- Biển số
- OF-320235
- Ngày cấp bằng
- 19/5/14
- Số km
- 1,794
- Động cơ
- 361,605 Mã lực
(GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 4:
LỮ ĐOÀN NHẨY DÙ 305 VÀ LỰC LƯỢNG ĐỔ BỘ ĐƯỜNG KHÔNG VIỆT NAM)
II/ Biên niên sử và hoạt động của ‘Đội đặc nhiệm dù’ – Tiền thân của Lữ dù 305)
(4): Tham chiến ở Lào.
Tút 6: Những chuyến bay đêm thả dù cho chiến trường miền Nam – Khi chưa có đường mòn HCM cho xe cơ giới:
“Ngày đó, chúng tôi đi chỉ đeo mỗi băng đỏ có ngôi sao để lấy ký hiệu nhận biết, hai con dao trong ống tay và hai khẩu súng ngắn (mỗi khẩu 12 viên đạn)” - cựu chiến binh Trương Thanh Phú (72 tuổi, Bắc Giang) cho biết.
Để tránh bị radar Mỹ phát hiện từ ngoài biển, các chuyến bay tiếp tế đều phải bay ở độ cao thấp, khoảng 500m, có lúc hạ xuống chỉ 300m.
“Bay thấp gió đưa đi ít hơn, thời gian thả hàng nhanh hơn. Đặc biệt, những kiện hàng nặng như pháo rơi xuống ở độ cao thấp tỉ lệ an toàn cao hơn. Nếu đưa máy bay lên 2.000m, ngoài biển máy bay Mỹ và các chiến hạm quan sát thấy sẽ tìm cách tiêu diệt ngay. Cứ phải bay sát triền núi. Biết độ cao của đỉnh núi như thế nào thì nâng lên cách 500m. Phải nói kỹ thuật bay của phi công mình ngày ấy rất tốt và rất dũng cảm, bản lĩnh mới dám bay như vậy” - người sĩ quan kỳ cựu của lực lượng dù cho biết.
Các chuyến bay đều diễn ra trong bí mật, bay dọc Trường Sơn rồi mới tạt sang Lào. Nếu bay ban ngày phải chọn lúc thời tiết xấu, mưa mù mới đi để tránh địch phát hiện. Nhưng nhiều chuyến bay thường phải cất cánh vào ban đêm, bắt đầu từ lúc 19 giờ.
-“Mỗi đêm đi 4-5 chuyến, có đêm tới 10 chuyến. Mỗi chuyến chỉ kéo dài khoảng 90 phút hoặc hơn một tí chứ không được lâu hơn. Máy bay Mỹ sẽ phát hiện và truy đuổi. Có lần tui về đến Hương Khê (Hà Tĩnh) thì máy bay Mỹ phát hiện, kèm mình khiếp lắm. Bọn tui phải lẩn xuống đi ra biển về đến Quỳnh Lưu (Nghệ An) ra Ninh Bình về Hà Nội” - ông Tấn kể.
-“Có lần chúng tôi đến đường 9 Nam Lào bắt đầu qua sông Gianh xâm nhập đường mòn Hồ Chí Minh thì gặp pháo của nó - ông Trương Thanh Phú nhớ lại - Ngày đó mỗi chuyến bay là một lần ra trận. Mình rất hay gặp loại AD-7 của nó bám theo.
Phòng không của mình biết nên radar luôn theo dõi, khống chế nó.
Tổ bay của tôi từng bị AD-7 ép tí chết. Thả hàng xong rồi, khi về đến cung đường cuối cùng của đường 9, phòng không của mình phát hiện một chiếc AD-7 bám theo. Chúng tôi phải vòng sang đèo Phulanhích (nằm giữa Quảng Bình của Việt Nam và tỉnh Khăm Muộn của Lào) đi gần sát xuống vách núi lẩn mất. Hôm đó nó chỉ ép chứ không bắn vì không mang hai khẩu 20 li không đối không ở chân phụ. Bữa đó nó mang thì chúng tôi chết hết”.
-“Có tổ bay bị nó vừa ép sát bên sườn vừa để tránh pháo phòng không của mình. Khi pháo phòng không ép được nó thì nó lên cao ép đè mình xuống núi. Mình phải hạ độ cao, khi xuống còn... 100m thì rơi tự do, khi xuống thấp gặp dòng đối lưu kéo tụt máy bay xuống. Có tổ bay hi sinh hết vì bay thấp, mà lại bay ban đêm nên đâm vào núi. Máy bay mình hồi đó cũ chứ đâu có hiện đại như bây giờ...” - đại tá Dương Tuấn Kiệt xót xa kể.
(Còn tiếp..)
Thớt 4:
LỮ ĐOÀN NHẨY DÙ 305 VÀ LỰC LƯỢNG ĐỔ BỘ ĐƯỜNG KHÔNG VIỆT NAM)
II/ Biên niên sử và hoạt động của ‘Đội đặc nhiệm dù’ – Tiền thân của Lữ dù 305)
(4): Tham chiến ở Lào.
Tút 6: Những chuyến bay đêm thả dù cho chiến trường miền Nam – Khi chưa có đường mòn HCM cho xe cơ giới:
“Ngày đó, chúng tôi đi chỉ đeo mỗi băng đỏ có ngôi sao để lấy ký hiệu nhận biết, hai con dao trong ống tay và hai khẩu súng ngắn (mỗi khẩu 12 viên đạn)” - cựu chiến binh Trương Thanh Phú (72 tuổi, Bắc Giang) cho biết.
Để tránh bị radar Mỹ phát hiện từ ngoài biển, các chuyến bay tiếp tế đều phải bay ở độ cao thấp, khoảng 500m, có lúc hạ xuống chỉ 300m.
“Bay thấp gió đưa đi ít hơn, thời gian thả hàng nhanh hơn. Đặc biệt, những kiện hàng nặng như pháo rơi xuống ở độ cao thấp tỉ lệ an toàn cao hơn. Nếu đưa máy bay lên 2.000m, ngoài biển máy bay Mỹ và các chiến hạm quan sát thấy sẽ tìm cách tiêu diệt ngay. Cứ phải bay sát triền núi. Biết độ cao của đỉnh núi như thế nào thì nâng lên cách 500m. Phải nói kỹ thuật bay của phi công mình ngày ấy rất tốt và rất dũng cảm, bản lĩnh mới dám bay như vậy” - người sĩ quan kỳ cựu của lực lượng dù cho biết.
Các chuyến bay đều diễn ra trong bí mật, bay dọc Trường Sơn rồi mới tạt sang Lào. Nếu bay ban ngày phải chọn lúc thời tiết xấu, mưa mù mới đi để tránh địch phát hiện. Nhưng nhiều chuyến bay thường phải cất cánh vào ban đêm, bắt đầu từ lúc 19 giờ.
-“Mỗi đêm đi 4-5 chuyến, có đêm tới 10 chuyến. Mỗi chuyến chỉ kéo dài khoảng 90 phút hoặc hơn một tí chứ không được lâu hơn. Máy bay Mỹ sẽ phát hiện và truy đuổi. Có lần tui về đến Hương Khê (Hà Tĩnh) thì máy bay Mỹ phát hiện, kèm mình khiếp lắm. Bọn tui phải lẩn xuống đi ra biển về đến Quỳnh Lưu (Nghệ An) ra Ninh Bình về Hà Nội” - ông Tấn kể.
-“Có lần chúng tôi đến đường 9 Nam Lào bắt đầu qua sông Gianh xâm nhập đường mòn Hồ Chí Minh thì gặp pháo của nó - ông Trương Thanh Phú nhớ lại - Ngày đó mỗi chuyến bay là một lần ra trận. Mình rất hay gặp loại AD-7 của nó bám theo.
Phòng không của mình biết nên radar luôn theo dõi, khống chế nó.
Tổ bay của tôi từng bị AD-7 ép tí chết. Thả hàng xong rồi, khi về đến cung đường cuối cùng của đường 9, phòng không của mình phát hiện một chiếc AD-7 bám theo. Chúng tôi phải vòng sang đèo Phulanhích (nằm giữa Quảng Bình của Việt Nam và tỉnh Khăm Muộn của Lào) đi gần sát xuống vách núi lẩn mất. Hôm đó nó chỉ ép chứ không bắn vì không mang hai khẩu 20 li không đối không ở chân phụ. Bữa đó nó mang thì chúng tôi chết hết”.
-“Có tổ bay bị nó vừa ép sát bên sườn vừa để tránh pháo phòng không của mình. Khi pháo phòng không ép được nó thì nó lên cao ép đè mình xuống núi. Mình phải hạ độ cao, khi xuống còn... 100m thì rơi tự do, khi xuống thấp gặp dòng đối lưu kéo tụt máy bay xuống. Có tổ bay hi sinh hết vì bay thấp, mà lại bay ban đêm nên đâm vào núi. Máy bay mình hồi đó cũ chứ đâu có hiện đại như bây giờ...” - đại tá Dương Tuấn Kiệt xót xa kể.
(Còn tiếp..)