[Funland] Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ

GamCaoMayLanh

Xe lăn
Biển số
OF-333492
Ngày cấp bằng
5/9/14
Số km
10,374
Động cơ
519,647 Mã lực
Công của Alexandre de Rhodes là rất lớn và không thể phủ nhận, nhưng nâng lên hàng thánh thế này thì em vái cả nón.
Bài viết nặng tính nâng bi và tự sướng.


Bài viết được giải nhớn thế này mà Chã còn chê. :))
 

cưỡi chổi

Xe lăn
Biển số
OF-123656
Ngày cấp bằng
9/12/11
Số km
12,594
Động cơ
514,346 Mã lực
Nơi ở
trên cái chổi
Dạy quách chữ không dấu, thế mới phát huy tinh thần "nói dzậy mà không phải dzậy".
Kiểu "co tien khong quan" có thể là "cô tiên không quần" hay "có tiền không Quân" đều được cả ;))
Nguy hiểm lắm cụ ơi. Nhờ cụ dịch em phát: long lon rung, em that dam dang, em dang coi quan, em bi mat kinh roi, anh ngu chua, anh co an long lon khong...
Còn nhiều lắm :))
 

dannongthon

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-326965
Ngày cấp bằng
14/7/14
Số km
1,663
Động cơ
264,616 Mã lực
Giáo dục về lịch sử chữ viết, ký tự VN đã bỏ quên Ngài chăng !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!



Sau 351 năm mới tìm thấy ngôi mộ người đã khai sinh ra những mẫu tự Việt Nam.
Kỷ niệm 354 năm qua đời của linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ), Người đã khai sinh ra chữ Việt cho chúng ta đang sử dụng .

Xin cám ơn Người đã cho chúng ta biết được những mặt chữ tiếng Việt và từ đó chúng ta không còn lệ thuộc vào chữ viết của giặc Tàu nữa .
...
Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng, "Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".

Năm 1651 khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cha Đắc Lộ đã giải phóng nước Việt Nam khỏi nô lệ giặc Tàu .

Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.

Trong khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ.

Với hy vọng có thể tìm được nơi linh mục trở về với cát bụi, chúng tôi, đoàn Việt Nam đang công tác tại Iran đã đến Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về phía Nam. Đó là một ngày đầu năm 2011, một tuần sau lễ Giáng sinh.

Quảng trường Naghsh-i Jahan của Isfahan là một trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với kiến trúc tiêu biểu Hồi giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân loại. Tại thành phố này, Alexandre de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù trước đó, phần đời chính của ông là ở Việt Nam.

Chúng tôi đến Isfahan vào một ngày mùa đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng. Hỏi đường đến một nhà thờ Công giáo nào đó, chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình. Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank, nhà thờ thiên chúa lớn nhất Isfahan.

Qua giây phút ngạc nhiên trước đoàn khách Việt Nam, cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay, hiếm có du khách Á đông nào, nhất là từ Việt Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về lịch sử nhà thờ.

Nằm trong thế giới Hồi giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo, nhưng vào bên trong, với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ ngỡ như đang ở một nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris.

Cha xứ càng ngạc nhiên hơn khi chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người đã mất cách đây hơn 350 năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư liệu quý giá. Cha xứ nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên to khỏe khệ nệ mang ra một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da nâu ghi chép về các giáo sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng tột độ, cha và chúng tôi tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm 1660.

Như vậy, không nghi ngờ gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm việc những năm cuối đời. Chúng tôi hỏi: “Thưa cha, liệu có thể tìm thấy mộ của Alexandre de Rhodes ở đâu không?”.

Cha xứ tận tình chỉ đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại ô thành phố.

Nghĩa trang nằm dưới chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán rừng thông, tùng, bách mênh mông, vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo nhưng không thấy một cây thánh giá nào.

Chia nhau đi các ngả tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có ghi rõ tên Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một cụm ba ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá lớn nằm nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến động cuộc đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét.

Trong ánh nắng ban trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy dâng lên trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.
Nhật, Hàn nó có cần latin la teo gì đâu mà vẫn phát triển. Ảo tưởng vừa thôi
 

dexom

Xe trâu
Biển số
OF-63376
Ngày cấp bằng
5/5/10
Số km
31,349
Động cơ
1,000,399 Mã lực
Nơi ở
Thiên Đường
Để mai em nghĩ ra chữ cho thằng Nhật.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở thư viện Vatican, văn khố dòng Tên, còn 1 số tài liệu sau, xin trích để các cụ tham khảo:

Giáo sĩ Christofora Borri, đến Đàng Trong năm 1618, trong một bức thư gửi về tòa Thánh, có nghi:

" Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian ". ( Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng)

Hoa Lang ( Hà Lan, người Việt ta thời ấy quen gọi người Tây cũng như Đạo Thiên CHúa là Hoa Lang) câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây muốn hỏi một người Việt rằng : " Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam ? " ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).

Để nói lên những địa danh mà mình đến truyền Đạo, Giáo sĩ Christofora Borri có ghi những từ sau, rải rác trong các bức thư (thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Đàng Trong)

Anam ( An Nam)
Tunchim (Đông Kinh)
Ainam (Hải Nam)
Kemoi ( Kẻ mọi)
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya (Quảng Nghĩa, hoặc Ngãi)
Quignin ( Qui Nhơn)
Dàdèn, lùt (Đã đến lúc)
Dàdèn lùt (Đã đến lúc)
Scin mocaij ( Xin một cái)
Chià (Trà)
Cò (Có)

Onsaij (Ông sãi)
Quanghia (Quảng Nghĩa, hoặc Ngãi)
Nuoecman ( Nước mặn)
Da, an, nua ( Đã ăn nữa)
Da, an, het (Đã ăn hết)
Omgne ( Ông nghè)
Tuijciam,biet (Tui chẳng biết, có lẽ đây là tiếng Đàng Trong)
Onsaij di lay (Ông Sãi đi lại)
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò ( Ma quỉ, ma quái, hoặc Ma cô???)
Bũa (Vua)
Chiuna (Chúa)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tất nhiên, mỗi giáo sĩ Tây phiên-âm tiếng Việt bằng chữ Latin một kiểu, không thống nhất.

Bản phúc trình của Giáo sĩ người Bồ Đào Nha João Roig viết bằng chữ Bồ, tại Ma Cao ngày 20 tháng 11 năm 1621, để gửi về tòa Thánh, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :

An nam ( An Nam)
Sinoa ( Xứ Hóa)
Usai (Ông Sãi)
Ungne (Ông nghè)
On trũ (Ông trùm, tức là Trùm Đạo người Việt)
Ca cham (Ca chàm, Kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( chả biết tên riêng hay địa danh )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh ( lúc này tiếng nói 2 miền Nam, Bắc chưa khác nhau nhiều, sau này người ta gọi là ông Đề Lãnh)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Giáo sĩ Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng tiếng Latin tại Ma Cao ngày 12 tháng 12 năm 1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở Vatican, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :

Cacham ( Kẻ Chàm)
Nuocman ( Nước Mặn)
Ongne, Ungué (Ông Nghè)
Bancô ( Bàn Cổ)

Ngày 16 tháng 6 năm 1625.

Giáo sĩ Đắc Lộ có viết một lá thư bằng chữ Bồ Đào Nha gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :

Ainão (Hải Nam)
Tunquim, Tunquin ( Đông Kinh )
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 1 tháng 1 năm 1626.

Tại Nước Mặn ( Đàng Trong) giáo sĩ Gaspar Luis viết thư bằng chữ Latin, gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở Tòa Thánh, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:


Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham (Kẻ chàm)
Nuocman ( Nước Mặn)
Pullocambi ( không rõ địa danh danh nào)
Dinh cham (Dinh chàm)
Quanghia ( Quảng Nghĩa, hoặc Ngãi)
Quinhin (Qui Nhơn)
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ (Bến đá)
Bôdê (Bồ đề, không rõ là cây hay chùa)
Ondelimbay (Ông Đề Lĩnh Bảy)
Ondedoc (Ông Đề đốc)
Unghe chieu (Ông nghè Chiêu)
Nhit la khaun, khaun la nhit (Nhứt là không, không là nhứt, không rõ bấy giờ là " nhất" hay " nhứt")
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Giáo sĩ Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha, đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ.

Ngày 1 tháng 1 năm 1626.

Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng chữ Bồ gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở tòa Thánh, bản tường trình này gồm có 3 phần, cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình có các phiên âm :


Digcham (Dinh Chàm)
Nuocman ( Nước Mặn)
Quinhin (Qui Nhơn)
Sinua, Sinuâ ( Xứ Hóa)
Orancaya ( chả rõ là gì)
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin ( không rõ)
Bếndá ( Bến đá)
Bude (Bồ đề)
Ondelimbay (Ông Đề Lĩnh Bảy)
Ondedóc ( Ông Đề đốc)
Onghe Chieu ( Ông nghè Chiêu)
Nhít la khấu, khấu la nhít (Nhất là không, không là nhất)
Dinh Cham (Dinh Chàm)
Sinóa (Xứ Hóa)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 13 tháng 7 năm 1626.

Giáo sĩ Francesco Buzomi người Ý viết một lá thư chữ Latin gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư này gồm có:

Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng

Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc Lộ: một vào ngày 16 tháng 1 năm 1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở tòa Thánh , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa.

Một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19 tháng 3 năm 1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15 tháng 3 năm 1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu này gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :

Sinoa : Xứ Hóa (Thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( từ cổ có nghĩa là nhà tạm trú)

Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :

Sinoa ( của giáo sĩ Jão Roig, thư đề 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá ( của giáo sĩ Antonio de Fontes, thư đề 1-1-1626)
Sinoa (của Đắc Lộ, năm 1631)

Danh từ Ông Nghè cũng có nhiều cách phiên âm khác nhau của mỗi giáo sĩ:

Omgne ( giáo sĩChristoforo Borri, giai đoạn 1618-1621)
Ungne (giáo sĩ Jão Roig, thư đề 20-11-1621)
Ongne, Ungué (Giáo sĩ Gaspar Luis, thư đề 12-12-1621)
Unghe ( Giáo sĩ Gaspar Luis, thư đề 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes , thư đề 1-1-1626)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người có đóng góp để hoàn thiện từ các chữ ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latin, rồi tạo thành câu hoàn chỉnh hơn, là giáo sĩ người Bồ Đào Nha Gasparo d'Amiral, vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp.

Gasparo d'Amiral đã soạn cuốn tự điển Bồ Đào Nha - Annam, rất tiếc, cuốn này đã bị mất, không còn lưu lại.

Cha Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển Từ điển Việt-Bồ -La.

Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Ma Cao, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với giáo sĩ Paulus Saito (người Nhật) đến Đàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với cha Đắc Lộ và Pedro Marques về Ma Cao.

Ngày 18 tháng 2 năm 1631 Gasparo cùng 3 giáo sĩ khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Ma Cao đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15 tháng 3 năm 1631, các giáo sĩ này mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).

Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Ma Cao còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Ma Cao, như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.

Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng tiếng Bồ tại Kẻ Chợ ( Thăng Long) vào ngày 31 tháng 12 năm 1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China " ( Bản tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa), có vài phiên âm:

Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ, hoặc Nha phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời này Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam
 

dexom

Xe trâu
Biển số
OF-63376
Ngày cấp bằng
5/5/10
Số km
31,349
Động cơ
1,000,399 Mã lực
Nơi ở
Thiên Đường
Việc phiên âm tiếng Nôm của người Việt ra ký tự latinh là bước đầu tiên đồng hoá nước Việt thời thực dân đế quốc khai sáng thuộc địa.

Chữ latinh có giá trị vì gặp thời Tây Lông thống soái. 300 năm sau nữa, giả dụ Tàu khựa bá chủ thế giới, có thể các cụ sẽ quay sang trách móc cha Rốt làm lỡ cơ hội câu cơm của VN.

Sing chỉ có một nắm dân thuộc địa Anh, vẫn xài Hoa ngữ bên cạnh Singlish. Họ câu cơm bá cháy.
Ở đây chỉ nói rằng chứ quốc ngữ đã làm VN thoát khỏi sự lệ thuộc vào chữ viết của Khựa, mở trang sử mới cho VN.

Cơm nước là chuyện khác!
 

simo2001

Xe tăng
Biển số
OF-42059
Ngày cấp bằng
1/8/09
Số km
1,836
Động cơ
478,760 Mã lực
Thằng cướp nó mang dao vào nhà cướp của, cả nhà cụ thương tích hy sinh đầy mình mới đuổi được thằng cướp. Nó chạy bỏ cả dao. Cụ nhặt con dao về thái rau.

Thế cụ cũng phải đời đời nhớ ơn thằng cướp à?
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày 25 tháng 3 năm 1637.

Tại Thăng Long, Gasparo d'Amiral có viết bản tường trình bằng tiếng Bồ: " Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China " (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa):


Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ An
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên, hoặc họ)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong hai tài liệu của giáo sĩ Gasparo d'Amiral, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :

Âm a ghi là : ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi là: ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi là: ă (hàng nấm)
-----------------: ê - e (huyẹn, hién)
-----------------: y - i (thầi)
-----------------: o - õ (bõy)
--------- -------: âu - ăii (hầu)

Các phụ âm : ng ghi là:ũ (oũ)
-------------------------: ch - yc (bạyc)

Các dấu : ? ghi là: ~ (cữa nam, phũ)
------------------- : ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)

Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm như ngày nay :

a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)

Có đủ dấu giọng:

không dấu (nam, đô)
? (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)

Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.
 

nguyenph

Xe tăng
Biển số
OF-95393
Ngày cấp bằng
15/5/11
Số km
1,517
Động cơ
410,980 Mã lực
Trong SG có đường mang tên cụ này mà, đã thế lại song song với cụ Duẩn nữa chớ. đường đẹp phết, ngồi cà fê ở đó hơi bị đc.
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
958
Động cơ
291,493 Mã lực
dạ vâng, ko phải tốt đẹp gì nhưng em chỉ mong có thế thôi ạ. Em bị lệch lạc mất rồi.
nhũng cái Pháp nó để lại hơn 1 tk vẫn ngon lành như hệ thống đường sắt bắc nam, tuyến dường quốc lộ, nhà hát lớn, các nhà cổ, rồi dường pháp nó xây, các tuyến máy bay, rồi Đà Lạt, Bà Nà, chảng bù cho xxx vừa xây đã hỏng ạ
Nước Pháp "tốt " đến mức nào?

Hiện nay, 14 nước châu Phi vẫn phải trả "thuế thuộc địa" cho Pháp. Ở một số nước, chi phí này từng chiếm tới 40% ngân sách?

Sau thế chiến thứ 2, tiềm lực suy yếu Pháp không thể duy trì hệ thống thuộc địa như trước. Nhiều thuộc địa đã nhân cơ hội này nổi lên giành độc lập.

Đặc biệt Guinea đã không chịu tham gia vào liên hiệp Pháp và tuyên bố độc lập, đáp lại hành động này 3000 người Pháp rời khỏi Guinea sau khi đốt phá hêt trường học, nhà trẻ, các tòa nhà hành chính công ; xe ô tô, sách vở, thuốc men, dụng cụ viện nghiên cứu, máy kéo đã được nghiền nát và phá hoại; ngựa, bò trong các trang trại đã bị giết chết, và thực phẩm trong nhà kho đã bị cháy hoặc bị nhiễm độc. Hành động này của Pháp là sự "dằn mặt" với các thuộc địa khác nếu làm như Guinea thì đất nước sẽ về thời kì đồ đá.

Sợ đất nước của mình sẽ giống như Guinea các nước châu Phi khác mà tiên phong là Togo buộc phải trả cho Pháp một khoản tiền hàng năm, gọi là "trả cho các lợi ích mà họ đã nhận được từ Pháp trong thời thuộc địa". Năm 1963, khoản tiền này chiếm 40% ngân sách của Togo. Và đó là " điều kiện duy nhất để người Pháp không để tiêu diệt đất nước trước khi rời khỏi".

Và dưới đây là một số điều khoản "bình đẳng-tự do- bác ái" mà các nước châu Phi phải kí với Pháp để có được nền độc lập năm 1950:
1. Các quốc gia châu Phi phải trả tiền cho cơ sở hạ tầng mà Pháp xây trên đất nước họ trong thời kì thuộc địa.
2. Dự trữ quốc gia của các nước châu Phi phải được gửi trong ngân hàng quốc gia của Pháp. Hiện nay ước tính Pháp đang giữ khoản 500 tỷ đô dự trữ của các nước cựu thuôc địa châu Phi trong kho bạc của mình. Và các nước châu Phi không được rút quá 15% tiền dự trữ CỦA MÌNH mỗi năm, nếu muốn rút nhiều hơn thì buộc phải vay 65% số tiền từ ngân hàng Pháp với lãi suất thương mại.
3. Pháp có quyền được ưu tiên mua bất kì tài nguyên thiên nhiên nào tìm thấy trong các nước cự thuộc địa châu Phi.
4. Đối với các hợp đồng của chính phủ các nước châu Phi thì công ty Pháp phải được ưu tiên trước rồi mới đến các công ty khác.
......

http://www.siliconafrica.com/france-colonial-tax/
https://en.wikipedia.org/wiki/Françafrique
http://www.aljazeera.com/programmes/specialseries/2013/08/201387113131914906.html
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,614 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cha Đắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631, sau này ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.

Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: " Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịch sử Đàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636, viết bằng chữ Latin văn gồm 2 quyển, lưu trữ tại Văn khố Dòng Tên ở tòa Thánh Vatican.

Các chữ phiên âm trong quyển một.

Tung : Đông ( có lẽ do ảnh hưởng tiếng Tàu)
kin : Kinh ( đô)
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (Nho)
dạu thíc ; đạo Thích ( Ca)
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão Tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)

Các chữ phiên âm trong quyển hai

Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng Vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ Vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : Bố Chính
Rum : Không rõ là gì???
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre ( cây Tre)
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
958
Động cơ
291,493 Mã lực
Đấy là những cái thiên hạ nhìn thấy được bằng mắt.
Có những cái cụ chẳng thể nhìn thấy những gì người Pháp để lại ở Việt nam và Đông dương.
Ví dụ:
-Đó là quy hoạch quản lý hành chính, địa chính. Ta cứ loay hoay gộp tỉnh, tách tỉnh. Cuối cùng quay lại như thời Tây :))
-Dữ liệu về thăm dò địa chất , khoáng sản
-Quy hoạch, phác tuyến giao thông. Hệ thống cảng. Đường 279 ta đang dùng chính là 1 phần của tuyến do người Pháp vạch ra để phòng thủ Đông dương.
-Tại EFEO, người Pháp lưu trữ rất nhiều tư liệu quý giá về văn hoá. Cho tới nay, có những lúc ta cần, họ vẫn cho ta tiếp cận sử dụng.
Còn nhiều thứ nữa. Kể được hết ra cũng ốm :D
Nước Pháp "tốt " đến mức nào?

Hiện nay, 14 nước châu Phi vẫn phải trả "thuế thuộc địa" cho Pháp. Ở một số nước, chi phí này từng chiếm tới 40% ngân sách?

Sau thế chiến thứ 2, tiềm lực suy yếu Pháp không thể duy trì hệ thống thuộc địa như trước. Nhiều thuộc địa đã nhân cơ hội này nổi lên giành độc lập.

Đặc biệt Guinea đã không chịu tham gia vào liên hiệp Pháp và tuyên bố độc lập, đáp lại hành động này 3000 người Pháp rời khỏi Guinea sau khi đốt phá hêt trường học, nhà trẻ, các tòa nhà hành chính công ; xe ô tô, sách vở, thuốc men, dụng cụ viện nghiên cứu, máy kéo đã được nghiền nát và phá hoại; ngựa, bò trong các trang trại đã bị giết chết, và thực phẩm trong nhà kho đã bị cháy hoặc bị nhiễm độc. Hành động này của Pháp là sự "dằn mặt" với các thuộc địa khác nếu làm như Guinea thì đất nước sẽ về thời kì đồ đá.

Sợ đất nước của mình sẽ giống như Guinea các nước châu Phi khác mà tiên phong là Togo buộc phải trả cho Pháp một khoản tiền hàng năm, gọi là "trả cho các lợi ích mà họ đã nhận được từ Pháp trong thời thuộc địa". Năm 1963, khoản tiền này chiếm 40% ngân sách của Togo. Và đó là " điều kiện duy nhất để người Pháp không để tiêu diệt đất nước trước khi rời khỏi".

Và dưới đây là một số điều khoản "bình đẳng-tự do- bác ái" mà các nước châu Phi phải kí với Pháp để có được nền độc lập năm 1950:
1. Các quốc gia châu Phi phải trả tiền cho cơ sở hạ tầng mà Pháp xây trên đất nước họ trong thời kì thuộc địa.
2. Dự trữ quốc gia của các nước châu Phi phải được gửi trong ngân hàng quốc gia của Pháp. Hiện nay ước tính Pháp đang giữ khoản 500 tỷ đô dự trữ của các nước cựu thuôc địa châu Phi trong kho bạc của mình. Và các nước châu Phi không được rút quá 15% tiền dự trữ CỦA MÌNH mỗi năm, nếu muốn rút nhiều hơn thì buộc phải vay 65% số tiền từ ngân hàng Pháp với lãi suất thương mại.
3. Pháp có quyền được ưu tiên mua bất kì tài nguyên thiên nhiên nào tìm thấy trong các nước cự thuộc địa châu Phi.
4. Đối với các hợp đồng của chính phủ các nước châu Phi thì công ty Pháp phải được ưu tiên trước rồi mới đến các công ty khác.
......

http://www.siliconafrica.com/france-colonial-tax/
https://en.wikipedia.org/wiki/Françafrique
http://www.aljazeera.com/programmes/specialseries/2013/08/201387113131914906.html
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
958
Động cơ
291,493 Mã lực
Chả cần đâu cụ. Tượng đài của ông ấy chính là những con chữ, những trang sách chúng ta đọc hàng ngày đấy...thế mới gọi là "hơn tượng đồng phơi những lối mòn".
Có dịp đi thăm đầm Ô Loan từ thành phố Quy Nhơn, các cụ nhớ ghé nhà thờ Mằng Lăng, ở đó vẫn còn lưu giữ cuốn sách in chữ Quốc ngữ đầu tiên do chính Alexandre de Rhodes soạn và được in ở Roma vào năm 1651.
chẳng liên quan







 
Thông tin thớt
Đang tải
Top