- Biển số
- OF-302370
- Ngày cấp bằng
- 20/12/13
- Số km
- 9,879
- Động cơ
- 73 Mã lực
Hitler đã “sập bẫy” Stalingrad như thế nào?
Cách đây 70 năm, Hồng quân Liên Xô đã mở chiến dịch tấn công, bao vây, tiêu diệt đại quân Đức ở Stalingrad, làm xoay chuyển cục diện trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Trận Stalingrad bắt đầu từ ngày 17/7/1942 đến ngày 2/2/1943, kéo dài 200 ngày đêm là trận đánh qui mô nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại. Trong chiến dịch này đã có gần một triệu chiến sĩ Hồng quân bị thương vong và quân đội của khối phátxít mất ở Stalingrad ¼ lực lượng triển khai trên mặt trận Xô-Đức.
Những toan tính chiến lược
Việc chiếm được thành phố Stalingrad có tầm quan trọng rất lớn đối với Hitler và cả Mussolini vì hai lý do chính.
Thứ nhất, đây là một thành phố công nghiệp lớn nằm trên sông Volga - con đường giao thông vận tải mang tầm quan trọng chiến lược nối liền Biển Caspi và miền Bắc nước Nga. Vì vậy việc để mất Stalingrad vào tay phát xít Đức sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng vận chuyển hàng hóa đến phía Bắc của đất nước.
Thứ hai, việc đánh chiếm Stalingrad sẽ củng cố sườn phía Đông của quân Đức vốn đang tiến nhanh về vựa dầu tại vùng Kavkaz với mục tiêu cắt đứt nguồn cung ứng dầu hỏa cho Hồng quân Liên Xô. Thêm nữa, thành phố này mang tên Stalin, việc đánh chiếm thành phố này cũng sẽ là một thắng lợi quan trọng về mặt tinh thần.
Trái với Hitler, vốn cho rằng việc đánh chiếm được Stalingrad có ý nghĩa biểu tượng và đánh gục tinh thần của Hồng quân Liên Xô, Stalin tỏ ra thực dụng hơn nhiều.
Ngày 12/9/1942, khi Hitler ra lệnh cho Tư lệnh Tập đoàn quân số 6 của tướng Friedrich Paulus đánh chiếm Stalingrad bằng mọi giá, Đại nguyên soái Stalin tiếp hai vị tướng Zhukov und Vassilevsky, Tổng tham mưu trưởng quân đội. Lúc đầu, cuộc họp này bàn về cách ngăn chặn đà tiến của quân Đức, với các cuộc phản công nhỏ không mấy thành công mà còn bị tiêu hao nhiều sinh lực. Sau đó, Stalin yêu cầu hai viên tướng đề xuất “giải pháp khác” và cho họ một ngày để suy nghĩ.
Sau khi suy nghĩ riêng rẽ, hai vị tướng đều đi đến kết luận “phải thay đổi triệt để cục diện chiến lược ở miền Nam nước Nga”, tấn công quân đội Rumani khá yếu đang bảo vệ sườn của Tập đoàn quân số 6 của Đức, bằng lực lượng xe tăng. Đồng thời, bao vây và tiêu diệt toàn bộ lực lượng Đức đã đột nhập vào khu vực Kavkaz.
Đại nguyên soái Stalin hứa sẽ cung cấp các sư đoàn cần thiết cũng như xe tăng, trọng pháo. Đồng thời, ông yêu cầu hai vị tướng “giữ bí mật tuyệt đối quyết định chiến lược” tiến hành chiến dịch “Sao Thiên vương”.
Trong khi quân Đức giành giật từng ngôi nhà góc phố với các chiến sĩ Hồng quân cảm tử ở Stalingrad, các vị tướng lĩnh hàng đầu của Đại nguyên soái Stalin đã chuẩn bị sẵn một cuộc phản công có tính chất quyết định và Hitler đã đâm đầu…vào bẫy.
Dùng cả một tập đoàn quân là mồi nhử
Chiến dịch tấn công Stalingrad của phát xít Đức tiến triển nhanh vào giai đoạn nửa sau năm 1942 dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của không quân. Những trận oanh tạc của Không quân Đức đã biến phần lớn thành phố Stalingrad thành đống đổ nát. Tuy nhiên quân đội phát xít Đức nhanh chóng bị sa lầy trong những trận đánh đẫm máu trên đường phố và trong từng căn nhà. Mặc dù đã kiểm soát 90% thành phố, nhưng quân Đức đã hoàn toàn thất bại trong việc triệt tiêu những ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân Liên Xô vốn bám trụ một cách vững chắc và kiên cường bên bờ Tây sông Volga, trong khi thời tiết khắc nghiệt của mùa Đông nước Nga đang đến gần.
Trước sức kháng cự kiên cường của Hồng quân, quân Đức đã chịu những thiệt hại rất nặng nề khi tiến sâu vào nội đô Stalingrad. Tập đoàn quân 62 của Trung tướng V. I. Chuikov đã bám trụ trong thành phố bảo vệ từng thước đất thực sự theo đúng khẩu hiệu “không lùi một bước”. Đến ngày 12/9/1942, Tập đoàn quân số 62 chỉ còn 90 xe tăng, 700 pháo cối và 2 vạn binh sĩ.
Tư lệnh Tập đoàn quân 62 đã nhiều lần xin rút quân sang bên kia bờ sông Volga để thoát khỏi “địa ngục Stalingrad”. Nhưng Đại nguyên soái Stalin đã không chấp thuận và tướng Chuikov đã chỉ huy quân sĩ tử thủ, đôi khi chỉ cách quân Đức có 100m. Trong thế trận cài răng lược ở Stalingrad, ưu thế về máy bay trọng pháo của quân Đức đã mất tác dụng.
Trong cuốn hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm” của mình, Nguyên soái Zhukov
tiết lộ rằng Tập đoàn quân 62 chính là “mồi nhử” đại quân Đức kéo đến
Stalingrad. Ảnh 24warez.ru. Trong khi đó, Đại tướng Zhukov cần có thời gian ít nhất là 45 ngày để chuẩn bị cho chiến dịch “Sao Thiên vương”. Chính vì vậy mà ông đã bác bỏ yêu cầu tăng viện cho Tập đoàn quân 62 của tướng Chuikov đang tử thủ ở Stalingrad. Sau này, trong cuốn hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm” của mình, Nguyên soái Zhukov tiết lộ rằng Tập đoàn quân 62 chính là “mồi nhử” đại quân Đức kéo đến Stalingrad.
Âm thầm chuẩn bị phản công
Chiến dịch phản công mang tên “Uranus” (Sao Thiên vương) đã được chuẩn bị kỹ càng trong vòng hai tháng. Trong điều kiện bí mật cao độ, các đơn vị từ Tây Siberia được điều động về mặt trận Stalingrad, tạo thành lực lượng tấn công hùng mạnh.
Khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô cũng chạy hết công suất. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1942, Liên Xô đã sản xuất được 13.000 xe tăng, trong khi phía Đức chỉ sản xuất được 6.000 xe tăng.
Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn ngủi, Hồng quân Liên Xô đã tập trung được hơn 1 triệu quân, 14.000 trọng pháo, 1.000 xe tăng và 1.350 máy bay chiến đấu để tiến hành chiến dịch “Sao Thiên vương”. Đây là một đạo quân tinh nhuệ được huấn luyện kỹ càng và thậm chí các phi công còn được tập luyện thuần thục các phương án tấn công mục tiêu trong đêm.
Thành tích lớn nhất của các nhà hoạch định chiến lược Liên Xô thời đó là âm thầm vận chuyển bộ máy chiến tranh khổng lồ nói trên ra mặt trận. Các cuộc chuyển quân đều được thực hiện trong đêm và mệnh lệnh được các liên lạc viên truyền trực tiếp, chứ không qua máy vô tuyến điện. Đồng thời, Hồng quân cũng tăng cường hoạt động ở các mặt trận khác nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của Bộ chỉ huy quân đội Đức.
Chiến dịch Sao Thiên vương
Ngày 19/11/1942, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Sao Thiên Vương, một đợt tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn của Tập đoàn quân Đức số 6 ở Stalingrad. Đòn tấn công này đã hoàn toàn thay đổi cục diện của trận đánh: cạnh sườn yếu kém của quân Đức nhanh chóng sụp đổ tan tành và 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 bị bao vây trong nội đô Stalingrad. Đầu tháng 2 năm 1943, sức kháng cự của khối quân này hoàn toàn bị dập tắt, và Tập đoàn quân số 6 bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 2/2/1943.
Trong hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm”, Nguyên soái G.K.Zhukov đưa ra con số tổn thất của quân Đức trong cả Mặt trận Volga (bao gồm Stalingrad và phụ cận) là gần 1,5 triệu người, khoảng 3.500 xe tăng và pháo tự hành, 12.000 khẩu đại bác và cối, gần 3.000 máy bay, một số lớn khí tài quân sự.
Về việc cả một tập đoàn quân chủ lực như Tập đoàn quân số 6 bị bắt và tiêu diệt ở Stalingrad, Hitler và Bộ chỉ huy quân đội Đức đã bị bất ngờ. Trước đó, phía Đức vẫn cho rằng Hồng quân không còn khả năng phản công. Theo phân tích của tình báo Đức, tất cả các lực lượng dự bị chiến lược của Hồng quân đã bị đánh tan tác trong các cuộc tấn công của quân Đức trong năm 1942.
Do quá chủ quan khinh địch, hồi tháng 9/1942, Hitler đã cách chức lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu lục quân Đức của Đại tướng Franz Halder, sau khi viên tướng này ra sức cảnh báo hiểm họa ngày càng gia tăng dọc theo hai bên sườn vốn được dàn ra quá rộng của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn xe tăng 4.
Đại thắng Stalingrad được xem là bước ngoặt quyết định về chính trị, quân sự và tâm lý của Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là lần đầu tiên quân phát xít Đức “bách chiến, bách thắng” bị đánh bại trong một trận đánh tiêu diệt lớn, với gần 1/4 quân số toàn chiến trường Xô-Đức bị tiêu diệt. Tổn thất về lực lượng và phương tiện chiến tranh đó đã làm rung chuyển tận gốc cỗ máy chiến tranh của nước Đức.
Cách đây 70 năm, Hồng quân Liên Xô đã mở chiến dịch tấn công, bao vây, tiêu diệt đại quân Đức ở Stalingrad, làm xoay chuyển cục diện trong Chiến tranh thế giới thứ 2.
Trận Stalingrad bắt đầu từ ngày 17/7/1942 đến ngày 2/2/1943, kéo dài 200 ngày đêm là trận đánh qui mô nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại. Trong chiến dịch này đã có gần một triệu chiến sĩ Hồng quân bị thương vong và quân đội của khối phátxít mất ở Stalingrad ¼ lực lượng triển khai trên mặt trận Xô-Đức.
Những toan tính chiến lược
Việc chiếm được thành phố Stalingrad có tầm quan trọng rất lớn đối với Hitler và cả Mussolini vì hai lý do chính.
Thứ nhất, đây là một thành phố công nghiệp lớn nằm trên sông Volga - con đường giao thông vận tải mang tầm quan trọng chiến lược nối liền Biển Caspi và miền Bắc nước Nga. Vì vậy việc để mất Stalingrad vào tay phát xít Đức sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng vận chuyển hàng hóa đến phía Bắc của đất nước.
Thứ hai, việc đánh chiếm Stalingrad sẽ củng cố sườn phía Đông của quân Đức vốn đang tiến nhanh về vựa dầu tại vùng Kavkaz với mục tiêu cắt đứt nguồn cung ứng dầu hỏa cho Hồng quân Liên Xô. Thêm nữa, thành phố này mang tên Stalin, việc đánh chiếm thành phố này cũng sẽ là một thắng lợi quan trọng về mặt tinh thần.
Trái với Hitler, vốn cho rằng việc đánh chiếm được Stalingrad có ý nghĩa biểu tượng và đánh gục tinh thần của Hồng quân Liên Xô, Stalin tỏ ra thực dụng hơn nhiều.
Ngày 12/9/1942, khi Hitler ra lệnh cho Tư lệnh Tập đoàn quân số 6 của tướng Friedrich Paulus đánh chiếm Stalingrad bằng mọi giá, Đại nguyên soái Stalin tiếp hai vị tướng Zhukov und Vassilevsky, Tổng tham mưu trưởng quân đội. Lúc đầu, cuộc họp này bàn về cách ngăn chặn đà tiến của quân Đức, với các cuộc phản công nhỏ không mấy thành công mà còn bị tiêu hao nhiều sinh lực. Sau đó, Stalin yêu cầu hai viên tướng đề xuất “giải pháp khác” và cho họ một ngày để suy nghĩ.
Sau khi suy nghĩ riêng rẽ, hai vị tướng đều đi đến kết luận “phải thay đổi triệt để cục diện chiến lược ở miền Nam nước Nga”, tấn công quân đội Rumani khá yếu đang bảo vệ sườn của Tập đoàn quân số 6 của Đức, bằng lực lượng xe tăng. Đồng thời, bao vây và tiêu diệt toàn bộ lực lượng Đức đã đột nhập vào khu vực Kavkaz.
Đại nguyên soái Stalin hứa sẽ cung cấp các sư đoàn cần thiết cũng như xe tăng, trọng pháo. Đồng thời, ông yêu cầu hai vị tướng “giữ bí mật tuyệt đối quyết định chiến lược” tiến hành chiến dịch “Sao Thiên vương”.
Trong khi quân Đức giành giật từng ngôi nhà góc phố với các chiến sĩ Hồng quân cảm tử ở Stalingrad, các vị tướng lĩnh hàng đầu của Đại nguyên soái Stalin đã chuẩn bị sẵn một cuộc phản công có tính chất quyết định và Hitler đã đâm đầu…vào bẫy.
Dùng cả một tập đoàn quân là mồi nhử
Chiến dịch tấn công Stalingrad của phát xít Đức tiến triển nhanh vào giai đoạn nửa sau năm 1942 dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của không quân. Những trận oanh tạc của Không quân Đức đã biến phần lớn thành phố Stalingrad thành đống đổ nát. Tuy nhiên quân đội phát xít Đức nhanh chóng bị sa lầy trong những trận đánh đẫm máu trên đường phố và trong từng căn nhà. Mặc dù đã kiểm soát 90% thành phố, nhưng quân Đức đã hoàn toàn thất bại trong việc triệt tiêu những ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân Liên Xô vốn bám trụ một cách vững chắc và kiên cường bên bờ Tây sông Volga, trong khi thời tiết khắc nghiệt của mùa Đông nước Nga đang đến gần.
Trước sức kháng cự kiên cường của Hồng quân, quân Đức đã chịu những thiệt hại rất nặng nề khi tiến sâu vào nội đô Stalingrad. Tập đoàn quân 62 của Trung tướng V. I. Chuikov đã bám trụ trong thành phố bảo vệ từng thước đất thực sự theo đúng khẩu hiệu “không lùi một bước”. Đến ngày 12/9/1942, Tập đoàn quân số 62 chỉ còn 90 xe tăng, 700 pháo cối và 2 vạn binh sĩ.
Tư lệnh Tập đoàn quân 62 đã nhiều lần xin rút quân sang bên kia bờ sông Volga để thoát khỏi “địa ngục Stalingrad”. Nhưng Đại nguyên soái Stalin đã không chấp thuận và tướng Chuikov đã chỉ huy quân sĩ tử thủ, đôi khi chỉ cách quân Đức có 100m. Trong thế trận cài răng lược ở Stalingrad, ưu thế về máy bay trọng pháo của quân Đức đã mất tác dụng.
tiết lộ rằng Tập đoàn quân 62 chính là “mồi nhử” đại quân Đức kéo đến
Stalingrad. Ảnh 24warez.ru. Trong khi đó, Đại tướng Zhukov cần có thời gian ít nhất là 45 ngày để chuẩn bị cho chiến dịch “Sao Thiên vương”. Chính vì vậy mà ông đã bác bỏ yêu cầu tăng viện cho Tập đoàn quân 62 của tướng Chuikov đang tử thủ ở Stalingrad. Sau này, trong cuốn hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm” của mình, Nguyên soái Zhukov tiết lộ rằng Tập đoàn quân 62 chính là “mồi nhử” đại quân Đức kéo đến Stalingrad.
Âm thầm chuẩn bị phản công
Chiến dịch phản công mang tên “Uranus” (Sao Thiên vương) đã được chuẩn bị kỹ càng trong vòng hai tháng. Trong điều kiện bí mật cao độ, các đơn vị từ Tây Siberia được điều động về mặt trận Stalingrad, tạo thành lực lượng tấn công hùng mạnh.
Khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô cũng chạy hết công suất. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1942, Liên Xô đã sản xuất được 13.000 xe tăng, trong khi phía Đức chỉ sản xuất được 6.000 xe tăng.
Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn ngủi, Hồng quân Liên Xô đã tập trung được hơn 1 triệu quân, 14.000 trọng pháo, 1.000 xe tăng và 1.350 máy bay chiến đấu để tiến hành chiến dịch “Sao Thiên vương”. Đây là một đạo quân tinh nhuệ được huấn luyện kỹ càng và thậm chí các phi công còn được tập luyện thuần thục các phương án tấn công mục tiêu trong đêm.
Thành tích lớn nhất của các nhà hoạch định chiến lược Liên Xô thời đó là âm thầm vận chuyển bộ máy chiến tranh khổng lồ nói trên ra mặt trận. Các cuộc chuyển quân đều được thực hiện trong đêm và mệnh lệnh được các liên lạc viên truyền trực tiếp, chứ không qua máy vô tuyến điện. Đồng thời, Hồng quân cũng tăng cường hoạt động ở các mặt trận khác nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của Bộ chỉ huy quân đội Đức.
Chiến dịch Sao Thiên vương
Ngày 19/11/1942, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Sao Thiên Vương, một đợt tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn của Tập đoàn quân Đức số 6 ở Stalingrad. Đòn tấn công này đã hoàn toàn thay đổi cục diện của trận đánh: cạnh sườn yếu kém của quân Đức nhanh chóng sụp đổ tan tành và 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 bị bao vây trong nội đô Stalingrad. Đầu tháng 2 năm 1943, sức kháng cự của khối quân này hoàn toàn bị dập tắt, và Tập đoàn quân số 6 bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 2/2/1943.
Trong hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm”, Nguyên soái G.K.Zhukov đưa ra con số tổn thất của quân Đức trong cả Mặt trận Volga (bao gồm Stalingrad và phụ cận) là gần 1,5 triệu người, khoảng 3.500 xe tăng và pháo tự hành, 12.000 khẩu đại bác và cối, gần 3.000 máy bay, một số lớn khí tài quân sự.
Về việc cả một tập đoàn quân chủ lực như Tập đoàn quân số 6 bị bắt và tiêu diệt ở Stalingrad, Hitler và Bộ chỉ huy quân đội Đức đã bị bất ngờ. Trước đó, phía Đức vẫn cho rằng Hồng quân không còn khả năng phản công. Theo phân tích của tình báo Đức, tất cả các lực lượng dự bị chiến lược của Hồng quân đã bị đánh tan tác trong các cuộc tấn công của quân Đức trong năm 1942.
Do quá chủ quan khinh địch, hồi tháng 9/1942, Hitler đã cách chức lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu lục quân Đức của Đại tướng Franz Halder, sau khi viên tướng này ra sức cảnh báo hiểm họa ngày càng gia tăng dọc theo hai bên sườn vốn được dàn ra quá rộng của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn xe tăng 4.
Đại thắng Stalingrad được xem là bước ngoặt quyết định về chính trị, quân sự và tâm lý của Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là lần đầu tiên quân phát xít Đức “bách chiến, bách thắng” bị đánh bại trong một trận đánh tiêu diệt lớn, với gần 1/4 quân số toàn chiến trường Xô-Đức bị tiêu diệt. Tổn thất về lực lượng và phương tiện chiến tranh đó đã làm rung chuyển tận gốc cỗ máy chiến tranh của nước Đức.