Thơ rằng:
Ngụ huyện thương phân trở, 寓縣傷分阻
Sinh linh khốn độc phô. 生靈困毒痡
Vũ giai do vị cách, 舞階猶未格
Chiết giản khởi năng hô. 折簡豈能呼
Đạ xã sơ truyền mã, 大社初傳禡
Viên môn hợp thụ phù. 轅門合受俘
Tì hưu vi yển tập, 貔貅微偃戢
Xà thỉ ngẫu đào bô. 蛇豕偶逃逋
Thiên dĩ tồ cừ ác, 天已殂渠惡
Dân do phụng tiếm sồ. 民猶奉僭雛
Thế như Thuần cứ Lũng, 勢如純據隴
Chính dĩ Hạo vong Ngô. 政似皓亡吳
Phượng trát trùng tuyên lệnh, 鳳札重宣令狼
Lang tâm cánh phục cô. 狼心更伏辜
Hạnh năng khoan phủ chất, 幸能寛斧鑕
Do tự luyến nê đồ. 猶自戀泥塗
Hiến tụng tôn Thiên tử, 獻頌尊天子
Đằng chương khiển đại phu. 騰章遣大夫
Trượng đề ngôn khả đính, 象鞮言可訂
Đố sách sự phi vu. 蠧冊事非誣
Công dục thu biên kiếu, 功欲收邊徼
Uy tu trượng miếu mô. 威須仗廟謨
Mộc huân trần tử thập, 沐熏陳此什
Lễ bộ tiểu thần Phu. 禮部小臣孚
Nghĩa là:
Ở huyện cách xa-xôi hiểm yếu cảm thấy nhớ nhà,
Sinh linh còn bị đau khổ.
Múa [ can, vũ] ở thềm mà [ Hữu Miêu] còn chưa thấy đến. (Câu này tác giả dùng ẩn ý, muốn dựa vào thiên Đại Vũ mô trong Kinh thư: “vũ can vũ mô lưỡng giai” nghĩa là múa cái Can cái Vũ ở 2 bên thềm, Can và Vũ là 2 thứ binh khí tượng trưng cho thuẫn và quạt trong các điệu múa, lấy tích từ thời vua Thuấn, có Hữu Miêu làm phản, Thuấn bèn sửa sang văn đức, múa Can-Vũ ở 2 bên thềm 70 ngày liền, Hữu Miêu do đó mà quy thuận vào chầu. Tác giả muốn nói vua Nguyên cũng lấy cái VĂn-Đức để đối-xử với vua Trần, nhưng vua Trần vẫn không sang chầu, tức là chưa chịu thuần-phục nhà Nguyên],
[ Thế thì] chỉ dùng thư từ, chiếu thư [ gửi đi] làm sao có khả-năng [ gọi vua Trần] đến [ chầu] được. (Năm 1289, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt sai 2 sứ giả là Lưu Đình Trực và Lý Tư Diễn đến Đại Việt đòi thả hết tù binh và yêu cầu vua Trần vào chầu, nhưng vua Trần khôn-khéo từ chối, lấy lí do sợ đường xa, thủy-thổ không hợp, chết khi không kịp đến nơi. Năm 1292, vua Nguyên lại sai Trương Lập Đạo và Buyan Tamur sang sứ đòi vua Trần Nhân Tông sang chầu, vua Trần vẫn lấy lí-do không hợp thủy-thổ, đường xa, chết vô-ích. Và lần này, tác giả cũng không thuyết phục được vua Trần sang chầu).
[ Trước đây] khi trên nền Xã lớn đã làm lễ tế Mã, [ Xã là cái nền để cúng tế, Mã là tế lễ khi chuẩn bị hành quân đánh nhau, ý tác giả nói trước đây nhà Nguyên đã mấy lần đem quân sang đánh],
[ Thì] ở cửa doanh trại cũng nhận được tù binh [ do Đại Việt] trao trả. [ Câu này tác giả nói Đại Việt có lòng nhân-đạo chăng?].
Nay quân đội dũng mãnh [ như] hùm sói đang tạm nghỉ ngơi,
Nên là [ kẻ địch bạo-ngược] như rắn như lợn mới có cơ trốn tránh.
Trời đã làm chết tên cầm đầu hung ác, [ tức vua Trần Thánh Tông, mất năm 1290, quân Nguyên thảm bại dưới tay ông 2 lần],
Nhưng mà [ nói thật] dân vẫn tôn-phụng tiếm vương nhỏ tuổi [ như gà con] [ Đúng vào lúc tác giả sang sứ thì vua Trần Anh Tông lên ngôi, mới 17 tuổi, mọi việc vẫn do Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông chỉ đạo].
Ở cái thế như Thuần chiếm cứ đất Lũng, [ Lũng là vùng Thiểm Tây, Cam Túc, câu này ý nói chưa thể tiến đánh Đại Việt bây giờ được, trích từ câu 君隴不能守, 尚望蜀耶? Quân Lũng bất năng thủ, thượng vọng Thục đa? không giữ được đất Lũng, còn mong được đất Thục ư?]
Việc chính-sự rồi đây cũng như Hạo làm mất nước Ngô. [ Tôn Hạo, cháu Tôn Quyền, vì không sửa sang chính sự nên lúc quân nhà Tấn đến đánh, đã phải đầu hàng, nước Ngô mất, tác giả muốn nói quân Nguyên không cần đánh ngay, hãy cứ đợi vua Trần mà không chăm lo chính sự, dần dần sẽ mất nước].
Khi mang tờ Phượng Chiếu [ chiếu của vua] đến tuyên bố mệnh lệnh lần thứ hai, [ chỉ lần trước 1292 và lần này],
Thì kẻ lòng lang [ dạ sói] kia mới chịu vâng phục. [ Tuy vua Trần không sang chầu, nhưng cũng không thể làm mất mặt đoàn sứ giả, để tránh những rắc rối ngoại giao, tạo cớ cho quân Nguyên sang xâm lược, nên vua Trần Anh Tông đã rất mềm mỏng với đoàn sứ của tác giả, trong biểu thư trả lời, ông viết: “ngày 14 tháng hai năm nay, Thần được thấy sứ giả của Thiên triều là Lại bộ Thượng thư Lương Tăng và Lang trung Lễ bộ Trần Phu (tác giả) vâng mệnh mang thiên chiếu sang tiểu quốc. Thần kính sợ đem tông tộc, quan lại lên đường, đốt hương đón tiếp. Nay đọc Thiên Chiếu nói tội lỗi thần đã nhận, Hoàng đế đại-xá, Thánh thiên tử độ-lượng khoan hồng như thế, thần đẳng vui sướng không biết nhường nào?].
May được khoan hồng tha cho tội phải chịu búa rìu hành hình,
Nhưng bản thân vẫn tiếc cái chốn bùn lầy [ cả 2 câu thơ này tác giả nói vua Trần Nhân Tông, dù đã rất mềm-mỏng, nhưng cũng vẫn cương-quyết từ chối sang chầu, tác giả nói lý do].
Nay xin dâng lời [ tán] tụng [ của vua Trần] để kính dân Thiên tử [ vua Nguyên]
Đã sai quan đại phu mang chiếu, sắc thư đi. [ Chỉ tác giả]
Những lời phiên dịch có thể là chắc chắn, [ sau mỗi cuộc thương-thảo, khi về chỗ nghỉ, các sứ giả yêu cầu viên quan làm nhiệm vụ phiên dịch rà-soát lại toàn bộ ghi chép, đính-chính và sửa-chữa nếu thấy sai]
Việc ghi chép trong sách cũng không thể dám dối lừa [ vua Nguyên].
Muốn thu [ xếp] công việc ngoài chốn biên ải xa xôi,
Còn phải nhờ mưu-lược nơi Triều đình [ nhà Nguyên].
[ Nay thần] tắm gội, xông hương [ thơm] kính cẩn dâng tập thơ này,
Kẻ bầy tôi nhỏ mọn tên là [ Trần] Phu, làm quan bộ Lễ.