[Funland] Dịch sách: Viễn Chinh Nam Kỳ-1861

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trường học tiếng An Nam còn mang lại một điều tốt nữa. Hiểu biết một ngôn ngữ là phương tiện hay nhất để thấu hiểu phong tục của một dân tộc : muốn hiểu một chữ hay những cách nói lắt léo của một ngôn ngữ thì phải hiểu chữ này hay cách nói như thế được đem dùng vào những trường hợp nào. Vài chữ và vài cách diễn đạt đơn sơ nhất đã hé mở cho ta thấy phía sau cái vẻ đau buồn rộng lớn của người An Nam là cả một thế giới ý tưởng vô cùng phong phú : nếu hiểu rằng người An Nam cũng là con người thì sự hung bạo của ta sẽ bớt đi. Nhưng khi ta trừng phạt nặng nề những kẻ nào làm hại ta thì cũng là một việc dễ hiểu thôi. Khi ta biết được một chữ, ta thường hay lặp đi lặp lại ; ta sẽ kính nể một dân tộc hơn khi ta có thể nói được ngôn ngữ của họ, nhất là một ngôn ngữ khó cực kỳ như vậy. Sau hết ta cũng tự lấy làm lạ có những người Pháp chịu rời bỏ xứ sở của mình để cùng sống với một dân tộc xa xôi ; đương nhiên họ chấp nhận sẽ chết ở đây, cuộc sống lưu vong là mục đích của đời họ ; điều lạ lùng này đã làm xúc động và sưởi ấm một vài con tim với một chút lòng từ thiện Thiên chúa.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Mục đích của trường học thứ hai là dạy tiếng Pháp cho trẻ em An Nam. Việc dạy tiếng Pháp mới có lần đầu trong xứ An Nam : vì từ trước người An Nam học ngoại ngữ chỉ gồm có tiếng La-tinh và tiếng Anh. Giáo điều Thiên chúa ở các tỉnh đều giảng bằng tiếng La-tinh. Theo thông lệ hoàng đế Tự Ðức mỗi năm gởi 15 học sinh trẻ sang Singapor học tiếng Anh.

Tiếng An Nam và tiếng Pháp cùng được truyền bá là giai đoạn tối cần trong việc chinh phạt của ta, kết quả lại tạo ra một thứ ngôn ngữ chung giống như ngôn ngữ sabir (một loại ngôn ngữ đơn giản, pha trộn nhiều ngôn ngữ khác nhau, dùng vào việc buôn bán và giao dịch thông thường) mà người Ý đã mang đến cho nước Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng phải nói rằng người Hoa Kiều tích cực hơn người An Nam vì họ là những người đầu tiên được ta huấn luyện. Mỗi tối, người buôn bán ở Sài Gòn và Chợ Lớn sau khi ghi chép sổ sách xong thì họ thay phiên nhau lặp đi lặp lại bài học mà họ gọi là học tiếng Pháp. Một vài thành ngữ quy ước và vài tiếng Mã Lai cũng thường nghe nhắc đi nhắc lại trong các mẩu đối thoại dùng như những điểm chuẩn cho dể hiểu nhau. Việc chiếm đóng Quảng Châu từ trước và sự sinh sống lẫn lộn giữa một 1.500 cu li người Tàu và quân đội Pháp cho thấy một vài dấu hiệu chứng tỏ bắt đầu có sự hiểu ý lẫn nhau. Cũng như tất cả các dân tộc chọn chủ nghĩa hình thức, lễ độ là cả một khoa học xã hội ; những thương gia từ khắp miền biển TQ đổ về đây chăm chú nghiên cứu học hỏi cách ăn nói, cười hỏi, xã giao của các người lính thủy và lính bộ binh ; quân lính của ta là những người duy nhất mà họ có thể gần gũi để tìm hiểu tập quán người Âu. Các dân tộc Á Châu đều có tinh thần nhất quán trong cách suy luận : không có một thương gia nhỏ nào ở Sài Gòn này mà lại không tin rằng mình đã đánh giá đúng nước Pháp sau khi mới tiếp xúc với một người dân Pháp duy nhất ; nói một cách khác thì họ tin rằng một người cai đội và một vị đại tướng cũng đều có cùng một cách cư xử như nhau.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Vì thế đã phát sinh một ngôn ngữ chung, mặc dù ảnh hưởng của Anh ngữ cho đến nay vẫn hết sức là mạnh ; ngôn ngữ chung đã phát sinh từ khi có 20.000 quân Pháp sang đánh bên TQ và sau đó kéo xuống đánh chiếm Nam Kỳ.

Một vài sĩ quan trong số người được cử nắm giữ các chức vụ hành chính chịu khó học tiếng An Nam và nghiên cứu phong tục của người An Nam. Nhưng sau sự tàn khốc của chiến tranh, việc học hỏi dù có đi chăng nữa cũng mang rất nhiều thiển cận. Tinh thần suy nghĩ bình đẳng thật là hiếm hoi ; trong một vài trường hợp đặc biệt lắm mới có một người Châu Âu chịu hạ cố mà nhìn xuống xem những gì đã xảy ra cho một dân tộc nổi danh man rợ, để đủ sức hy sinh mà trút bỏ định kiến có sẵn của mình đối với họ. Vào thế kỷ 17 và 18, vài người hiểu biết rộng rãi và nhiều nghị lực như Pallu du Ruault, giám mục Héliopolis, Pigneau de Behaine, giám mục Adran, đại tá công binh Victor Olivier (kể tên những người Pháp đã giúp Nguyễn Ánh cầu viện, giúp sức đánh Tây Sơn) không tin rằng họ đã hy sinh đời mình một cách vô ích để khai hóa cho người An Nam. Thật quả họ là những người Pháp vĩ đại mà vết tích công trình vẫn còn đó, từ biển Trung Hoa cho đến ranh giới tận cùng của đế quốc An Nam ! Họ biết cách làm lắng xuống cái ngạo mạn của một dân tộc năng động nhất và hiếu chiến nhất ở Á Châu (không hiểu tác giả căn cứ vào cái gì mà nhận xét như vậy ?)

Người An Nam đều nghe họ. Nhưng tất cả những gì mà họ quan sát thấy đã theo họ mà biến mất khi họ vĩnh viễn ra đi Có lúc người Hà Lan và người Anh cũng làm như họ nhưng đều thất bại: ví dụ như Crawfurth (là một bác sĩ người Scotland, nhà quản lý thuộc địa, nhà ngoại giao và đồng thời là tác gia, năm 1822, ông đến VN với sứ mệnh là xin thông thương buôn bán với Anh, ông đã đi khắp các đảo của Vn, gặp Lê VĂn Duyệt ở Gia Định, đi thăm Hội An, Huế, Đà Nẵng, có viết nhiều về nước ta, phái đoàn Anh tặng quà là 500 khẩu súng trường Anh đời mới và nhiều quà có giá trị lên triều đình Huế, kèm thư xin thông thương, nhưng tất nhiên Minh Mạng đã ra lệnh không tiếp, không nhận quà và không buôn bán gì hết) và Mackensie ( nhà ngoại giao, thương nhân Hoa Kỳ, đến Vn để xin thông thương với Mỹ, tất nhiên Minh Mạng từ chối không tiếp, đuổi phái đoàn đi) chẳng hạn. Cho đến mãi gần đây, cũng chưa có ai biết rõ ràng về đặc tính nhân chủng của người An Nam. Khi đi sâu và sống chung trong làng mạc của họ, giữa ruộng đồng và rừng núi của họ, ta mới nhận ra những nét đặc biệt của tính tình người An Nam ; trước đây ta chỉ biết cơ cấu quản lý thôn xã, tổ chức hành chính và tính nết đặc biệt chung của các dân tộc Á Châu nơi họ mà thôi ; trong đó gồm có sự kính trọng tập thể làng mạc và uy thế Vương quyền. Một vài nét mà ta nhận thấy trên diện mạo và tính tình người An Nam còn xa mới tượng trưng được bản chất toàn diện của họ ; nhưng phải nói hẳn ra đó là duy nhất những gì mà ta có thể hy vọng đã quan sát được đúng. Hình như cũng có một sự trùng hợp nào đó trong những thiếu sót của chân dung người An Nam mà ta không biết được; càng tìm cách xác định cho thật đúng, ta càng nhận ra một cách rõ ràng những điều ta chưa biết nơi họ. Nghiên cứu về đặc tính, diện mạo và tinh thần người An Nam không phải là một chuyện vô bổ không hợp thời trong hoàn cảnh chiến tranh ở Nam Kỳ như hiện nay: tìm hiểu tường tận về khả năng và phong tục của dân tộc An Nam cho ta thấy một cách hùng hồn những về thiếu sót mà người Pháp đã vấp phải ( tác giả là một sỹ quan phụ tá cho Đô đốc Charner, nên tất cả những nhận xét tình hình, kế hoạch tác chiến, chương trình cai trị, việc học-dạy tiếng Việt-Pháp, thay đổi chữ viết từ chữ Hán sang Quốc Ngữ chắc chắn đều là những ý kiến cố vấn cho cấp trên, điều này cho thấy tác giả khá thông minh và có kiến thức, sau này, tất nhiên ông đã làm đến Thống Đốc).
 

v-kong

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-207777
Ngày cấp bằng
27/8/13
Số km
5,525
Động cơ
367,784 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Em oánh dấu lúc rảnh đọc.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Không biết chữ viết tắt TQ là ai.
Nếu là trung quốc thì sách này in ra sẽ bị kiểm duyệt và bỏ mất ý hay này.
Screenshot_20200516-082723~2.png
Đúng là Trung Quốc đấy cụ, em viết tắt, sách em tự dịch chỉ phục vụ các cụ OF đọc chơi, chứ đâu có tài năng mà đem in ?
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
CHƯƠNG IX

Đặc tính, hình thể của người An Nam- Đặc điểm tinh thần- Sự chuyên chế, gia trưởng của người đàn ông

Người An Nam là một sắc dân thuộc giống người mà các nhà nhân chủng học xếp vào giống Mông Cổ. Họ có vẻ nhỏ con. Hai chân cứng cáp, hông nhỏ, thân dài và gầy, vai khá rộng, ngực nở nang, các bắp thịt cổ cũng vậy, đầu có kích thước tương xứng với cả thân hình, hai bàn tay nhỏ nhưng ngón dài có nhiều mấu. Nước da tùy thuộc theo trình độ giáo dục, địa vị xã hội và công việc làm; màu da thay đổi từ màu sáp ong đến màu gỗ gụ. Trán tròn, hai bên thái dương lõm vào và xương gò má nhô cao; cặp mắt đen, chỉ hơi xếch một chút, toát ra một vẻ dịu dàng, buồn thảm và rụt rè. Mũi thì quá rộng về phía trên: đó là nét đặc biệt chung của gương mặt Á Châu. Người đàn ông An Nam khoảng 30 tuổi mới có râu (đàn ông Châu Âu có râu rất sớm, chỉ từ 20 tuổi); ngay khi có râu cũng chỉ lưa thưa ở môi và cằm. Ðàn ông để tóc dài, giống như tóc của người Trung Quốc trước thời kỳ bị người Mông Cổ xâm chiếm; cách đây 60 năm một số dân miền núi Phúc Kiến vẫn còn để tóc dài chống lại lệnh phải cạo đầu do người Mông Cổ ( đúng ra là người Mãn Châu, tức nhà Thanh, sau khi đánh bại nhà Minh năm 1644, đã bắt dân người Hán phải cạo đầu, róc tóc kiểu Mãn Châu) thống trị ban ra. Người đàn ông An Nam coi trọng việc để tóc, họ búi tóc để hở hai vành tai. Người giàu đội khăn nhiễu Tàu che búi tóc, khăn nhiễu xếp thật khéo và rất nghệ thuật; người nghèo ra đường không đội khăn; đôi khi ta thấy họ xổ tóc, vừa lắc đầu vừa giũ tóc, cổ ngữa thẳng ra giống hệt cử chỉ của người phụ nữ. Người đàn ông An Nam có dáng đi thật lạ và khoan thai: nhất là đầu có một dáng dấp đặc biệt, chắc là do búi tóc gây ra. Ta có thể nghĩ rằng vì cách để tóc mà người Trung Quốc, người An Nam so với người Âu đầu và cổ có dáng dấp khác nhau. Nhưng phong tục làm ngạc nhiên người Châu Âu hơn cả tại phần đất Châu Ánày là nhuộm răng đen, thật không đẹp chút nào cả: trông xa giống như rụng hết răng. Người An Nam, giống như tất cả các dân tộc Mã Lai lúc nào cũng nhai trong miệng nhiều thứ hợp lại gồm lá trầu, cau, thảo quả, vôi, có khi thêm cả thuốc lá nữa. Hương liệu này có mùi vị rất dễ chịu nhưng rất cay và chát. Nếu ta cho rằng người An Nam răng đen là vì ăn trầu là sai: răng của họ nhuộm đen bằng một loại thuốc nhuộm làm bằng các vị thuốc Tàu. Nhiều người đàn bà Châu Âu ở Ma Cao cũng lén ăn trầu nhưng răng họ vẫn trắng.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Y phục của một dân tộc thường bị chi phối bởi bản chất cơ thể của họ. Y phục của người đàn ông An Nam là áo dài cài nút ở bên hông, quần cắt theo lối Trung Hoa đoan trang hơn quần của ta, chân mang dép da đỏ. Ấy là y phục của người An Nam có vị thế, giàu có hoặc là thương gia; còn hầu hết người dân thường, nông dân và những người sinh sống trên ghe thuyền, thì chỉ dùng một miếng vải rộng buộc bằng dây lưng gọi là can-chian (cái chăn, nguyên văn tác giả vẫn viết như vậy). Trẻ con thì hoàn toàn cởi truồng.

Tuy nhiên cũng có vài đứa mặc một miếng vải hình trái tim che bộ phận sinh dục. Trẻ con cạo trọc chỉ chừa vài chỏm tóc ở vài chỗ trên đầu. Y phục của phụ nữ cũng không khác của đàn ông bao nhiêu: cũng áo dài lụa và quần. Mặc quần bốn màu rực rỡ là cách ăn mặc thật thanh lịch của phụ nữ, vải màu ráp theo chiều dọc. Dáng đi của người phụ nữ có vẻ quả quyết lạ lùng. Ai thấy họ đi trên đường phố Sài Gòn sẽ để ý ngay, trên vai có một con két lông xanh, hai cánh tay đong đưa có lẽ là để đánh nhịp theo bước chân? Áo lụa ôm sát với thân người phô trương tất cả vẻ tự nhiên của thân hình họ. Có nhiều người phụ nữ An Nam rất đẹp: mặt tròn trĩnh, hai mắt như nhung và xếch rộng, da nhợt và mờ, dáng dấp mỏng manh và thanh nhã như trẻ thơ, nói chung cũng không khác biệt gì với quan niệm về sắc đẹp phụ nữ ở Châu Âu.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người đàn bà An Nam đam mê nữ trang còn hơn cả những người đàn bà Âu Châu. Họ đeo nữ trang từ trên tóc, trên cổ, ở cánh tay và cổ chân; tùy theo giàu nghèo nữ trang làm bằng vàng, cẩm thạch, bạc hay thủy tinh. Nữ trang thật tinh xảo không rườm rà, thô kệch và khó coi như ở Ấn Độ và Ả Rập. Người ta để ý thấy có ba loại vòng đeo tay mà người phụ nữ mang tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời mình: khi mới có chồng, sau khi có con đầu lòng, và sau hết là lúc tuổi già. Vòng đeo tay có hình tượng trưng 4 (là 4 con vật: Long, Ly, Quy Phượng) hoặc 8 con vật huyền thoại. Người đàn bà An Nam cũng đeo dây chuyền ở cổ bằng bạc, dài và phẳng, còn đeo vòng ở cổ chân nữa. Nhẫn thì có 3 loại: dẹp, có nhiều mặt nhỏ hoặc là trang trí các kiểu hoa. Hoa trên trang sức có trạm trổ hết sức tinh xảo. Thợ kim hoàn cực kỳ khéo léo : họ tự nấu vàng, cán vàng. Người Âu nào thấy họ làm cũng phải chịu thua (tác giả quan sát rất kỹ và tỉ mỉ, chắc là cũng đi mua nữ trang nên mới có những miêu tả chính xác đến vậy)

Nếu đúng là tính khí của một dân tộc biểu lộ từ nơi ăn chốn ở, thì phải nó rằng người An Nam để ý chăm sóc và dồn hết mọi sáng kiến để trang trí nơi ở của họ sau khi chết. Mồ mả xây hết sức rắc rối, nhưng thường thấy hơn hết là xây theo hình tròn, sơn màu hồng hay tím nhạt thật sáng, tất cả tạo ra một vẻ dịu dàng và đẹp mắt. Nhưng nhà họ ở thì tối tăm, kín đáo và buồn thảm. Nhà xây theo lối ba gian hai trái và chỉ có tầng trệt. Mái nhà nghiêng xuống rất thấp, chỉ cách mặt đất vài sải chân, do đó bên trong tối om ngay cả giữa ban ngày, nhưng cũng vì thế mà trong nhà mát rượi rất dễ chịu, mặc dù bên ngoài trời nóng bức. Nhà người nghèo thì lợp lá dừa lùn xếp chồng lên nhau như nhà lợp rơm của ta ; tường nhà thì làm bằng tre và người An Nam chỉ cần hai đến ba ngày là làm xong một căn nhà, nhờ cha mẹ hay bạn bè giúp tay. Nhà cửa của người giàu thì lợp bằng ngói đỏ, kèo nhà làm bằng gỗ cẩm lai, rất dễ đánh cho bóng láng. Trước ngưỡng cửa nhà của người An Nam hoặc trên mũi ghe của họ cũng vậy, có nhiều chậu cây cảnh đặt gom lại với nhau, gồm có si, một loại cây thân mập và một loại cây nhỏ giống như cây sim hay cây lựu mà cành thì uốn thành chữ Hán.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nếu thật sự muốn tổng hợp chân dung người An Nam từ những điều quan sát của một nhà nhân chủng học thì ta chỉ có thể tạo ra một tấm tranh phác họa thô mà thôi, không tình cảm cũng không có sự sống. Mô tả chi tiết đường nét của một sắc dân không khó gì cả, chỉ cần chú ý một chút là đủ; nhưng muốn tạo ra vẻ mặt của một người suy tư, thương yêu và đau khổ thì dù muốn dù không ta phải thêm vào bức chân dung cái vị trí xa xôi của quê hương họ, cái nóng bức của miền nhiệt đới, cho đến cái khung cảnh xung quanh cuộc sống của họ. Nói vắn tắt là phải gần gũi với họ. Ta phải nhìn xuyên qua cái vẻ bên ngoài bất di bất dịch của Châu Á, xuyên qua cái khuôn đúc duy nhất tạo ra vóc dáng y hệt nhau, ta mới thấy được cá tính bên trong của từng con người. Nhưng ngày nay khó mà nhìn thấy đặc tính tổng hợp của người An Nam. Chính vì những cảnh vui chơi của họ đã bị chiến tranh tàn phá hết. Ta nghe kể lại rằng trước đây gần Sài Gòn có nhiều chợ búa, nhà hát, vòng ngựa quay cho trẻ em. Một trong những quang cảnh biểu diễn tài tình nhất là cảnh chơi cờ tướng, sân cờ là một vùng đất rộng mênh mông, trò chơi giống như hai đoàn kỵ binh đánh nhau. Hai bên đấu với nhau cạnh tường thành Sài Gòn. Hai vị hoàng đế cưỡi ngựa và mặc áo thêu rồng ở ngực, quan và quân lính mặc áo màu sặc sỡ. Cách chơi vạch rõ trên mặt đất như một bàn cờ khổng lồ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhưng bây giờ thì người An Nam chỉ biết ngồi bên những chiếc bàn gỗ thô sơ kê sát ngưỡng cửa trong làng của họ, miệng đỏ lòm vì nhai trầu; họ ngồi trong một tư thế suy tư làm ta liên tưởng đến các giống thú nhai lại; hình như họ đang buồn tiếc so sánh những cảnh đang diễn ra trước mặt họ với những cảnh vui chơi tràn đầy kỷ niệm trước đây mà ta không hề biết. Chính trên mặt sông người An Nam có thể đã tìm lại được bản chất tự nhiên của họ. Những người chèo ghe ngược xuôi trên mặt nước, dừng lại trò chuyện với nhau về việc mua bán mới đây của người Pháp; họ chỉ mặc một tấm vải màu xanh dương hay màu nâu nhạt, thân để trần màu sậm như gạch, tóc thì đen nhánh, tất cả tạo ra một sự kết hợp màu sắc hết sức dung hòa và nhã nhặn; Tuy họ không có vóc dáng của một sắc dân lực lưỡng nhưng ta phải nói rằng người An Nam cởi trần rất giỏi. Mặc dù ăn mặc giản dị như thế, họ đưa thân phơi nắng mà chẳng e dè gì hết, không bao giờ da bị bỏng nắng cháy rộp như người Âu; quả thật đất đai của họ đã sinh ra họ, họ sống vào đúng vị trí của họ trên địa cầu này.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người An Nam rất ôn hòa, dễ bảo mặc dù bên trong vẫn có sức kháng cự; dễ gập mình nhưng cũng đầy khả năng để vươn thẳng lên; suy tư, rụt rè nhưng khá vui vẻ.

Họ ham vui chơi, khi làm được tiền là xài ngay; đây là đặc tính khác hẳn với người Trung Quốc. Họ không thích cũng không có một khả năng gì về thương mại: đất cát phì nhiêu lạ lùng của xứ An Nam thu hút người ngoại quốc, họ đổ xô đến đây và nắm hết việc thương mại trong xứ. Người Anh và người Hà Lan từ lâu tìm cách buôn bán với Nam Kỳ nhưng không thành công. (tác giả không hiểu là do chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn)

Hàng thương mại chính là gạo: nếu cứ để mặc cho người An Nam thì họ chỉ trồng lúa vừa đủ để sống không dư thêm một hạt. Họ là nông dân và làm nghề chèo chống chuyên chở bằng thuyền bè: hai nghề có vẻ trái ngược nhau, nhưng thật ra rất phù hợp và bổ xung cho nhau, vì mùa màng có định kỳ rõ rệt, đến đúng mùa mới gieo mạ và cấy lúa. Ðời sống như thế hết sức phù hợp với sở thích và khả năng của người An Nam. Họ thích đi dạo chơi, không chủ đích gì hết, đi dạo thế thôi:

-Anh làm gì vậy?

- Lam ray, tôi trồng lúa. (làm rẫy, để nguyên văn)

- Anh đi đâu vậy?

- Didoy, tôi đi chơi. (đi chơi, để nguyên bản, tác giả có học ít nhiều tiếng Việt, phát âm miền Nam)

Mới nhìn 2 hành động này có vẻ không phù hợp với nhau nhưng thật sự hết sức hợp lý: một năm chỉ có 2 mùa lúa nên họ có nhiều thì giờ vui chơi, lối sống như thế đã trở thành phong tục của họ.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người An Nam trồng một ít mía đủ cho nhu cầu mà thôi. Ðường mía của họ rất ngon, trong chiến dịch 1861 ta tìm thấy nhà nào ở tỉnh Gia-Định cũng có. Trong xứ cũng có vài nơi trồng cây chàm làm thuốc nhuộm và trồng bông vải với phẩm chất rất tốt. Nam Kỳ sau này có thể cung cấp bông vải cho thị trường Châu Âu. Nhưng không phải chuyện gì đương nhiên cũng có, muốn gặt hái thì cũng phải có người trồng, phải phối hợp nhiều cố gắng, và phải có hòa bình.

Ðất Nam Kỳ miền dưới phì nhiêu, người dân có nhiều phương tiện để trở nên sở hữu chủ mảnh ruộng của mình, dân làng cho nhau mượn trâu để làm việc, triều đình Huế cho vay tiền và ưu đãi canh nông trên hết; tất cả các điều vừa kể giúp người dân An Nam sinh sống dễ dàng và không nghĩ đến việc vượt biển mà di cư đi nơi khác. Nền giáo dục của họ cũng không khuyến khích họ bỏ xứ, chưa kể họ đã có sẵn bản chất quyến luyến đất đai của họ. Luật pháp quốc gia cấm việc vượt biên, và người An Nam thì rất tôn trọng luật pháp. Người ta không gặp một người An Nam nào trên đất Trung Hoa, Philipines, đảo Java hay Ấn Độ thuộc Anh (năm 1860, thống đốc đảo Reunion đến Nam Kỳ với mục đích tuyển người sang đây, nhưng họ đã thấy những điều tác giả nhận xét này là đúng, không như người Hoa, người dân Vn lúc đó không thích di cư). Chỉ trên đất Xiêm La có một số trại người An Nam bị vua Xiêm bắt về làm nô lệ trong những lần đánh nhau với triều đình Huế (trong cuộc chiến tranh Xiêm La- Việt 1833-1834, có ý muốn giúp đỡ Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt đang khởi binh chống Minh Mạng, tuy nhiên quân Xiêm La thất bại, , quân nổi dậy của Lê Văn Khôi ở thành Phiên An cũng không còn lực lượng hỗ trợ, chỉ có thể cố thủ trong thành cho tới khi thành bị hạ vào tháng 9 năm 1835.

Khi rút chạy, quân Xiêm cướp thuyền biển và mang theo 2.000 người Việt, phần lớn theo đạo Thiên Chúa (ít nhiều có liên hệ với cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi) đưa về sống ở ngoại thành Băng Cốc. Về sau Xiêm sử dụng số người này để phá rối vùng biên giới Việt Nam-Campuchia. Trước khi rời bỏ Phnôm Pênh, quân Xiêm đốt cháy và phá huỷ dinh thự của vua Ang Chan, đồng thời tranh thủ thời cơ, lợi dụng tình thế khi rút lui để bắt dân Khmer sống dọc bờ sông Tonle Sap và một vài nơi khác đưa về Xiêm.

Cuộc tấn công bất ngờ của Xiêm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến bang giao hai nước. Hai nước cắt đứt quan hệ, bắt đầu một thời kỳ căng thẳng, xung đột và chiến tranh trên đất Campuchia kéo dài hơn 10 năm (từ cuối năm 1833 cho đến đầu năm 1847). Thắng lợi của cuộc chiến này đem lại cơ hội cho nhà Nguyễn được quyền bảo hộ phần lớn đất đai của Campuchia như trước. Sau chiến thắng này, Minh Mạng quyết định nhập toàn bộ vùng đất Campuchia vào lãnh thổ Đại Nam và đổi tên là Trấn Tây thành, khi vua Campuchia là Ang Chan II mất, mà không có con trai nối dõi.

Năm Minh Mạng thứ 16 -1836, Trương Minh Giảng đã dâng biểu xin được Minh Mạng chia Campuchia thành 33 phủ là: Nam Vang ( Phnom Penh), Kỳ Tô (Thời Thâu), Tầm Đôn (Tầm Giun), Tuy Lạp (Xui Rạp), Peam Ro (Ba Cầu Nam), Baray (Ba Lầy), Bình Tiêm (Bông Xiêm), Kha Bát (Lợi Ỷ Bát), Lư Viên, Hải Đông (Bông Xui), Hải Tây (Phủ Lật), Kim Trường, Thâu Trung (phủ Trung), Ca Âu (Ca Khu), Vọng Vân, Trung Hà, Trưng Lai (Trưng Lệ), Sơn Phủ, Sambur, Tầm Vu (Mạt Tầm Vu), Khai Biên, Kha Lâm (Ca Rừng), Kracheh, Lạp Cẩm, Bài Lô, Việt Long, Tôn Quảng, Biên Hóa, Di Chấn Tài, Ý Dĩ (Phủ Phủ), Chân Thành (Châu Chiêm) (sau thuộc huyện Hà Dương An Giang), Mật Luật (sau thuộc huyện Tây Xuyên An Giang), Ô Môn (sau thuộc huyện Phong Phú An Giang), và 2 man là Cân Chế và Cân Dò, rồi cử quan cai trị. Phế bỏ tước hiệu quan chức bản địa Khmer, áp dụng quan chế nhà Nguyễn: cử Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) làm Tham tán đại thần, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lãnh binh, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ huấn đạo.

Minh Mạng cai trị tàn bạo, giết người Khmer không gớm tay, quan lại nhà Nguyễn sang cai trị đáng tiếc phần nhiều độc ác, tham nhũng, quân Nguyễn dùng người Khmer làm bia tập bắn, làm cho dân Khmer kinh hãi, không phục, nhưng Trương Minh Giảng vẫn tâu về triều là họ tín phục.

Năm 1839, Ang Em và Ang Duong đem 9.000 dân Khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang (vùng Xiêm chiếm đóng) về Trấn Tây (vùng Đại Nam cai quản), định xin triều đình nhà Nguyễn cho kế vị Ang Chan làm vua nhưng bị Trương Minh Giảng bắt. Triều đình cho giải Ang Em về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam.

Đến năm 1841, những người trong Hoàng Gia Khmer là Chakrey, Yumreach Hu và La Kiên đến Huế mừng thọ Minh Mạng thì lại bị hạch tội, bắt giam và đày ra Bắc Kỳ, những người đi theo bị Minh Mạng tùng xẻo hết, dân Khmer kinh hãi. Còn ở Trấn Tây thì Tham tán Dương Văn Phong khép cho Ang Baen, chị của Ngọc Vân quận chúa, tội mưu phản với ý định trốn sang Xiêm, phải xử tử. Sau đó Trương Minh Giảng bắt Ngọc Vân và hai em gái là Ngọc Thu và Ngọc Nguyên về Gia Định giam lỏng ở đó. Các quan lại người Việt sang Trấn Tây Thành thì không ít kẻ lại làm nhiều chuyện trái phép lạm quyền, lạm thế và nhũng nhiễu dân tình.

Với thái độ tự đắc và miệt thị triều thần Khmer gây nhiều bất mãn trong dân chúng, việc cai trị Trấn Tây càng ngày càng khó. Người Khmer có cớ nổi loạn đánh phá khắp nơi, chống lại chính sách Việt hóa của triều đình Huế. Em trai Ang Chan là Ang Duong nhân đó dấy binh, lại được người Xiêm hậu thuẫn để can thiệp nội bộ Campuchia, nên quan quân ở Trấn Tây luôn phải đánh dẹp hao tổn nhiều.

Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở Oudong, Minh Mạng sai tướng Phạm văn Điển và Nguyễn Tiến Lâm mang quân lên đối phó nhưng thua thảm.Việc chiếm đóng Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Campuchia của triều đình Huế là một gánh nặng cho đất nước, từ binh sĩ đến lương nhu đều hao thiệt nên đến Tháng 9 năm 1841, thấy tình hình bất ổn mãi, Tạ Quang Cự và các đại thần dâng sớ xin bỏ bảo hộ Campuchia. Thiệu Trị thuận theo, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang.

Lợi dụng tình huống bỏ ngỏ Campuchia vua Xiêm đưa Ang Duong lên làm vua Khmer. Chiến sự kéo dài khi quân Việt và quân Xiêm tiếp tục giao chiến từ năm 1841 đến 1845. Năm 1845, triều đình Huế và Xiêm thỏa hiệp, trong đó nhà Nguyễn nhường Campuchia cho Xiêm La bảo hộ
).
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chính những lý do kể trên đã giúp người dân Nam Kỳ không làm cu li, đời sống và nhà cửa quá dễ dàng; nếu cần họ chỉ việc dọn đi nơi khác trong xứ để làm ăn mà không cần vượt ra khỏi biên giới. Nhưng hình như mối dây gắn chặt họ với đất đai chỉ có tính cách bề ngoài mà thôi. Khi lúa đã gặt và bó xong, thì người nông dân trở thành người chèo chống trên mặt sông ngòi, di chuyển khắp nơi trên đất Nam Kỳ. Trong một số trường hợp, vì sợ bắt làm nô lệ hoặc vì áp lực chính trị, họ có thể kéo nhau bỏ hết nguyên một tỉnh để ra đi. Họ để lại phía sau cả một sa mạc hoang tàn cho kẻ địch. Cũng chính vì thế mà sau một trong các lần xâm lược của Campuchia trước đây vào Nam Kỳ dân chúng tỉnh Gia Định đồng loạt bỏ đi hết.

Cách giải quyết như thế, hình như rất phù hợp với tính tình của người An Nam, và không giống với bất cứ một dân tộc nào khác ở Châu Á. Họ chịu gồng mình để nhịn nhục, dù có lấy tay để xiết họ thì họ cũng tìm cách lọt ra và biến mất, đó là thái độ và hành động mà họ đã chọn. Khi ta ngược đãi họ, họ sẽ bỏ đi ngay nếu có thể được; họ không thích bất cứ gì có vẻ nóng nẩy và giận dữ. Vì sự mù tịt của người Châu Âu về ngôn ngữ của họ, nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lược, và vì nhu cầu tránh bỏ mọi phiền phức đối với người da vàng bại trận, mọi quyền hành ta đều giao cho những thuộc hạ ở cấp thấp nhất, họ thực thi bằng những cử chỉ sỗ sàng, giận dữ và hung bạo. Thái độ của người An Nam trong hoàn cảnh đó là nhịn nhục và không phán đoán, phục tùng trước một sức mạnh mà họ coi là điên rồ và mù quáng; tất cả cho ta thấy một thứ gì âm ỉ, ghê sợ không kìm hãm được và đó cũng đủ cho thấy sự khác biệt giữa hai sắc dân.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cũng phải nói cho rõ là cái đám tạp nham dân Châu Á tại Sài Gòn không thể gây cho ta những ý tốt về các dân tộc tại đây, nhất là đối với dân tộc An Nam. Người ta vẫn nói rằng người An Nam bị úa tàn khi giao tiếp với nền văn minh của chúng ta, giống như những vị thuốc mà ta đưa cho họ không thích hợp với cơ thể của họ, hay nói đúng hơn là với tính khí của họ. Có ai tin rằng trong số đám người kia đang cúi đầu bị dẫn đi làm lao động có những kẻ đã đủ sức đương đầu một tiếng rưỡi đồng hồ với quân đội Pháp trang bị vũ khí tối tân ? Nhưng thật ra ta chỉ nhận thấy những biến cố hằng ngày đập vào mắt mà thôi, ta phải nhìn sát vào quang cảnh của một dân tộc đang bị đưa vào ách nô lệ thì mới hiểu được tại sao họ đã liều lĩnh chiến đâu đến cùng. Người An Nam có nhiều can đảm, có thể nói là họ rất hào hùng trong hoàn cảnh khó khăn của họ ; nhưng đánh giá đúng những điều này thật khó cho ta, những ý nghĩ nảy mầm và phát triển trong đầu một người Châu Á hoàn toàn khác với chúng ta ; vì lẽ không có gì tương đồng để xét đoán vì thế trên phương diện này ta chỉ nên nhìn vào những điều quan sát hơn là đưa ra những kết luận. Trong xứ An Nam con người hòa mình trong đám đông hình như không thấy để lộ một cá tính riêng biệt nào hết, sự tôn thờ hoàng triều đã san bằng mọi con người, không có ai nhô đầu cao hơn kẻ khác : nơi đây không còn có chỗ cho sự ganh đua ; trong một số đạo quân Châu Âu thì trái lại sự ganh đua thật là mãnh liệt (nhận xét rất đúng, đây chính là điểm yếu của người Vn so với người Âu). Người An Nam chiến đấu mạnh khi họ tự tin rằng họ sẽ đẩy lui được quân địch. Vì vậy mà trong một ngày may mắn quân đội ta đã làm lung lay lòng tin của địch khi họ dựa vào những chướng ngại phòng thủ mà họ cho là ta không phá nổi ; khi họ tháo chạy thì tán loạn như một đàn chim vụt cất cánh, họ chui vào các bụi rậm như một con cọp, đối với họ không phải là một sự nhục nhã khi biết rằng không còn cách gì chống cự được. Cũng chính là những con người như thế đã dùng lao chống lại súng các-bin của ta trên đồng ruộng Mỹ Tho. Sau các trận chiến ở Đà Nẵng và Sài Gòn vào những năm 1859 và 1860 ai cũng tin chắc rằng chiến thuật của họ là cố thủ trong các thành đồn kiên cố mà thôi, họ không dám đánh dàn trận với ta hoặc phiêu lưu trên các địa thế trống trải. Các trận Gò Công, các trận khởi nghĩa năm 1861 và 1862 chứng minh rằng chẳng những họ dám chiến đấu với ta trên địa thế mà còn dám khơi chiến với chúng ta trên các loại mặt trận như vậy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trận chiến mà người An Nam gánh chịu trong gần 6 năm đã biến đổi hẳn chiến thuật chung về tấn công cũng như phòng thủ, nhưng khí giới thì vẫn thế, không thay đổi gì. Rõ ràng là sau khi thành Kì Hòa bị mất, họ cũng mất hết tin tưởng vào thành lũy mênh mông và các chướng ngại phụ thuộc mà họ thiết lập một cách vô cùng tài tình ; nhưng họ vẫn chỉ tiếp tục dùng lao, súng hỏa mai cổ lỗ mồi bằng đá lửa, pháo vác trên người, súng nòng 4 cũng vác trên vai mà bắn. Tuy các dàn đại pháo là phần duy nhất có một chút giá trị nào đó trong số khí giới của người An Nam : họ đã dùng đại pháo trong các cuộc khởi nghĩa để gây khó khăn cho ta. Họ rất thích các loại đại pháo và sử dụng rất giỏi. Không biết họ tìm đâu ra mà nhiều đại pháo như vậy ? Ta thấy chỗ nào cũng có : một phần họ chôn giấu trong rừng, đánh dấu cẩn thận để dễ tìm, một phần thì họ dấu dưới các đống lúa gạo, kho kín. Tóm lại họ thích tiếng nổ của thuốc súng ; giống như cái say mê của trẻ con người Trung Hoa, họ thích pháo như thế nào thì họ cũng thích tiếng nổ của đại pháo như vậy.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Còn nói về bản chất của chính người lính, ta có thể nói rằng họ quen chiến trận, và những biến cố sau này đã cho ta hiểu rõ hơn bên trong của bản tính người An Nam. Uy quyền của triều đình Huế bị nứt rạn ở các tỉnh do quân Pháp chiếm tạo dịp cho một số người nhiều nghị lực đứng lên tạo lập công danh, nhất là khi họ thấy căn bản sinh tồn của dân tộc họ bị hăm dọa. Những người lãnh đạo các nhóm du kích sau khi đã ăn gan (để nguyên văn, tức là gan người) và uống vài ly sam-chou, họ thề thà chết quyết tâm đánh giặc Pháp, rồi họ lên đường. Hầu hết những người này phải chết một cách khốn đốn và nhục nhã, nhưng hình như cái chết của họ không làm nản chí họ hàng và bè bạn họ.

Ngoài cái can đảm của người An Nam mà những vị lãnh đạo can trường đã truyền lại cho họ, ta còn thấy trong đó có sự mê tín dị đoan khủng khiếp nữa. Khi một người đồng đội bị giết, họ liền mổ thây móc lấy tim còn thoi thóp để chia nhau mà ngấu nghiến. Sau đó họ tiến lên, không có gì cản nỗi: họ có đầy gan (nguyên văn: ils ont du gan, tác giả lẫn lộn giữa tim và gan, chắc học tiếng Việt chưa sõi). Có một thầy tu người An Nam là người rất anh hùng và quả quyết, cách đây vài năm đích thân tìm đường ra Huế để kiện tụng: vì có người muốn đuổi ông để chiếm đất. Một tên trùm băng cướp biết tin tìm đến ngôi nhà mà ông tá túc trên đường ra Huế. Khi đến nơi tướng cướp thấy có một người chết vừa được tắm rửa. Những người xung quanh đang lo tẩm liệm liền chỉ xác chết mà bảo chính là xác của nhà tu, nhưng thật sự những người này nói dối để tìm cách cho nhà tu trốn đi. Tên trùm băng cướp liền nói rằng:

- Nếu quả thật như vậy thì để xem có công hiệu đúng như người ta nói không: hắn phải có gan lớn lắm mới dám ra tới Huế mà thưa kiện.

Thế rồi bọn cướp moi tim xác chết mà ăn. Từ đó nhà tu lặng câm, không ho he gì nữa. Ông ta là người lanh lợi và thận trọng, theo lời đồn thì ông ta có nhiều thoi vàng và bạc, thật quả ông ta vừa chết hụt. (phong tục ăn tim gan người của dân Nam Kỳ thật kinh khủng, có lẽ do ảnh hưởng của dân Chăm-pa, Khmer?)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Truyền thống ăn gan của các trùm băng cướp cũng như nhục hình áp dụng trong phần đất này của Châu Á có thể làm cho ta tưởng lầm là một quôc gia vô nhân đạo. Nhưng ta có thể khẳng định ngược hẳn lại, người An Nam rất khiếp sợ cảnh máu rơi. Ở Châu Âu, giết người thường đi đôi với cướp bóc : vì giết người là để bảo đảm việc cướp bóc dễ dàng ; bọn cướp bóc An Nam chỉ lột sạch nạn nhân nào lọt vào tay họ nhưng không giết ; trước năm 1859 (tức là trước khi Pháp đánh Nam Kỳ), chưa chắc đã có đến 3 vụ giết người trong một năm. Ta không nói đến những năm sau này, vì án mạng ta đều ghép vào tội chính trị (cho thấy cướp bóc, án mạng gia tăng sau khi người Pháp chiếm Sài Gòn và Mỹ Tho. Người Pháp xử tử rất nhiều, có lẽ ghép tất cả trọng tội vào chính trị để gây khiếp sợ cho người An Nam, không cho họ nổi dậy). Sau hết luật pháp An Nam, giống như ở Xiêm La và bên Trung Quốc quy tội hết cho cả làng, đó cũng là cách chặn đứng sự lan tràn tội phạm. Trong xứ An Nam án mạng xảy ra là một chuyên cực kỳ hệ trọng, luật của người An Nam buộc họ sống theo bản tính tự nhiên của họ tức là không bao giờ giết chóc.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sự khiếp sợ máu rơi không cấm cản được sự độc ác của họ theo lối Á Châu ; có nghĩa là họ áp dụng hình phạt bằng cách tra tấn mà chỉ có quỷ sứ thoát ra từ địa ngục mới sáng chế ra được. Ta hãy thử tìm hiểu nguyên do vì đâu lại có sự mâu thuẫn giữa việc sợ hãi máu rơi và sự tàn bạo, hai hành động thật trái ngược nhau. Say mê chế độ, viễn tưởng ấu trĩ dai dẳng đeo đuổi con người An Nam trong hoàn cảnh thực tế mơ hồ, tin các lý thuyết do trời định, sự lẫn lộn giữa quy luật tôn giáo và chính trị, quan lại hủ bại, lại quá đông và uy quyền quá mạnh, tất cả tạo ra thần quyền mà đầu não là Huế, thần quyền đó đã áp đặt bàn tay của mình lên những động lực tế nhị nhất của linh hồn con người, để xúc phạm, nhào nặn làm cho linh hồn úa tàn. Sau khi san bằng tất cả mọi linh hồn họ lại làm tan tành thể xác bao bọc cái linh hồn đó. Từ tác dụng này đến tác dụng khác, tránh sao chẳng có liên hệ, có thể vì thế mà ta không ngạc nhiên gì khi thấy nhân viên của một chính quyền phụ hệ và chuyên chế, bẻ gẩy, cắt cụt, tháo gỡ con người từng mảnh như một hình nộm. Tội ác không thể tha thứ trong xứ là phản nghịch hoàng triều, tội phạm bị xử lan-ti (để nguyên văn, tức là tội lăng trì tùng xẻo, một hình thức xử tử ghê rợn) : tức bị xẻ thây làm trăm mảnh, xong bỏ hết vào một cái lu đem đặt trước nhà của kẻ tội phạm. Phải hiểu rằng trong đầu của các dân tộc này khi đày đọa xác chết tức làm gia tăng hình phạt cho nặng nề thêm. Hình phạt có nhiều loại, ta có thể kể ra đây những loại khủng khiếp nhất : như kéo thân phạm nhân trên những thân tre cắt dọc, thân tre cắt như hằng ngàn lưỡi dao cạo ; kẹp bằng kềm nguội hay nung đỏ; dùng dao sét rỉ; lưỡi cày nung nóng; ghế có đóng đinh nhọn; kể cả bỏ rắn vào quần kẻ bị kết án nữa ( những hình thức tra tấn của nhà Nguyễn có thể nói là độc ác nhất trong các triều đại Phong kiến Vn, tác giả cho thấy 2 điều, là người dân Vn vốn hiền lành và chuộng yên bình, nhưng đối lại là 1 triều đình cực kỳ tàn bạo, thối nát, độc ác từ vua đến quan, ở đây, tất nhiên tác giả cũng quên mất là bên Châu Âu thời Trung Cổ, thì cách tra tấn cũng khủng khiếp không kém)
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,844
Động cơ
698,243 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tuy nhiên người An Nam tuy khéo léo tạo ra nhiều phương pháp nhục hình lại không biết dùng thuốc độc có đầy trong rừng núi của họ (tác giả xem ra cũng khá tàn độc ở khoản này, tác giả còn dám đem lính đi vào thành phố Chợ Lớn, lúc đó vẫn còn thuộc lãnh thổ đang tranh chấp. Một đám đông bao quanh: vài người An Nam chỉ một con gà mái và thách người lính Pháp bắn xem có trúng không. Rõ ràng chỉ để đánh lừa người trung sĩ Pháp. Người lính Pháp nâng súng cac-bin mà nhả đạn, chưa kịp nạp đạn khác thì đám đông ập vào tóm lấy anh ta): mặc dù triều đình Huế thề sẽ giết hết chúng ta bằng bất cứ phương tiện gì, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu bằng những khí giới bắt chước chúng ta nhưng hết sức thô sơ. Dân chúng nói rằng tướng sĩ của họ luôn luôn tôn trọng truyền thống hào hùng khi chiến đấu, trong những trường hợp kể ra sau đây cho thấy những kẻ man rợ đó xứng đáng là bậc thầy để dạy ta những bài học về nhân đạo.

Một trung sĩ pháo binh của ta bị địch bắt năm 1860, mang về thành Kỳ Hòa, nhưng được đối xử tử tế và nuôi dưỡng đàng hoàng. Người này còn được phép gửi cả tin tức về cho ta nữa. Khi các đường tuyến An Nam bị đánh bại, quân sĩ chạy trốn tán loạn thì ông ta bị giết; nhưng chỉ bị chặt đầu thế thôi, không giống như ở các nước Tây Tạng, Miến Điện, xác chết còn bị thêm nhục hình thật ghê gớm.Một chiếc thuyền buôn loại hai cột buồm do thương gia của ta ở Sài Gòn thuê mướn đi từ Hong-Kong đến Sài Gòn, nhưng không may bị mắc cạn ở một eo biển gần mũi đất Thị Vải, ngay giữa vùng đất địch. Tuy rằng dân chúng đói kém vì lệnh cấm gạo (quân Pháp cấm chở gạo từ vùng Nam Kỳ miền dưới lên phía bắc lãnh thổ để gây đói kém cho vùng chưa chiếm), và mặc dù tình trạng chiến tranh không hề dung tha do ta gây ra, những người bị đắm thuyền được tiếp đón, nuôi nấng, lại còn được giúp để đưa tin tức; khi ta đến cứu thì thấy họ được tiếp đãi trọng thị hơn cả một số những nơi tử tế mà ta có thể biết trên bờ biển Châu Âu. Ðó là một vài nét cho thấy một dân tộc không thiếu lòng nhân đạo.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top