[TT Hữu ích] Góc Khuất Của Chiến Tranh

Dminnn2018

Xe tải
Biển số
OF-819377
Ngày cấp bằng
19/9/22
Số km
411
Động cơ
36,717 Mã lực
Tuổi
32
Cái này là cụ tự nghĩ ra nhé. Tốt nhất là ra gặp các cựu chiến binh thì im đi kẻo ăn đấm. Trong số bắn rơi thì có nhiều trực thăng. Chỉ 1 trận Lam Sơn 719 đã bắn rơi và bắn hỏng 1.000 trực thăng rồi.


View attachment 8922290
Số máy bay Mỹ và đồng minh mất trong CT Việt Nam do chính Mỹ công nhận lên đến con số 11.000 chiếc bao gồm cả máy bay cánh cố định và máy bay lên thẳng, trong số đó riêng Không quân Mỹ đã mất hơn 2.100 chiếc cánh cố định (chưa tính tổn thất mb lên thẳng, chưa tính tổn thất của Hải quân Mỹ, Lục quân, Thủy quân lục chiến, chưa tính mb bị mất của đồng minh Úc - VNCH - Đại Hàn...), bao gồm tất cả các loại máy bay Mỹ có trong trang bị thời điểm đó chỉ duy nhất SR-71 chưa bị rơi chiếc nào trong CT Việt Nam.
 

.Bo My

Xe lăn
Biển số
OF-795404
Ngày cấp bằng
1/11/21
Số km
11,380
Động cơ
317,084 Mã lực
Số máy bay Mỹ và đồng minh mất trong CT Việt Nam do chính Mỹ công nhận lên đến con số 11.000 chiếc bao gồm cả máy bay cánh cố định và máy bay lên thẳng, trong số đó riêng Không quân Mỹ đã mất hơn 2.100 chiếc cánh cố định (chưa tính tổn thất mb lên thẳng, chưa tính tổn thất của Hải quân Mỹ, Lục quân, Thủy quân lục chiến, chưa tính mb bị mất của đồng minh Úc - VNCH - Đại Hàn...), bao gồm tất cả các loại máy bay Mỹ có trong trang bị thời điểm đó chỉ duy nhất SR-71 chưa bị rơi chiếc nào trong CT Việt Nam.
đúng rồi, con số 4.181 trên là chỉ tính Miền Bắc thôi, chưa có tính Lào, Cam và Miền Nam.
 

Jôn sần

Xe lăn
Người OF
Biển số
OF-29999
Ngày cấp bằng
25/2/09
Số km
14,731
Động cơ
1,023,606 Mã lực
Chỗ này là sảnh trước của Tu Viện Đa Minh. Mấy cụ này đều tập trung học tập ở đó. Áo trắng ngoài cùng là cụ Hun khi mới sang VN. Nói chung mấy cụ này ko lạ gì mình, gặp nhau suốt ngày.
Tấm ảnh hiếm đấy cụ.
Bác em lên sóng rồi comiki
 

chanthat123

Xì hơi lốp
Biển số
OF-13484
Ngày cấp bằng
25/2/08
Số km
2,742
Động cơ
560,864 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 42:

PHI CÔNG TIÊM KÍCH XÔ-VIẾT TRÊN BẦU TRỜI BẮC VIỆT



Tút 12: Gập Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi, chúng tôi hỏi các phi công Việt Nam họ cần học làm chủ cách đánh bom từ đỉnh cột buồm làm gì. Họ trả lời rằng họ muốn đánh chìm tàu sân bay. Tôi không biết điều này đã được nói trong lúc đùa bỡn hay nghiêm túc. Nhưng sau khi chúng tôi giải thích với họ rằng phương pháp đánh bom này sử dụng với máy bay tốc độ cao là không hiệu quả, và sử dụng máy bay tiêm kích chống lại các tàu sân bay là không khôn ngoan. Chúng tôi không biết những gì chúng tôi nói ảnh hưởng đến Bộ chỉ huy Việt Nam ra sao, nhưng sau khi hoàn thiện kỹ thuật bay trên biển, chương trình được đóng lại và chúng tôi trở về sân bay Nội Bài của mình. Và chúng tôi một lần nữa tham gia vào các chuyến bay căng thẳng, bây giờ là bay đêm. Yêu cầu là khôi phục lại các kỹ năng bay của các phi công trước đây đã bay đêm và chuẩn bị hai biên đội (8 phi công) lần đầu mới bay đêm. Những phi công đã từng bay đêm, tuy có gián đoạn dài giữa các chuyến bay đêm, sau 2-3 chuyến bay có người của chúng tôi hướng dẫn đã bước vào bay đơn, nhưng với những người mới đến, chúng tôi đã phải làm việc hết khả năng của mình.

Tôi muốn nhớ về quan hệ của chúng tôi với các đồng chí Việt Nam, từ ban chỉ huy trung đoàn, các phi công, các kỹ thuật viên và các lãnh đạo tỉnh, nơi chúng tôi đang sống. Đó là một mối quan hệ ấm áp, các chuyên gia của chúng tôi có uy tín rất lớn với tập thể quân nhân của trung đoàn. Tất nhiên, có đôi khi nảy sinh một số khác biệt trong quan điểm về các vấn đề nhất định. Những chuyện đó luôn tồn tại, có khi là những trường hợp khá nghiêm trọng.

Nhưng nhiều lúc hành động của phía Việt Nam làm chúng tôi ngạc nhiên và thậm chí khó chịu. Ví dụ, vào ban đêm diễn ra chương trình họp ngoại khóa và quyết định cho phép bay chuyến bay đêm độc lập đầu tiên cho ai đó? Tất nhiên, bạn sẽ nói rằng bất kỳ ai trong chúng ta - một giảng viên phi công đang đào tạo người cho họ sẽ được mời. Không, bạn nhầm. Trung đoàn đã thành lập một ủy ban đặc biệt gồm nhiều người cho mục đích này, mà theo ý kiến tôi, hơn một nửa trong số đó không bao giờ từng làm gì liên quan đến hàng không. Chính họ mới quyết định tương lai của người phi công. Sau khi bay kiểm tra với một hướng dẫn viên, họ ngồi vào một chỗ nhất định thành một vòng tròn và ngồi xổm, ở trung tâm của vòng tròn cũng ngồi xổm như vậy là ứng cử viên cho chuyến bay độc lập. Và ủy ban sẽ quyết định có chấp thuận cho anh ta bay đơn ban đêm hay không. Nếu trong bóng tối đen như mực vang lên tiếng hoan hô của các phi công, đang đứng không xa ủy ban và đang cổ vũ cho bạn mình, có nghĩa là chấp thuận cho bay (người phi công đó) đã nhận được. Và không ai trong số các thành viên của Ủy ban đến chỗ chúng tôi - các phi công-giáo viên đang hướng dẫn người phi công kia hỏi xem liệu học sinh của mình đã sẵn sàng cho chuyến bay đơn ban đêm hay chưa. Chúng tôi đã cố gắng không can thiệp vào vấn đề này. Chỉ có một lần, khi ủy ban rõ ràng muốn chấp thuận cho bay đơn một phi công chưa được chuẩn bị kỹ càng, người mà tôi đang dạy, tôi đã phải đi đến chỗ ủy ban mà nói rằng tôi sẽ cho anh ta vài chuyến bay kèm nữa trên máy bay huấn luyện chiến đấu và chỉ sau đó hẵng cho phép anh ta bay đơn trên máy bay chiến đấu. Các thành viên của ủy ban, sau khi được tư vấn, quyết định tôn trọng khuyến nghị của tôi.

Còn bất đồng với người chỉ huy trung đoàn đã xảy ra về một vấn đề quan trọng hơn. Ngoài việc thực hiện các chuyến bay thường xuyên theo kế hoạch, các phi công Việt Nam còn phải không chiến với kẻ thù. Cuộc chiến tranh đang còn tiếp diễn. Họ có những thành công trong không chiến, và có cả những sai sót. Tôi đề nghị người chỉ huy trung đoàn tổ chức cho các phi công Việt Nam và các phi công của chúng tôi cùng nhau tiến hành phân tích mỗi trận không chiến đã qua.

Tôi cố gắng thuyết phục ông rằng việc đó sẽ cải thiện đáng kể chất lượng đào tạo chiến thuật cho các tổ bay. Trung đoàn trưởng luôn bỏ qua đề nghị của tôi. Và rồi một ngày tôi biết được rằng các phi công của trung đoàn đã tiến hành một số trận không chiến theo nhóm với kẻ thù, một vài trận trong số đó không hoàn toàn thành công. Vì vậy, một lần nữa tôi quyết định quay trở lại với trung đoàn trưởng đề nghị ông xem xét phân tích những trận không chiến thực hiện trong ngày đó. Tôi mang theo người phó chính trị của tôi, cũng là một phi công, và chúng tôi đi xe đến sở chỉ huy trung đoàn trình bày đề nghị của mình. Trung đoàn trưởng đồng chí Trần Hanh rõ ràng đang tức giận, nói qua thông dịch viên: "Các đồng chí, các bạn đã đến với chúng tôi và giúp chúng tôi trong cuộc chiến chống lại những kẻ xâm lược Mỹ còn các vấn đề khác các bạn không nên quan tâm". Tôi nhận ra rằng chúng tôi và trung đoàn trưởng đã đi đến ranh giới cuối cùng của những gì được cho phép trong quan hệ của chúng tôi, vì vậy tôi thề không bao giờ đề cập với ông vấn đề đó nữa. Nhưng điều này tôi đã báo cáo với cấp trên trực tiếp của mình, tướng Antsiferov E.N.

Sau một tuần rưỡi, phiên dịch viên cao cấp Trần Văn Vạn đến chỗ tôi, và báo rằng trung đoàn cho biết, ngày mai Bộ trưởng Quốc phòng VNDCCH Đại Tướng Võ Nguyên Giáp sẽ đến thăm trung đoàn, và các phi công Liên Xô cần phải thể hiện cho ông thấy thuật lái của mình. Tôi nói với thông dịch viên, anh hãy hỏi người chỉ huy trung đoàn xem tại sao ông ấy không muốn cho Bộ trưởng Quốc phòng xem thuật lái của các phi công Việt Nam. Nhưng trung đoàn xác nhận rằng chính Bộ trưởng Quốc phòng muốn xem thuật lái của phi công Liên Xô. Và hai giờ sau đó Antsiferov E.N. đến với chúng tôi và giải thích thực chất cuộc trình diễn thuật lái sắp tới cho các phi công chúng tôi. Chúng tôi cùng ông ấy nhanh chóng phác thảo kế hoạch của chương trình, trong đó phản ánh trình tự cất cánh của các phi công để thực hiện thuật lái, dùng những chiếc máy bay nào và phương tiện hạ cánh nào để làm giảm đường chạy đà, mà mỗi phi công áp dụng khi hạ cánh. Ví dụ, phi công đầu tiên được giới hạn ở việc chỉ thả cánh tà ở tư thế hạ cánh, phi công thứ hai bung thêm dù hãm trên đường chạy, người thứ ba sử dụng một hệ thống khác là SPS (СПС - сдув пограничного слоя воздуха с крыла - thổi lớp không khí giới hạn từ cánh, làm tăng lực nâng, và do đó, làm giảm tốc độ hạ cánh) và người cuối cùng sử dụng tất cả các thiết bị kể trên, nhưng bung dù hãm trên không trước khi máy bay tiếp đất. Những đội hình thuật lái cụ thể nào cần được mỗi phi công thực hiện thì kế hoạch không định trước. Tất cả các phi công đều giàu kinh nghiệm và mỗi cá nhân cần phô diễn tài nghệ của mình, đó là, đặc trưng phẩm chất của anh ta.

Ngày hôm sau, sáng sớm chúng tôi đến sân bay, những chiếc máy bay được chuẩn bị cho chuyến bay, đã sắp xếp thành một hàng trên đường lăn. Sau một lúc, bộ trưởng quốc phòng đi xe "Volga" đến, ông mặc quân phục. Trong xe ngoài người lái xe còn có cô con gái 8-10 tuổi của Bộ trưởng, và nằm ở băng ghế sau là một khẩu súng săn. Ông chúc sức khỏe chúng tôi và nói rằng ông được nghỉ phép ngắn và ông quyết định đi săn, nhưng trên đường đi rẽ vào và ghé thăm các phi công. Tướng Antsiferov E.N. mời Bộ trưởng lên tháp chỉ huy bay. Tôi và Sasha Mironov, theo kế hoạch, lĩnh vị trí sẵn sàng số 1 trên máy báy huấn luyện-chiến đấu MiG-21U: anh ta ngồi vào cabin trước, tôi - ở cabin sau. Anh mở máy động cơ và bắt đầu chạy đà để cất cánh. Đột nhiên chiếc máy bay bắt đầu chệch khỏi dải đường lăn về bên phải và Mironov qua máy liên lạc bộ đàm (самолетному переговорному устройству ( СПУ ) hét lên với tôi: « Phanh không làm việc!». Tôi nhanh chóng đoạt lấy quyền kiểm soát phanh, nhưng máy bay không tuân theo và từ từ lăn trượt xuống, sau đó bánh xe phía trước chạm vào đèn hạn chế và dừng lại. Tôi tắt động cơ. Tướng Antsiferov E.N lao như tên bắn xuống từ đài chỉ huy bay, ông chạy đến chỗ chúng tôi và giận dữ hỏi: "Có chuyện gì vậy?" Chúng tôi báo cáo ông phanh hỏng. "Isayev, nhanh chóng lên máy bay chiến đấu!" - Ông nói với tôi. Tôi chạy ra chỗ một chiếc máy bay chiến đấu MiG-21, và ông tướng hét với theo: "Bình tĩnh,chỉ cần đừng tự chôn mình!". "Rõ", tôi trả lời, và nhanh chóng trèo lên buồng lái, bắt đầu khởi động động cơ. Thuật lái được thể hiện ngay sau khi cất cánh và thu càng. Thực hiện xong một loạt các tổ hợp đội hình, tôi hạ cánh với việc bung dù hãm. Ngay khi còn đang lăn, tôi thấy một máy bay chiến đấu đến lượt cất cánh. Như vậy, chúng tôi đã thi hành một trình tự nghiêm ngặt khi biểu diễn thuật lái cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam. Trên mặt đất, tôi hỏi các đồng nghiệp của mình: "Sao, các cậu thấy thuật lái của tôi thế nào?". "Được rồi! Lá cọ run lên trên mái nhà của Đài chỉ huy bay, khi anh lướt qua nó ở độ cao thấp "- họ trả lời.

Sau khi trình diễn, Bộ trưởng Quốc phòng từ tháp chỉ huy đi xuống, đến chỗ các phi công chúng tôi và cảm ơn tất cả mọi người vì một chương trình biểu diễn thú vị, và sau đó ông nắm lấy khuỷu tay tôi kéo sang một bên và hỏi "Còn các phi công Việt Nam đã có thể làm được như vậy, như các đồng chí chưa?". Tôi nói với Bộ trưởng rằng các phi công của ông là học sinh tốt nghiệp trường dạy bay của chúng tôi, nơi họ được dạy bởi các giảng viên giàu kinh nghiệm, và bây giờ chúng tôi có thể giúp họ cải thiện hơn nữa kỹ năng bay của họ. Tất nhiên, kể cả các phi công của đồng chí cũng đã có thể cho đồng chí thấy kỹ năng bay lượn trên không tuyệt vời. Ông nói: "Cảm ơn".

Trung đoàn trưởng, mời tất cả những người có mặt ra bàn uống trà. Dưới tán dù che người ta bày một chiếc bàn dài hình chữ nhật, hai bên đã kê ghế dài. Trung đoàn trưởng, đồng chí Trần Hanh ngồi cạnh Bộ trưởng Quốc phòng. Tôi ngồi ở phía bàn đối diện, nhưng trực tiếp trước mặt Bộ trưởng. Bên chiếc bàn diễn ra cuộc trò chuyện thoải mái về các chủ đề khác nhau. Và đột nhiên, Bộ trưởng nhìn tôi và hỏi tôi một câu hỏi đáng ngạc nhiên: "Mối quan hệ của đồng chí với chỉ huy trung đoàn ra sao?". Tôi thậm chí rùng mình về câu hỏi này. Tuy nhiên, tôi không ngần ngại trả lời rằng tôi có mối quan hệ với chỉ huy trung đoàn chỉ thuần túy công việc. Tất cả im lặng, và cuộc trò chuyện tiếp theo về chủ đề này đã không được duy trì. Còn tôi, sau câu hỏi mà Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đề ra cho tôi đã tự hỏi mình câu hỏi: "Bây giờ thì cậu đã hiểu lý do tại sao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định đi săn mà trên đường lại rẽ vào ghé thăm các phi công rồi chứ".

Tiệc trà kết thúc, tất cả đứng lên rời khỏi bàn, còn Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quàng vai người chỉ huy trung đoàn, và họ đi khoảng gần một giờ trên đường lăn và nói chuyện với nhau về chủ đề mà chỉ họ biết.



+++++Nhà ăn của phi công LX

bay 11.jpg


+++++Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm đơn vị.

bay 12.jpg
Có vẻ ông chú Liên Xô này không thiện cảm lắm với VN và các vị ở BQP.
Nói gì nói, đang ở nước Nga tươi đẹp và hùng cường tự dưng vứt vào một cuộc chiến khác cũng có phần hix hix
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 49: SÂN BAY TÔNG - NƠI RA ĐỜI SLOGAN BẤT TỬ


1/Ngày xưa:

Ngày xưa, ở Sơn Tây có sân bay Tông. Toạ độ là:

-21°05'56.1"N 105°27'51.0"E.

Đây là sân bay bằng đất nện, nhưng cơ sở vật chất cũng khá đầy đủ, có cả nhà để máy bay và cơ xưởng.

Trên tấm không ảnh được chụp bằng máy bay bà già của Pháp, được chụp vào ngày 18/12/1936, ta thấy có cái ký hiệu như hình dấu cộng ở vị trí 5 giờ chiều. Thực ra, đó là ký hiệu các hướng và hướng chính của đường băng đấy.

Ta đánh mắt lên góc 2 giờ chiều, sẽ nhìn thấy 2 chiếc máy bay Mo-ran 2 tầng cánh.

Điều đó cho thấy rằng, cái dấu cộng là tim của đường băng đấy.

Tông cũ.jpg


Căn cứ sân bay Tông, còn là căn cứ chính của Lữ đoàn xe tăng thứ nhất, một trong 3 Lữ đoàn xe tăng duy nhất của toàn cõi Đông Dương.

Lữ đoàn xe tăng này là ‘Tập đoàn cơ giới Bắc Kỳ (Groupement Motorié du Tonkin), trang bị xe tăng loại FT-17.
Tông tăng.gif



Đến năm 1945, sân bay Tông về tay cách mạng.

Ngày 15 tháng 4 năm 1946, căn cứ sân bay Tông trở thành nơi đặt Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, và bắt đầu khai giảng khóa 1 tại thị xã Sơn Tây với mục tiêu đào tạo cán bộ chỉ huy cấp trung, đại đội có kiến thức cơ bản về quân sự để chuẩn bị cho ngày toàn quốc kháng chiến.

Tại đây, ngày 26 tháng 05 năm 1945, Bác Hồ đã đến thăm Trường và Bác đã trực tiếp trao cho trường lá cờ thêu 6 chữ vàng: “Trung với nước, hiếu với dân”.

Từ ngày đó, Sáu chữ vàng:

- Trung với nước, hiếu với dân.

Đã trở thành slogan bất từ của Quân đội nhân dân Việt Nam, là slogan bất từ của những người lính Cụ Hồ.

Tông cờ.jpg


Đến năm 1946, chấp hành chỉ thị tiêu thổ để kháng chiến, sân bay Tông đã trở thành bình địa.


2/ Ngày nay:

Ngày nay, sân bay Tông trở thành bãi tập lái lý tưởng của các tay lái mới của Hà Nội.

Sau khi rời quân ngũ, tôi đã từng bổ túc tay lái ô tô ở đây, để lấy bằng lái xe dân sự.

Ai đã từng tập lái ở đây, xin giơ tay nhé.

Tông lái.jpg


Tông vt.jpg
 

Cao răng lợi

Xe đạp
Biển số
OF-821825
Ngày cấp bằng
1/11/22
Số km
32
Động cơ
500,339 Mã lực
Tuổi
33
Cảm ơn cụ Baleo. Cháu từng đi thăm thằng e đi nghĩa vụ ở chỗ này, cũng thắc mắc là họ định làm gì mà có bãi rộng mà thẳng thế.
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
NGÀY LỄ TÌNH NHÂN
Ngày 14/02/1979, đối với đa phần lính Việt ta, trong đó có tôi, không hề biết đến và có khái niệm là: có 1 ngày Valentai tồn tại ở trên đời !!!
Bọn tôi lại càng không thể biết, càng không thể ngờ, là chỉ sau đấy 72 giờ đồng hồ nữa, sau cái ngày Valentai 14/02/1979 đó, tức là đến ngày 17 tháng 2 năm 1979 năm ấy, súng sẽ nổ trên khắp giải biên cương, đánh chặn quân Trung Quốc xâm lược, trong một buổi sáng gió bấc, sương mù.
Nhưng chắc chắn tôi và các đồng đội thời của tôi ngày đó, biết rõ ràng rằng: bọn tôi luôn tặng người mình yêu dấu - dòng máu đỏ chảy trong bộ quân phục mầu xanh.
Bộ quân phục mầu xanh chứa đựng trái tim đỏ thắm tình yêu đất nước, tình yêu lứa đôi.
Đó là những bông hoa hồng tươi thắm nhất, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, để cho đất nước - mãi mầu xanh, để cho người yêu dấu - mãi trong veo một cặp mắt nâu huyền.


Hình ảnh những người lính Việt, đạp lên xác quân Trung Quốc xâm lược, trong trận phản công ở ngã ba Tam Lung-Lạng Sơn, tháng 2 năm 1979.
z6315798050783_79242f9f2488a3433e486d075f631cf9.jpg
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 50: TIÊU DIỆT TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG XE TĂNG TRUNG QUỐC


Xe tăng lội nước Type-63 thuộc Trung đoàn xe tăng độc lập Quân khu Quảng Châu của TQ trong chiến tranh biên giới với VN năm 1979.

Hình ảnh của loại xe này năm 1979 không nhiều lắm. Đa số các ảnh chụp xuất hiện về sau là tăng hạng nhẹ Type-62 trên hướng Cao Bằng.

Trung đoàn xe tăng độc lập Quân khu Quảng Châu được huy động tham gia chiến dịch xâm lược VN với 80 xe tăng lội nước Type-63, 9 xe thiết giáp hỗ trợ và 1578 quân.

Trung đoàn được triển khai trên hướng đông, không tác chiến tập trung mà xé lẻ ra trên 3 hướng:

-Tiểu đoàn 1 do Trung đoàn trưởng Chu Phú Quân chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 125, Quân đoàn 42 tấn công vào, Tà Lùng, Phục Hòa (Cao Bằng);

-Tiểu đoàn 2 do Trung đoàn phó Vương Chính Đình chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 123, Quân đoàn 41 tấn công vào Thông Nông (Cao Bằng) và,

- Tiểu đoàn 3 do Chính ủy Lưu Thiếu Hằng chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 127, Quân đoàn 43 tấn công vào Chi Ma, Lộc Bình (Lạng Sơn).

Các xe tăng Type-63 trong chiến đấu được đánh giá là cồng kềnh và khả năng cơ động kém trên chiến trường rừng núi nên gặp khá nhiều khó khăn.

Trong khi Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 của trung đoàn này chỉ thiệt hại nhẹ thì Tiểu đoàn 1 trên hướng Phục Hòa (mặt trận do Trung đoàn bộ binh 567 của Tỉnh đội Cao Bằng phòng thủ) đã tổn thất rất nặng.

Chỉ riêng trong ngày 17-2-1979, tiểu đoàn 1 đã có 15/26 xe trong biên chế bị bắn cháy hoặc bắn hỏng.

Sáng 19-2-1979, đội hình 12 xe tăng Type-63 của tiểu đoàn 1 tiếp tục tấn công về hướng tây bắc Phục Hòa đã bị bộ đội VN tiêu diệt thêm 6 chiếc, 2 chiếc khác bị lính TQ bắn hạ do nhầm lẫn.

Bản thân chiếc xe thiết giáp chở Trung đoàn trưởng Chu Phú Quân đi chỉ huy cũng bị trúng đạn B-40/41 của VN.

Chu Phú Quân bị thương nặng và sau đó chết ngày 21-2-1979. Chu là 1 trong 38 quân nhân của trung đoàn tử trận và là trung đoàn trưởng xe tăng duy nhất tử trận ở Việt Nam.

Hình ảnh xe tăng Type-63 của quân Trung Quốc trong đợt tấn công Việt Nam tháng 02 năm 1979.

TQ 1.jpg


TQ 2.jpg
 

z300

Xe điện
Biển số
OF-482877
Ngày cấp bằng
9/1/17
Số km
4,086
Động cơ
257,263 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 50: TIÊU DIỆT TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG XE TĂNG TRUNG QUỐC


Xe tăng lội nước Type-63 thuộc Trung đoàn xe tăng độc lập Quân khu Quảng Châu của TQ trong chiến tranh biên giới với VN năm 1979.

Hình ảnh của loại xe này năm 1979 không nhiều lắm. Đa số các ảnh chụp xuất hiện về sau là tăng hạng nhẹ Type-62 trên hướng Cao Bằng.

Trung đoàn xe tăng độc lập Quân khu Quảng Châu được huy động tham gia chiến dịch xâm lược VN với 80 xe tăng lội nước Type-63, 9 xe thiết giáp hỗ trợ và 1578 quân.

Trung đoàn được triển khai trên hướng đông, không tác chiến tập trung mà xé lẻ ra trên 3 hướng:

-Tiểu đoàn 1 do Trung đoàn trưởng Chu Phú Quân chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 125, Quân đoàn 42 tấn công vào, Tà Lùng, Phục Hòa (Cao Bằng);

-Tiểu đoàn 2 do Trung đoàn phó Vương Chính Đình chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 123, Quân đoàn 41 tấn công vào Thông Nông (Cao Bằng) và,

- Tiểu đoàn 3 do Chính ủy Lưu Thiếu Hằng chỉ huy phối thuộc cho Sư đoàn 127, Quân đoàn 43 tấn công vào Chi Ma, Lộc Bình (Lạng Sơn).

Các xe tăng Type-63 trong chiến đấu được đánh giá là cồng kềnh và khả năng cơ động kém trên chiến trường rừng núi nên gặp khá nhiều khó khăn.

Trong khi Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 của trung đoàn này chỉ thiệt hại nhẹ thì Tiểu đoàn 1 trên hướng Phục Hòa (mặt trận do Trung đoàn bộ binh 567 của Tỉnh đội Cao Bằng phòng thủ) đã tổn thất rất nặng.

Chỉ riêng trong ngày 17-2-1979, tiểu đoàn 1 đã có 15/26 xe trong biên chế bị bắn cháy hoặc bắn hỏng.

Sáng 19-2-1979, đội hình 12 xe tăng Type-63 của tiểu đoàn 1 tiếp tục tấn công về hướng tây bắc Phục Hòa đã bị bộ đội VN tiêu diệt thêm 6 chiếc, 2 chiếc khác bị lính TQ bắn hạ do nhầm lẫn.

Bản thân chiếc xe thiết giáp chở Trung đoàn trưởng Chu Phú Quân đi chỉ huy cũng bị trúng đạn B-40/41 của VN.

Chu Phú Quân bị thương nặng và sau đó chết ngày 21-2-1979. Chu là 1 trong 38 quân nhân của trung đoàn tử trận và là trung đoàn trưởng xe tăng duy nhất tử trận ở Việt Nam.

Hình ảnh xe tăng Type-63 của quân Trung Quốc trong đợt tấn công Việt Nam tháng 02 năm 1979.

TQ 1.jpg


TQ 2.jpg
Cũng phải nhìn nhận nó quá giỏi khi 1979 đã chế tạo được xe tăng như này! Chúng ta đến giờ có chú trọng nhưng luyện kim và cơ khí chính xác không phát triển được, rất khó chủ động vè khí tài trong dài hạn. Bài học này từ mấy chục năm mong các cụ ở trên hiểu và quyết tâm thay đổi Việt nam, bí mật cũng được
 

Hự.

Xe điện
Biển số
OF-426937
Ngày cấp bằng
3/6/16
Số km
2,960
Động cơ
315,180 Mã lực
Cũng phải nhìn nhận nó quá giỏi khi 1979 đã chế tạo được xe tăng như này! Chúng ta đến giờ có chú trọng nhưng luyện kim và cơ khí chính xác không phát triển được, rất khó chủ động vè khí tài trong dài hạn. Bài học này từ mấy chục năm mong các cụ ở trên hiểu và quyết tâm thay đổi Việt nam, bí mật cũng được
Về lĩnh vực khí tài quân sự thì em ko biết, cũng như so sánh với TQ thế nào em cũng ko rõ, nhưng trình độ, công nghệ luyện kim và cơ khí chính xác của mình so với các nước phương Tây, cụ thể là Đức qua 1 dự án em biết, ta không những ko đuổi kịp mà khoảng cách ngày càng dãn ra.
 

z300

Xe điện
Biển số
OF-482877
Ngày cấp bằng
9/1/17
Số km
4,086
Động cơ
257,263 Mã lực
Về lĩnh vực khí tài quân sự thì em ko biết, cũng như so sánh với TQ thế nào em cũng ko rõ, nhưng trình độ, công nghệ luyện kim và cơ khí chính xác của mình so với các nước phương Tây, cụ thể là Đức qua 1 dự án em biết, ta không những ko đuổi kịp mà khoảng cách ngày càng dãn ra.
Hiện nay gần như bằng 0 cụ ạ! Mấy chục năm nay các khoa cơ khí, cơ điện, cơ khí chính xác, luyện kim ... của các trường ĐHKT gần như không có gì. Không có đầu tư lấy trong giáo dục lấy đâu ra 1 thế hệ các chuyên gia giỏi 20-30 năm nữa? Sinh viên chỉ chọn kinh tế tài chính, marketing, ngoại ngữ ... để ra trường xin làm tài chính chứng khoán ngân hàng hòng mong lương cao để thụ hưởng vật chất trong ngắn hạn. Gàn đây sv tranh nhau vào các ngành công an, quân đội vì nhiều "lợi ích" sau khi ra trường. Sinh viên tốt nghiệp đại học 22 tuổi nhưng kỹ năng sống rất kém, không biết tự chăm sóc bản thân (nấu ăn, tự chữa các bệnh thông thường), dễ bị lừa do dễ dùng vật chất để dụ ...

Cả nước chỉ chăm chăm mua bán BĐS, vàng đô la, mua bán cổ phiếu, phân lô bán nền, làm dịch vụ nước bọt, một khối nữa thì chạy chọt vào các cơ quan NN, hòng chui sâu leo cao để khi có quyền lực sẽ tham nhũng lại, làm giàu cho gia đình và dòng họ, dùng tiền hưởng thụ nhu cầu cá nhân của cuộc sống hiện tại, dùng tiền tiêu xài hoang phí (hãy xem các tour du lịch Âu Mỹ Phi mắc tiền đều là công chức nhà nước, không chỉ mua ô tô nhà cửa đủ dùng mà mua những loại ô tô nhà cửa xa xỉ hoang phí quá mức càn thiết)... Chúng ta không hề có ngành kinh tế thực, sản xuất ra giá trị thặng dư của ngành kinh tế thực. Nói gọn lại là kinh tế chúng ta là cây thủy tinh, không có gốc rễ, dễ tan vỡ vì nhưng cú huých nhỏ thôi. Như thế lấy đâu ra tích lũy?

Quốc gia không có đội ngũ chuyên gia kỹ thuật công nghệ luyện kim, không có tích lũy nhìn thấy 20-30 năm nữa vẫn thế, thì đó là cái tương lai kiểu gì các bác tự suy luận lô gic ra!
 

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 51: TÁI ÔNG MẤT NGỰA

(Hay là câu chuyện về chiếc xe tăng M-41 chiến lợi phẩm)


1/ Hồi thứ nhất:

(Ký ức của cụ Vũ Đức Hùng, nguyên là cán bộ của Bộ đội Tăng thiết giáp B2)

Từ những năm 1963 - 1965, Bộ Tổng Tham mưu đã trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 tổ chức huấn luyện hai đại đội đặc công cơ giới sử dụng thành thạo xe tăng thiết giáp để vào miền Nam chuẩn bị chiến trường cho tác chiến hợp đồng binh chủng sau này.

Đầu năm 1963, đại đội đặc công cơ giới 46B được cử vào chiến trường B2 (Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ). Tới chiến trường miền Đông Nam Bộ, đại đội 46B được biên chế phân tán về một số đơn vị bộ binh để trực tiếp tham gia chiến đấu tiếp cận dần với phương tiện kỹ thuật hiện đại của địch.

Tháng 2 năm 1964, tôi đang làm nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng xe tăng ở Trung đoàn 202 và anh Lâm Kim Chung trong đoàn cán bộ 613 của Bộ tăng cường cho B2 vào tới căn cứ của Bộ chỉ huy Miền, được biên chế ngay về Phòng Tác chiến, rồi Phòng Quân báo. Ít lâu sau, Bộ chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho tôi và anh Lâm Kim Chung tập hợp quân số của đại đội đặc công cơ giới 46B lại để thành lập Ban cơ giới Miền. Trực thuộc ban cơ giới có một trung đội đặc công cơ giới, Ban cơ giới Miền chúng tôi được giao nhiệm vụ:
- Nghiên cứu khả năng sử dụng thiết giáp ở chiến trường B2; vừa nghiên cứu các phương thức đảm bảo kỹ thuật cho công tác huấn luyện và chiến đấu của bộ đội Tăng - Thiết giáp, trước tiên ở chiến trường trọng điểm miền Đông Nam Bộ.
- Đồng thời xúc tiến nghiên cứu huấn luyện cách thức để đoạt xe địch đánh địch.

Ban cơ giới và trung đội cơ giới Miền đầu tiên ấy trở thành đơn vị tiền thân của bộ đội Tăng - Thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 4 năm 1964, Đoàn cán bộ tăng thiết giáp gồm 40 cán bộ, trưởng xe, lái xe, pháo thủ được huấn luyện đặc biệt để tăng cường cho B2, đoàn đã được sáp nhập với trung đội cơ giới của Miền thành đại đội cơ giới, lấy phiên hiệu là C40.

Tháng 3 năm 1965, đoàn 711 gồm 228 cán bộ, chiến sĩ từ Trung đoàn 202 tiếp tục vào miền Đông Nam Bộ, sáp nhập với đại đội cơ giới C40 thành đoàn cơ giới Miền, lấy phiên hiệu J16. Tôi được giao trách nhiệm trưởng Đoàn J16, anh Bùi Tân - Chính ủy, anh Phạm Hà Hải làm Đoàn phó. Khi Đoàn cơ giới J16 chưa có phương tiện kỹ thuật, vũ khí, khí tài, xe pháo nên được biên chế gọn thành bốn đại đội: hai đại đội một và năm sáp nhập thành Đại đội 15, Đại đội hai và ba thành Đại đội 23; Đại đội bốn và sáu thành Đại đội 46, Đại đội 40 giữ nguyên. Một số cán bộ được Bộ chỉ huy Miền cử đi tăng cường cho các đơn vị bộ binh, công binh, đặc công, pháo binh...

Sau khi thành lập Đoàn J16, Bộ chỉ huy Miền giao cho nhiệm vụ tổ chức một số trận đánh để đoạt xe địch, trước mắt làm phương tiện huấn luyện bộ đội. Một trong những trận đánh tiêu biểu, diễn ra ngày 23 tháng 3 năm 1966, Đại đội tăng thiết giáp 40 do đồng chí Lê Như Hòa trực tiếp chỉ huy kết hợp với nội ứng, tập kích bất ngờ vào trung đoàn tăng thiết giáp số một của quân đội Sài Gòn tại căn cứ Gò Đậu (Phú Cường, Bình Dương) với sự phối hợp của ba nội ứng trong hàng ngũ quân ngụy: thiếu úy Phùng Văn Mười, thượng sĩ Nguyễn Văn Thắng, trung sĩ Ngô Văn Nhất.

Các chiến sĩ Đại đội 40 đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, làm chủ trận địa trong một thời gian dài, thu 10 xe (bốn xe M41 và sáu xe 113). Nhưng do sử dụng xe địch chưa thành thạo triển khai đội hình chiến đấu chậm, bị máy bay, xe tăng địch phát hiện, bắn phá vào đội hình, khống chế đường ta đưa xe về căn cứ, nghĩa binh Ngô Văn Nhất hy sinh, chỉ còn một chiếc M41-AL do thiếu úy nghĩa binh Phùng Văn Mười điều khiển chạy về hướng Phú Giáo, được đồng chí Vũ Đức Hùng (cán bộ kỹ thuật J16) kịp thời đón ở Bông Trang - Nhà Đỏ, lái thẳng về chiến khu Long Nghĩa.

Tại đây xe được Đoàn J16 duy trì sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện. Đến 1969 do điều kiện chiến trường, Đoàn J16 đào hầm và chôn giấu tại chỗ.

Chiếc M41-AL trở thành phương tiện đầu tiên, duy nhất đổi bằng máu của chiến sĩ cơ giới Miền, dùng để huấn luyện kỹ thuật binh chủng cho bộ đội B2 lúc đó.

2/ Hồi thứ 2:

Tháng 9-1969, đơn vị biệt kích CIDG trại Minh Thành hoạt động cùng Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ đã phát hiện chiếc xe tăng được chôn giấu ở tây bắc Lai Khê khoảng 13km và chỉ cách 1 căn cứ hỏa lực của quân Mỹ khoảng 6km. Khu vực giấu xe được ngụy trang và gài mìn bẫy cẩn thận. Quân Mỹ sau đó bố trí lực lượng bảo vệ, phát quang khu vực và đưa 1 xe cứu kéo M88 đến thu hồi.

Theo mô tả của phía Mỹ, chiếc xe tăng M41 được bảo dưỡng tốt và ở trong tình trạng gần như hoàn hảo, 2 khẩu súng máy đã được tháo mang đi. Cùng với xe, lính Mỹ thu hồi được 51 viên đạn pháo 76mm, 200 viên đạn .50 cal và 750 viên đạn .30 cal.

3/ Hồi thứ 3:

Chiến thăng mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Từ đó, nước Việt Nam thống nhất và hoà bình.

Trong thắng lợi vĩ đại đó, hàng trăm chiếc xe tăng M-41 đã lại trở về với bộ đội ta, không chỉ là một mình con xe tăng M-41 của trận Gò Đậu năm xưa.

HÌNH ẢNH MINH HOẠ

Quân Mỹ thu lại chiếc M-41 của trận Gò Đậu.

T M 4.jpg


T M 3.jpg


T M 2.jpg


T M 1.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH

Thớt 52: CÂU CHUYỆN TỪ MỘT TẤM HÌNH

(Hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước 30/04/2025)


1/ Tấm hình:


Hiện nay, tại các Trung tâm lưu trữ của Mỹ có lưu trữ rất nhiều các kỷ vật của các chiến sỹ QĐNDVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, do các đơn vị lính Mỹ thu giữ được trên chiến trường.

Trong số đó, có bức ảnh được lưu trữ tại Trung Tâm Việt Nam của trường Đại học Kỹ thuật Texas, Hoa Kỳ, được đánh mã số VA004353, nằm trong bộ sưu tập ảnh của Douglas Pike.

Nguyên văn phần chú thích như sau:

- “North Vietnamese soldier Pham Kim Quan lies on Highway 1, seven miles south of the Demilitarized Zone in Quang Tri Province of South Vietnam following a fire-fight where he was wounded by members of the Republic of Vietnam's 4th Battalion, 1st Regiment, 1st Infantry Division, on May 5, 1968. Below is his North Vietnamese Identification Card showing his name, his unit and a coded destination and his personal identification of height (One meter, 60 centimeters) and a small scar on his left cheek. The card does not show day or month, but indicates it was issued in 1960 by an official by the name of Can. Both signature and number (611/TB, A) were stamped with a seal showing initials GP. Pham Kim Quan was armed with an SK light machinegun. Pham Kim Quan gave his place of birth as Than Truc Hiep Xa, Hiep Hoa Huyen Vin Bao, Thanh Hai Phong. He was evacuated and treated at a hospital in Quang Tri.”



Xin dịch tóm tắt là:

- “Người lính Bắc Việt Nam Pham Kim Quan, bị thương nằm trên Quốc lộ 1, cách khu Phi quân sự Quảng Trị 7 dặm về phía nam, sau một trận giao tranh với tiểu đoàn 4, trung đoàn 1, Sư đoàn 1 VNCH, vào ngày 5-5-1968. Phía dưới là Chứng minh thư của anh ta, có ghi tên, đơn vị, địa điểm và nhận dạng cá nhân (cao 1m60, có một sẹo nhỏ gò má trái). .. Sinh quán tại Than Truc Hiep Xa, Hiep Hoa Huyen Vin Bao, Thanh Hai Phong. Anh ta đã được vận chuyển về điều trị tại một bệnh viện ở Quảng Trị”.

bác Quản - 1.jpg


2/ Đi tìm người lính ấy:

Bạn tôi – Trần Văn Võ, quê ở Hải Dương, sau khi được tiếp cận với tấm hình này, đã quyết định đi tìm người lính ấy, để trao lại cho chính người lính ấy (nếu còn sống), hoặc gia đình người lính ấy (nếu người lính đã hy sinh) -tấm hình ghi lại một thời máu lửa.

Sáng ngày 5-5-2010, bạn tôi gọi điện về số máy văn phòng UBND xã Hiệp Hòa (- rất tình cờ là đúng ngày bức ảnh được chụp cách đây 42 năm).

Một người đàn ông nghe máy. Sau khi giới thiệu về mục đích của cuộc gọi, bên kia trả lời: “có thôn Trúc Hiệp”.

Sau một hồi trao đổi, bạn tôi nhận được điện thoại gọi từ UBND xã Hiệp Hòa của ông Nguyễn Trọng Biển, là người đã nói chuyện lúc sáng.

-Chúng tôi đã xác minh rồi. Ở thôn Trúc Hiệp có người tên là Phạm Kim Quản, là thương binh, hồi đánh Mỹ bị địch bắt thôi chứ không hy sinh.

Sáng sớm Chủ nhật ngày 9-5, bạn tôi đã về đến quê của người lính, và đã trao lại được cho người lính tấm hình kỷ niệm.

bác Quản-2.jpg


3/ Câu chuyện của người lính Phạm Kim Quản:

3.1/ Tháng 7-1967, ông lên đường nhập ngũ cùng với những thanh niên muời tám đôi mươi của vùng quê đặc sản thuốc lào ấy. Sau khi nhập ngũ, ông được giao quân cho sư đoàn 320 (đoàn Đồng Bằng) và tổ chức huấn luyện tân binh ở bên Thủy Nguyên. Ba tháng sau, cuối tháng 10-1967, trước tình hình khẩn trương của chiến trường, lứa tân binh ấy được rút ngắn thời gian huấn luyện, biên chế hành quân đi B ngay, với kế hoạch sẽ vừa đi đường vừa tập bổ sung. Thông báo đó được phổ biến rất gấp, ông không kịp về thăm nhà trước khi lên đường.

Từ Thủy Nguyên, đơn vị của ông hành quân vào phía trong và tập kết tại Ninh Bình. Ông Quản đuợc biên chế về C11 – D9 – E64. Cuối tháng 11-1967, đội hình sư đoàn 320 đã bí mật xuất phát từ Cúc Phương, hành quân theo đường mòn Hồ Chí Minh và cuối tháng 12-1967, vào đến địa điểm tập kết tại một nông trường ở Vĩnh Linh, bờ bắc sông Bến Hải.

Đến khoảng tháng 3-1968 ông mới tham gia đánh trận đầu tiên.



3.2/ Bạn tôi hỏi chen ngang:

“Thế trận đánh mà có bức ảnh này là trận nào ạ? Trong chú thích nó ghi là giao chiến với tiểu đoàn 4 trung đoàn 1 sư đoàn 1 VNCH ngày 5-5-1968?”

“Ghi thế chắc không phải đâu, trận này đúng ra là chúng tôi đánh với thằng Mỹ mà là ngày 4-5-1968 cơ. Sau đó, khi tôi bị thương, là do thằng Mỹ nó bắt mang đi, nó có phương tiện nên nó chở tôi về tận Đà Lạt, chứ bọn ngụy nó thường ít bắt tù binh, đến quân nó bị thương còn không mang đi được nữa là…




3.3/ Ông Quản tiếp tục câu chuyện:

Ngày 3-5-1968, đơn vị ông nhận nhiệm vụ di chuyển xuống địa bàn ven đường 1 và lập trận địa phục kích, chuẩn bị đánh địch từ thị xã nống ra.

Đơn vị ông hành quân suốt đêm hôm mồng 3, nhưng đi đêm nên giờ ông không nhớ đường xá thế nào cả. Chỉ nhớ đến nơi, có hỏi cậu giao liên dẫn đường thì bảo đó là Quán Ngang. Ở đó địa hình không hoàn toàn như đồng bằng, có đồi thấp và rất nhiều trảng cỏ tranh.

Đơn vị ông khẩn trương đào công sự cá nhân, lập trận địa ở sát bên rìa phía Tây đường 1, đến gần sáng mới xong. Anh em tranh thủ nghỉ môt lúc, chờ đợi trận đánh ngày mai. Đối với ông, không ngờ đó là trận chiến đấu cuối cùng của mình, và cũng là điểm bắt đầu bước vào một trận chiến đấu khác mà ông chưa bao giờ nghĩ tới.

Ngày 4-5, trời vừa sáng, đơn vị ông đã thấy máy bay trinh sát lượn vòng ngó nghiêng trên cao. Sau đó, là những loạt pháo bắn liên hồi, mới đầu còn xa sau chuyển làn lại gần, tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội. Ông cũng quen với kiểu đánh của thằng Mỹ, biết là máy bay ném bom hoặc pháo bắn dọn đường rồi bọn bộ binh sẽ lên sau. Trực thăng bay đi bay lại liên tục. Một lúc sau, bọn Mỹ tiến lên, có xe tăng đi trước. Đơn vị ông đợi xe tăng nó tiến thật gần mới dùng B40 bắn cháy và diệt bọn lính theo sau. Đánh gần thì chúng nó không gọi pháo hay ném bom được, vì sợ nhầm vào quân nó. Bọn Mỹ rút ra, gọi pháo rồi lại tổ chức đánh vào. Cả ngày hôm đó, đơn vị ông quần nhau với bọn lính thủy đánh bộ này mấy đợt liền. Trời mùa hè nắng nóng hầm hập, trên trận địa cỏ cháy, đất đá cày xới, khói lửa khét lẹt …



Đến đêm ngày 04/05 thì có lệnh thủ trưởng gọi. Giao cho ông thêm năm người với nhiệm vụ quay trở lại trận địa lúc chiều, bám địch phía ngoài đường quốc lộ để nắm tình hình và lập chốt ra xa hơn để bảo vệ cho anh em thu dọn trận địa. Số anh em mới nhận này ông không biết ở đơn vị nào, cũng chả kịp hỏi tên ai. Sau khi bổ sung đạn dược, nước uống, ông và đồng đội vội vã lên đường, lúc đó tầm 8-9 giờ tối. Lần này thạo đường rồi nên một lúc là tổ của ông đã xuống đến nơi. Vượt qua trận địa lúc chiều, ông và đồng đội tiến dần ra phía đường cái. Ông vào kiểm tra mấy nhà ở đầu làng mà lúc chiều bọn Mỹ chiếm, vào cả chuồng bò xem chúng nó gài mìn lại không, rồi dẫn anh em ra đến ven đường. Ông đi đầu, dặn anh em đi sau mỗi người cách nhau 5m, nếu có bất trắc gì thì phải nhào vào bên tay phải, ở đó là đồng cỏ tranh rậm rạp và quân mình đang giữ. Ông và đồng đội đi lom khom dưới rìa đường, lặng lẽ bám sát nhau và nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Lúc đó, ông vẫn nghe xa xa phía trong làng, tiếng anh em mình tải thương gọi tìm nhau í ới. Ông và đồng đội cứ lần theo các hố bom, tụt xuống quan sát rồi lại di chuyển sang hố bom tiếp theo. Vừa nhô lên khỏi hố bom thứ tư, thì ông chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thơm. Ngay lúc đó, chớp đỏ lòe lên phía trước, cách ông độ 30 – 40m, đạn bay ríu ríu xung quanh. Đụng bọn Mỹ rồi, vì bọn Mỹ mới hút thuốc thơm, Ruby gì đó, chứ bọn ngụy chỉ hút loại quân tiếp vụ rẻ tiền thôi. Ông quạt ngay một loạt vào chỗ có chớp lửa phía trước, rồi nằm xuống mố đất. Chỗ này vẫn gần anh em mình đang tải thương quá, nghĩ vậy, ông kê súng lên, kéo thêm mấy loạt dài nữa. Bình thường, trong chiến đấu, ông giữ hỏa lực nên chỉ luôn bắn điểm xạ loạt ngắn, đấy là nguyên tắc, vì nếu phát hiện hỏa lực nó “ưu tiên” diệt ngay. Nhưng vì muốn báo cho phía trong xóm biết có phục kích nên ông mới bắn liên tục, chắc nó phát hiện qua chớp lửa đầu nòng, nên tập trung bắn rát vào vị trí của ông. Không thấy mấy anh em đi sau nổ súng, chắc là nghe thấy chạm súng, anh em nhào vào bụi cỏ tranh rồi. Chưa kịp di chuyển xuống hố bom thì ông nghe “chóc…đoành” một cái, bùng lên ngay cạnh chỗ ông nằm, ông chỉ kịp ôm súng lăn mình vào phía trong rồi gục luôn.

Không biết sau đó bao lâu, ông tỉnh lại, vẫn nghe có tiếng nổ đâu đây. Sờ lên mặt thấy đầm đìa máu, ông định nhỏm dậy nhưng không thể nào nhấc được người lên. Nhìn ra xung quanh, ông nhận ra mình vẫn ở ngay trên rìa hố bom chứ chưa lăn đi được bao xa, chắc là vướng cái chân của khẩu trung liên. Ông nghĩ phải bò sâu vào đồng cỏ tranh, nhưng chân ông tê dại không còn cảm giác gì cả. Ông thấy khát nước kinh khủng, bèn cố gắng nghiêng người và lần tìm tháo cái bi-đông đeo ở thắt lưng, đưa được lên miệng uống liền mấy ngụm. Chắc là choáng do mất nhiều máu, bi-đông không kịp đóng nắp, ông buông nghiêng trên ngực rồi lại ngất đi. Từ đó, ông không biết gì nữa...”

Ông bị nó câu một quả cối cá nhân M79 trúng ngay bên người. Một mảnh găm vào đầu, một mảnh vào đùi trái.

“Khi ông mở mắt ra, ông thấy mình đang nằm trong một căn phòng rộng, mái tôn, ông đoán là bệnh viện của nó rồi, trên cứ của mình làm gì có mái tôn mà lại rộng rãi, hiện đại thế này. Thấy một người y tá đang đứng gần đấy, nói tiếng mình, ông mới hỏi đây là đâu, thì họ trả lời là quân y viện của Mỹ ở Đà Lạt. Lại hỏi ông ở đây mấy hôm rồi, họ bảo được cả tuần rồi, trực thăng nó đưa về từ quá nửa đêm hôm 4-5. Nên như vừa nãy ông nói với anh, trận này ông đánh với thằng Mỹ và nó bắt ông đưa về Đà Lạt, chứ nếu VNCH có bắt thì nó chỉ đưa vào bệnh viện ở Đông Hà thôi”



3.4/ Bạn tôi lại hỏi chen ngang:

“Trong chú thích ảnh nó ghi là bị thương trong trận đánh ngày 5-5-1968, mà như chú kể tối ngày 4 bị thương, nửa đêm nó đã bắt mình mang đi rồi thì cái ảnh này nó chụp lúc nào mà ban ngày rõ thế này nhỉ?”

“Không phải ban ngày đâu, cái ảnh này là nó chụp đêm mồng 4, trước khi nó đưa lên trực thăng chở về Đà Lạt. Nó nhặt được tôi và khiêng lên đặt ở rìa đường nhựa, khẩu súng của tôi nó bày đứng chếch thế này để chụp ảnh thôi. Trông như ban ngày chắc là do nó bắn pháo sáng hoặc chiếu đèn pha”




3.5/ Ông Quản tiếp tục câu chuyện:

“Ở viện Mỹ, nó cũng chữa trị cho ông , rồi phát thuốc men, cơm nước. Xung quanh có cả bọn Mỹ nằm. Sau khi ông tỉnh, cũng không thấy ai đến hỏi han gì, hàng ngày chỉ có bác sỹ, y tá ra vào phòng. Biết là đã nằm trong tay nó, nhưng ông cứ mặc kệ, ông vẫn uống thuốc, ăn uống đầy đủ, để còn phục hồi sức lực mà đối phó, phía trước còn dài chưa biết thế nào. Ông ở đó 51 ngày, khỏi các vết thương, thì nó cho lên trực thăng, chở ra Đà Nẵng, về trại tù binh Non Nước. Ở viện Mỹ, nó không hỏi han, đánh đập gì, nhưng về đến trại tù binh, nó gọi lên thẩm vấn ngay. Ông nghĩ bắt đầu rồi đây.



Cứ 1 tuần nó gọi lên 3 lần để thẩm vấn, lần nào cũng đánh, cũng tưng đấy câu hỏi, và vẫn những câu trả lời như thế. Sau 3 tuần thì thấy ông vẫn trả lời như thế, lại không có thông tin gì quan trọng, nên chúng kết thúc thẩm vấn, nó chụp ảnh lập hồ sơ và chuyển về phòng giam giữ.

...

Ông chuyển ra trại tù binh Phú Quốc tính ra khoảng tháng 10/1968.

“Khoảng sau tết âm lịch năm 1973, ông và đồng đội biết tin hiệp định Paris đã ký, và sẽ có trao trả tù binh.



Cuối tháng 2/1973, chúng nó đưa ông và đồng đội ra sân bay và chở về Đà Nẵng, phát cho mỗi tù binh một bộ quần áo, khăn mặt, kem đánh răng … Từ Đà Nẵng, nó đưa anh em mình bằng xe ôtô ra Quảng Trị, và tiến hành trao trả tại bờ sông Thạch Hãn. Ở bờ nam, anh em ông và đồng đội ngồi xếp hàng để sẵn sàng đợi trao trả, có tướng Trần Văn Trà ở đó, động viên và dặn dò anh em. Trước lúc về với bên mình, anh em ông và đồng đội cởi hết quần áo của chúng nó, mặc mỗi quần đùi rồi người khỏe dìu người yếu để lên thuyền về với anh em mình đang đợi đón bên bờ Bắc. Lúc đó nhìn thấy bên bờ bắc, cờ mình cắm đầy triền sông, rồi anh em bộ đội, rồi nhân dân chờ đón, ông và đồng đội mừng phát khóc. Khóc vì mình được trở về với anh em đồng chí, cũng khóc vì thương những anh em đã nằm lại ngoài đảo không có mặt ngày về hôm nay. Như vậy, sau gần 5 năm bị giam giữ tù đầy, ông đã đươc trở về với bên mình…”

Sau gần 5 năm bị giam giữ tù đầy, ông đã đươc trở về với bên mình…



4/ Khúc vĩ thanh:

Năm 2015, rất nhiều năm sau chiến tranh, người lính già Phạm Kim Quản muốn được trở về thăm trại tù binh Phú Quốc năm xưa.

Ngặt nỗi tuổi cao, túi lại hao gầy.

Vậy nên, tôi, một người lính Hải quân năm xưa, đã xin ủng hộ người lính già chút đỉnh, theo sự quyên góp của bạn tôi - Trần Văn Võ, để giúp người lính Phạm Kim Quản trở về thăm lại các địa danh xưa .
bác Quản - 3.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

Baoleo

Xe tăng
Biển số
OF-320235
Ngày cấp bằng
19/5/14
Số km
1,868
Động cơ
367,526 Mã lực
GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 53: NÓI THÊM VỀ TÙ BINH SỐ NHỌ NHẤT CỦA VNCH.

((Hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước 30/04/2025)

1/ Tù binh số nhọ đã từng được nói ở Thớt 27:


Đó là Đai tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn dù 3 của QLVNCH.

Trong chiến dịch ‘Đường 9-Nam Lào’, ngày 25/2/1971 tại đồi 31, khu vực cao điểm 456, Đường 9 – Nam Lào, đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn dù 3, đã bị bộ đội sư đoàn 320 – phối hợp với lực lượng xe tăng bắt sống.

Ngay sau khi bị bắt, đại tá Thọ và bộ sậu chỉ huy của Lữ dù 3 Sài Gòn, đã bị đưa ra Hà Nội để họp báo.

Sau đó, đại tá Thọ đã được ở lại miền Bắc ngay và luôn.

Mặc giù bị bộ đội Bắc Việt bắt, và bị đưa về Hà Nội để họp báo, nhưng trên danh nghĩa tuyên truyền công khai, đại tá Thọ là do quân Pa-thét-Lào bắt, và Pa-thét-Lào chỉ mượn địa điểm Hà Nội để họp báo cho….tiện, mà thôi.

Thế mới oái ăm cho đại tá Thọ.

1741400322678.png


Năm 1973, hòa đàm Ba-lê được ký kết, trong đó có khoản trao trả tù binh. Nhưng đại tá Thọ không được trao trả.

Lý do: đại tá Thọ là do quân Pa-thét-Lào bắt.

Tại cuộc họp báo Quốc tế ở Hà Nội, như trong ảnh đính kèm, là cuộc họp báo do Pa-thét-Lào tổ chức, Hà Nội chỉ cho mượn địa điểm.

Tại cuộc họp báo đó, Pa-thét Lào tuyên bố là bắt sống đại tá Thọ.

Đó là bằng chứng 'quốc tế' để ta cãi nhau với Sài Gòn khi trao trả tù binh năm 1973.

Vậy nên, Việt Nam phủ nhận mọi chuyện ‘quân đội Bắc Việt bắt đại tá Thọ’ – nếu báo chí Hà Nội có vô tình đăng, chuyện sư đoàng 320 bắt đại tá Thọ khi cãi nhau với Sài Gòn.

Quân Giải Phóng và bộ đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vô can. Không biết gì về đại tá Thọ.

Sau giải phóng 30/04/1975: đại tá Thọ không còn được gọi là bị giam giữ nữa. Mà được gọi là ‘đi học tập cải tạo’, cùng với các sỹ quan Sài Gòn khác, bị bắt sau 30/04/1975.

Đại tá Thọ được về đoàn tụ với gia đình, cũng khá muộn (năm 1987), sau 17 năm bị bắt giữ.

Sau khi ra trại, đại tá Thọ định cư ở Úc và chết ngày 12 tháng 5 năm 2015 tại Sidney Australia, thọ 86 tuổi.



2/ Thông tin thêm về Đại tá Thọ:

Đây là bút tích thật của Đại tá Thọ, khi Đại tá bị bắt bởi quân ta.

Đại tá Thọ đã viết lời kêu gọi quân lực VNCH ra hàng quân ta năm 1971.

Trong bức thư, Đại tá Thộ đã nói rành rọt là:

-“….. đã chịu bị bắt bới Quân Giải phóng, tại vùng Cha Ky…..”.

Thế nhưng, năm 1973, hòa đàm Ba-lê được ký kết, trong đó có khoản trao trả tù binh. Nhưng đại tá Thọ không được trao trả.

Lý do: đại tá Thọ là do quân Pa-thét-Lào bắt, và có họp báo ở Hà Nội đàng hoàng.

Đúng là số nhọ. :D



À, không liên quan lắm, nhưng chữ viết tay của Đại tá Thọ - rất là đẹp. ;););)

Thọ.jpg
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top