- Biển số
- OF-864084
- Ngày cấp bằng
- 22/7/24
- Số km
- 115
- Động cơ
- 634 Mã lực
Cụ cho em hỏi danh từ Người Bồ Đào Nha là nói 1 người cụ thể hay chỉ là 1 danh từ chỉ người phương Tây nói chung. Vì trong bài dịch của cụ thấy đề cập nhiều đến danh từ này!Trong suốt thời gian ở Đông Kinh, tôi hết sức khuyên-bảo người Bổ Đào Nha nên làm gương tốt cho dân trong xứ. Họ nghe theo tôi, nên Chúa đẹp lòng và, sẵn có ý tốt với đạo chúng ta, muốn lưu tôi lại: một vị “nội giám” [hoạn quan] và một pháp sư đã tâu ngài biết rằng tôi hiểu Toán học, nên ngài sai một quan thị vời tôi vào để giảng cho ngài rõ những lẽ thuộc về Thiên văn. (Vì một lần có một pháp sư? đến thăm tôi, tranh luận với tôi trong ba giờ đồng hồ về giáo lý, chịu phục tôi và đã tuyên bố trước thuộc hạ ông và những người Bồ Đào Nha rằng người Đông Kinh không biết nói năng, suy nghĩ và ở ăn như thú vật; pháp sư nài ép tôi ở lại để dạy dỗ chúng dân, gửi quà bánh biếu tôi và đi lại thăm tôi rất lịch thiệp) [có lẽ là Chiêm Tinh, nguyên văn là: che gli insegno le cose del cielo]. Khi quan thị đến, tôi thưa rằng:
- Bề trên sai tôi đi theo người Bồ Đào Nha lượt đi cũng như lượt về, tôi phải cai quản họ và hướng dẫn họ về việc đạo, tôi không được phép ở lại đây; nhưng khi về đến Áo Môn, tôi sẽ xin phép trở lại đây và sẽ ở Đông Kinh vĩnh viễn để phò Chúa. Được như thế tôi sẽ thỏa mãn lắm vì phận sự tôi ở Đông phương không phải là để thu nhặt bạc vàng nhưng là để dạy cho họ cần đến những việc Trời và nói cho họ hiểu đâu là vị Thượng đế chân chính đã tạo ra Trời Đất.
Chúa rất hài lòng về những lời trình bày của tôi nên mấy hôm sau cho vị pháp sư trên kia đến vời [tôi] vào chầu. Chúa ban yến tiệc cho tôi, hỏi tôi những câu hỏi về khối tròn, yêu cầu tôi sang năm lại sang, ban cho tôi một thẻ bài để được vào và cư trú ở khắp xứ, không phải chịu một điều khoản nào cả. Thế Tử là người sẽ lên kế vị ngài cũng ban cho tôi một thẻ bài giống như thế cùng nhiều quà cáp của Vương phi và của ngài.
Bà chính phi [Regina sua Madre, có lẽ là bà Trần Thị Ngọc Đài. Chúa Trịnh Tráng có hai chính phi: Trần Thị Ngọc Đài, cưới trước. Khoảng 1600, trở đi, khi Nguyễn Hoàng đã trở về Nam, để yên mặt Bắc, ông gả con gái là Nguyễn Thị Ngọc Tú cho con trai Trịnh Tùng là Trịnh Tráng. Ngọc Tú cũng là chính phi. Vậy bà chính phi bị "quỷ ám" ở đây, chắc là Trần Thị Ngọc Đài, mẹ Trịnh Căn, con thứ tư, sẽ lên nối ngôi Trịnh Tráng] bị Quỷ [Diavolo] ám mỗi đêm, bà nói: nếu tôi [tác giả] bảo đảm được rằng: bà theo đạo thì mỗi đêm con quỷ sẽ sợ, không dám đến quấy nhiễu bà nữa, bà sẽ theo đạo. Tôi trả lời rằng: tôi tin thánh Chúa, tôi hy vọng nếu bà theo đạo, con quỷ sẽ không dám sách-nhiễu, nó sẽ trốn khỏi bà, như nó đã trốn khỏi những người công giáo thuận thành, vì nó rất sợ, và tôi sẽ hướng bà theo hầu Thượng đế đích thực. Người thuyền trưởng kể lại cho tôi rằng từ khi bà đeo chuỗi tràng hạt quanh cổ, thì bà hết bị quỷ ám.
Nhưng con quỷ, tức giận vì bị đuổi khỏi xứ này, nó đã thấy ló dạng sứ mệnh truyền giáo,việc lập giáo đường đang tiến hành [thuận lợi] thì con quỷ bèn nhất quyết chống lại, qua một người Maure [Maure là người dân ở miền Mauritanie, Bắc Phi], tên này rêu rao nói xấu người Bồ bằng đủ loại vu cáo, bỗng nhiên đi nói xấu người Bồ Đào Nha và rêu rao lên rằng người Bồ Đào Nha làm do thám cho vua Đàng Trong là thù địch của vua Đàng Ngoài và viên thuyền trưởng Bồ Đào Nha đã nhận được một món tiền [nguyên vănenier, tiền thời La Mã và Pháp xưa] to về việc ấy. Bịa đặt ra như thê', tên Maure muốn trả thù mấy người Bồ Đào Nha có hiềm-khích với hắn và muốn chiếm lấy của cải chúng tôi khi chúng tôi bị trục ra khỏi xứ như quân do thám hay như quân bất lương. Chúng tôi có dâng biểu trần tình; lại được thêm một vị Hoàng thân đã hiểu biết người Bồ Đào Nha ở nhiều nơi nói cho Vua rõ [ở đây vẫn là Chúa Trịnh], nên ngài không tin những điều đồn bậy. Nhưng không yên tâm nên Chúa buộc chúng tôi thề sẽ không vào Đàng Trong và bao giờ cũng một lòng với ngài. Ngài cho đòi chúng tôi đến một ngôi chùa [pagode] để làm lễ Thề.
Để làm lễ thề này, họ dẫn chúng tôi đến một căn thờ phụ của một trong những Pagode [Đền] của Chúa, theo sau rất đông quần chúng. Một chiếc bình được đặt lên bàn trong phòng lễ, họ đổ rượu và nước vào. Họ dùng xẻng sắt, và mũi kiếm, để chạm vào bình. Sau khi đốt miếng giấy có ghi lời thề, họ để rơi xuống bàn và dập tắt lửa bằng cách nhỏ lên vài giọt máu gà vừa cắt tiết, giấy tan thành vụn.
Họ chỉ làm như thế, không có lễ nghi nào khác dành cho Pagode [Phật]. Mọi người đứng xung quanh bàn. Sau đó, họ bắt chúng tôi thề trước Pagode [Phật], trước bàn thờ và những cành nho vàng [le viti d'oro, có lẽ là vàng mã thì đúng hơn] cắm trên bàn thờ, thề rằng chúng tôi quyết tuân thủ lời thề [đã ghi trong giấy] và uống hết rượu vang này. Lúc bấy giờ tôi mới bày ra một tấm hình lớn của Chúa Cứu Thế, vì đã đoán trước mọi việc sẽ xẩy ra, nên tôi ngầm mang theo, tôi quỳ gối trước tấm hình này và nói rằng tôi không muốn thề trước bất cứ thần thánh nào, không phải là Đức Chúa của tôi, có hình ảnh trước mắt đây, vì chỉ Người mới là Đức Chúa có thẩm quyền để trị tội những kẻ bội thề.
Viên hoạn quan, rất quyền-thế trong triều, người thay thế Chúa trong lễ Thề này, không chấp nhận việc thề như thế, và muốn tôi phải thề trước Pagode [ông Phật] này. Tôi cố gắng giải thích với ông ta rằng, tập tục của tất cả mọi nước trên thế giới là ai thề trước Thánh thần của người nấy, và để cho người Bồ thề trước Chúa Cứu Thế của họ, vẫn có lợi hơn là bắt họ phải thề với Pagode [Phật] thì cũng như không, bởi họ chẳng sợ gì. Vị hoạn quan vẫn không bằng lòng, tôi nài nỉ ông báo cho Chúa biết quyết định của chúng tôi (ông sai thị đồng đi ngay) và chúng tôi sẵn sàng chịu chết, chứ không chịu thề như thế, không phải vì chống lại lệnh Chúa mà vì không chịu nhìn nhận một vị thánh không phải là thánh.
Chúa, với tính thận-trọng, hiểu ngay mọi sự, và gửi người tới bảo chúng tôi có thể thề theo lối đạo Ki-Tô như chúng tôi muốn. Lúc đó tôi quay lưng lại Pagode [tượng Phật] và trước mặt tôi có ảnh Chúa Cứu Thế, tôi quỳ xuống, hai tay đặt lên hình, to giọng phản đối rằng:
- Tôi không thề trước thánh của Đông Kinh và bất cứ thánh nào khác, bởi vì tất cả đều giả; mà tôi chỉ thề trước hình ảnh Chúa Cứu Thế, đích thực tạo ra trời đất, và thề rằng Người sẽ vật tôi chết, bằng nước, bằng lửa, bằng súng ống, với những hình phạt nặng nề nhất có thể mường tượng được, nếu tôi phản bội lời thề.
Cũng theo cách đó, thày Giulio, người thuyền trưởng và tất cả những người Bồ khác đều thề như thế. Người ngoại đạo đến xem rất bằng lòng vì buổi lễ thề hôm đó, duy có chúng tôi chỉ được toại nguyện một nửa, nửa kia cảm thấy đau đớn vì đã mất một cơ hội hiến thân mình để vinh danh Chúa Trời, Người đã hiến đời mình để cứu rỗi chúng ta. Lời thề này làm cho Chúa hết nghi ngờ và ông lại cấp quà, đồ giải khát, và đặc quyền cho chúng tôi lên bờ và giữ chúng tôi ở lại vài tháng nữa, quá thời hạn cần thiết, chỉ vì sợ chúng tôi lại vào Đàng Trong. Tuy nhiên khi bị giữ lại như thế, tôi lại dễ dàng tìm kiếm những thông tin, đúng như bề trên đã giao cho, về một số vấn đề của vương quốc này.