó thay đổi một chút, một nhân viên sứ quán Liên Xô đã quen biết xuất hiện, đề nghị buổi tối đi xem hát. Tất nhiên chúng tôi rất vui mừng đồng ý, thâm chí còn chẳng quan tâm ai trình diễn và chương trình biểu diễn thế nào.
Tòa nhà hát rất đẹp. Chúng tôi thấy nó giống như Nhà hát Lớn ở Moskva. Tối hôm ấy các nghệ sĩ Đoàn ca múa quốc gia Việt Nam biểu diễn. Chúng tôi choáng ngợp với màu sắc rực rỡ và các loại quần áo trang phục dân tộc đa dạng. Các bài hát luôn kèm theo sự chuyển động của những diễn viên có lẽ để giải thích những gì mình đang hát. Nhưng thích hơn tất cả là những màn múa, đặc biệt điệu múa sạp với những cây tre. Giá bạn đã xem nó! Các vũ công thực hiện những xảo thuật xiếc chân chính giữa vài cặp sào tre dài gõ vào nhau theo nhịp điệu ở độ cao thấp trên sàn. Các nghệ sĩ nhảy múa giữa các sào tre, thực hiện điệu nhảy một cách điêu luyện theo nhịp phách, tránh đập chân vào các sào tre. Khán giả chủ yếu là các nhân viên của các đại sứ quán đặt tại Hà Nội, hoan nghênh nồng nhiệt các nghệ sĩ. Buổi đi xem biểu diễn nghệ thuật đã để lại ấn tượng không thể nào quên cho chúng tôi.
Trong những ngày đầu tháng 2 sự chờ đợi của chúng tôi đã kết thúc. Như thường lệ buổi sáng chúng tôi chuẩn bị trực thăng cho chuyến bay. Thời tiết may thay không còn sương mù, song trên sân bay mây thấp dày đặc vẫn còn. Chúng tôi bắt đầu chờ đợi các vị khách của mình. Họ đi trên ba xe ô tô đến. Có bảy người tới. Người trưởng đoàn trao cho tôi một chiếc hộp trong có bản đồ bay của chúng tôi. Họ giải thích qua phiên dịch. Chuyến bay cần thực hiện ngày hôm nay. Đoàn đại biểu vào chỗ trong cabin.
Phiên dịch có hai người: một dịch từ tiếng Lào và tiếng Pháp sang tiếng Việt, một dịch từ tiếng Việt sang tiếng Nga.
Trên máy bay có 7 vị khách và 1 thùng hàng. Rõ ràng người chỉ huy chuyến bay từ SCH quan sát những gì diễn ra xung quanh trực thăng. Bởi vậy ngay lập tức tôi mở máy và bật radio lắng nghe tín hiệu của mình. Người ta gọi tôi liên lạc. Nhận lệnh cho phép cất cánh, tôi lấy độ cao, trên cao độ 50m chiếc trực thăng lẩn vào mây. Khi lái theo thiết bị, trên độ cao 600 m chúng tôi ra khỏi mây và lấy hướng theo hành trình.
Sau 5 phút tôi nhận thấy thiết bị chỉ độ thăng bằng trên không "đảo" sang chiều nghiêng, còn la bàn con quay từ tính chỉ hướng không xác định, Cố gắng thiết lập các tham số chỉ thị cần thiết của các thiết bị này, tôi và phi công-hoa tiêu khẳng định rằng các thiết bị trên bị hỏng. Sao đây? Quay về và hạ cánh mà không có chỉ thị của các thiết bị này khi mây thấp là không thể.
Trong tình huống đang xảy ra tôi phải giữ hướng theo theo la bàn từ tính còn độ nghiêng xác định theo thiết bị chỉ đường chân trời hàng không của phi công phụ. Tôi quyết định bay theo hành trình đến sân bay Điện Biên Phủ. Tại đó theo kế hoạch chung tôi sẽ đáp xuống tiếp dầu.
Sau vài phút qua radio tôi nghe thấy tín hiệu gọi của mình. Ai đó gọi tôi liên lạc. Đó là phi công máy bay Li-2, bay cạnh tôi cách 2 km về bên phải.Tôi nảy ra ý nghĩ sử dụng máy điện báo có trên máy bay để liên lạc về SCH ở Hải Phòng báo cáo lãnh đạo nhóm phi công trực thăng về tình trạng các thiết bị hư hỏng vừa xảy ra. Tôi thông báo điều đó cho phi công Li-2, sau khi đã gọi tên các thiết bị hỏng hóc.
Phi công nhận thông tin, khẳng định thông báo trên ngay lập tức sẽ được gửi đi qua điện báo, anh ta yêu cầu liên lạc vì anh ta vẫn luôn bay bên cạnh phòng trường hợp chúng tôi cần giúp đỡ. Hóa ra kíp bay này đang thực hiện nhiệm vụ hộ tống chuyến bay của chúng tôi. Tôi nhẹ cả người vì cảm thấy mình không đơn độc trên bầu trời.
Chúng tôi bay đến Điện Biên Phủ một cách an toàn. Thời tiết trên đường bay tiếp đã sáng sủa. Chúng tôi định hướng theo các mốc đỉnh núi trên bản đồ và theo địa hình bằng mắt thường.
Hạ cánh, tiếp dầu xong, người ta quyết định bàn xem kíp bay làm gì. Đợi chuyên gia đến sửa chữa thiết bị hư hại có nghĩa là sẽ mất ngày hôm đó. Chúng tôi đã nghiên cứu thời tiết từ khi bay trên cao. Xung quanh trời quang mây. Bởi vậy đã quyết định tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ngày hôm nay, mặc dù thiết bị hư hỏng.
Chúng tôi cất cánh, lấy độ cao 2500 m trên sân bay và bẻ hướng sang Lào theo hành trình đề ra trên bản đồ. Chúng tôi định hướng theo các đỉnh núi, theo các thũng lũng bằng mắt thường. Các đỉnh núi đơn đạt đến độ cao 4000 m. Cuối cùng theo thời gian dự tính chúng tôi đã phát hiện được bằng mắt thường thung lũng cần tìm với dòng sông như một dải băng khá khó nhìn ra.
Không hạ độ cao chúng tôi bắt đầu bay dọc thung lũng. Tôi hạ lệnh cho phi công và kỹ thuật viên hàng không dùng mắt thường tìm kiếm khói của các đống lửa báo hiệu. Bay qua một lần, quay 180 độ bay ngược lại. Rồi phi công phụ phát hiện khói của một đống lửa. Chúng tôi bay thẳng đến trên đầu đống lửa - chỉ có một đống lửa bốc khói, các đống lửa khác không thấy có. Bay qua ở độ cao thấp, ngoặt 180 độ bay trở lại, cố gắng tìm xem có thấy các đống lửa khác hay không. Nhưng đống lửa đang cháy đã tắt, còn các đống lửa mới khác vẫn không thấy. Chúng tôi bay ra khỏi khu vực bãi đáp. Cần phải nhanh chóng quyết đinh - bay đi hay là ....
Quyết định bay lại lần nữa ở độ cao cực thấp và chú tâm quan sát tất cả ở tốc độ bay nhỏ thêm lần nữa. Trên độ cao bay 30 m, tôi bay đến gần bãi đáp. Chẳng thấy có một sinh vật sống nào. Tôi quyết định tiếp đất ở rìa bãi đáp và không tắt máy, giữ trực thăng ở trạng thái treo.
Chúng tôi nhìn thấy: có người xuất hiện. Anh ta dừng lại cách 100 m và không lại gần. Tôi lệnh cho kỹ thuật viên hàng không: mở cửa, thả người phiên dịch tiếng Pháp xuống. Người phiên dịch chạy ra khỏi máy bay trực thăng, đến gần người kia và họ nói chuyện. Tôi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi ra lệnh thả tiếp người phiên dịch tiếng Nga Phan Như Cẩn. Anh chạy tới chỗ đó, đứng lại, trao đổi rồi vẫy tay. Cuối cùng Phan Như Cẩn giơ tay bắt chéo nhau cao trên đầu. Đó là "dấu" báo tắt máy. Lạy Chúa!
Tôi tắt máy. Các đại biểu đi ra khỏi máy bay có vẻ lo lắng và nhìn ngó xung quanh. Các phiên dịch viên tiến đến, họ trao đổi với nhau rồi mọi người đã có vẻ yên tâm ra mặt.
Hai mươi phút sau từ phía sông, có hai người đi ra từ sau hàng cây. Một mặc quân phục, một mặc dân sự. Một cuộc nói chuyện diễn ra nhờ phiên dịch viên tiếng Pháp. Sau đó các phiên dịch viên lấy chiếc hòm chứa đồ và tất cả các đại biểu đi về phía sông rồi khuất sau hàng cây. Năm phút sau, phiên dịch tiếng Nga Seriozha-Phan Như Cẩn quay lại và thông báo ở bờ sông có 3 người và cuộc đàm phán đã bắt đầu.
Đã đến lúc nghỉ ngơi và ăn môt chút gì đó. Kỹ thuật viên hàng không trải bàn bạt trong bóng che của chiếc trực thăng, bày ra khẩu phần khô. Bỗng một đám người xuất hiện sau những bụi cây. Hóa ra đó là những đứa trẻ nhỏ, một số thiếu niên và vài người phụ nữ ở làng cạnh đây. Những đứa trẻ tò mò chạy đi chạy lại nhìn ngó con quái vật - chiếc trực thăng mà từ xưa đến nay chúng chưa nhìn thấy.
Người phiên dịch Seriozha của chúng tôi không biết tiếng Lào nhưng hiểu tiếng Pháp. Khi lũ trẻ đi gần hơn đến chỗ chiếc trực thăng, một số đứa nhìn thấy hộp muối trên chiếc "bàn" bằng bạt của chúng tôi. Chúng bắt đầu nói chuyện với nhau và gọi muối bằng tiếng Pháp. Người phiên dịch phát biểu giả thiết rằng dân địa phương đang bị thiếu muối trong đồ ăn và bọn trẻ khi nhìn thấy muối trên "bàn" chúng tôi, chúng quay ra bàn luận với nhau. Tôi đề nghị chia muối của mình cho bọn trẻ. Đối với chúng đó sẽ là món quà tốt. Kỹ thuật viên hàng không Selishev người lớn tuổi nhất trong bọn tôi, tìm thấy trong trực thăng một chiếc đĩa sắt, anh dốc toàn bộ muối trong hộp vào đó, đi đến gần lũ trẻ. Hàng chục cánh tay chìa ra với anh. Anh rải vào lòng bàn tay mỗi đứa một ít muối, chúng lập tức liếm chỗ muối, nhấm nháp rõ ràng mà không hề nhăn mặt. Thế là Selishev đi tới tất cả mọi người, thậm chí tặng cả cho các phụ nữ, sau khi đưa cho họ chiếc đĩa chứa số muối còn lại. Đương nhiên chúng tôi không thể ăn trưa. Chúng tôi không thấy thoải mái trước mắt tất cả mọi người.
Chẳng mấy chốc người phiên dịch tiếng Pháp trở lại nói rằng cuộc hội đàm ở đây đã kết thúc, cả hai đoàn đại biểu bây giờ sẽ bay đi để tiếp tục đàm phán ở Hà Nội. Tồi yêu cầu phiên dịch giải thích cho tất cả các khán giả xung quanh rằng máy bay trực thăng sắp cất cánh, họ nên rời xa trực thăng vì đứng gần khi nó cất cánh là nguy hiểm. mọi người nhanh chóng lùi xa.
Cả hai đoàn đại biểu gồm 10 người đã đến rất nhanh. Hành khách đã đông gấp đôi. chúng tôi phải bố trí họ ngồi sao cho không thay đổi tâm khối của máy bay trực thăng. Chúng tôi đã cất cánh và đưa hai đoàn an toàn về Điện Biên Phủ.
Sau khi hạ cánh chúng tôi được biết chiếc máy bay chở các chuyên gia đến khắc phục hỏng hóc thiết bị trên trực thăng của chúng tôi có thể chở được đoàn đại biểu và đưa họ về Hà Nội. Các đại biểu đã bay đi.
Hư hỏng của thiết bị đã được loại trừ: người ta thay thế cả cụm điện nguồn nuôi các thiết bị. Ngày đã ngả về chiều. Chúng tôi bắt tay chuẩn bị trực thăng để mai về Hà Nội. Nhưng ...
........
Trùm bạt che trực thăng lại, chúng tôi đi vào đài không lưu đăng ký phép cho chuyến bay ngày mai. Tại đài không lưu có phiên dịch Seriozha của chúng tôi. Anh ta không bay cùng máy bay với đoàn đại biểu. Lãnh đạo Việt Nam để anh lại lo việc ăn ở của chúng tôi tại đây. Người ta tiếp nhận đề nghị cất cánh của chúng tôi, nhưng cất cánh thì ngày mai không, ngày kia không, 17 ngày nữa cũng không. Mỗi ngày ra đài không lưu chúng tôi đều nghe thấy:
- Đi Hà Nội lê-tai nhét!
Đó là Seriozha đã dạy người kiểm soát không lưu cách giải thích như vậy cho chúng tôi về việc chưa được phép cất cánh. Người kiểm soát viên không lưu vẽ ra một sơ đồ trên đó cho thấy rìa mây thấp - 50 đến 100 m.
Bắt đầu một quãng thời gian dài vô công rồi nghề. Phiên dịch Seriozha của chúng tôi bay đi 2-3 ngày sau, còn 3 chúng tôi ở lại đây chờ, trong miền rừng núi, "bên bờ biển thời tiết".
Người ta bố trí ăn ở trong khách sạn rất tốt. Món ăn rất ngon dù không có bánh mì và súp.
Tại Điện Biên Phủ, tháng 3 năm 1961. Đi tham quan cùng các bạn Việt Nam di tích lịch sử trận đánh Điện Biên Phủ.