[TT Hữu ích] Dịch sách cổ: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, 1646-1658.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tác giả nổi tiếng nhất trong các giáo lý đạo đức và xã hội là Khổng Tử, người mà ở Trung Quốc có tên là Cùm Zù [Kǒng zǐ] và ở Đàng Ngoài là Khòû Tũ. Tác giả này sinh ra ở Trung Quốc tại một địa điểm gọi là Kió Fèo [huyện Khúc Phụ] thuộc tỉnh Xan Tum [Sơn Đông], trước khi Chúa Giêsu ra đời vào năm 551 [TCN]. Cha mẹ của ông đã sống trong cảnh vô sinh trong một thời gian dài, nhưng theo truyền thuyết, nhờ những lời cầu nguyện chân thành của họ với các thần linh cư ngụ ở núi Kieù Ngi [núi Ni Khâu], họ đã được ban cho người con trai này, và đặt tên cho ông là Cùm Zù. Khi lớn lên, ông bộc lộ trí tuệ sắc sảo và tinh tế, và dù ban đầu chỉ là học trò, ông đã trở thành một bậc thầy sau khi rèn luyện và học tập chăm chỉ. Và mặc dù điều kỳ diệu là sự ngợi khen của ông về tri thức đã lan rộng đến những vùng đất lớn, ông vẫn nhận được những danh hiệu cao quý ngay từ lúc đó trong đất nước này, nơi mà không có người nào vượt qua được ông trong giới trí thức, và ông đã được phong chức Đại Tư Khấu [nguyên văn là Madarino, dịch đúng thì là Quan, người dịch tạm lấy chức vụ được phong cao nhất của Khổng Tử] với sự hoan nghênh không thể tưởng tượng nổi. Để xứng-đáng với những vinh-dự đó, ông đã điều chỉnh cuộc sống của mình bằng sự khôn-ngoan và cẩn-trọng, dạy dỗ các vấn đề đạo đức với sự thông thái và kết hợp lý thuyết với một lối sống tôn-trọng theo những gì mà ông biết. Nhờ đó, ông đã có thể gây dựng danh tiếng và đạt được sự vinh danh vĩnh cửu, có nhiều người theo đuổi và đánh giá cao những sáng kiến của ông. Và mặc dù ông đã đạt được thành công lớn trong việc dạy dỗ về các đức tính đạo đức, những học trò của ông vẫn gặp khó khăn, một phần vì sự xảo quyệt hoặc sự hiểu biết kém, trong việc tiếp thu phương pháp của ông và hiểu rõ các lý thuyết. Nếu không vì những yếu tố đó, Trung Quốc có thể đã có một Seneca hoặc một Filone trong triết học.

[Seneca: Triết gia Khắc kỷ và Cố vấn của Hoàng đế Nero, là một trong những triết gia nổi tiếng nhất của trường phái Khắc kỷ (Stoicism) thời kỳ La Mã. Ông không chỉ là một nhà tư tưởng sâu sắc mà còn là một chính khách, nhà viết kịch và một người thầy có tầm ảnh hưởng lớn.

Cuộc đời và Sự nghiệp: Ông sinh ra tại Corduba, Tây Ban Nha, Seneca được giáo dục ở Rome và đã từng là một thầy giáo, một cố vấn cho hoàng đế Nero.

Triết học Khắc kỷ: Seneca là một người theo chủ nghĩa Khắc kỷ, một trường phái triết học nhấn mạnh về lý trí, đức hạnh và việc chấp nhận số phận. Ông đã viết rất nhiều về các chủ đề như:

Virtue (Đức hạnh): Seneca cho rằng đức hạnh là mục tiêu cao nhất của con người và là chìa khóa để đạt được hạnh phúc.

Reason (Lý trí): Lý trí giúp con người vượt qua những cảm xúc tiêu cực và đưa ra những quyết định đúng đắn.

Fate (Số phận): Chúng ta nên chấp nhận số phận và sống một cuộc đời có ý nghĩa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Các tác phẩm của Seneca bao gồm các bức thư, các bài luận và các vở kịch. Những tác phẩm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của nhiều thế hệ sau này.

Sự kết hợp giữa triết học và thực tế: Seneca không chỉ là một nhà lý thuyết mà còn là một người áp dụng triết học vào cuộc sống hàng ngày. Ông đã sử dụng triết học Khắc kỷ để đối phó với những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Tư tưởng của Seneca đã ảnh hưởng đến nhiều nhà tư tưởng lớn khác, bao gồm cả Marcus Aurelius. So với các tác phẩm triết học khác, các tác phẩm của Seneca thường dễ tiếp cận hơn và có tính ứng dụng cao.

Những bài học từ Seneca

Sống đơn giản: Seneca khuyến khích chúng ta sống một cuộc sống đơn giản, không bị cuốn theo vật chất.

Tập trung vào những gì mình có: Thay vì so sánh bản thân với người khác, chúng ta nên biết ơn những gì mình đang có.

Chấp nhận những điều không thể thay đổi: Chúng ta không thể thay đổi mọi thứ, nhưng chúng ta có thể thay đổi cách chúng ta phản ứng trước những sự kiện.

Luôn học hỏi và phát triển bản thân: Kiến thức và kinh nghiệm là những tài sản quý giá nhất
]

[Filone di Alessandria (20 TCN – 50) là một triết gia và học giả nổi tiếng của thế giới cổ đại, sinh ra ở Alessandria, Ai Cập. Ông là một nhân vật quan trọng trong triết học Hellenistic và có ảnh hưởng lớn trong việc phát triển triết lý Hy Lạp-Judaism, một sự kết hợp của triết lý Hy Lạp và truyền thống Do Thái]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ông đã khóc khi thấy rằng trong học thuyết của ông không nở hoa công lý như đã xảy ra 2.000 năm trước khi các hoàng đế vĩ đại trị vì và được ca ngợi trong lịch sử của họ [ý nói thời Nghiêu-Thuấn]. Ông không thể chấp nhận việc các nguyên lý Trung Hoa dường như hoàn toàn trái ngược với lợi ích công cộng và chỉ phục vụ lợi ích cá nhân. Vì thế, ông đã động viên bản thân để cải thiện những người xung quanh và thúc đẩy họ làm việc tốt, tin rằng ông có thể sửa chữa tình trạng này bằng cách tập hợp các học trò để họ giúp ông thực hiện những suy nghĩ tốt đẹp của mình. Ông đã tập hợp được 3.000 người. Nhưng vì số lượng 3.000 có thể gây ra sự nhầm lẫn, ông chỉ chọn 1.000 người, mang theo cùng với ông chiến đấu chống lại nhiều thói hư tật xấu và sự suy đồi, không bằng vũ khí, mà bằng lý lẽ. Ông đã viết 4 cuốn sách [Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu], nhiều điều trong số đó đã được sửa đổi, loại bỏ tất cả những gì có thể gây hại cho các phong-tục tốt đẹp, và thêm vào đó những câu nói sâu-sắc và hữu-ích với phong cách thanh thoát để khuyến khích và có lợi cho những người trẻ tuổi chăm học.

Và để chứng minh một số nguyên lý đạo-đức của ông, tôi sẽ đưa ra hai ví dụ. Một là khi ông đến một ngôi đền và thấy một cái bình chứa nước bị nghiêng về một phía vì bị thiếu nước. Cái bình này nghiêng vì nó trống rỗng, và nếu nó đầy, nó sẽ đứng thẳng. Để đảm bảo nó đứng thẳng, chỉ cần làm đầy nửa bình. Người chủ của cái bình luôn có thể rút ra bài học từ việc này cho việc quản lý tốt. Ông đưa ra ngụ ngôn rằng một vị vua không có đức hạnh giống như cái bình trống rỗng, không đứng thẳng mà bị nghiêng. Khi nghĩ rằng mình có thể làm mọi thứ và có thể làm mọi việc, cuối cùng sẽ sụp đổ. Nhưng nếu ông kiềm chế những suy nghĩ cao siêu và tự mãn, hài lòng với việc chỉ là nửa đầy, thì sẽ không có cảm giác thèm muốn làm đầy toàn bộ và sẽ không tạo ra sự kiêu ngạo khiến mình sụp đổ. Các học trò của ông đã thấy điều này và một trong số họ đã hỏi ông cách nào một cái bình lớn, tức là một vị vua, có thể đầy mà không bị nghiêng mà đứng thẳng. Ông trả lời rằng khi một người tự nhận mình là lớn, phải biết mình cũng là nhỏ, và nếu ông tự nhận mình có nhiều tài năng quý giá, thì trong suy nghĩ của mình, nếu cảm thấy mình thấp kém hơn người khác, thì thật ra ông đã đầy đủ và không bị tràn đầy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Một ngụ ngôn khác của ông là khi ông đến một thành mà một học trò của ông, tên là Zù Lù [Tử Lộ, tức Trọng Do (仲由, 542 - 480), họ Trọng, tên Do, tự Tử Lộ 子路, hiệu Quý Lộ 季路 là một quan đại phu nước Lỗ. Ông là một trong Thất thập nhị hiền được thời phối ở Văn Miếu], đang làm quan cai trị. Ông thấy mọi người trong thành đều vui mừng và nói:

- Ôi, Zù Lù cai trị thật tốt!

Khi ông tiến vào sâu hơn trong thành, ông lại nghe lời khen ngợi tương tự, và đến lần thứ ba khi ông vào đến phủ đường. Vì danh tiếng của Khổng Tử rất lớn nên lời nói của ông được coi là thiêng-liêng. Các môn đồ của ông đều tò mò muốn biết lý do tại sao ông lại ba lần lặp lại lời khen đó mà không cần phải tìm hiểu về cách cai-trị và phong-thái của người cai-trị. Một học trò tên là Zù Cúm [Tử Cống] đã hỏi thầy mình tại sao lại lặp lại lời khen đó ba lần mà không tìm hiểu trước về cách cai trị và phong tục của người cai trị làng. Ông trả lời một cách khôn ngoan và thông minh rằng:

- Ta đâu cần phải lấy thông tin về người đứng đầu thành khi mà hơn cả lời nói, chính các cánh đồng đã được canh tác tốt, các con đường được duy trì tốt, các hệ thống cấp nước còn nguyên vẹn, các vườn cây được chăm sóc cẩn thận, đất đai được cày bừa kỹ lưỡng, và các khu vườn đầy cây cối xinh đẹp và hiếm có. Khi ta đặt chân vào thành, ta thấy các tòa nhà đã được cải tạo, tường thành được củng cố, các pháo đài mới được thêm vào, hào và bờ tường vững chắc đã được xây dựng xung quanh thành và thành đã được trang bị rất tốt với các công cụ chiến tranh, đủ để làm cho nó trở nên an-toàn. Cuối cùng, khi ta vào đến phủ đường và thấy rằng trong đại sảnh không có tranh chấp của các người kiện cáo, không có lời trách mắng hay khiếu nại nào về bất kỳ sự rối loạn nào, và việc cai trị của quan cai trị giống như một người cha và sự tuân thủ của thần dân giống như hành động của những đứa con hiếu thảo, đó là lý do tại sao ta ba lần khen ngợi người thực sự xứng đáng được khen ngợi hàng ngàn lần.

Những lời này và những lời tương tự có thể được tìm thấy trong các sách của Khổng Tử.

Ông sống đến năm 73 tuổi. Có một số người tin rằng, giống như Plato, ông đã đạt đến sự hiểu biết về Thượng Đế. Chắc chắn là danh-tiếng và uy tín của ông trong lòng người Trung Hoa, người Nhật và người Đàng Ngoài rất lớn, đến nỗi giáo lý của ông được chấp nhận như Phúc Âm đối với người Kitô giáo. Họ tin rằng những giáo lý này đến từ Trời, xem chúng như kinh điển và tôn-kính chúng như một điều thánh thiện. Dù vậy, có những người khác lại có ý kiến trái ngược và đã viết rằng ông là một người có nhiều thói xấu, giả dối và rất khôn ngoan trong việc che giấu những thói xấu đó, nhưng lại yếu kém trong việc vượt qua chúng.

Khi ông qua đời, người ta nói rằng các môn đồ của ông vô cùng đau khổ, sự đau buồn của họ lớn đến nỗi nước mắt chảy nhiều làm họ gần như mù lòa và giọng nói trở nên khàn đặc, mất một phần. Họ lên một ngọn núi để tổ chức lễ tang vinh danh ông với một đám tang xa hoa. Tại đây, như thể không muốn rời xa thầy mình, họ dựng lên vài căn lều và để tang suốt ba năm. Cuối thời gian đó, sau khi khóc lóc và than thở một lần nữa, họ xuống núi và lập ra một điều luật rằng các môn đồ của ông phải sống tại nơi này, để gìn giữ và lưu truyền mãi mãi ký ức về vị thầy đáng kính. Họ sẽ làm mới lại những giọt nước mắt và nỗi buồn này mỗi năm bằng những nghi lễ trọng thể, để vị thầy ấy mãi mãi sống trong lòng họ, như thể ông chưa bao giờ chết.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chương X. VỀ NHỮNG GIÁO PHÁI KHÁC NHAU VÀ CÁCH CHÚNG ĐƯỢC TRUYỀN VÀO BẮC HÀ.

Không có vương quốc hay quốc gia nào, dù có dã man đến đâu ở phương Đông này, mà không gắn liền với một tôn giáo nào đó để biện-minh cho những hành động và lối sống của mình. Họ cho rằng sống tự do và không theo luật lệ nào là điều của loài thú chứ không phải của con người, những người thích tuân theo lý trí. Trong nhiều năm, Đế chế Trung Hoa cùng với các nước chư hầu đã tồn tại độc-lập về tôn giáo, đặc biệt là việc thờ cúng thần linh. Nhưng sau đó, một hoàng đế tên là Mím Tí [Hán Minh Đế, (漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy Lưu Trang 劉莊, cũng gọi Hán Hiển Tông 漢顯宗, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán, cũng như là Hoàng đế thứ 17 của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ ngày 29 tháng 3 năm 57 đến khi qua đời, tổng cộng 18 năm] một trong những vị hoàng đế nổi tiếng nhất trong lịch sử của triều đại đó, đã mời các tôn giáo nước ngoài vào và đưa chúng vào đất nước. Ông là vị hoàng đế duy nhất được ghi nhớ trong sử sách vì điều này. Các sử gia đã chỉ trích ông vì đã đưa tôn giáo ngoại lai vào đất nước, khiến người dân trở nên xấu xa hơn. Họ cho rằng trước đây, khi người dân tuân theo truyền-thống và luật pháp của tổ tiên, họ đã có thể trở thành tấm gương cho các quốc gia khác noi theo. Tuy nhiên, có một sử gia tên là Kiéu Kiúm Xan? không đồng ý với quan điểm này. Ông viết rằng việc hoàng đế đưa tôn giáo ngoại lai vào đất nước giống như việc biến một quốc gia tự-do thành nô-lệ, buộc họ phải tuân theo những luật lệ trái ngược với truyền thống của tổ tiên. Ông cho rằng điều này là một thảm-họa lớn. Sử gia này cảnh báo rằng việc tiếp nhận tôn giáo mới sẽ mang đến những điều xấu xa như làm mất đi sự tôn-kính giữa cha con, sự trung thành của thần dân đối với vua và sự tin tưởng của vua đối với thần dân. Ông không tìm thấy bất kỳ điều tốt đẹp nào từ tôn giáo mới này và kết luận rằng tội lỗi của hoàng đế đã chọc giận trời xanh. Ông cho rằng bất kỳ hoàng đế tàn bạo nào trên thế giới cũng không thể tệ bằng Mím Tí. Ông đã khóc lóc than thở về những điều xấu sẽ xảy ra trong tương lai khi tôn giáo ngoại lai này lan rộng khắp đất nước. Mặc dù đã 2.000 năm trôi qua kể từ khi tôn giáo đó du nhập vào Đại Việt, một quốc gia từng là một phần của Trung Hoa, nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, cũng có những sử gia khác lại ca ngợi vị hoàng đế này. Họ cho rằng ông đã có được một giấc mơ thần kỳ, trong đó có một vị thần tiết lộ rằng ở một vùng đất xa xôi có một tôn giáo tốt đẹp hơn. Vì vậy, ông đã cử sứ thần đến đó để tìm hiểu và mang về Trung Hoa những giáo lý mới.
 

giaconngu

Xe tăng
Biển số
OF-484668
Ngày cấp bằng
17/1/17
Số km
1,968
Động cơ
362,315 Mã lực
Tuổi
124
.... Vào thời điểm những mệnh lệnh này được công bố, tại một thành phố trong tỉnh tên là Ché Dáô [người dịch chưa rõ ở đâu?], ...
Căn cứ nội dung đoạn tác giả viết về Phù Đổng Thiên Vương, các địa danh Phù Đổng và Sóc Sơn thì Chê Dáô = [Phù] Đổng, Chê’ Sóc = Sóc Sơn, Bua Dáö Thien Vúóng = vua Đổng Thiên Vương.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Có những người đưa ra một giả-thuyết hợp lý hơn là chắc chắn, rằng vị hoàng đế thông-thái này nhận ra rằng luật pháp của đất nước thôi chưa đủ để hình thành nên đạo đức của một dân tộc. Ông cho rằng cần phải kết hợp luật pháp với tôn giáo để có thể gieo vào lòng dân sự trung-thành và đức hạnh thực sự, chứ không chỉ là những hành vi bên ngoài giả tạo. Dưới vẻ ngoài đạo đức và lễ phép, những tệ nạn có thể ẩn giấu và phát triển mạnh mẽ hơn, gây ra những hậu quả nghiêm-trọng cho xã hội. Vì vậy, để đảm bảo rằng hành động bên ngoài của mọi người phù hợp với đức tính bên trong, ông đã quyết định đưa một tôn giáo vào đất nước. Ông hiểu rằng, dù có bao nhiêu luật lệ đi nữa, nếu không có tôn giáo, thì đất nước sẽ giống như một cơ thể không có linh hồn hoặc một thế giới không có mặt trời.

Hoàng đế đã quyết định gửi một số người từ triều đình để thiết lập các bảng luật giống như những gì người La Mã đã làm, nhưng đáng tiếc là những người được giao nhiệm vụ này không phải là những người thích-hợp cho công việc. Họ quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống sung sướng hơn là sống đúng đắn, và vì thế, sau ba năm chỉ đến được Ấn Độ, họ đã dừng lại ở đó để tận hưởng thời gian vui vẻ mà không màng đến việc đi xa hơn đến các vương quốc ở phía Tây, nơi nổi tiếng có những luật lệ tốt đẹp hơn, đặc biệt là tại vương quốc CabayaSinde nằm gần sông Indus [sông Ấn], nơi dân chúng thờ phụng thần tượng nổi tiếng O My To. Tuy nhiên, khi họ thấy rằng ở Ấn Độ, có một tôn giáo khác được nhiều người theo hơn, vì nó dễ dãi hơn và ít danh giá hơn, thờ phụng thần Rama, một thần tượng mới hơn O My To. Họ đã mua các sách về tôn giáo này và, háo hức muốn trở về nhà hơn là khám phá thêm vùng đất mới, họ quay về Trung Hoa. Khi trở lại triều đình, họ đưa ra những báo cáo giả dối về chuyến đi và sứ mệnh của mình, rồi dâng lên Hoàng đế những cuốn sách mà không được kiểm tra kỹ càng, và Hoàng đế đã nhanh chóng ra lệnh công bố chúng trên toàn đế chế của mình. Những sách này không được các học giả chấp nhận vì họ nhận ra những sai lầm và lừa dối trong đó, nhưng quần chúng, những người luôn yêu thích những điều mới mẻ, đã đón nhận chúng như thể đó là giáo lý từ trời ban xuống. Cho đến ngày nay, những sách này vẫn được các môn đồ của Bonzi [Phật Tử] những người giữ vững tôn giáo đó vì lợi ích riêng của họ chứ không phải vì lòng nhiệt thành để làm cho người khác trở nên tốt hơn. Tác giả của tôn giáo này ở Ấn Độ được gọi là Rama, ở Trung Hoa là Xé Kiš, ở Nhật Bản là Faca, và ở Đàng Ngoài là Thić Ga [Thích Ca]. Tôn giáo này đã lan truyền ảnh hưởng của nó ra nhiều vương quốc, bao gồm Ấn Độ, Bengal, Peru? Xiêm, Chân Lạp và Lào. Vị Thánh này sinh ra ở Ấn Độ trung tâm, Tien Trúc Cuốc [Thiên Trúc Quốc], theo như người Trung Hoa ghi lại để phân biệt với các phần khác của Ấn Độ: Ấn Độ Đông, là Bengal; Ấn Độ Tây, là Cambay và Sind; Ấn Độ Bắc, nơi có núi tuyết; và Ấn Độ Nam, bao gồm các vương quốc Narlinga, Canara, Idalcám và Malauár. Cha của Thić Ca được gọi là Trinh Phan Vương [Tịnh Phạn Vương], và mẹ là Ma Da Phu Nhin [Ma Da Phu Nhân]. Cách mà ông được sinh ra thật kỳ quái, vì người ta nói rằng bà mẹ đã mơ thấy một con voi trắng chui ra từ miệng bà trong một đêm, và người ta tin rằng những điều kỳ lạ này thực sự là tác phẩm của Thần Tiên, đã hiện hình trong giấc mơ của bà thành hình ảnh kỳ dị của con voi trắng. Tầm quan trọng của giấc mơ này lớn đến nỗi nhiều vị vua ở phương Đông coi nó là một dấu hiệu may mắn, và ai có thể sở hữu một con voi trắng được coi là có thể trở thành người đứng đầu của một vương quốc lớn. Trong danh hiệu của các vị vua, danh hiệu "Vua của Voi Trắng" luôn được xếp hạng cao nhất.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Giống như ở vương quốc Xiêm La, không lâu trước đây, vị vua đó đã tự xưng danh hiệu là "Vua của Voi Trắng," và hiện tại, vua của Lào cũng tự hào với danh hiệu này vì đã tìm thấy một con voi trắng. Ông ta cho rằng điều này mang lại cho ông một quyền năng đặc biệt từ Thiên Đàng, như thể đã đạt được một đế chế mới và được tuyên bố là "con của vận may vàng." Khi Thić Ca [Thích Ca] được sinh ra, như được ghi lại ở đó, hành động đầu tiên của ông đã thể hiện bản chất mà ông sẽ có khi trưởng thành. Vừa mới chào đời, ông đã khiến mẹ mình bị bệnh chết, và [ông] bước bảy bước, chỉ một ngón tay lên trời và một ngón xuống đất. Những lời đầu tiên ông nói, mặc dù còn đang bập bẹ, là những lời khoe khoang và báng-bổ, tự tuyên bố rằng ông là người duy nhất tài đức, thánh thiện cả trên trời lẫn dưới đất. Khi đến tuổi mười bảy, ông lấy ba người vợ, và chỉ có một người sinh cho ông một đứa con. Ở tuổi mười chín, chứng kiến 3 cảnh trái ngược nhau là tuổi già, bệnh tật và cái chết, ông từ bỏ cả vợ và con, rút lui lên một ngọn núi, nơi hai nhân vật tên là Ala La`Ca La La` xuất hiện trước mặt ông. Họ muốn trở thành thầy của ông, dưới sự dạy dỗ của họ, ông đã học các giáo lý mà sau này sẽ làm ảnh hưởng đến nửa thế giới. Và họ đã làm việc rất tốt, khiến ông nhanh chóng trở thành một bậc thầy về giáo lý mà ông đã học, một giáo lý hoàn toàn giống như những người đã dạy nó - đầy huyễn-hoặc và hư-cấu. Từ những điều vô lý này, ông đã truyền tải lên các trang sách của mình, rót vào đầu các môn đồ của mình những giáo lý mơ hồ. Họ tuyên bố rằng họ có uy-tín lớn hơn trong mắt dân chúng càng nhiều bao nhiêu, thì càng thành thạo trong những "khoa học" này bấy nhiêu, những thứ không chứa đựng gì ngoài sự phức tạp và tinh vi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người Trung Hoa nói rằng ông [Thích Ca] đã học được từ bốn thầy tu khổ-hạnh ở Ấn Độ, và trong 12 năm, ông sống cuộc đời ẩn-dật, xa lánh con người, nhưng lại càng được các vị thần viếng thăm nhiều hơn và giao tiếp với họ. Khi ông đến tuổi 30, từ nơi ẩn-dật đó, nơi trú ngụ của những linh hồn xấu xa và đại học của mọi sự vượt qua sự cám dỗ, ông bắt đầu tự quảng bá mình không phải với tư cách là một Tiến sĩ, mà với danh hiệu Pagode (người Giác Ngộ) hoặc Idolo (người Thấu Đạt). Ông bắt đầu thể hiện mình là ai bằng cách dạy một giáo lý mới. Để giáo lý này dễ dàng lan-truyền hơn, ông tập hợp một nhóm đệ tử gồm 80.000 người, trong số đó ông chọn ra 500 người. Sau đó, ông giảm số lượng này xuống còn 100 và cuối cùng chỉ còn lại 10 người, những người được ông yêu quý nhất và trở thành những đệ tử thân cận nhất của ông. Giữa một số lượng lớn những đệ tử đủ các thành phần, ông chỉ tìm thấy 10 người phù hợp để trở nên khôn ngoan nhất theo ý muốn của mình.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong suốt 49 năm, ông đã dạy những học thuyết mới của mình ở Ấn Độ, ngày càng tinh-vi hơn trong sự tự tin quá mức của mình, cho đến khi gần chết, ông để lại di chúc cho một trong những đệ tử thân cận nhất của mình. Người đệ tử này, được nhận làm nguyên tắc đầu tiên (như đã được ghi trong các sách), nhận được sự hướng dẫn từ một tài liệu tương tự như những câu nói cuối cùng của các học trò của Pitagore, những người kết thúc các cuộc tranh luận của họ bằng câu "Ipse dixit"[tiếng Latin có nghĩa là "chính (Phật) đã nói"]. mà không mệt mỏi trong việc tìm kiếm sự thật. Trong di chúc cuối cùng của mình, ông tuyên bố rằng mình là một học giả vĩ đại trong số các bậc thầy giỏi nhất, bởi vì để làm cho những lời huyễn hoặc của mình được màu nhiệm, ông đã dồn hết tâm trí vào việc đưa ra những lời giảng với tất cả nghệ thuật của sự khôn khéo. Nhưng cuối cùng, khi đối mặt với cái chết, ông cảm thấy mình chưa làm hết công việc truyền bá Đạo và cứu hết [chúng sinh] khỏi tội lỗi và tỏ ra hối tiếc, mặc dù không thể nào giải thích hết tội lỗi của mình, vì trong suốt 40 năm dạy học, ông đã giữ kín những bí mật sâu xa và tinh-túy nhất, chỉ tiết lộ sự thật khi ông gần chết. Ông muốn truyền lại di sản quý giá nhất cho những người yêu quý nhất của mình. Đối với người dân, học thuyết đã được dạy trước đó và được ghi chép trong sách, đủ để thỏa mãn nhu cầu của họ, vì học thuyết này quá phức tạp và thụ động, chỉ phù hợp với cảm giác chứ không phải với trí-tuệ. Nhưng đối với những đệ tử kiệt xuất và trung-thành nhất, ông đã có một học thuyết bí mật khác mà ông tiết lộ cho họ để họ có thể thực hành và đạt được sự viên mãn. Học thuyết đầu tiên là để khiến con người xuất hiện tốt nhưng không làm cho họ thực sự tốt; học thuyết thứ hai là để cải thiện nội tâm của con người và làm cho họ thực sự tốt. Thực sự, việc này là đúng khi người đó trong suốt cuộc đời đã đưa ra những kết quả của mình trong những hơi thở cuối cùng của mình. Ông không chỉ để lại cho những người khác phần xác của mình mà còn cả tinh chất [ý nói Xá Lợi và những lời dạy] của sự khôn ngoan tinh túy đã từng khiến ông nổi tiếng. Tôi sẽ không kể thêm về học thuyết ngoại vi và học thuyết nội vi mà ông gọi là bí mật, để thỏa mãn sự tò mò về chủ đề này và cho những ai muốn biết thêm nhiều hơn nữa, nhưng tôi không cho rằng việc học này hoàn toàn là vô ích. Người hiểu biết có thể so sánh nó với học thuyết của Tin Mừng để nhận ra chúng ta nợ Chúa Giêsu bao nhiêu và chúc tụng Chúa đã ban cho chúng ta một người thầy để làm phong phú Giáo hội của Ngài với ánh sáng thuần khiết và giải thoát con người khỏi những sai lầm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Vì vậy, Thích Ca, khi đã đạt đến mức cực điểm của sự sống và sự Giác ngộ, đã gọi các đệ tử của mình và nói với họ với một sự nghiêm-túc lớn rằng cuối cùng ông muốn tiết lộ một bí mật cao siêu và một học thuyết mới, điều mà trước đây quá tinh vi và trừu-tượng để các đệ tử có thể hiểu, và chưa từng được dạy cho bất kỳ ai khác ngoài những người thừa kế của tổ chức của ông. Họ đã biết rằng học thuyết được dạy cho đến lúc đó là một sự hư cấu, nhưng không được phép công khai cho dân chúng như là sự thật, mà chỉ cần giữ sự trung-thành và thiện chí với bản thân và sự hiểu biết của họ. Họ cần phải giả vờ rằng họ xem trọng và chấp nhận nó, nhưng sau đó, họ tiếp tục giữ bí mật với các lời thuyết giảng mới mà họ nhận được từ ông.

Tôi sẽ trước tiên giải thích học thuyết bên ngoài và cách nó được cấu thành, sau đó sẽ nói về học thuyết bên trong. Học thuyết bên ngoài, được công nhận là hư cấu, nhưng vẫn được dạy cho dân chúng như là sự thật, được chia thành ba phần chính:

Những điều cần phải tin-tưởng như là đức tin.

Những điều phủ-định, vì chúng chỉ ra những gì không được phép làm.

Những điều khẳng-định, đặt ra nghĩa vụ phải thực hiện một số hành động.

Về các điều cần phải tin-tưởng, điều đầu tiên là có một thần thánh cứu rỗi con người và gánh vác tội lỗi của họ. Thần thánh này, nhằm mục đích cứu rỗi con người khỏi những khổ đau của họ, đã được sinh ra là con người để giúp đỡ họ. Thứ hai, linh hồn, khi rời bỏ cơ thể, sinh ra ở thế giới khác và nếu có công đức, nó sẽ được bao phủ bởi ánh sáng vinh-quang, biến thành 32 hình dạng và được mang 80 đặc điểm làm cho nó trở nên tuyệt vời hơn. Cuối cùng, điều thứ ba là những người làm việc tốt sẽ được thưởng bằng cõi Niết Bàn, còn những người làm điều xấu sẽ bị trừng phạt trong Địa Ngục, vì vậy, những ai muốn tránh khỏi hình phạt và đạt được phần thưởng thì phải hành động với hai mục đích: một là làm điều tốt, và hai là tránh xa điều xấu.

Có năm điều cấm mà người ta phải tránh:

Không giết người.

Không ăn cắp của người khác.

Không phạm tội tà dâm.

Không nói dối.

Không uống rượu.

Các điều tích cực là các hành động từ bi. Thứ nhất, giúp đỡ các Phật Tử [nguyên văn là Bonzi: Bụt Tử, tạm dịch là Phật Tử] bằng cách cung cấp thực phẩm và quần áo để họ cầu nguyện và làm sám hối cho tội lỗi của dân chúng. Thứ hai, xây dựng đền thờ cho các thần thánh. Thứ ba, lập các tu viện cho các Phật Tử. Thứ tư, cầu nguyện và gọi tên của thần thánh, điều này đủ để đạt được sự tha thứ hoàn toàn và sự xá tội toàn diện cho các tội lỗi của họ. Thứ năm, thực hiện các lễ nghi cho người đã chết. Thứ sáu, đốt một loại giấy có mạ vàng, khi bị lửa thiêu hủy, nó sẽ trở thành vàng thật trong kiếp sau, được trao cho những người canh giữ mười tám tầng Địa Ngục. Thật khốn khổ cho những ai bỏ qua việc này, vì không có sức mạnh nào có thể kéo họ ra khỏi Địa Ngục cuối cùng, nơi họ sẽ bị trừng phạt bởi một trong những hình phạt tồi tệ mà tôi sẽ đề cập ở phần khác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Học thuyết nội tại và tinh-vi, được tiết lộ cho mười học trò xuất sắc, bao gồm những bí mật phức tạp và các vấn đề tinh-vi đến mức họ hoàn toàn không thể được hiểu, và chỉ có thể biến mất khỏi tầm mắt và trí tuệ của chính họ. Trong học thuyết này, trước tiên ông cho rằng nguyên lý tạo thành toàn bộ con người và mọi sự vật khác là một dạng khí cực kỳ tinh túy, mà không thể được cảm nhận bằng các giác quan, cũng như không thể được trí tuệ sắc bén nhất hiểu được. Đây là lý do tại sao ông không thể khiến người khác hiểu được những gì ông đã nói. Người Trung Hoa đã nghiên cứu rất nhiều để hiểu học thuyết mới này, và sau nhiều suy luận, họ đã cho rằng học thuyết này dựa trên sự tinh túy của khí, mà trong ngôn ngữ của họ được gọi là Cùm Kiũ [Không Khí] và [tiếng] Bắc Hà gọi là Khou [Khí], tương đương với "Hư không" [Vacou] hoặc "Không có gì" [Nulla] trong tiếng Ý, nơi mà trong cái chết, mọi thứ sẽ trở về như thế, như họ dạy.

Để phù hợp với điều này, họ nói rằng không có gì mới mẻ và các cá thể của nó chỉ là hình-dạng và đặc-tính. Họ giải thích học thuyết này bằng ví dụ về nước: nước nhận hình dạng của bình chứa nó; nếu bình tròn, nước sẽ tròn; nếu bình vuông, nước sẽ vuông; nếu bình tam giác, nước sẽ có ba cạnh. Khi bình bị vỡ, hình dạng, tức là toàn bộ các cá thể, bị mất, nhưng nước vẫn còn nguyên vẹn. Tương tự, một thợ kim hoàn có thể tạo hình từ vàng thành hình hổ hay ngựa, nhưng khi vàng không còn, không còn hình hổ hay ngựa, chỉ còn lại vàng.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi được hỏi về cách ông hiểu triết lý này, Thích Ca sẽ chỉ trả lời rằng tất cả mọi thứ đều trở về hư không như hình dạng của bình bị vỡ và kim loại bị nóng chảy. Nếu bạn hỏi ai đã tạo ra những hình dạng ban đầu cho khí tinh túy này và những đặc tính khác, ông sẽ đáp rằng, giống như Democritus, ông không biết về thần thánh, điều tốt, điều xấu, thưởng phạt, hay sự tồn tại của linh hồn, hay thậm chí sự tồn tại của chính linh hồn, vì nó không phải là linh hồn hoặc không phải là hình dạng. Nếu nó là linh hồn, thì đó là vật chất và có hình dạng hoàn toàn là động vật. Ông cũng cho rằng, sự tinh túy của khí này không có trái tim, không suy nghĩ, không có trí tuệ để suy luận, không có sức mạnh để hành động; nó chỉ là tinh khiết, tinh tế, và cực kỳ mỏng manh, không thể sinh ra, không thể thay đổi và không thể bị hủy hoại, và do đó không thể hiểu được. Ai có thể đạt đến mức độ này thì đã chạm tới đỉnh cao của sự hoàn hảo. Họ có bằng chứng rõ ràng rằng khi trí tuệ không còn suy luận, ý chí không còn khao khát, giác quan không còn phân biệt, và không còn cảm giác tội lỗi hoặc sự ăn năn, thì họ chính là con người hoàn hảo theo tiêu chuẩn của Thích Ca. Trong quan điểm này, không có sự khác biệt giữa những người học giả chính thống và những người Stoic.[Người Stoic là những người theo chủ nghĩa khắc kỷ (Stoicism), một triết lý cổ đại nổi tiếng với quan điểm về việc kiểm-soát bản thân, chấp-nhận số phận và sống một cuộc sống có đạo đức.

Đặc điểm của một người Stoic:

Tập trung vào những gì mình có thể kiểm soát: Thay vì lo lắng về những điều ngoài tầm tay, người Stoic tập trung vào việc thay đổi thái độ, hành động và suy nghĩ của bản thân.

Chấp nhận số phận: Họ tin rằng mọi sự việc xảy ra đều có lý do và chấp nhận chúng một cách bình thản.

Sống có đạo đức: Người Stoic luôn hướng tới việc làm điều tốt và đóng góp cho cộng đồng.

Tự lập và kiên cường: Họ có khả năng tự lực cánh sinh và đối mặt với khó khăn một cách mạnh mẽ.

Bình tĩnh và lý trí: Ngay cả trong những tình huống căng thẳng, người Stoic vẫn giữ được sự bình tĩnh và lý trí
]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đây là bí mật lớn của học thuyết, một bí mật quá huyền-bí đến mức không thể công-khai, và cần phải được giữ kín hơn cả bảy con dấu. Nếu không, có thể gặp nguy hiểm lớn vì nếu bí mật này bị tiết lộ, nó sẽ bị biến thành sự hư không do sự tinh-vi của nó, và những người hâm mộ nó sẽ không thể nhận thức được nó. Do đó, thầy của học thuyết này khéo léo gọi đó là sự hoàn thiện nội tại, và tốt hơn là nói rằng đó là sự tập hợp của sự khôn ngoan được tinh chế, phải được giữ kín cẩn thận vì nó chứa toàn bộ nghệ thuật của sự giác ngộ [chống lại] sự liều lĩnh của những lời nguyền rủa, sự vô đạo của những kẻ vô thần, và toàn bộ sự ô uế của các giáo phái mới, đặc biệt là của Luther và Calvin [2 người tiến hành cuộc Kháng Cách, tức là cải cách Tôn giáo, dẫn đến sự ra đời của đạo Tin Lành]

Những ký ức cuối cùng của Thích Ca, khi ông để lại di chúc của ý nguyện cuối cùng, bao gồm những kho tàng quý giá của học thuyết đã tiêu tán của ông, đã được thực hiện bởi 10 học trò xuất sắc được chọn từ tất cả. Sau đó, người không xứng đáng này, để nói theo sự chỉ dẫn của ông, đã qua đời ở tuổi 80. Thi thể của ông được thiêu theo phong tục, giữa những loại gỗ thơm và quý giá nhất từ vùng Đông phương. Các môn đồ của ông, khi ông đã được công nhận như một vị thần, đã thu thập tất cả những gì còn lại của thi thể ông chưa bị lửa tiêu hủy và phân phát nó như những di tích quý giá trên mặt đất cho con người, trên trời cho các linh hồn, và dưới biển cho các con rồng. Tuy nhiên, họ đã giữ lại một chiếc răng, mà Thích Ca đã để lại như một di sản quý giá, gửi cho vua của Zeilano [Sri Lanka], người đã giữ nó như một món quà quý giá trong kho báu của mình. Sau đó, khi người Bồ Đào Nha vũ trang chống lại một kẻ độc tài trên hòn đảo này để phục hồi ngai vàng cho vua hợp pháp, họ đã thành công với sự giúp đỡ của Chúa, và với sự dũng cảm phi thường, họ đã đẩy lùi kẻ xâm lược và buộc hắn phải trốn chạy đến hòn đảo của Giafanapatano.

Tuy nhiên, cần phải cảnh báo một điều mà người báo cáo đã bỏ sót: chiếc răng được phát hiện và cho rằng là của Thích Ca, thực tế là của một người hầu của ông, người mà sau khi chết, đã được tin là đã hóa thành một con khỉ thông qua sự tái sinh. Vua của Zeilano, người đã biết về những kỳ công và phép lạ của ông trước khi sự biến hình này xảy ra, đã muốn giữ lại một chiếc răng để tưởng nhớ ông. Chiếc răng này đã được tôn sùng trên toàn Ấn Độ, và với số tiền mà vua Pegú? sẵn sàng trả cho Don Constantino de Braganza [một nhân vật lịch sử Bồ Đào Nha, nổi tiếng với vai trò là một quý tộc, nhà thám hiểm và nhà quản lý thuộc địa. Ông sinh năm 1528 và qua đời năm 1575], ông có thể đã để dành được một triệu, nhưng vàng không làm lay chuyển tâm hồn của vị vua quý giá hơn những vinh dự của đức tin so với kho báu của thế giới. Ông đánh giá cao các vinh dự của đức tin hơn là kho báu vật chất, và hy vọng rằng việc sở hữu chiếc răng này có thể giúp ông tiêu diệt thờ cúng thần thánh, làm cho đế chế của ông gia tăng các kho báu mới và nâng cao vị thế của ông như một nhà cai trị. Để làm điều này, ông đã quyết định đầu tiên nghiền nát chiếc răng trong cối rồi thiêu trong lửa thành tro, và cuối cùng, làm cho tất cả các tàn dư, kể cả các mảnh nhỏ nhất, trôi đi theo dòng sông, đến mức không còn một phân tử nào còn lại trong không khí để làm ô nhiễm nó.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về Thích Ca và giáo lý của ông, mười học trò của ông đã viết ra 5.000 cuốn sách, và những ai nghiên cứu và học hỏi những gì chứa đựng trong đó đều có quyền được xếp vào số các vị thần. Trong số những đệ tử đó, có một người được gọi là Cineli Tá Mo, người đã dành chín năm sống với mặt quay vào tường, chỉ để suy ngẫm về nguyên lý không khí của sự hư vô, với mong muốn xem liệu ông có thể làm cho các vị thần biến mất trong chính mình hay không, và ông đã sớm đạt được vinh dự thần thánh.

Không nên ngạc nhiên khi đọc rằng nhiều câu chuyện về Thích Ca có thể được kể bởi những học trò của ông, vì nếu tất cả những gì được nói về ông và giáo lý của ông được đưa vào kiểm-chứng, thì sẽ có nhiều Kinh sách giả mạo như số lượng học trò của ông đã viết ra. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên nếu việc hiểu về giáo lý của ông và chính bản thân ông sẽ đưa đến những điều mà không hề xảy ra hoặc không có thực. Tuy nhiên, câu chuyện này có thể được sử dụng để minh chứng cho thấy sự đa dạng của niềm tin nơi mà không có quy tắc chắc chắn về đức tin. Do đó, tôi sẽ cần thảo luận về vấn đề này một cách khác trong "Annua del Regno Lao," mà sẽ được đề cập ở một cuốn sách khác.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chương XI. GIÁO LÝ ĐẶC BIỆT VỀ LUÂN HỒI DO THÍCH CA TRUYỀN GIẢNG

Để tăng cường uy-tín cho giáo lý của mình, Thích Ca đã quyết định đưa ra những điều mới lạ và chưa từng nghe thấy, cho rằng càng nói mập-mờ thì càng làm cho giáo lý của mình trở nên huyền-bí hơn. Thật vậy, để giải thích giáo lý này, các đệ tử của ông đã phải nỗ lực rất nhiều trong các tác phẩm của họ, cố gắng bằng những lời bình luận làm cho nó trở nên dễ tin hơn và được công nhận là chân lý. Trước tiên, họ tuyên bố rằng vị Thầy của họ, để chứng tỏ quyền năng của mình, đã được biết đến qua các phép lạ, trong đó có việc ông đã trải qua tám mươi nghìn lần hóa thân thành nhiều loài động vật khác nhau, và lần hóa thân cuối cùng là thành một con voi trắng. Chính quan niệm này, vốn đã được xem là chân lý, là một trong những lý do khiến con voi trắng được các vị vua ở phương Đông coi trọng, như tôi đã từng đề cập.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở xứ Đàng Ngoài, quá trình hóa thân này được gọi là Lõân Hôy` [Luân Hồi], nhưng đối với những người bị định đoạt phải chịu khổ trong kiếp sau, quá trình này được gọi là Tràm Luân [Trầm Luân] (tức là "Bánh Xe"), bởi vì giống như bánh xe, các linh hồn bị kết án chịu khổ sẽ luân chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác, từ loài động vật này sang loài động vật khác.

Những người giảng dạy giáo lý về ngoại hình nói rằng trên thế giới có sáu nơi khác nhau, dựa trên sự khác biệt về hình dáng của những người sống ở đó. Do đó, khi ai đó chết ở thế giới này, họ sẽ tái sinh ở một trong sáu nơi đó, với hình dáng và diện mạo tương ứng của người dân ở nơi họ tái sinh. Và cứ thế, qua từng giai đoạn, bánh xe cuối cùng sẽ trở lại điểm bắt đầu, và người đó sẽ tái sinh ở thế giới này. Sau sáu lần được thanh lọc, lần thứ bảy sẽ trở nên hoàn thiện đến mức có thể chết lần cuối, bởi vì họ sẽ đạt đến điểm cuối cùng của sự bất biến, trở thành Pagòde [Phật], tức là một Thần tượng.

Một cách khác về thuyết Luân hồi được một số người khác giảng dạy là sự biến đổi phù hợp với những hành động của người bị luân hồi. Ví dụ, người tàn ác sẽ biến thành hổ, kẻ phản bội sẽ biến thành chó sói, người khôn ngoan sẽ biến thành cáo, người ít nói sẽ biến thành cá, và tương tự như vậy với các tật xấu hoặc đức hạnh khác. Trên thực tế, họ đã đi xa đến mức cho phép mọi người tin vào một hình thức Luân hồi tương tự như trong những biến đổi mà Ovidio [Ovidius Naso (Ovid, 43TCN-18SCN) là một nhà thơ La Mã nổi tiếng, sống vào thời kỳ Augustus. Ông được biết đến với những tác phẩm thơ ca đa dạng, đặc biệt là tập thơ "Biến hình" (Metamorphoses). Trong tập thơ này, Ovid kể lại những câu chuyện thần thoại Hy Lạp và La Mã, trong đó các nhân vật có thể biến hình thành những dạng sống khác nhau] đã mô tả, không chỉ giới hạn trong loài vật mà còn có thể biến thành cây cối.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Giáo lý này gợi cho tôi kể lại một sự kiện xảy ra tại xứ Đàng Trong vào năm 1632. Một trận mưa lớn kèm theo gió mạnh đã làm đổ một cây cổ thụ khổng lồ xuống đất. Đường kính của cây là 6 gang tay [nguyên văn: palmi, 1 palmi =25-30cm], và độ dày của thân cây vẫn đều từ gốc đến ngọn, với chiều dài 80 thước [nguyên văn là cubiti, một đơn vị đo chiều dài La Mã cổ đại. Nó được dựa trên khoảng cách từ khuỷu tay đến đầu ngón tay giữa của một người trưởng thành. Vì mỗi người có kích thước khác nhau nên cubiti không có một giá trị cố định chính xác. Tuy nhiên, nó thường được ước tính khoảng 45-50 cm]. Nó nặng đến mức một trăm người cũng không thể di chuyển được. Có người tin rằng đó là một Fauno [Fauno, tiếng Latinh Faunus; trong thần thoại La Mã, Faunus là vị thần rừng xanh, đồng cỏ và đàn súc vật. Ông được xem như là vị thần bảo hộ của người chăn nuôi và nông dân. Faunus thường được miêu tả với hình dáng một người đàn ông râu dài, chân có móng, mang theo sáo hoặc ống sậy] rừng già, một số khác lại nói rằng đó là một vị Đại tướng người Trung Quốc, đã chết một trăm năm trước và biến thành thân cây đó. Họ tin rằng cây ấy đã đến để tuyên chiến với xứ Đàng Trong, do đó, không ai dám cắt nó, mà để nó nằm đó chịu mưa nắng, cho rằng các yếu tố gây hại của thiên nhiên không thể xuyên qua lớp vỏ cứng và dày, chính là lớp áo giáp bảo vệ Fauno khỏi mọi hiểm nguy. Nhiều lần trong năm, tôi cũng đã thấy ở xứ Đàng Ngoài, trong các khu trại, những người dân ở đó nấu cơm trong một cái nồi lớn và dùng lá của một loại cây nào đó để làm đĩa và bát. Họ đổ cơm vào những chiếc đĩa và bát này rồi đặt dưới chân một cây nào đó, coi đó là bữa ăn dành cho người đã biến thành cây ấy, thể hiện lòng từ-bi với họ vì phải đứng lâu ngày và nhịn đói, đồng thời là dấu hiệu của lòng biết ơn vì bóng mát mà cây ấy mang lại cho những người tìm chỗ trú dưới tán lá.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thuyết Luân hồi mang tính suy-luận cao hơn mà họ tưởng tượng nằm ở trong tâm trí con người, khiến cho trí tuệ luôn tỉnh-táo và giữ cho các năng-lực khác của con người, như ý chí và cảm giác, luôn ở trong trạng thái hoạt động liên tục, không ngừng nghỉ. Họ tin rằng khi trí tuệ suy nghĩ thì nó đang sống, khi ý chí hành động thì trí tuệ tạm thời ngừng hoạt động và ý chí sống. Và khi cả hai đều ngừng hoạt động thì cả hai cùng chết đi và cùng với sự chết là sự mất đi của tồn tại. Họ không hiểu sự sống như triết gia phân biệt giữa sự sống trong trạng thái tiềm tàng và hiện thực, mà họ nhầm lẫn giữa hai khái niệm này, cho rằng trái tim chỉ bắt đầu sống và nhận sự tồn tại khi nó bắt đầu hoạt động, và khi hoạt động kết thúc, nó sẽ chết và mất đi sự tồn-tại. Điều này cũng áp dụng cho trí tuệ, ý chí và cảm giác. Trong quan niệm này, họ nói rằng ý nghĩ hoặc năng lực nội tại tạo ra sự tồn-tại cho tất cả các vật thể, tức là khi năng-lực đó thực hiện một hành động liên quan đến một vật thể nào đó, thì vật thể ấy sẽ nhận được sự tồn-tại. Trí tuệ bằng cách hiểu, trí tưởng tượng bằng cách hình dung, và những năng lực khác bằng cách lưu giữ những hình ảnh và khái niệm trong năng lực ấy, điều mà trường phái triết học của Thánh Tôma gọi là "Verbum Mentis" [Lời của Tâm trí] thuộc về trí-tuệ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Họ phân chia các đối tượng liên quan đến tình trạng của con người, mà con người thường suy nghĩ đến, thành mười loại. Sáu trong số đó được gọi là Nhà tù hoặc Địa ngục, thuộc về tình trạng của người thế tục. Bốn loại còn lại là Niết Bàn Cực Lạc, dành cho các vị tăng nhân [nguyên văn Bonzi: Bụt Tử], vì họ là những người sống trong thế gian mà như không thuộc về thế gian, cách biệt khỏi mọi cảm giác và những gì thuộc về thế giới. Họ cho rằng số phận của một người thế tục thật khốn khổ, khi mà trái tim của người ta liên tục bị tấn công bởi nhiều kẻ thù, những suy nghĩ, cảm xúc, và đam mê. Điều này buộc người ta phải luôn cảm thấy như mình đang ở trên một chiếc bánh xe quay không ngừng nghỉ, và nếu chiếc bánh xe này ngừng lại, nó chỉ ngừng lại trong một trong sáu đối tượng hoặc Địa ngục đã đề cập trước đó. Và đối tượng nào xuất hiện trước tiên thì đó chính là Địa ngục mà người ta sẽ rơi vào, nơi người ta sẽ trở nên giống như những cư dân ở đó. Sau đó, người ta sẽ tiếp tục đi qua các địa ngục khác cho đến khi kết thúc hành trình, chết đi, và theo cách đó, trở nên xứng đáng để tái-sinh và sống tốt hơn trước.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,196
Động cơ
698,590 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Người nào đã trải nghiệm và thấy rằng bên trong mình không còn suy nghĩ quấy rầy, không còn đam mê làm xao động, không còn khao khát làm khổ sở, và các năng lực của mình đã ngừng các hành động riêng, để anh ta trở nên đờ đẫn và nhập định như một người đứng ngoài thế giới này, thì người đó đã đạt đến điểm cuối cùng trước khi chết, chắc chắn về phần thưởng xứng đáng với công đức của mình, được trao cho danh hiệu Pagòde [Phật, A La Hán], đã trở thành một Thần tượng xứng đáng để được tôn thờ.

Triết gia của Thic’ Ca áp dụng lý thuyết này vào tất cả các hành động của những năng lực nội tại, dù là tri thức hay dục vọng hay trí tưởng tượng. Do đó, họ kết luận rằng khi những năng lực này ngừng hoạt động, thì những vật thể liên quan cũng mất đi sự tồn tại và chúng chết, đồng nghĩa với việc những hình ảnh và khái niệm được tạo ra bởi những năng lực đó cũng bị mất đi. Điều này có nghĩa là một người có thể trở thành bất kỳ điều gì mình muốn, miễn là họ hình dung ra những hình ảnh đó trong tâm trí. Nhưng nếu hỏi họ đâu là nguyên nhân ban đầu dẫn động cho triết lý của họ, thì họ cũng không thể đưa ra câu trả lời.

Với những lời vô cùng rối rắm này, họ có thể duy trì niềm tin vào sự sống của các tượng thần của mình, mặc dù các tượng thần có mắt nhưng không nhìn, có miệng nhưng không nói, và vẫn muốn rằng họ phải ăn uống và được bồi bổ. Khi họ giải thích cho người dân về những gì là các Cõi Ta Bà này, họ nói rằng Cõi đầu tiên chứa ba nơi để trừng phạt, và đó là các Dục vọng; Sự giận dữ, lòng tham và sự ngu dốt, chính là ba thế lực đáng sợ của địa ngục này. Khi một người sinh ra trong Cõi của thế giới này, họ nói rằng anh ta sinh ra với đầu hướng xuống dưới từ bụng mẹ, để bắt đầu hành trình đến nơi mà số phận đã định đoạt bởi tai họa của anh ta. Ở đó, có tám loại hình phạt, bao gồm: Cuộc sống, tuổi già, bệnh tật, nghèo khổ, bất hạnh, phiền muộn của tâm trí, đau đớn của thân xác và cái chết.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top