Thử quan lâm ế mật, 鼠關林翳
Lang tái giản oanh vu. 密狼塞澗縈紆
Nghĩa là:
Nơi Thử Quan rừng cây che kín,
Chốn Lang Tái khe suối quanh co.
Từ Khâu Ôn 丘溫 [ tức là Ải Chi Lăng, nay thuộc các huyện Chi Lăng và Hữu Lũng] đi về phía Đông Nam chừng mười mấy dặm rồi trèo đồi vượt núi về hướng Tây Nam, mới đầu tôi chỉ thấy những đồi cỏ tranh vàng úa và những rặng trúc kéo dài trên những triền núi hai bên đường, rồi thì đến rừng cây rậm-rạp, những dòng suối rộng chừng vài xích, nhưng cứ quanh-co hàng trăm khúc, có khi mới đi được trăm bước lại phải qua một lần lội suối, cũng có khi mới đi được nửa dặm là lại lội tiếp, cứ như vậy đến 60, 70 chỗ, rồi lại vượt qua một ngọn núi nữa,hai bên đường đầy những cây cổ thụ và những dây leo xanh ngăn ngắt, trổ hoa vàng rực-rỡ.
Có những tảng đá lớn nhô ra, những bụi giang nứa, những lùm cỏ cây rậm rạp, địa thế hết sức hiểm yếu, nơi đây gọi là ải “ Lão Thử 老鼠 ” [ Ải con chuột], đi về phía Tây, có những dãy núi rất đẹp hiện lên, đỉnh này sang đỉnh kia trùng trùng điệp điệp tưởng như không bao giờ vượt hết, đó gọi là núi Ký Lang 寄狼, nơi đây có những tảng đá xanh rì, những sười núi màu non xanh lam thẫm, những cây cối kỳ lạ, cành nhánh đan xen nhau kín mít, từng đàn chim Anh Vũ鸚鵡 , chim Công 孔雀 [ khổng Tước] vừa bay vừa lên tiếng gọi nhau. Các loài khỉ, vượn thì nhiều vô kể, đi khoảng 30 dặm nữa [ cỡ khoảng 15km] thì tới một cửa ải gọi là ải “Thích Trúc 刺竹關” [ Ải tre trúc], dưới ải có lính canh giữ, trên cửa ải có 2 quả núi giao nhau, đường đèo chỉ đi lọt 1 con ngựa. Những cây tre to đến 2 xích [ 60cm], đầy gai sắc nhọn, có lẽ nơi này là nơi hiểm yếu, nước [ Đại Việt] dùng để chống đỡ mọi sự bất trắc vậy. [ tác giả nói kín đáo, ý là quân Nguyên có đánh thì cũng thảm bại thôi].