[Tìm Hiểu ] Mig-29K - Đôi cánh hải quân Nga và Ấn Độ
Phần 1
1.Giới thiệu chung :
Trong cuộc đối đầu của 2 nhà phát triển máy bay hàng đầu Nga là Sukhoi và MiG ( Mikoyan ) nhằm chọn ra máy bay chiến đấu hải quân được thiết kế cho tàu sân bay ( air carrier ) Kuznetsov và các tàu sân bay tương lai , xuất hiện 2 loại máy bay chiến đấu chính là Mig-29K và Su-33
Máy bay tiêm kích một chỗ ngồi Mig-29K được phát triển là máy bay tiêm kích thế hệ 4++ , có khả năng phòng không cho các đơn vị hải quân , tiêu diệt các mục tiêu mặt đất , mặt nước bằng vũ khí chính xác cao trong mọi điều kiện thời tiết ( all-weather )
Tham gia chương trình Mig-29K/KUB là các hãng công nghiệp hàng không hàng đầu của Nga: ОАО Klimov (phát triển và sản xuất lô động cơ thử nghiệm RD 33МК), ОАО MMP V.V Chernyshev (sản xuất lô động cơ sản xuất loạt RD 33МК), ОАО Korporatsia Fazotron-NIIR (phát triển và sản xuất radar Zhuk-ME), Trung tâm khoa học sản xuất liên bang RPKB (tích hợp hệ thống avionics, phát triển các bộ phận của hệ thống avionics).
2. Lịch sử phát triển :
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 877x436.
Loại MiG-29K đầu tiên (ký hiệu nhà máy là izdelie 9-31) được OKB A.I. Mikoyan (nay là Trung tâm kỹ thuật OKB A.I. Mikoyan) bắt đầu phát triển máy bay tiêm kích-bom hạng nhẹ trên cơ sở MiG-29M năm 1984 để trang bị cho tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Projekt 1143.5 Tbilisi (nay là tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Đô đốc Kuztnetsov) và sử dụng song song với loại tiêm kích hạng nặng, đắt tiền hơn là Su-27К (Su-33). Đây sẽ là máy bay tiêm kích đầu tiên của Nga có khả năng cất/hạ cánh trên tàu sân bay theo cách thông thường, tức là có chạy đà cất/hạ cánh. Trước đó, Hải quân Liên Xô/Nga không có loại máy bay tương tự lẫn các tàu sân bay có thể chở chúng.
Mẫu chế thử MiG-29K thực hiện chuyến bay đầu ngày 23.7.1988, bắt đầu được thử nghiệm quốc gia năm 1991, song không hoàn thành và được nhận vào trang bị vào năm 1993. 2 mẫu chế thử MiG-29К (izdelie 9-31) đã thực hiện tổng cộng hơn 420 chuyến bay, trong đó có gần 100 chuyến bay trên tàu.
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 882x393.
Mẫu thử nghiệm Mig-29K 1988 ( Phù hiệu : 311 Đen )
Mẫu thử nghiệm Mig-29K ( Phù hiệu : 312 Xanh ) được giới thiệu công khai ở MASK 1992
Phiên bản Mig-29K ver1 ( 1988 ) được xây dựng trên khung sườn mẫu Mig-29M với 1 số điều chỉnh lớn :
1. Sải cánh ( wingspan ) được thiết kế tăng lên 12m , diện tích cánh cũng tăng lên 42m3 nhằm đảm bảo khả năng tăng tốc trong quãng đường ngắn
Cánh có khả năng xếp gọn ( lúc xếp đạt 7m ) và khung sườn thu nhỏ lại ( từ 17.25m -15.1m ) đủ khả năng xếp gọn trong hangar
Khác biệt so với Su-33 là chỉ có cánh xếp gọn ( wing fold ) tương tự F-18 trong khi đó Su-33 phải xếp cả cánh lẫn cánh đuôi ( wing and tail fold )
So sánh trong các Navy Fighter : Su-33 , F-18 , Mirage , Hawk và Super Éterdand thì Mig-29 có khả năng xếp cánh gọn nhất (7m)
2. Hệ thống hãm phanh ( langding gear ) được gia cố có thể chịu dc áp lực sàn đạt 285psi , ngoài ra bánh đà máy bay có thể quay ngang 90 độ nhằm giúp pilot có thể quan sát dễ dàng dưới sự chỉ huy của không lưu viên ( LSO – landing signal officer )
Điểm đáng chú ý là máy bay thiết kế thêm thùng nhiên liệu khí động học trên phần lường cánh ( LEXRes – phần tiếp giáp thân và đầu máy bay ) , internal fuel ( nhiên liệu bên trong ) đạt 5.720 lít ~ 4.460kg
Phiên bản Mig-29SMT có thể thừa hưởng tính năng này
Máy bay có thể mang 3 drop-tank ( thùng nhiên liệu rời ) đạt 6.500kg ( 14.000lbs ) , thậm chí Mig-29K còn được trang bị 1 thiết bị tiếp nhiên liệu rời ( UPAZ-1A pod ) có khả năng giúp 2 Mig-29K tiếp nhiên liệu lẫn nhau
Bán kính chiến đấu (combat radius ) của Mig-29K nếu sử dụng nhiên liệu thân ( internal fuel ) đạt 850km , 1 drop-tank đạt 1050km và 3 drop-tank đạt 1300km
Khả năng tuần tiễu kiêm hộ tống ( CAP – combat air patrol ) của Mig-29K trong phạm vi 250km tính tâm từ tàu sân bay có thể đạt 3 tiếng trên không
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 876x541.
Vòi tiếp liệu của Mig-29
3. Hệ thống điện tử và cảm biến :
Nhằm có thể đáp chính xác trên tàu sân bay , Mig-29K được thiết kế 1 hệ thống định vị tọa độ ( navigation system ) SN-K Oozel (Knot ) tích hợp với hệ thống đáp của tàu Lunar-3 và cáp hãm S-2
Radar : Mig-29K vẫn sử dụng lại radar RTPK-29 ( NATO : Slot Back ) pulse Doppler có khả năng lock down/shoot down , khả năng quét 1 mục tiêu cỡ máy bay chiến đấu ( tracking ) đạt 87km và khóa mục tiêu ( lock-down ) ở 37km , bám được 10 mục tiêu trên băng tần L ( 54nm ) , có khả năng chống jamming và quét mặt đất ( ground-mapping )
Ngoài ra Mig-29K còn được trang bị thiết bị cảm biến quang học và hồng ngoại ( IRST ) :OLS-29 có khả năng bám tín hiệu nhiệt của máy bay địch , hệ thống RWR Sirena-3 và IFF radio SRZO-2
4. Động cơ :
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 875x416.
Mig-29K được trang bị 2 động cơ RD-33K turbofan có khả năng đẩy 19.400lbs x2 , tỉ lệ thrust to weight đạt 1.1 điều khiển bằng thủy lực
Khả năng chịu tải lý thuyết đạt 9 G-Load ( hệ số chịu tải ) , góc ngẩng 26 độ AoA , nếu chiến đấu đạt 6 G-Load , góc ngẩng 20 độ AoA
5. Vũ khí và khả năng chiến đấu:
Mig-29K có khả năng bắn 26 loại vũ khí khác nhau của Liên Xô thiết kế từ tên lửa đối không như R-23 , R-27 , R-60 đến R-73 cho đến tên lửa đối hạm Kh-31 và đối đất Kh-22 chia đều trên 7 mấu cánh ( hard-point )
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1024x681.
So sánh với 12 mấu cứng của Su-33 ( Flanker-D )
( còn tiếp )
Tham khảo :
Mig-29 Fulcrum - Yefim Gordon
Mig-29 Fulcrum vol 41 - WarbirdTech -Yefim Gord and Peter Davison
Air International Magazine July
Phần 2
Sự hồi sinh của Mig-29K
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1024x682.
Giới thiệu chung :
Chương trình Mig-29K/KUB phiên bản mới được khởi động lại từ 2004 với hợp đồng bán 16 chiếc Mig-29K cho Ấn Độ , tiếp tục bán 29 chiếc Mig-29K/KUB vào năm 2010 để trang bị cho tàu sân bay INS Vikramaditya được trang bị thành phi đội Mig-29K “ Black Panther – báo đen “
Cùng lúc đó Nga quyết định thay thế phi đội Su-33 già cỗi bằng chương trình sắm mới 20 chiếc Mig-29K và 4 chiếc Mig-29KUB nhằm tái lập trung đoàn phi cơ hải quân 279 ( 279th Carrier-borne Fighter Regiment (KIAP) . Đơn vị này sẽ tác chiến bằng Mig-29 trên tàu sân bay Kuznetsov , 4 chiếc đầu tiên sẽ được giao đầu năm 2013 và thử nghiệm tại Trung tâm thử nghiệm bay 929 ở Akhtubinsk và hoàn tất hợp đồng vào 2015 . RAC MiG khẳng định Mig-29K thế hệ mới sẽ vượt trội Su-33
Quote:
Có sự nhầm lẫn tai hại hoặc bãi rác wiki vẫn chưa cập nhật kịp thời khiến 1 số con giời húp cám , cái ảnh Mig-29K sơn xanh của wiki là bản đầu tiên của Mig-29K ver2 , Mig-29KUB 941 được thử nghiệm cấp độ nhà máy của RAC MiG , do phi công Mikhail Diorditsa ( phong tặng danh hiệu Anh Hùng Nga - Hero Russia ) và 1 bản nữa là Mig-29KUB 947 do phi công Oleg Mutovin cũng là anh hùng Nga ( bản này đã bị rớt ở Akhtubinsk vào tháng 6/2011 )
Các thông số trên wiki đều là bản pre-product đầu khác biệt hoàn toàn với các bản Mig-29Kver2 thế hệ sau và nhất là các bản Mig-29K đang thử nghiệm trên tàu INS Vikramaditya , nên ai thắc mắc sao thông số kỹ thuật khác thế thì đọc dòng này nhá
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1024x680.
Những nâng cấp mới :
Về phần khí động học :
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 706x520.
Mig-29K phiên bản mới tiếp tục làm gọn hơn nữa : wingspan chỉ còn 11m , diện tích cánh còn 38m2 để phù hợp với các tàu sân bay STOBAR cỡ trung bình
Điểm đáng chú ý ở phiên bản Mig-29K ver2 là sự xuất hiện tấm Krueger (Krueger flap ) ở cánh đuôi , điều này giúp máy bay cải thiện ổn định ở tốc độ thấp và giúp giảm dao động khi trượt xuống đường băng tàu sân bay
Tail-hook ( thanh móc ) được thiết kế mới để gắn vào hệ thống thủy lực nằm ở phần đuôi máy bay (beaver tail ) . Phiên bản Mig-29K bắt đầu chú trọng việc chống ăn mòn và các cấu kiện kim loại bằng cách sơn 1 loại sơn đặc biệt để chống ăn mòn trong môi trường biển , ngoài ra air-frame được thiết kế khoảng 15% chi tiết từ composit
Mig-29K tăng lên đáng kể việc mang nhiên liệu với 11.463lbs ( 5200kg ) so với phiên bản cũ chỉ 4600kg nhiên liệu . Tăng thêm 950l nhiên liêu nhờ gắn thêm một thùng nhiên liêu khí động học trên sống lưng ngay sau cookpit giúp tầm bay với chỉ nhiên liệu bên trong tăng từ 850km lên 1700km
Drop-tank 2150l nhiên liệu thế hệ mới cũng được giới thiệu bên canh drop-tank thế hệ cũ 1.150l , máy bay có thể mang dc 4 drop-tank 1.150l với tầm bay đạt 3000km
Động cơ :
Mig-29K trang bị 2 động cơ thế hệ mới Klimov RD-33MK Sea Wasp với lực đẩy tổng lực ( max after-burner ) đạt 88.3kN (20,160lb) và 52.97kN (11,900lb) ở chế độ thông thường
RD-33MK SeaWasp là phiên bản cải tiến của dòng động cơ RD-33 series 3 , đây là phiên bản động cơ cực kì tiên tiến với hệ thống điều khiển kỹ thuật số FADEC (fully-automatic digital engine control ) và thiết kế lại hoàn toàn cánh quạt , máy nén áp suất cao , buồng đốt , turbin áp suất thấp ... để tăng lực đẩy và giảm khói ( no-smoke ) . Tuổi đời động cơ và thời gian khoảng cách 2 lần đại tu - time between overhauls (TBO) đến 4000h tương đương với dòng động cơ Saturn thế hệ mới như AL-41F
Hộp số KSA-33M được thiết kế lại với 2 module hoạt động độc lập ( 1 module gắn gần mạn phải động cơ và 1 cái bên dưới thân ) giúp nguồn điện APU của máy bay và hệ thống máy nén động cơ hoạt động tách rồi hoàn toàn . Turbine VK-100 được thiết kế để ống xả được nâng cao so với mặt sàn giúp sàn tránh nhiệt độ cao và cùng lúc xuất kích nhiều Mig-29K vẫn ko ảnh hưởng đến độ an toàn mặt sàn đường băng
Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 733x539.
Sergei Korotkov , CEO của MiG trên vị trí WSO Mig-29KUB chuẩn bị xuất kích
Các cửa hút ( air-inlet ) của động cơ được trang bị lưới cảnh nhằm tránh ngoại vật tác động
MiG-29K/KUB còn được trang bị hệ thống điều khiển dây FBW ( fly by wire ) 4 kênh KSU-9.41 , hệ thống kiểm soát bay tự động và hệ thống đáp sàn thế hệ mới
Nói thêm về hệ thống đáp sàn mới của Mig-29K/KUB là Resistor-E , kỹ năng của pilot chỉ quyết định khoảng 50-60% khả năng rà trúng cáp còn lại cần phải hỗ trợ cao của thiết bị điện tử , với Resistor-E tăng cường thêm hệ thống đáp có sẵn trên boong là Luna-3 thì trong 2 năm có đến 218 vụ hạ cánh thành công ở tàu sân bay INS Vikramaditya . Điều này khó có thể đạt được với J-15 và Shilang
Hệ thống điện tử :
Bên trong canopy của Mig-29K
(còn tiếp )