GÓC KHUẤT CHIẾN TRANH
Thớt 52: CÂU CHUYỆN TỪ MỘT TẤM HÌNH
(Hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước 30/04/2025)
1/ Tấm hình:
Hiện nay, tại các Trung tâm lưu trữ của Mỹ có lưu trữ rất nhiều các kỷ vật của các chiến sỹ QĐNDVN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, do các đơn vị lính Mỹ thu giữ được trên chiến trường.
Trong số đó, có bức ảnh được lưu trữ tại Trung Tâm Việt Nam của trường Đại học Kỹ thuật Texas, Hoa Kỳ, được đánh mã số VA004353, nằm trong bộ sưu tập ảnh của Douglas Pike.
Nguyên văn phần chú thích như sau:
- “North Vietnamese soldier Pham Kim Quan lies on Highway 1, seven miles south of the Demilitarized Zone in Quang Tri Province of South Vietnam following a fire-fight where he was wounded by members of the Republic of Vietnam's 4th Battalion, 1st Regiment, 1st Infantry Division, on May 5, 1968. Below is his North Vietnamese Identification Card showing his name, his unit and a coded destination and his personal identification of height (One meter, 60 centimeters) and a small scar on his left cheek. The card does not show day or month, but indicates it was issued in 1960 by an official by the name of Can. Both signature and number (611/TB, A) were stamped with a seal showing initials GP. Pham Kim Quan was armed with an SK light machinegun. Pham Kim Quan gave his place of birth as Than Truc Hiep Xa, Hiep Hoa Huyen Vin Bao, Thanh Hai Phong. He was evacuated and treated at a hospital in Quang Tri.”
Xin dịch tóm tắt là:
- “Người lính Bắc Việt Nam Pham Kim Quan, bị thương nằm trên Quốc lộ 1, cách khu Phi quân sự Quảng Trị 7 dặm về phía nam, sau một trận giao tranh với tiểu đoàn 4, trung đoàn 1, Sư đoàn 1 VNCH, vào ngày 5-5-1968. Phía dưới là Chứng minh thư của anh ta, có ghi tên, đơn vị, địa điểm và nhận dạng cá nhân (cao 1m60, có một sẹo nhỏ gò má trái). .. Sinh quán tại Than Truc Hiep Xa, Hiep Hoa Huyen Vin Bao, Thanh Hai Phong. Anh ta đã được vận chuyển về điều trị tại một bệnh viện ở Quảng Trị”.
2/ Đi tìm người lính ấy:
Bạn tôi – Trần Văn Võ, quê ở Hải Dương, sau khi được tiếp cận với tấm hình này, đã quyết định đi tìm người lính ấy, để trao lại cho chính người lính ấy (nếu còn sống), hoặc gia đình người lính ấy (nếu người lính đã hy sinh) -tấm hình ghi lại một thời máu lửa.
Sáng ngày 5-5-2010, bạn tôi gọi điện về số máy văn phòng UBND xã Hiệp Hòa (- rất tình cờ là đúng ngày bức ảnh được chụp cách đây 42 năm).
Một người đàn ông nghe máy. Sau khi giới thiệu về mục đích của cuộc gọi, bên kia trả lời: “có thôn Trúc Hiệp”.
Sau một hồi trao đổi, bạn tôi nhận được điện thoại gọi từ UBND xã Hiệp Hòa của ông Nguyễn Trọng Biển, là người đã nói chuyện lúc sáng.
-Chúng tôi đã xác minh rồi. Ở thôn Trúc Hiệp có người tên là Phạm Kim Quản, là thương binh, hồi đánh Mỹ bị địch bắt thôi chứ không hy sinh.
Sáng sớm Chủ nhật ngày 9-5, bạn tôi đã về đến quê của người lính, và đã trao lại được cho người lính tấm hình kỷ niệm.
3/ Câu chuyện của người lính Phạm Kim Quản:
3.1/ Tháng 7-1967, ông lên đường nhập ngũ cùng với những thanh niên muời tám đôi mươi của vùng quê đặc sản thuốc lào ấy. Sau khi nhập ngũ, ông được giao quân cho sư đoàn 320 (đoàn Đồng Bằng) và tổ chức huấn luyện tân binh ở bên Thủy Nguyên. Ba tháng sau, cuối tháng 10-1967, trước tình hình khẩn trương của chiến trường, lứa tân binh ấy được rút ngắn thời gian huấn luyện, biên chế hành quân đi B ngay, với kế hoạch sẽ vừa đi đường vừa tập bổ sung. Thông báo đó được phổ biến rất gấp, ông không kịp về thăm nhà trước khi lên đường.
Từ Thủy Nguyên, đơn vị của ông hành quân vào phía trong và tập kết tại Ninh Bình. Ông Quản đuợc biên chế về C11 – D9 – E64. Cuối tháng 11-1967, đội hình sư đoàn 320 đã bí mật xuất phát từ Cúc Phương, hành quân theo đường mòn Hồ Chí Minh và cuối tháng 12-1967, vào đến địa điểm tập kết tại một nông trường ở Vĩnh Linh, bờ bắc sông Bến Hải.
Đến khoảng tháng 3-1968 ông mới tham gia đánh trận đầu tiên.
3.2/ Bạn tôi hỏi chen ngang:
“Thế trận đánh mà có bức ảnh này là trận nào ạ? Trong chú thích nó ghi là giao chiến với tiểu đoàn 4 trung đoàn 1 sư đoàn 1 VNCH ngày 5-5-1968?”
“Ghi thế chắc không phải đâu, trận này đúng ra là chúng tôi đánh với thằng Mỹ mà là ngày 4-5-1968 cơ. Sau đó, khi tôi bị thương, là do thằng Mỹ nó bắt mang đi, nó có phương tiện nên nó chở tôi về tận Đà Lạt, chứ bọn ngụy nó thường ít bắt tù binh, đến quân nó bị thương còn không mang đi được nữa là…
3.3/ Ông Quản tiếp tục câu chuyện:
Ngày 3-5-1968, đơn vị ông nhận nhiệm vụ di chuyển xuống địa bàn ven đường 1 và lập trận địa phục kích, chuẩn bị đánh địch từ thị xã nống ra.
Đơn vị ông hành quân suốt đêm hôm mồng 3, nhưng đi đêm nên giờ ông không nhớ đường xá thế nào cả. Chỉ nhớ đến nơi, có hỏi cậu giao liên dẫn đường thì bảo đó là Quán Ngang. Ở đó địa hình không hoàn toàn như đồng bằng, có đồi thấp và rất nhiều trảng cỏ tranh.
Đơn vị ông khẩn trương đào công sự cá nhân, lập trận địa ở sát bên rìa phía Tây đường 1, đến gần sáng mới xong. Anh em tranh thủ nghỉ môt lúc, chờ đợi trận đánh ngày mai. Đối với ông, không ngờ đó là trận chiến đấu cuối cùng của mình, và cũng là điểm bắt đầu bước vào một trận chiến đấu khác mà ông chưa bao giờ nghĩ tới.
Ngày 4-5, trời vừa sáng, đơn vị ông đã thấy máy bay trinh sát lượn vòng ngó nghiêng trên cao. Sau đó, là những loạt pháo bắn liên hồi, mới đầu còn xa sau chuyển làn lại gần, tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội. Ông cũng quen với kiểu đánh của thằng Mỹ, biết là máy bay ném bom hoặc pháo bắn dọn đường rồi bọn bộ binh sẽ lên sau. Trực thăng bay đi bay lại liên tục. Một lúc sau, bọn Mỹ tiến lên, có xe tăng đi trước. Đơn vị ông đợi xe tăng nó tiến thật gần mới dùng B40 bắn cháy và diệt bọn lính theo sau. Đánh gần thì chúng nó không gọi pháo hay ném bom được, vì sợ nhầm vào quân nó. Bọn Mỹ rút ra, gọi pháo rồi lại tổ chức đánh vào. Cả ngày hôm đó, đơn vị ông quần nhau với bọn lính thủy đánh bộ này mấy đợt liền. Trời mùa hè nắng nóng hầm hập, trên trận địa cỏ cháy, đất đá cày xới, khói lửa khét lẹt …
Đến đêm ngày 04/05 thì có lệnh thủ trưởng gọi. Giao cho ông thêm năm người với nhiệm vụ quay trở lại trận địa lúc chiều, bám địch phía ngoài đường quốc lộ để nắm tình hình và lập chốt ra xa hơn để bảo vệ cho anh em thu dọn trận địa. Số anh em mới nhận này ông không biết ở đơn vị nào, cũng chả kịp hỏi tên ai. Sau khi bổ sung đạn dược, nước uống, ông và đồng đội vội vã lên đường, lúc đó tầm 8-9 giờ tối. Lần này thạo đường rồi nên một lúc là tổ của ông đã xuống đến nơi. Vượt qua trận địa lúc chiều, ông và đồng đội tiến dần ra phía đường cái. Ông vào kiểm tra mấy nhà ở đầu làng mà lúc chiều bọn Mỹ chiếm, vào cả chuồng bò xem chúng nó gài mìn lại không, rồi dẫn anh em ra đến ven đường. Ông đi đầu, dặn anh em đi sau mỗi người cách nhau 5m, nếu có bất trắc gì thì phải nhào vào bên tay phải, ở đó là đồng cỏ tranh rậm rạp và quân mình đang giữ. Ông và đồng đội đi lom khom dưới rìa đường, lặng lẽ bám sát nhau và nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Lúc đó, ông vẫn nghe xa xa phía trong làng, tiếng anh em mình tải thương gọi tìm nhau í ới. Ông và đồng đội cứ lần theo các hố bom, tụt xuống quan sát rồi lại di chuyển sang hố bom tiếp theo. Vừa nhô lên khỏi hố bom thứ tư, thì ông chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thơm. Ngay lúc đó, chớp đỏ lòe lên phía trước, cách ông độ 30 – 40m, đạn bay ríu ríu xung quanh. Đụng bọn Mỹ rồi, vì bọn Mỹ mới hút thuốc thơm, Ruby gì đó, chứ bọn ngụy chỉ hút loại quân tiếp vụ rẻ tiền thôi. Ông quạt ngay một loạt vào chỗ có chớp lửa phía trước, rồi nằm xuống mố đất. Chỗ này vẫn gần anh em mình đang tải thương quá, nghĩ vậy, ông kê súng lên, kéo thêm mấy loạt dài nữa. Bình thường, trong chiến đấu, ông giữ hỏa lực nên chỉ luôn bắn điểm xạ loạt ngắn, đấy là nguyên tắc, vì nếu phát hiện hỏa lực nó “ưu tiên” diệt ngay. Nhưng vì muốn báo cho phía trong xóm biết có phục kích nên ông mới bắn liên tục, chắc nó phát hiện qua chớp lửa đầu nòng, nên tập trung bắn rát vào vị trí của ông. Không thấy mấy anh em đi sau nổ súng, chắc là nghe thấy chạm súng, anh em nhào vào bụi cỏ tranh rồi. Chưa kịp di chuyển xuống hố bom thì ông nghe “chóc…đoành” một cái, bùng lên ngay cạnh chỗ ông nằm, ông chỉ kịp ôm súng lăn mình vào phía trong rồi gục luôn.
Không biết sau đó bao lâu, ông tỉnh lại, vẫn nghe có tiếng nổ đâu đây. Sờ lên mặt thấy đầm đìa máu, ông định nhỏm dậy nhưng không thể nào nhấc được người lên. Nhìn ra xung quanh, ông nhận ra mình vẫn ở ngay trên rìa hố bom chứ chưa lăn đi được bao xa, chắc là vướng cái chân của khẩu trung liên. Ông nghĩ phải bò sâu vào đồng cỏ tranh, nhưng chân ông tê dại không còn cảm giác gì cả. Ông thấy khát nước kinh khủng, bèn cố gắng nghiêng người và lần tìm tháo cái bi-đông đeo ở thắt lưng, đưa được lên miệng uống liền mấy ngụm. Chắc là choáng do mất nhiều máu, bi-đông không kịp đóng nắp, ông buông nghiêng trên ngực rồi lại ngất đi. Từ đó, ông không biết gì nữa...”
Ông bị nó câu một quả cối cá nhân M79 trúng ngay bên người. Một mảnh găm vào đầu, một mảnh vào đùi trái.
“Khi ông mở mắt ra, ông thấy mình đang nằm trong một căn phòng rộng, mái tôn, ông đoán là bệnh viện của nó rồi, trên cứ của mình làm gì có mái tôn mà lại rộng rãi, hiện đại thế này. Thấy một người y tá đang đứng gần đấy, nói tiếng mình, ông mới hỏi đây là đâu, thì họ trả lời là quân y viện của Mỹ ở Đà Lạt. Lại hỏi ông ở đây mấy hôm rồi, họ bảo được cả tuần rồi, trực thăng nó đưa về từ quá nửa đêm hôm 4-5. Nên như vừa nãy ông nói với anh, trận này ông đánh với thằng Mỹ và nó bắt ông đưa về Đà Lạt, chứ nếu VNCH có bắt thì nó chỉ đưa vào bệnh viện ở Đông Hà thôi”
3.4/ Bạn tôi lại hỏi chen ngang:
“Trong chú thích ảnh nó ghi là bị thương trong trận đánh ngày 5-5-1968, mà như chú kể tối ngày 4 bị thương, nửa đêm nó đã bắt mình mang đi rồi thì cái ảnh này nó chụp lúc nào mà ban ngày rõ thế này nhỉ?”
“Không phải ban ngày đâu, cái ảnh này là nó chụp đêm mồng 4, trước khi nó đưa lên trực thăng chở về Đà Lạt. Nó nhặt được tôi và khiêng lên đặt ở rìa đường nhựa, khẩu súng của tôi nó bày đứng chếch thế này để chụp ảnh thôi. Trông như ban ngày chắc là do nó bắn pháo sáng hoặc chiếu đèn pha”
3.5/ Ông Quản tiếp tục câu chuyện:
“Ở viện Mỹ, nó cũng chữa trị cho ông , rồi phát thuốc men, cơm nước. Xung quanh có cả bọn Mỹ nằm. Sau khi ông tỉnh, cũng không thấy ai đến hỏi han gì, hàng ngày chỉ có bác sỹ, y tá ra vào phòng. Biết là đã nằm trong tay nó, nhưng ông cứ mặc kệ, ông vẫn uống thuốc, ăn uống đầy đủ, để còn phục hồi sức lực mà đối phó, phía trước còn dài chưa biết thế nào. Ông ở đó 51 ngày, khỏi các vết thương, thì nó cho lên trực thăng, chở ra Đà Nẵng, về trại tù binh Non Nước. Ở viện Mỹ, nó không hỏi han, đánh đập gì, nhưng về đến trại tù binh, nó gọi lên thẩm vấn ngay. Ông nghĩ bắt đầu rồi đây.
Cứ 1 tuần nó gọi lên 3 lần để thẩm vấn, lần nào cũng đánh, cũng tưng đấy câu hỏi, và vẫn những câu trả lời như thế. Sau 3 tuần thì thấy ông vẫn trả lời như thế, lại không có thông tin gì quan trọng, nên chúng kết thúc thẩm vấn, nó chụp ảnh lập hồ sơ và chuyển về phòng giam giữ.
...
Ông chuyển ra trại tù binh Phú Quốc tính ra khoảng tháng 10/1968.
“Khoảng sau tết âm lịch năm 1973, ông và đồng đội biết tin hiệp định Paris đã ký, và sẽ có trao trả tù binh.
Cuối tháng 2/1973, chúng nó đưa ông và đồng đội ra sân bay và chở về Đà Nẵng, phát cho mỗi tù binh một bộ quần áo, khăn mặt, kem đánh răng … Từ Đà Nẵng, nó đưa anh em mình bằng xe ôtô ra Quảng Trị, và tiến hành trao trả tại bờ sông Thạch Hãn. Ở bờ nam, anh em ông và đồng đội ngồi xếp hàng để sẵn sàng đợi trao trả, có tướng Trần Văn Trà ở đó, động viên và dặn dò anh em. Trước lúc về với bên mình, anh em ông và đồng đội cởi hết quần áo của chúng nó, mặc mỗi quần đùi rồi người khỏe dìu người yếu để lên thuyền về với anh em mình đang đợi đón bên bờ Bắc. Lúc đó nhìn thấy bên bờ bắc, cờ mình cắm đầy triền sông, rồi anh em bộ đội, rồi nhân dân chờ đón, ông và đồng đội mừng phát khóc. Khóc vì mình được trở về với anh em đồng chí, cũng khóc vì thương những anh em đã nằm lại ngoài đảo không có mặt ngày về hôm nay. Như vậy, sau gần 5 năm bị giam giữ tù đầy, ông đã đươc trở về với bên mình…”
Sau gần 5 năm bị giam giữ tù đầy, ông đã đươc trở về với bên mình…
4/ Khúc vĩ thanh:
Năm 2015, rất nhiều năm sau chiến tranh, người lính già Phạm Kim Quản muốn được trở về thăm trại tù binh Phú Quốc năm xưa.
Ngặt nỗi tuổi cao, túi lại hao gầy.
Vậy nên, tôi, một người lính Hải quân năm xưa, đã xin ủng hộ người lính già chút đỉnh, theo sự quyên góp của bạn tôi - Trần Văn Võ, để giúp người lính Phạm Kim Quản trở về thăm lại các địa danh xưa .