[Funland] Các loại ngư lôi, tên lửa chống hạm, đạn đạo và hành trình đe dọa TSB

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Brahmos treo dưới bụng Su-30MKI

Tên lửa chống hạm siêu âm Brahmos
Trong cuộc thử nghiệm , tên lửa được bắn từ một tàu hải quân Ấn ngoài khơi biển Vishakhapatnam , vịnh Bengal trong lần thử nghiệm thứ 34
Tên lửa đã bay 1 quỹ đạo cơ động hình chữ S và nhấn chìm tàu mục tiêu sau khi xuyên qua thân tàu . Ấn Độ gần đây đã nâng cấp tên lửa Brahmos bằng hệ thống định vị toàn cầu GLONASS-GPS thay thế nền tảng định vị bằng sóng dopple và quán tính
Sau khi bám mục tiêu , tên lửa bay nhanh về mục tiêu với độ chính xác cao nhờ hệ thống định vị cung cấp tọa độ liên tục
Brahmos có tầm bắn 290km , mang một đầu đạn thông thường nặng đến 300kg ( 660lbs ) . Nó có thể bắn hạ các mục tiêu có độ cao thấp 10m và có tốc độ tối đa 2.8 Mach nhanh gấp 3 lần so với tên lửa hành trình Tomahawk của Mỹ
Tên lựa chế tạo dựa trên thiết kế tên lửa chống hạm 3M55 Yakhont (SS-N-26) của Nga . Các phiên bản bờ biển và trên tàu đã được đưa vào phục vụ hải quân Ấn
Phiên bản cho máy bay chiến đấu đã thử nghiệm xong vào cuối năm 2012, sẽ được trang bị cho 40 chiếc Su-30MKI chuẩn SuperSukhoi
Nga và Ấn Độ đã đồng ý phát triển phiên bản Brahmos-2 siêu vượt âm với tốc độ Mach 5-7

http://en.rian.ru/military_news/20130109/178664783.html
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Sonar Mỹ lại có vấn đề ! thế này thì Tàu Nga nó cười mãi ko dứt, nhóm hộ tống mà Tàu Aegis thì va tàu hàng Nhật, va tàu ngầm. Rồi giờ tới lượt tàu ngầm va tàu "lạ"

Tàu ngầm hạt nhân Mỹ va phải "tàu lạ"


(Kienthuc.net.vn) - Tàu ngầm hạt nhân tấn công của Mỹ va chạm với "tàu lạ" tại khu vực vùng Vịnh Péc Xích.

"Không ai bị thương khi kính tiềm vọng của tàu ngầm hạt nhân USS Jacksonville (SSN 699) thuộc lớp Los Angeles va vào một chiếc tàu không xác định vào khoảng 5h sáng (theo giờ địa phương) ngày hôm qua”, đại diện Hải quân Mỹ tuyên bố.


Một trong 2 kính tiềm vọng của tàu ngầm USS Jacksonville bị hư hại nhẹ. Hiện cơ quan chức năng Mỹ tiếp tục điều tra vụ va chạm trên.

Tàu ngầm hạt nhân tấn công USS Jacksonville.
Theo giới chức Mỹ, sau khi xảy ra cuộc va chạm tàu Jacksonville đã nổi lên để xem liệu có thiệt hại nào đối với con tàu không xác định này không. Tuy nhiên, con tàu đó vẫn tiếp tục di chuyển mà không hề thay đổi vận tốc. Đây là một dấu hiệu cho thấy không có tai nạn hoặc con tàu này không hề hay biết gì về vụ va chạm với tàu ngầm hạt nhân.


Sau đó, máy bay hải quân P-3C Orion của Mỹ đã bay tìm kiếm nhưng họ phát hiện ra "không có mảnh vỡ nào trên mặt biển cũng như xác định được chiếc tàu nào gặp tai nạn".


Mực nước ở vùng vịnh Péc Xích tương đối nông (trung bình có độ sâu khoảng 50m) và đôi khi nó có thể gây khó khăn cho tàu ngầm thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt, nó sẽ gặp khó khăn khi một số lượng lớn các tàu mặt nước cùng nhiều lính thủy cùng triển khai lực lượng ở đây.


Trước đó, Hải quân Mỹ cho hay, một trong những tàu khu trục mang tên lửa của nước này cũng va chạm với một tàu chở dầu thuộc của Nhật Bản tại eo biển Hormuz vào tháng 8/2012. Tuy nhiên không có ai bị thương trong cuộc va chạm này.

http://kienthuc.net.vn/tin-tuc-quan-su/201301/Tau-ngam-hat-nhan-My-va-phai-tau-la-891102/
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
BrahMos – "mãnh thú" không thể ngăn chặn
Tên lửa siêu vượt âm BrahMos của Ấn Độ lại một lần nữa chứng tỏ sức công phá khủng khiếp của mình khi xuyên thủng thân một con tàu rồi mới phá tan nó.



Ngày 09/01, tờ “Thời báo Ấn Độ” (Hindustan Times) cho biết, Ấn Độ đã thử nghiêm thành công tên lửa siêu vượt âm BrahMos có tầm bắn 290km. Quả tên lửa hành trình siêu vượt âm có tính năng cơ động rất cao này được phóng đi từ khu vực bờ biển phụ cận Visakhapatnam ở vịnh Bengal.
Ông A Sivathanu Pillai, Giám đốc điều hành công ty BrahMos Aerospace cho biết: “Vào lúc 09h30 ngày 09/01, tên lửa BrahMos đã điểm hỏa bay lên theo đúng ý tưởng tác chiến đã định. Trong hành trình, nó 2 lần cơ động đổi hướng bay như một con rắn rồi lao đến tàu mục tiêu, điểm chạm là phần thân tàu cách mặt nước đúng 1m. Do tốc độ bay cực lớn, lực xuyên phá rất mạnh nên nó đã xuyên thủng con tàu rồi mới phá hủy mục tiêu”.
Đây là lần phóng thử thành công lần thứ 34 của Ấn Độ, thử nghiệm gần đây nhất diễn ra vào tháng 10/2012. Khi đó, hải quân Ấn Độ cũng bắn thử thành công loại tên lửa này trên tàu khu trục tên lửa lớp “Tiger”. Thông tin thêm cho biết, sau khi kết thúc thử nghiệm, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A.K.Anthony đã đến chúc mừng thuyền trưởng tàu thử nghiệm và “nhóm công tác BrahMos”.

Biến thể BrahMos-A trang bị cho máy bay tiêm kích Su-30MKI đã biến nó trở thành
máy bay tiêm kích hàng đầu thế giới.

Rất ít người biết BrahMos là sản phẩm của công ty BrahMos Aerospace (liên doanh Nga - Ấn thành lập năm 1998 tại New Dehli), được Moscow chế tạo riêng cho New Dehli trên cơ sở loại tên lửa đối hạm siêu âm nổi tiếng P-800 Yakhont (phiên bản xuất khẩu của P-800 Onyx) thuộc tổ hợp tên lửa bờ đối hải K-300P Bastion (hiện Việt Nam cũng có hệ thống tên lửa bờ đối hạm này). Cái tên “BrahMos” được ghép và viết tắt từ tên hai con sông: Brahmaputra của Ấn Độ và Moscow của Nga. Chính vì vậy, người Ấn luôn viết hoa từ "Mos" trong chữ BrahMos.
Siêu tên lửa này có tầm bắn 300km, đầu đạn nặng 250km, bay trên độ cao tối đa 14km, thông thường 10km với vận tốc chạm ngưỡng siêu vượt âm, gấp hơn 3 lần vận tốc của tên lửa hành trình cận âm Tomahawk của Mỹ. Các quy định về vận tốc tên lửa như sau: dưới Mach1 là tốc độ hạ âm, từ Mach1 - Mach3 là siêu âm, từ Mach3 - Mach5 là siêu vượt âm và từ Mach5 trở lên được quy định là tốc độ siêu thanh.
Điểm ưu việt nhất của BrahMos được phóng theo cơ chế bắn - quên, tức là sau khi phóng đi không cần thêm bất kỳ một điều khiển nào khác, nó tự động nhận tính hiệu định vị từ vệ tinh rồi tự thân vận động đến mục tiêu, trên đường bay nó còn có khả năng biến tốc và đổi hướng 2 lần để tránh sự phát hiện của radar phòng thủ tên lửa đối phương.


Phiên bản BrahMos chở trên xe cơ động phóng trên mặt đất
Trên hành trình bay, BrahMos có thể tiếp nhận 2 kênh điều khiển của 2 loại vệ tinh khác nhau, vừa bay theo điều khiển của tín hiệu GPS của vệ tinh Mỹ, vừa có thể hành trình theo sự dẫn đường của hệ thống thông tin vệ tinh GLONASS của Nga. Vào cuối đường bay, nó tự động ngắt các liên hệ với vệ tinh và tự động hạ thấp độ cao xuống 5-15m so với mặt biển, kích hoạt đầu dẫn tự động, định vị mục tiêu chính xác tới cự ly hàng mét, đảm bảo không một mục tiêu nào có thể chạy thoát.
Hải quân Ấn Độ bắt đầu thử nghiệm tên lửa BrahMos từ năm 2005. Họ dự định ưu tiên trang bị nó trên lớp tàu khu trục tên lửa “Rajput”, sau đó mới trang bị cho các loại tàu chiến khác. Hiện BrahMos đã có đủ 3 biến thể phóng từ trên bộ, trên không và trên hạm, cùng với tốc độ bay cực nhanh, khả năng biến tốc, đổi hướng và độ cao bay đoạn cuối sát mặt biển, nó không để các hệ thống phòng thủ tên lửa có cơ hội phát hiện chứ đừng nói là đánh chặn. Có thể nói, đây là một trong những dự án thành công nhất trong lịch sử hợp tác công nghiệp quốc phòng Nga - Ấn.

http://www.anninhthudo.vn/Quoc-phong/BrahMos-manh-thu-khong-the-ngan-chan/482292.antd
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Có lẽ là anh báo dự khả năng công phá bằng động năng trước nên mới viết như vậy. Đạn tên lửa các loại ngoài có nhiều chế độ nổ chạm mục tiêu theo phương án bắn. Bắn mục tiêu mặt nước không có nghĩa cứ phải bắn chìm nó, mà bắn cho nó "tê liệt" là được. Còn kiểu rắn nhà biện pháp nói quá lên 1 tí thôi, cũng như TLAM bay bám địa hình/ mặt nước nhưng ko có nghĩa là nó duy trì phương thẳng, tức là vẫn có 1 số đoạn phải hơi lệch nghiêng do áp suất, thổ nhưỡng, không khí lưu thông...nói như rắn chỉ là nói quá thôi
 
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,399
Động cơ
660,660 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Mấy chú này năm 1972 về chậm, lại kg được không quân yểm hộ chứ kg có khi làm nên chuyện lớn chứ chẳng đùa?

Chuyện ít biết về tàu tên lửa đầu tiên của VN


Ít ai biết rằng, trong kháng chiến chống Mỹ, Hải quân Nhân dân Việt Nam được tiếp nhận một vài tàu trang bị tên lửa có điều khiển – những tàu tên lửa đầu tiên của hải quân.

(ĐVO) Theo Lịch sử Hải quân Nhân dân Việt Nam, tháng 12/1972, Việt Nam được tiếp nhận 4 tàu chiến cỡ nhỏ project 183R lớp Komar từ Liên Xô. Toàn bộ tàu được biên chế vào Tiểu đoàn 136, Trung đoàn 172 (sau này là Lữ đoàn 172).

“Nhỏ mà có võ”

Tàu tên lửa project 183R lớp Komar do Liên Xô thiết kế từ đầu những năm 1950 dành cho nhiệm vụ duy nhất tấn công tiêu diệt chiến hạm bằng tên lửa hành trình chống tàu. Đây là tàu tên lửa đầu tiên trên thế giới.

Tàu lớp Komar có lượng giãn nước 66,5 tấn, dài 25,4m, thủy thủ đoàn 17 người, trang bị động cơ diesel cho phép đạt tốc độ tối đa 44 hải lý/h.

Komar là con tàu dễ chế tạo, với phần vỏ tàu làm bằng gỗ, khung tàu và kết cấu thượng bằng hợp kim nhôm. Tàu trang bị hệ thống điện tử đơn giản: radar điều khiển hỏa lực MR-331, hệ thống phân biệt bạn – thù, thiết bị thông tin liên lạc.


Tàu tên lửa project 183R Komar của Hải quân Nhân dân Việt Nam trên vịnh Hạ Long. Nguồn: Sách ảnh Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955-1985).

Hỏa lực chính của tàu Komar gồm 2 đạn tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit (NATO định danh SS-N-2A Styx) trong bệ phóng KT-67 và một tháp pháo 2 nòng cỡ 25mm (1.000 viên đạn). Trong đó, P-15 Termit là một trong những công nghệ vũ khí tiên tiến nhất những năm 1950-1960. Tên lửa có thân hình trụ, mũi hình tròn, giữa thân có 2 cánh tam giác lớn và 3 cánh lái ở đuôi. Các thiết bị điện tử trong tên lửa dựa trên thiết kế tín hiệu đơn giản với cảm biến radar hình nón.

Tên lửa lắp động cơ nhiên liệu lỏng với thành phần phóng axit đặc biệt. Nhiên liệu lỏng này có vấn đề với nhiệt độ môi trường, nó không thể phóng khi nhiệt độ vượt ra khỏi giới hạn -15 độ C tới 38 độ C và axit sẽ ăn mòn thân tên lửa nếu để quá lâu. Tên lửa đạt tầm bắn tối đa 40km, tốc độ hành trình cận âm (biến thể sau này tăng tầm tới 80km).

Trước khi phóng, đài radar MR-331 sẽ quét, khóa mục tiêu trước. Theo quy định của Liên Xô, khi phóng tên lửa, tàu Komar phải chạy tốc độ trên 15 hải lý/h và chỉ bắn được trong điều kiện sóng cấp 4.

Ở pha giữa, tên lửa hành trình bay tự động (cách mặt biển 100-300m), pha cuối, cách mục tiêu 11km, cảm biến radar kích hoạt từ tìm mục tiêu tấn công. Với đầu đạn hình phễu nặng gần 500kg, P-15 Termit có khả năng đánh chìm tàu chiến cỡ lớn.

Với hỏa lực như vậy, trong tác chiến, tàu Komar có thể độc lập hoặc đi theo đội hình cùng tấn công mục tiêu lớn với sự yểm trợ không quân, không ở lại trên biển hơn một ngày hoặc lâu hơn tránh thời tiết xấu.

Người Mỹ sợ hãi

Trở lại với câu chuyện tại Việt Nam, ngay trong năm 1972, tình báo Mỹ nhanh chóng đánh hơi việc Liên Xô trang bị loại tàu tên lửa nguy hiểm này cho Hải quân Nhân dân Việt Nam. Quân Mỹ có lý do để lo ngại sự an toàn chiến hạm của mình hoạt động trên vịnh Bắc Bộ trinh sát miền Bắc Việt Nam.

Năm 1967, tàu tên lửa Project 183R Komar của Hải quân Ai Cập đánh chìm tàu chiến Eilat của Hải quân Israel. Sự kiện này gây ra cú sốc trên thế giới khi một tàu chiến dài gần 100m, lượng giãn nước gần 2.000 tấn bị đánh chìm bởi tàu nhỏ hơn nhiều lần.

Chưa hết, năm 1971, trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, 2 tàu tên lửa cỡ nhỏ của Ấn Độ đã phóng 4 quả P-15 Termit đánh chìm một tàu quét mìn và một tàu khu trục lượng giãn nước 3.290 tấn của Hải quân Pakistan.

Với những cuộc “thử nghiệm thành công trên chiến trường”, minh chứng rõ ràng nhất cho sự lo sợ “trở thành nạn nhân tiếp theo” của người Mỹ.


Kỹ thuật viên hải quân lắp tên lửa chống hạm P-15 Termit lên bệ phóng tàu Komar. Nguồn: Sách ảnh Hải quân Nhân dân Việt Nam (1955-1985)

Theo tài liệu Hải quân Mỹ, trong năm 1972, khi đang hoạt động ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, hệ thống tác chiến điện tử AN/WLR-1 trên tuần dương hạm USS Sterett (CG-31) phát hiện tín hiệu radar MR-331 trong chế độ khóa mục tiêu liên tục. Sau khi hệ thống radar xác định rõ, các sĩ quan điều khiển USS Sterett cho rằng đó là một tàu Komar của Việt Nam và tên lửa P-15 Termit đang tiến đến.

Ngay lập tức, USS Sterett phóng 2 tên lửa đối không tầm trung RIM-2 Terreir đánh chặn. Ít giây sau, mục tiêu biến mất trên màn hình radar. Lịch sử hoạt động của USS Sterett ghi nhận, tàu này đánh chặn thành công tên lửa P-15.

Tuy nhiên tới năm 1999, Hải quân Mỹ mở cuộc điều tra và xác định không hề có bất kỳ tên lửa P-15 nào được phóng đi vào ngày hôm đó. Đây là sự nhầm lẫn của hệ thống điện tử. Điều đó cho thấy, tên lửa P-15 và chiến hạm lớp Komar thực sự là nỗi ám ảnh của người Mỹ.

Tính tới tháng 4/1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam duy trì hoạt động 3 tàu tên lửa Komar. Trong giai đoạn sau, Komar tích cực tham gia bảo vệ biển đảo Tổ quốc trong tình hình mới.

Những năm 1980, Việt Nam lần lượt cho nghỉ hưu tàu Komar và thay thế bằng tàu tên lửa hiện đại hơn Project 205U Osa II.

Phượng Hồng
 

Mannschaft

Xe điện
Biển số
OF-17341
Ngày cấp bằng
14/6/08
Số km
3,263
Động cơ
537,302 Mã lực
Nơi ở
Bốn bể là nhà
Bây h là taratul và molnya
Nghe đồn đóng sắp xong mấy cái trong nước rồi
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Tên lửa chống hạm của Nga qua các thời kỳ (kỳ 1)
Cập nhật lúc :10:38 AM, 30/09/2009
Tên lửa đối hải, vũ khí chủ công để tiêu diệt các mục tiêu trên biển, luôn là mối đe dọa đáng sợ đối với các tàu chiến hiện đại.

Tên lửa đối hải là vũ khí của các tàu chiến, hầu hết bay ở tầm thấp, có thể bay với vận tốc dưới âm hay vượt âm.

Tên lửa đối hải thường sử dụng hệ thống dẫn đường kết hợp giữa hệ dẫn quán tính và rada chủ động hay hệ thống hồng ngoại thụ động, viết tắt là ASM (Anti-Ship Missile), nhưng cũng thường được gọi là AShM để tránh nhầm lẫn với các tên lửa không đối đất.

Trước đây, loại tên lửa này thường được chú trọng vì có tầm bắn xa, đầu nổ có sức công phá lớn hơn nhiều so với các loại hỏa lực trên tàu khác như pháo tàu, ngư lôi.

Ảnh khu trục hạm Eilat chụp 3 tháng trước khi bị bắn chìm. Việc tầu khu trục Eilat của Israel bị tên lửa SS-N-2 bắn hạ trong cuộc chiến với Ai Cập đánh dấu một bước ngoặt mới đối với tác chiến trên biển. Tên lửa đối hải là một mối đe dọa đáng kể đối với các tàu chiến hiện đại và nó được sử dụng rộng rãi. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kỹ thuật điều khiển thông minh được ứng dụng rộng rãi thì việc sử dụng các tên lửa đối hải tầm xa lại càng được các nước quan tâm để trang bị cho hải quân của mình.

Tên lửa đối hải có thể được phóng từ nhiều trạm phóng khác nhau, gồm: tàu chiến (các loại tàu tham chiến trên mặt nước); tàu ngầm, máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng và các phương tiện cơ giới trên bộ.

Nga là nước nghiên cứu chế tạo nhiều loại tên lửa đối hải để sử dụng cho hải quân và xuất khẩu.

Một số loại tên lửa đối hải của Nga qua các thời kỳ gồm:
Họ tên lửa SS-N-2

SS-N-2 (NATO gọi là Styx) có tên thiết kế đặt theo các phiên bản khác nhau là P-15, P-20, P-21, P-22 và P-27. SS-N-2 là tên lửa hành trình, đối hải đầu tiên của Nga. SS-N-2 được thiết kế từ đầu những năm 1950 và chính thức được đưa vào trang bị trong quân đội Liên Xô vào năm 1967.

SS-N-2 tham chiến lần đầu vào năm 1967 trong cuộc chiến giữa Ai Cập và Israel. Trong cuộc chiến này, Ai Cập đã bắn ba tên lửa SS-N-2, đánh chìm khu trục hạm Eilat của Israel.

Thông số kỹ thuật

SS-N-2 sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu lỏng, có tầm hoạt động từ 40 đến 80 km, vận tốc đạt 0,9M (0,9 lần tốc độ âm thanh). Tên lửa được thiết kế có chiều dài 5,8 m, chiều rộng 0,76 m và sải cánh rộng 2,4 m. Khối lượng của tên lửa phụ thuộc vào từng phiên bản khác nhau, 2.125 kg (kiểu SS-N-2A), 2.500 kg (kiểu P-20); đầu nổ 480 kg (kiểu SS-N-2A), 500 kg (kiểu P-20).

Với khối lượng đầu nổ lên tới 500kg, SS-N-2 trở thành nỗi ám ảnh của các loại tàu chiến nổi. Các phiên bản khác nhau của SS-N-2

P-15M Termit: đây là phiên bản cải tiến của P-15, được trang bị hệ thống dẫn đường mới và các cánh của tên lửa có thể gập lại.

P-20 Rubezh cũng là một biến thể của P-15 thông qua việc tăng tầm bắn bằng cách sử dụng một loại nhiên liệu mới. Một số tính năng khác cũng được cải tiến trên phiên bản này, gồm: tăng tầm hoạt động của radar, cải tiến hệ thống khóa mục tiêu và bổ sung tính năng chống nhiễu do Ấn độ sản xuất.

P-20 Rubezh sử dụng đầu dò MS-2A, là một loại rada có tầm hoạt động rộng, khả năng chính xác cáo, khó bị phát hiện bởi đối phương và chống phân mảnh.

P-21 Rubezh cũng là một biến thể của P-15, được trang bị thêm đầu dò hồng ngoại.

P-22 Rubezh được cải tiến từ phiên bản P-20M, trang bị đầu dò hồng ngoại, được đặt ở mũi của tên lửa. Đầu dò này được sử dụng dự phòng trong trường hợp đầu dò radar bị gây nhiễu.

P-27 Rubezh cũng được cải tiến từ P-20M, trang bị đầu dò hoạt động ở dải tần L.

Cơ chế hoạt động
SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I. Đây là loại tên lửa được điều khiển theo chế độ “bắn và quên”, đầu tự dẫn chủ yếu dùng radar chủ động, có loại dùng hồng ngoại.

Khi tên lửa được phóng từ tầu, trong thời gian đầu, tên lửa sẽ hoạt động ở chế độ tự dẫn cho đến khi đến gần mục tiêu, rada tích cực sẽ kích hoạt, giúp điều khiển tên lửa tấn công chính xác mục tiêu.

SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I.
Ảnh nạp tên lửa trên tàu chiến lớp Tarantul I. Điểm yếu lớn nhất của loại tên lửa này là thay vì dùng động cơ phản lực dùng không khí thì nó lại dùng động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến tầm bắn của nó.

Ngày nay, với tốc độ chậm, kích thước lớn và thiết kế khí động kém không cho phép cơ động gấp, các tên lửa dòng P-15 dù được nâng cấp hệ dẫn đường tiên tiến cùng thiết bị chống nhiễu mới nhất cũng khó còn đảm đương được nhiệm vụ nguyên thủy của nó là chống chiến hạm được nữa do quá dễ bị phát hiện từ xa và bắn hạ dễ dàng nhưng bù lại nó có khung thân rất rộng cùng đầu đạn lớn nên rất thuận lợi cho việc hoán cải công năng thành tên lửa hành trình tấn công mặt đất.

Họ tên lửa SS-N-3

SS-N-3 là loại tên lửa được chế tạo từ thời Liên Xô, nhằm chống lại các hạm đội tàu sân bay. SS-N-3 (NATO gọi là Shaddock và SS-C-1) có tên thiết kế theo các phiên bản khác nhau là P-5, P-6, P-35 và S-35. SS-N-3 có kích thước 0,96x11,85 m; sải cánh rộng 3,2 m; tầm hoạt động từ 460-500 km; đầu tự dẫn dùng radar chủ động kết hợp điều khiển bằng lệnh; trọng lượng tùy theo phiên bản, giao động từ 4.600-5.400 kg; đầu nổ nặng 900 kg; động cơ đẩy dùng động cơ nhiên liệu lỏng.

Tên lửa Shaddock được Liên Xô chế tạo nhằm tiêu diệt các cụm tàu sân bay của đối phương. Phiên bản đầu tiên của SS-N-3 là P-5, sử dụng hệ dẫn đường bằng quán tính, được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II, Whiskey Conversion và Juliett. P-5 sử dụng loại cánh gập được, do đó có thể trang bị cho các loại tầm ngầm loại nhỏ.

P-5 có tầm bắn lên tới 500 km, hoạt động ở độ cao từ 100-400 m và hành trình ở tốc độ 0.9 M. Vào những năm 1960, P-5 có thể xuyên thủng qua hệ thống phòng thủ bờ biển của Mỹ.

Phiên bản P-6 được thiết kế với độ chính xác cao hơn so với P-5 và sử dụng vào mục đích tấn công các tàu sân bay của Mỹ. P-6 được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II và Juliett, sử dụng hệ dẫn đường bằng rada tích cực. P-6 có thể mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường.

Tàu ngầm Juliett được trang bị tên lửa Shaddock mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường Phiên bản P-35 (NATO gọi là SEPAL), cũng sử dụng hệ dẫn đường bằng radar, được trang bị cho các tàu khu trục lớp Grozny và Sevastopol. P-35 có thể sử dụng đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường, hoạt động với vận tốc 1,2 M, đây là loại tên lửa có tốc độ vượt âm.

Phiên bản S-35 được trang bị cho lực lượng phòng thủ bờ biển, đặt trên xe chuyên dùng.

Phiên bản S-35 được khai hỏa. Để phóng P-5, tàu ngầm bắt buộc phải nổi lên mặt nước, kích hoạt radar dẫn đường để điều khiển tên lửa hướng tới mục tiêu.

Sau khi phóng, tên lửa leo lên tầm cao, tăng tốc tới vận tốc cực đại, và bắt đầu tìm kiếm vùng phía trước với radar dẫn đường. Hình ảnh kết quả được truyền tới tàu phóng thông qua 1 kênh TV.

Khi một mục tiêu được xác định, thao tác viên trên tàu xác minh liệu có phải đó là mục tiêu mong muốn hay không. Thao tác viên điều khiển tên lửa bằng cách bật hệ thống tìm đường của nó sang chế độ tự động.

Kế đó, tên lửa đi xuống tầm thấp (nhưng vẫn ở tốc độ siêu âm) rồi chui xuống nước 10 - 20 m trước khi tới mục tiêu và phát nổ để phá hoại mục tiêu dưới nước, tăng mức độ thiệt hại cho đối phương.


Tên lửa chống hạm của Nga qua các thời kỳ (kỳ 2)
Cập nhật lúc :1:01 PM, 07/10/2009
Những thế hệ tên lửa chế tạo trong giai đoạn 1970 - 1980 của Nga, đến nay còn nguyên giá trị tác chiến.

Họ tên lửa SS-N-9
Họ tên lửa SS-N-9 (NATO gọi là Siren) là loại tên lửa chống hạm tầm trung, được trang bị cho các tàu chiến loại nhỏ và tàu ngầm.

SS-N-9 có tên thiết kế là Malakhit P-120, 4K84, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1972, có tầm bắn lên tới 110 km.

Cho tới thời điểm hiện nay, SS-N-9 vẫn còn được sử dụng trong quân đội Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, phần lớn loại tên lửa này đã được Nga thay thế bằng loại tên lửa đời mới hơn SS-N-22 Sunburn.

P-120 có tầm bắn 110km, được trang bị cho hải quân Nga và nhiều nước trên thế giới. SS-N-9 có kích thước 0,96x11,85 m, sải cánh rộng 2,1 m, hoạt động trong bán kính từ 90-110 km với vận tốc cực đại lên tới 1.100 km/h.

SS-N-9 có trọng lượng khoảng 3.200 kg, đầu nổ có thể là đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân với trọng lượng lên tới 500 kg, sử dụng động cơ đẩy phản lực, nhiên liệu rắn.
Malakhit P-120 được trang bị lần đầu tiên cho hải quân Liên Xô vào tháng 3/1972 trên các tàu nổi hộ tống lớp nhỏ như Tarantul, Nanuchka.

Vào năm 1997, loại tên lửa này được trang bị cho các tàu ngầm lớp PAPA, với cơ số 8 tên lửa trên một tàu ngầm, trong đó có thể có 2 tên lửa mang đầu đạn hạt nhân.

Tuy nhiên, các tàu ngầm lớp này đã được cho "về hưu", thay thế bằng những lớp tàu ngầm mới hiện đại hơn nhiều.

P-120 được trang bị cho các tàu chiến lớp Tarantul, Nanuchka.
Ảnh đưa tên lửa lên tàu chiến lớp Tarantul. Kể từ khi chính thức được trang bị cho hải quân, đến nay đã có hơn 500 tên lửa được sản xuất. Loại tên lửa này từng sử dụng trong cuộc đụng độ giữa Nga và Gruzia.

Malakhit P-120 được trang bị hai đầu dẫn đường, một đầu dẫn bằng radar chủ động và một đầu tự dẫn bằng hồng ngoại. Radar dẫn đường của P-120 được đặt phía dướng bụng tên lửa, hoạt động ở dải tần tương tự khiến cho việc phát hiện và đối phó khi bị tấn công trở nên vô cùng khó khăn. Hơn thế, hệ thống dẫn đường của P-120 còn cho phép các người điều khiển có thể lập trình mục tiêu trước khi tên lửa được phóng đi.

Trong cuộc chiến với Gruzia tháng 8/2008, P-120 trang bị cho hạm đội Biển đen đã đánh chìm một tàu chiến của Gruzia. So với các loại tên lửa chống hạm thế hệ trước, P-120 có thể được phóng trên mặt nước hoặc khi tàu ngầm đang lặn ở độ sâu 50m.

Khi tên lửa được phóng, tên lửa bay lên cao với vận tốc siêu âm, rồi từ từ chuyển xuống bay là là, cách mặt nước khoảng 40 m. Trên đường hành trình tìm mục tiêu, nhân viên điều khiển có thể lập trình thay đổi đường đi và mục tiêu để có thể tấn công mục tiêu một cách chính xác hơn hoặc thay đổi mục tiêu tấn công theo yêu cầu của chỉ huy.

 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Họ tên lửa SS-N-12

SS-N-12 (NATO gọi là Sandbox) là loại tên lửa chống hạm tầm xa, sử dụng nhiên liệu lỏng, được trang bị cho tàu sân bay Kiev của Liên Xô, các tàu ngầm lớp Echo II và Juliett và sau đó còn được trang bị cho các tàu khu trục lớp Slava và một số loại tàu chiến khác.

Sandbox có khả năng tác chiến trong phạm vi 550 km, được trang bị cho tàu sân bay, các tàu ngầm và tàu khu trục lớp Slava. SS-N-12 có tên thiết kế là Bazalt P-500, Bazalt 4k80, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1975 với mục tiêu thay thế lớp tên lửa Shaddock.

P-500 có kích thước 11,7x1,544 m, sải cánh rộng 2,6m, hoạt động trong bán kính khoảng 550 km, có thể mang đầu đạn thường (từ 500 kg đến 1.000 kg) hoặc đầu đạn hạt nhân (350KT).

Các ống phóng tên lửa Sandbox trên tàu khu trục lớp Slava. Tên lửa sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và radar hoạt động chế độ chủ động. Do tầm hoạt động xa, hệ thống dẫn đường của tên lửa được cập nhật thông quan một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix hoặc thông tin truyền dẫn qua vệ tinh.

Điểm ưu việt của thế hệ P-500 là hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, khiến cho hệ thống phòng thủ đối phương khó có thể phát hiện và tiêu diệt trước khi tên lửa lao đến mục tiêu.

So với các thế hệ tên lửa trước đó, P-500 có tầm hoạt động xa hơn và bay thấp hơn khiến cho hệ thống phòng thủ của đối phương trở nên vô hiệu.

Do có phạm vi tác chiến xa, Sandbox thường sử dụng hệ thống dẫn đường truyền dẫn qua một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix Họ tên lửa SS-N-19

Không thỏa mãn với khả năng tấn công của các thế hệ tên lửa trước đó, vào giữa thập kỷ 1970, Liên Xô tiếp tục yêu cầu các nhà thiết kế vũ khí nghiên cứu loại tên lửa chống hạm có tên SS-N-19 (NATO gọi là Shipwreck) với khả năng hỏa lực mạnh và xác định đây là vũ khí số một nhằm trang bị cho các tàu chiến cỡ lớp, các tàu sân bay và tàu ngầm tên lửa.

Shipwreck được thiết kế nhằm chống lại các mục tiêu là các tàu sân bay, các hạm đội lớn của đối phương. SS-N-19 có tên thiết kế là Chelomey P-700 Granit, 3M45, kích thước 0,96x10,2 m, sải cánh rộng 3,2 m, hoạt động trong phạm vi 450 km với vận tốc tối đa lên tới 1,7M (gấp 1,7 lần vận tốc âm thanh).

Thân tên lửa P-700 được thiết kế để có thể chịu được vận tốc siêu âm ở độ cao thấp. P-700 sử dụng động cơ tua bin phản lực nhiên liệu lỏng hoặc động cơ phản lực thẳng dòng.

P-700 có trọng lượng lên tới 4.350 kg, có thể sử dụng đầu đạn thường, nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân với sức công phá lên tới 500KT.

Vị trí bố trí tên lửa Shipwreck trên tàu khu trục tên lửa lớp Kirov của Nga P-700 được trang bị hệ thống điều khiển bắn hiện đại với hàng loạt cải tiến. Hệ thống dẫn đường, kiểm soát mục tiêu hoạt động thông qua nhiều cảm biến, cho phép hệ thống có thể tự động lựa chọn các mục tiêu.

Tính năng mới này nhằm mục đích thực hiện các cuộc tấn công vào các hải đội của đối phương và lựa chọn mục tiêu có giá trị nhất để tiêu diệt.

Radar dẫn đường được đặt ở phía mũi của tên lửa. Trong quá trình hành trình tìm mục tiêu, radar của tên lửa hoạt động ở chế độ chủ động trên dải băng tần X. Khi tên lửa tiến gần đến mục tiêu, rada chủ động chuyển sang hoạt động ở dải băng tần Ku.

Shipwreck được trang bị hàng loạt cho các tàu chiến lớp Oscar.
Ảnh là một chiếc tàu chiến lớp Oscar. P-700 được trang bị hàng loạt cho các tàu ngầm thuộc lớp Oscar. Mỗi tàu ngầm có 20 ống phóng chứa tên lửa, được đặt nghiêng một góc 47 độ. Trước khi tên lửa được phóng ra khỏi ống, ống phóng sẽ được nước tràn ngập.

Họ tên lửa SS-N-21

SS-N-21 (NATO gọi là Sampson) có tên thiết kế là 3k10 Granat, RK-55 Granat, S-10/3M10 là tên lửa đối hạm chiến lược tầm trung, trang bị cho tàu ngầm, sử dụng động cơ đẩy phản lực và bắt đầu trang bị cho hải quân Nga kể từ năm 1984.

Sampson được xem là loại tên lửa có khả năng tác chiến ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ.

Granat được cho là có khả năng tấn công và tiêu diệt mục tiêu ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ. Ảnh là một quả tên lửa RK-55 Granat. Sampson được thiết kế nhằm trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch. Mỗi tàu ngầm có thể mang từ 20-35 tên lửa. Sampson có kích thước 8,09x0,51 m, trọng lượng 1.700 kg, có thể phóng từ ống phóng ngư lôi 533 mm.

Sampson sử dụng hệ dẫn đường quán tính, có khả năng cập nhật thông tin địa hình trên đường bay và điều khiển từ trung tâm chỉ huy. Sampson có thể tiêu diệt mục tiêu cách tàu lên tới 2.400km, hành trình trên biển với vận tốc 0,7 M, mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá 200 kt hoặc đầu đạn thường nặng 400 kg hoặc đầu đạn có chứa nhiều đầu đạn con bên trong.

Samspon được trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch.
Ảnh là một chiếc tàu ngầm lớp Yankee Notch của Nga. Kể từ khi chính thức đưa vào trang bị cho hải quân, đến nay, có hơn 240 tên lửa Sampson triển khai trên 37 tàu ngầm của Nga.

Theo Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START 2, loại tên lửa này đã được cắt giảm đáng kể, hiện còn khoảng 200 tên lửa. Tuy nhiên, một số nguồn tin cho rằng, một số tên lửa này đã được hoán cải mang đầu đạn thông thường hoặc loại mang nhiều đầu đạn con.

Nguồn tin cho hay, có thể Nga trang bị loại tên lửa này cho các tàu ngầm hiện đại lớp Delta 1/2/3 và có thể triển khai trên một số khu trục hạm.


Tên lửa chống hạm của Nga qua các thời kỳ (kỳ 3)
Cập nhật lúc :11:48 AM, 14/10/2009
Nếu Mỹ có tên lửa chống hạm nổi tiếng Harpoon và Tomahawk, thì các họ tên lửa của Nga như Switchblade, Yakhont hoặc 3M-54 luôn được xem là "sát thủ" vô hình đối với các mục tiêu trên biển cũng như trên đất liền.

Họ tên lửa SS-N-25
SS-N-25 (NATO gọi là Switchblade) là loại tên lửa chiến thuật chống hạm tầm trung, có tính năng kỹ chiến thuật giống tên lửa chống hạm nổi tiếng của Mỹ US RGM-84/AGM-84 Harpoon, Exocet của Pháp hoặc Sea Eagle của Anh quốc.

Switchblade có tính năng kỹ chiến thuật ngang ngửa với tên lửa chống hạm Harpoon của Mỹ SS-N-25 có tên thiết kế là Kh-35, 3M24, Uran, Bal hoặc Harpoonski, vì có tính năng giống với tên lửa chống hạm của Mỹ Harpoon như nói ở trên. Switchblade được thiết kế nhằm tiêu diệt mục tiêu là các tàu thuyền trên biển có trọng lượng lên tới 5000 tấn.
Phiên bản đầu tiên của dòng tên lửa Switchblade được đưa vào sử dụng trong quân đội Nga từ năm 1983 nhằm thay thế cho dòng tên lửa SS-N-2 Styx. Trải qua quá trình phát triển, Switchblade hiện có thể triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau như: tàu khu trục, tàu tuần tra, lực lượng phòng vệ bờ biển trên đất liền, từ một số loại máy bay trực thăng và từ máy bay tuần tra trên biển Tu-142 Bear.

Switchblade được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, trong đó, có máy bay Tu-142 Bear. Switchblade có trọng lượng 520 - 610 kg tùy từng phiên bản, đầu đạn nặng 145 kg, kích thước tên lửa 4,4 m x 0,42 m, sử dụng động cơ tuabin phản lực, vận tốc 0,8M và tầm bắn cực đại lên tới 130 km.
Switchblade sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và radar chủ động. Thông tin về mục tiêu có thể được truyền tới tên lửa từ các hệ thống bay hoặc từ trung tâm điều khiển bắn.

Quá trình tấn công mục tiêu được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, khi tên lửa rời khỏi bệ phóng, hệ thống dẫn đường quán tính được khởi động, đưa tên lửa tới khu vực có mục tiêu. Tại một khoảng cách nhất định, radar chủ động được kích hoạt nhằm xác định, khóa mục tiêu.

Bốn quả tên lửa SS-N-25 trên tàu hộ vệ tên lửa lớp Gepard Cùng thời điểm đó, hệ thống dẫn đường quán tính sẽ hướng tên lửa tới mục tiêu, đồng thời thay đổi độ cao hành trình, bay là là trên mặt biển (thấp nhất là 1 m trên mặt biển). Tại thời điểm này, tên lửa tiếp tục nhận thông tin chỉ thị mục tiêu và điều khiển từ trung tâm bắn cho đến khi đầu tên lửa chạm mục tiêu và phát nổ.
Riêng phiên bản cuối của dòng SS-N25, Kh-35UE được tích thêm thêm hệ thống tiếp nhận thông tin từ Glonass (hệ thống định toàn cầu bằng vệ tinh của Nga, giống GPS của Mỹ). Với hệ thống tiếp nhận thông tin Glonass, Kh-35UE có thể hoạt động trong điều kiện biển động cấp 6, tốt hơn hẳn AGM-84 Harpoon của Mỹ, đồng thời có khả năng tấn công vào các mục tiêu cố định trên bờ biển.

Xe chỉ huy và điều khiển bắn hệ thống phòng thủ bờ biển Bal E. Phiên bản sử dụng vào mục đích phòng thủ bờ biển có tên là Bal E, được thiết kế nhằm thay thế cho hệ thống phòng thủ bờ biển Rubezh. Hệ thống Bal E bao gồm một xe chỉ huy, một xe xác định mục tiêu và một số xe mang tên lửa, trong đó, mỗi xe mang được 8 quả tên lửa 3M-24 Uran.

Bal E là hệ thống phòng thủ bờ biển, sử dụng tên lửa 3M-24 Uran. Họ tên lửa SS-N-26

SS-N-26 là tên lửa tầm trung chiến thuật, có tên thiết kế là 3k-55 Onyx/Yakhont, P-800. Phát triển từ năm 1983, trang bị cho hải quân Nga vào năm 1999 và cho đến năm 2001, P-800 đã được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả trên biển, trên không và đất liền.

SS-N-26 là tên lửa chiến thuật tầm trung, được trang bị cho cả máy bay, tàu chiến và trên xe ô tô. Ảnh là một chiếc Su-33 được trang bị Yakhont. Trong vài năm gần đây, Nga bán bản quyền hợp tác sản xuất P-800 cho Ấn Độ dưới tên là Brahmos A và Brahmos S. Trung Quốc đang đàm phán với Nga để mua dây chuyền sản xuất phiên bản 3M-55 nhằm trang bị cho nhiều tàu chiến trong hải quân Trung Quốc.

Nga và Ấn Độ phối hợp sản xuất một phiên bản SS-N-26, có tên là Brahmos A/S.
Ảnh là hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion, sử dụng tên lửa Brahmos. Về mặt thiết kế, P-800 giống tên lửa chống hạm Moskit (SS-N-22) và P-700 Granit. P-800 có kích thước 8,9 x 0,9 (m), trọng lượng 3 tấn, đầu đạn nặng 250 kg, sải cánh rộng 1,7 m, sử dụng động cơ đẩy phản lực thẳng, nhiên liệu lỏng, hoạt động trong phạm vi từ 120 - 300 km tùy theo độ cao và hành trình với vận tốc 2,5 M.
So với các tên lửa đối hải thế hệ trước, hành trình của P-800 đặc biệt hơn. Ngay khi rời bệ phóng P-800 bay vút lên cao, hành trình gần tới mục tiêu thì dần dần hạ thấp độ cao. Khoảng cách tới mục tiêu khi tên lửa hạ thấp có thể được lập trình từ trước.

Việc kiểm soát độ cao của tên lửa được thực hiện nhờ radar KTRV-Deltal K313, cho phép tên lửa có thể hoạt động tại độ cao từ 1.000 m đến 5000 m.

Hệ thống dò mục tiêu Granit - Elektron được trang bị cho Yakhont của Nga và Brahmos của Ấn độ. P-800 sử dụng hệ thống dò tìm mục tiêu Granit – Elektron. Đây là một trong những hệ thống rò tìm mục tiêu kỹ thuật số hiện đại nhất của Nga cho đến ngày nay. Radar có thể hoạt động ở hai trạng thái: chủ động và thụ động.

Trong chế độ chủ động, radar hoạt động ở giải băng tần rộng với điều biến phổ tần ngẫu nhiên, có thể xác định mục tiêu cách 50km. Khi tên lửa phát hiện mục tiêu và lại gần ở khoảng cách 25 - 30 km, tên lửa tắt mọi liên lạc với hệ thống và chỉ sử dụng radar ở trạng thái thụ động.

Nhờ công nghệ hiện đại, P-800 có thể chống lại hiệu quả hệ thống gây nhiễu của đối phương, đồng thời cho phép hoạt động trong điều kiện biển động cấp 7.

Brahmos của Ấn độ có những cải tiến lớn về hệ thống dẫn đường và Ấn độ dự kiến triển khai trên cả máy bay Su-27/30 Trong phiên bản hợp tác sản xuất với Ấn độ, tên lửa Brahmos có những cải tiến đáng kể về hệ thống dẫn đường. Phiên bản Brahmos dự kiến được Ấn độ triển khai trên các tàu chiến, các hệ thống phòng thủ bờ biển di động và trên máy bay Su27/30.

Nga và Ấn độ cũng đang xem xét triển khai phiên bản Brahmos tấn công đất liền. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào khả năng tăng độ chính xác cũng như hệ thống dẫn đường bổ sung.

Hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion sử xe MZKT-7930 TEL, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa. Hệ thống phòng thủ bờ biển sử dụng tên lửa P-800 được đặt tên là hệ thống phòng thủ Bastion. Đây là một hệ thống phòng thủ bờ biển di động, sử dụng xe MZKT-7930 TEL, trọng tải 41 tấn, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa, hoạt động trong đội hình bao gồm các xe mang tên lửa, xe chỉ huy, hệ thống radar truyền tiếp thông tin.
Họ tên lửa SS-N-27
SS-N-27 có tên thiết kế của Nga là 3M-54 là một họ tên lửa đa chức năng, được thiết kế dùng cho tàu chiến (Club N), tàu ngầm (Club S) và các máy bay chiến đấu. Hệ thống tên lửa này có thể sử dụng nhiều loại đầu đạn khác nhau, cho phép tấn công các mục tiêu trên biển cũng như các mục tiêu cố định trên bờ.

3M-54 là loại tên lửa đa chức năng, cho phép tiêu diệt các mục tiêu trên biển cũng như trên đất liền. Không giống như tên lửa chống hạm Moskit và Yakhont, Club sử dụng ống phóng ngư lôi 533mm hoặc các ống phóng thẳng đứng. Cho đến nay, có 5 phiên bản Club khác nhau, trong đó, phiên bản 3M-54E1 và 3M-14E gần giống tên lửa chống hạm Tomahawk của hải quân Mỹ.

Tùy từng phiên bản, trọng lượng của tên lửa giao động từ 1.300 kg đến 2.300 kg và kích thước cũng từ 6,2 m đến 8,2 x 0,533 (m). Do có nhiều phiên bản khác nhau nên tên lửa này cũng sử dụng nhiều loại động cơ đẩy khác nhau, bao gồm cả động cơ phản lực sử dụng nhiên liệu rắn nhiều tầng và động cơ tuabin phản lực.

Phiên bản 3M-54E1 sử dụng hệ thống dò tìm mục tiêu bằng radar ARGS-54E (hoạt động chế độ chủ động), hệ thống dẫn đường bằng vệ tinh Glonass và hệ thống thống dẫn đường bằng quán tính. Rada ARGS-54E có góc dò ±45 độ, bán kính hoạt động 65km. Tên lửa cũng sử dụng radar KTRV-Detal RVE-B, giống như radar sử dụng trong họ tên lửa SS-N-25.
Phiên bản tấn công mục tiêu trên đất liền 3M-14E sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và bằng hệ thống định vị Glonass. Rada chủ động ARGS-14E, có tầm hoạt động 20km, được sử dụng để xác định các mục tiêu trên mặt đất với góc tìm kiếm ±45 độ.

3M-54 sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và hệ thống định vị Glonass, sử dụng rada chủ động để xác định mục tiêu. Giống như các họ tên lửa khác, sau khi được phóng, tên lửa sẽ hành trình trên cao, khi tới gần mục tiêu, rada tích cực sẽ được kích hoạt để xác định mục tiêu. Khi mục tiêu đã được khóa, động cơ tên lửa được tăng tốc lên tới 2,9M, độ cao hạ thấp xuống còn 15 m và lao thẳng đến mục tiêu.

3M-54AE được triển khai trên máy bay Su-33 Flanker
3M-54 triển khai trên tàu ngầm lớp Kilo. Nhằm vượt qua lưới phòng ngự của đối phương, 3M-54 hành trình theo đường zig-zag, hơn thế, thân tên lửa được thiết kế khá gọn, sử dụng vật liệu hấp thụ sóng radar khiến cho đối phương khó khăn trong việc phát hiện tên lửa từ xa.

Theo nguồn tin báo chí, Ấn độ đã triển khai loại tên lửa này cho lực lượng hải quân, còn Trung Quốc đặt hàng cho các tàu ngầm lớp Kilo. Nga cũng đang xem xét triển khai loại tên lửa này trên máy bay Su-32FN/34.


Tên lửa chống hạm của Nga qua các thời kỳ (kỳ cuối)
Cập nhật lúc :12:45 PM, 23/10/2009
Là tên lửa chống hạm tốt nhất trên thế giới, Moskit luôn khiến các hạm đội tàu chiến phương Tây lo lắng bởi khả năng tấn công chính xác và sức mạnh hỏa lực kinh hoàng.

Sau một số trận giao tranh trên biển giữa hải quân Israel với Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Li Băng (đầu thập kỷ 1970), nhận thấy họ tên lửa P-15 Termit không còn đáp ứng được những yêu cầu mới của hải chiến, Viện MKB Raduga bắt đầu tiến hành nghiên cứu một thế hệ tên lửa chống hạm mới, có hỏa lực mạnh hơn và tầm bắn xa hơn.

SS-N-22 Moskit vượt trội so với Harpoon của Mỹ Họ tên lửa mới do Raduga phát triển được đặt tên là 3M80 Moskit (NATO gọi là SS-N-22 Sunburn). Họ tên lửa này còn được Nga đặt ký hiệu P-270. Đây là họ tên lửa được thiết kế với nhiều tính năng hiện đại, vượt trội so với họ tên lửa Harpoon của Mỹ.

Moskit được xem là tên lửa chống hạm không có đối thủ của Nga
Là tên lửa chống hạm có tốc độ cao nhất hiện nay, các hệ thống phòng vệ trên tàu đối phương
gặp nhiều khó khăn khi bị Moskit tấn công
Công tác nghiên cứu và thiết kế Moskit được bắt đầu từ năm 1973-1981, biến thể 3M80/P-80 đầu tiên được đưa vào sử dụng trong quân đội Nga có tầm bắn 93km.

Năm 1984, phiên bản 3M80M/P-80M (3M80E để xuất khẩu) ra đời với tầm bắn 120km. Biến thể cuối cùng 3M82 Moskit-M/P-270 có tầm bắn xa hơn - từ 150-160km, được phóng từ ống phóng KT-190M. Toàn bộ các đời tên lửa Moskit đều được sản xuất tại Nhà máy Tiến bộ AKK tại vùng Arsenyev.

Đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn

Moskit được trang bị cánh đuôi hình chữ thập, động cơ hành trình phản lực nhiên liệu lỏng, động cơ khởi tốc phản lực nhiên liệu rắn. Tên lửa có chiều dài 9,745m, trọng lượng 4.500 kg, có thể mang đầu đạn thông thường nặng 320kg hoặc đầu đạn hạt nhân 120kT.

Moskit được trang bị hệ dẫn radar 2 chế độ (thụ động và chủ động) thế hệ mới của hãng GosNPO Altair, có khả năng đối phó tốt với hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương.
Moskit tấn công đối phương với độ chính cao và sức mạnh hỏa lực kinh hoàng.
Trên ảnh là cảnh một quả Moskit được phóng từ tàu khu trục lớp Sovremenny.
Trong các loại tên lửa chống hạm hiện nay trên thế giới, Moskit là tên lửa có tốc độ bay lớn nhất, gấp 3 lần tốc độ của tên lửa Harpoon (Mỹ). Moskit đạt tốc độ 3M khi bay ở độ cao lớn và 2,2M khi bay sát mặt biển.

Sau khi được phóng đi, Moskit chỉ cần 2 phút để bay tới mục tiêu và chỉ cần từ 1-2 tên lửa để đánh chìm một tàu hàng trọng tải 20.000 tấn. Từ khoảng cách 10km đến mục tiêu, tên lửa chỉ cần 20 giây là chạm mục tiêu, do đó đối phương ít có cơ hội chống đỡ. Ngoài ra, khi tiếp cận mục tiêu, đầu tìm radar chuyển sang chế độ thụ động, cho phép tên lửa phát hiện các nguồn gây nhiễu, đồng thời truyền toàn bộ các thông tin này về trung tâm chỉ huy bắn. Chính nhờ tính năng này và một số tính năng khác, hệ dẫn của Moskit đối phó rất hiệu quả với các hệ thống gây nhiễu điện tử của đối phương.

So với tên lửa Exocet của Pháp, việc gây nhiễu và triển khai tên lửa và pháo đánh chặn Moskit là vô cùng khó khăn. Vì thời gian cần thiết để hệ thống phòng thủ tên lửa trên tàu kích hoạt đối phó hiệu quả với Exocet là khoảng từ 120-150 giây. Trong khi đó, đối phương chỉ có từ 30 giây để đối phó với Moskit.

Hiện, Mỹ triển khai nghiên cứu một hệ thống tên lửa có khả năng đánh chặn Moskit, tuy nhiên, đến nay, hệ thống mới vẫn chưa được đưa vào trang bị cho hải quân Mỹ.

Moskit được trang bị cho tàu khu trục lớp Sovremenny, với cơ số 8 quả.
Ảnh là một chiếc tàu khu trục Sovremenny của hải quân Nga.
Các thế hệ tên lửa 3M80 và 3M80M được trang bị cho tàu khu trục lớp Sovremenny, còn 3M82 được trang bị cho các tàu khu trục và tàu tên lửa thế hệ sau.

Trong các thập niên 1980-1990, hải quân Liên Xô và Nga đã đóng thêm tổng cộng 34 tàu tên lửa thuộc lớp Molnya-M, trong đó 28 tàu đang phục vụ trong hải quân Nga. Mỗi tàu Molnya-M được trang bị 2 bệ phóng x 2 quả Moskit cùng hệ thống radar điều khiển bắn hai chế độ (chủ động/thụ động).

Tổng cộng có 18 tàu khu trục của hải quân Nga được trang bị tên lửa Moskit. Mỗi tàu khu trục được trang bị 8 quả Moskit. Trung Quốc cũng đã đóng 2 tàu chiến trang bị hệ thống 3M80E và đưa vào trang bị trong năm 2000 và 2001 .
Tàu đệm khí hộ vệ tên lửa lớp Bora được trang bị 8 quả 3M80 Moskit
Thế hệ tàu chiến mới nhất được trang bị 3M80 Moskit là lớp Bora/Dergach. Mỗi chiếc Bora được trang bị 8 ống phóng, giống như tàu khu trục Sovremenny. Theo các chuyên gia, 3M80/82 Moskit là một trong những họ tên lửa chống hạm thành công nhất của Nga. Moskit có thể tấn công hiệu quả các loại tàu chiến lớn, nhỏ, các cụm tàu đổ bộ và đặc biệt là tàu sân bay.


Kh-41 là biến thể tên lửa không-đối-hạm trang bị cho các máy bay Su-27, Su-30Su-33.
Một quả Kh-41 đặt dưới bụng máy bay Su-27K.
Ngoài biến thể trang bị cho tàu chiến, Nga còn chế tạo biến thể Moskit trang bị cho lực lượng không quân hải quân có tên gọi Kh-41 để lắp trên các máy bay Su-27K, Su-30Su-33. Kh-41 sử dụng động cơ phản lực 2 chế độ, hoạt động giống như tên lửa Kh-31. Tên lửa Kh-41 được treo dưới thân máy bay với các cánh tên lửa được gập lại.

Khi được phóng khỏi máy bay, tên lửa tự bay đến mục tiêu, có thể có sự can thiệp của phi công. Khi đến gần mục tiêu, đầu tìm radar chủ động được kích hoạt giúp phi công xác định chính xácvà tiêu diệt mục tiêu.
Source: ĐVO
 

gauchip83

Xe tải
Biển số
OF-120725
Ngày cấp bằng
15/11/11
Số km
430
Động cơ
386,260 Mã lực
Nơi ở
Nhà trên núi
Các cụ rành có thể so sánh giữa Yakhont, Moskit và Club xem thằng nào ngon nhất được không ạ? Quảng cáo Moskit không có đối thủ thế hóa ra Yakhont và Club ra đời sau lại ko bằng được sao?
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Iran sắp triển khai tên lửa mới bắn hạ tàu chiến Mỹ
http://baodatviet.vn/hinh-anh/201301...en-My-2211369/

Quote:
Vào đúng dịp đầu năm 2013, Iran đã tiến hành thử thành công tên lửa Noor loại mới có thể hạ gục tầu chiến Mỹ ở khoảng cách 170km



Sau khi xác nhận việc thử nghiệm thành công tên lửa bảo vệ bờ biển Noor vào ngày 1/1/2013, ngay lập tức Teheran đã quyết định sẽ triển khai hệ thống tên lửa này tại khu vực bờ biển Iran nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh hải khi có sự xâm nhập trái phép từ bên ngoài...



Theo đại diện của Iran cho biết tên lửa Noor phiên bản nâng cấp có thể được sử dụng để đối phó với các tàu chiến cho dù đó là loại tầu chiến hiện đại...



Hải quân Iran khẳng định tên lửa Noor có tầm bắn đạt khoảng 170km xa hơn 50 km so với các loại rocket đang triển khai trên các chiến hạm của nước này.



Việc thử nghiệm thành công tên lửa Noor đã trở thành tiền đề để lực lượng quân đội Iran có thêm sức mạnh nhằm chống lại các thế lực thù địch từ bên ngoài...



Tên lửa Noor được bắn thử trong ngày 1/1/2013 mới đây.



Hình ảnh tướng Ahmad Vahidi, Bộ trưởng quốc phòng Iran dự buổi phóng thử thành công tên lửa tầm xa do chính nước này chế tạo tại vùng biển phía nam của Iran...



Sau khi tên lửa Noor hạ gục được mục tiêu giả định, tướng Ahmad Vahidi đã khẳng định loại tên lửa này chính là niềm tự hào của Iran để chống lại Mỹ và các quốc gia phương Tây...



Trước thông tin này vào ngày 9/1/2013 đại diện Lầu Năm Góc đã khẳng định: Vụ thử tên lửa tầm xa thành công của Iran sẽ là một trở ngại lớn đối với Washington, nhưng không vì thế mà Mỹ e ngại quốc gia Hồi giáo này, thậm chí Mỹ còn nhận định việc liên tục tiến hành chế tạo, nâng cấp các trang thiết bị quốc phòng sẽ chỉ khiến đời sống người dân của Iran ngày càng kém đi...



Có luận điểm hoàn toàn ngược lại, Teheran tin rằng với sức mạnh hiện có của quân đội cộng với việc liên tục hiện đại hóa khí tài quân sự Iran hoàn toàn có thể tự bảo vệ được mình trước bất kỳ thế lực nào.



Ảnh cận hệ thống tên lửa Noor được thử nghiệm với nhiều cải tiến trong hệ thống điện tử giúp hạ gục mục tiêu một cách chính xác hơn...

+ Đôi nét Noor dựa theo C-803 xuất khẩu vào năm 1995, nhưng vì Mỹ áp lực lên TQ nên chỉ giao được 60 quả. Sau đó Iran đảo ngược thiết kế và cải tiến tầm bắn lên 170 km gần ngang với C-802A2 180 km và loại Qader 200 km hơn hẳn C-802A2, phải nói trình độ của Iran nhất nhì khu vực này

 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Dành cho cả nhà hiểu rõ hơn vì sao Iran tuyên bố lớn giọng, là vì:

Ở vịnh Péc-xích
Khoảng cách xa nhất tính từ căn cứ Hạm đội 5 của Mẽo chốt tại thủ đô Manama của Bahrain chỉ cách đất Iran có 207km, mà tầm bắn của tên lửa Noor đạt 170km coi như cover gần hết

chưa kể điểm hẹp nhất ở eo Hormuz thì từ đất Iran sang đất kẻ thù chỉ có 34km, bằng 1/3 tầm bắn của tên lửa Iran.

Phóng trên tàu chiến. Loại C701

Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 972x653.


Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1024x704.

INS Hanit ngày xưa có Phalanx với Barak bị C-802 bắn tòe mỏ

 
Chỉnh sửa cuối:

Mannschaft

Xe điện
Biển số
OF-17341
Ngày cấp bằng
14/6/08
Số km
3,263
Động cơ
537,302 Mã lực
Nơi ở
Bốn bể là nhà
Các cụ rành có thể so sánh giữa Yakhont, Moskit và Club xem thằng nào ngon nhất được không ạ? Quảng cáo Moskit không có đối thủ thế hóa ra Yakhont và Club ra đời sau lại ko bằng được sao?
Mỗi loại có nhiệm vụ riêng không nên lẫn với nhau
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Các cụ rành có thể so sánh giữa Yakhont, Moskit và Club xem thằng nào ngon nhất được không ạ? Quảng cáo Moskit không có đối thủ thế hóa ra Yakhont và Club ra đời sau lại ko bằng được sao?
Tóm tắt Yakhont bắn từ xe hoặc máy bay, Club từ tàu xe hoặc ngầm Moskit bắn từ tàu, máy bay có tầm bắn bét nhất 130 km <. "Moskit không đối thủ" là do báo VN dật tít thôi chứ Nga chưa bao giờ nói về hàng mình như vậy cả.
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Hồ sơ X:

Lịch sử thăng trầm của họ tên lửa huyền thoại Scud

Trước khi nổi tiếng thế giới, Scud phải trải qua thời gian dài hoàn thiện. Đã có nhiều mẫu nghiên cứu của họ tên lửa này ít biết đến trong thời gian hơn 30 năm phát triển.

Trong lịch sử phát triển tên lửa đạn đạo thế giới, Scud là cái tên không thể bỏ qua. Đây là là loại tên lửa đạn đạo được dùng trong chiến tranh nhiều hơn bất kỳ loại tên lửa nào khác. Đồng thời, Scud cũng là “bệ phóng” chương trình tên lửa của nhiều quốc gia trên thế giới.

Đất Việt xin giới thiệu quá trình phát triển tên lửa đạn đạo nổi tiếng:

Lưu ý, Scud thực ra là cái tên do NATO đặt định danh tên lửa đạn đạo tầm ngắn R-11 và R-17 do Liên Xô sản xuất. Dù vậy, cái tên Scud dường như được dùng rộng rãi hơn nhiều so với cái tên “khai sinh” của loại tên lửa này.

(ĐVO) Kỳ 1: Thế hệ đầu 'im hơi lặng tiếng'

Trong tài liệu phương Tây, Scud là thiết kế bắt nguồn từ tên lửa đạn đạo của người Đức, V-2. Ý kiến này không hẳn sai, vì chương trình tên lửa Liên Xô và Mỹ đều bắt nguồn từ V-2.

Nguồn gốc từ V-2

Sau khi đánh bại phát xít Đức, trong năm 1945, Liên Xô gửi một đội chuyên gia tới thu thập công nghệ tiên tiến của Đức, gồm tên lửa V-2. Khi đó, đây là một loại vũ khí có độ chính xác kém nhưng chính khả năng vươn xa cùng với sức công phá mạnh đã “hút hồn” cả Mỹ và Liên Xô.

Tại Đức, các chuyên gia Liên Xô chỉ thu nhặt được một số chuyên viên kỹ thuật trong chương trình tên lửa V-2. Hầu hết những người cốt cán, như “cha đẻ” V-2 Von Braun được Mỹ "rước" đi từ trước.

Các nhân viên người Đức được vào làm việc tại Viện nghiên cứu tên lửa NII-88 (OKB-1) dưới sự lãnh đạo của Đại tá Sergei Korolev - người sau này đã đặt nền móng quan trọng cho công cuộc chinh phục không gian vũ trụ của Liên Xô.

Với những tài liệu được phục hồi cùng bộ phận rời tên lửa V-2, nhóm nghiên cứu Xô – Đức đã tái tạo các mẫu tên lửa V-2, đặt tên mới R-1 (tầm bắn 270km, lắp đầu đạn nặng 785kg).
Tên lửa đạn đạo đầu tiên do Liên Xô sản xuất, R-1 (Mỹ định danh là SS-1A).​

Trong 11 lần bắn thử nghiệm năm 1947-1948, tên lửa R-1 đánh trúng mục tiêu 5 lần, tỉ lệ này được cho có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, R-1 không bao giờ được đón nhận từ tướng lĩnh Quân đội Liên Xô do gặp vấn đề nhiên liệu động cơ (khó sản xuất, khó bảo quản) và độ chính xác kém (đây cũng là vấn đề đeo bám nhiều thế hệ Scud cho tới khi ngừng sản xuất).

Điều này đã thúc đẩy các nhà khoa học Liên Xô phát triển thế hệ tên lửa đạn đạo dùng nhiên liệu mới có độ tin cậy tốt hơn.

Một Scud ít tiếng tăm

Tháng 12/1951, Phòng thiết kế OKB-1 Korolev khởi động chương trình phát triển tên lửa đạn đạo chiến thuật mới sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng (phòng thiết kế OKB-2 Isayev sản xuất).

Ngày 18/4/1953, tên lửa đạn đạo tầm ngắn R-11 (Mỹ định danh là SS-1B, NATO gọi là Scud A) được phóng thành công lần đầu tại trường bắn Kasputin Yar.

R-11 có chiều dài 10,7m, đường kính thân 0,88m, khối lượng phóng 4,4 tấn. R-11 trang bị động cơ nhiên liệu lỏng S2.253 (thành phần nhiên liệu gồm axit nitric AK-20F chọn làm chất oxy hóa, nhiên liệu là dầu hỏa T-1, thành phần phóng là TG-02 Tonka – chất này tự bốc cháy khi tiếp xúc với axit nitric). R-11 có tầm bắn tối đa 180km, tải trọng 950kg.

R-11 thiết kế 4 cánh lái Graphite ở loa phụt động cơ điều chỉnh hướng bay. Do hạn chế công nghệ thời kỳ này, R-11 vẫn dùng hệ dẫn đường quán tính lạc hậu, thiếu chính xác, bán kính lệch mục tiêu (CEP) tới 3.000m. Đạn tên lửa R-11 đặt trên khung bệ xe mang phóng 8U227 thiết kế trên khung gầm cơ sở xe bánh xích AT-T.

Nhìn chung, R-11 vẫn bị coi là thiếu tin cậy, hết vấn đề nhiên liệu phóng lại tới độ chính xác tồi tệ. Đầu đạn thuốc nổ mạnh nặng gần 1 tấn của tên lửa chưa “bù đắp” được độ kém chính xác.

Tháng 8/1954, OKB-1 tiếp tục triển khai phát triển biến thể mang đầu đạn hạt nhân R-11M. Với đầu đạn hạt nhân, chỉ số CEP lớn có thể được bù đắp phần nào.

Sở dĩ, từ thiết kế R-1 và R-11, Liên Xô không sử dụng đầu đạn hạt nhân vì chúng quá to và nặng với phương tiện mang phóng.

Từ giữa những năm 1950, vũ khí hạt nhân ở mức hoàn thiện cao hơn, nhẹ hơn, nhỏ hơn nhưng sức công phá mạnh hơn. Vì vậy, việc mang nó vũ khí hạt nhân trên phương tiện mang phóng khả thi hơn.

Tên lửa đạn đạo R-11M trên xe phóng bánh xích 8U28.​

Công việc thiết kế nhanh chóng hoàn thành và sản xuất các mẫu thử tại nhà máy No. 385 Zlatmst.

Từ tháng 12/1955 tới đầu 1958, Liên Xô tiến hành 27 cuộc thử R-11M chia làm 3 giai đoạn, trong đó có một lần thử với đầu đạn hạt nhân.

R-11M đạt tầm bắn tối đa 270km với đầu đạn thuốc nổ thông thường hoặc 150km với đầu đạn hạt nhân 50 kiloton. Đạn tên lửa R-11M đặt trên xe phóng 8U218 thiết kế trên khung gầm cơ sở xe pháo tự hành ISU-152.

Ngày 1/4/1958, R-11M chính thức được chấp nhận đưa vào phục vụ trong Quân đội Liên Xô. Trước đó, tháng 11/1957, R-11M vinh dự xuất hiện trong cuộc duyệt binh trên Quảng trường đỏ.

Thời kỳ đầu, R-11/11M chủ yếu biên chế trong Lữ đoàn nằm dưới sự điều hành của Bộ Tổng Tham mưu và không bao giờ được xuất khẩu.

Có thể nói, trong gần 30 năm phát triển, thế hệ R-11/11M chỉ là cái bóng, không đóng vai trò gì. Mọi vinh quang của dòng tên lửa này dồn cho thế hệ sau này là R-17.

Tuy nhiên, với Quân đội Liên Xô, R-11/11M đã đem nền tảng vũ khí trên biển, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm.

Nền tảng tên lửa phóng từ tàu ngầm

Tham vọng chế tạo tên lửa đạn đạo đặt trên tàu ngầm của Liên Xô bắt đầu từ năm 1947 với dự định phát triển biến thể V-2 phóng từ tàu ngầm nhưng dự án không bao giờ được thực hiện.

Tháng 1/1954, OKB-1 Korolev tái khởi động project Volna phát triển loại tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm. Thay vì nghiên cứu nền tảng mới, OKB-1 lựa chọn R-11M để cải tiến vì kích cỡ của nó phù hợp với không gian chật hẹp trên tàu ngầm.

Một vấn đề khó khăn thực hiện project Volna, đó là phương thức phóng tên lửa từ tàu ngầm. Lý tưởng nhất, R-11M được phóng khi tàu ngầm dưới còn ở dưới mặt nước, như vậy nó đảm bảo tàu không lộ diện trước thiết bị trinh sát trên mặt biển.

Nhưng điều này đặt ra thách thức lớn về công nghệ. Các nhà khoa học vẫn chưa xác định hết được sự tương tác giữa tên lửa với môi trường nước sẽ như thế nào? Liệu tên lửa có bị áp lực nước nghiền nát? Động cơ tên lửa có thể đánh lửa dưới nước, nước có tràn vào trong động cơ?….

Hình họa mô phỏng phóng tên lửa đạn đạo R-11FM phóng từ tàu ngầm project 611AV lớp Zulu V.

Cuối cùng, các nhà khoa học Liên Xô chọn giải phóng an toàn hơn, tên lửa đạn đạo được phóng khi tàu nổi. Cục thiết kế TsKB-34 phụ trách phát triển hệ thống phóng SM-49 để bắn tên lửa đạn đạo R-11FM (biến thể R-11M).

Về nền tảng bệ phóng, TsKB-16 lựa chọn cải tiến tàu ngầm tấn công điện – diesel project 611 lớp Zulu mang hệ thống SM-49. Ngày 16/9/1955, trên biển Trắng, tàu ngầm project 611 bắn thử thành công tên lửa đạn đạo chiến thuật R-11FM. Tiếp đó, 8 cuộc phóng khác lần lượt được thực hiện.

Dù các cuộc phóng thành công đầy hứa hẹn nhưng nhìn chung R-11FM mắc nhiều khiếm khuyết. Ví dụ, nhiên liệu động cơ thuộc là loại lỏng, chỉ được bảo quản trong vòng 3 tháng. Đồng thời, nhiên liệu lỏng không đáng tin cậy, dễ cháy nổ.

Bên cạnh đó, biến thể đất liền R-11M vốn dĩ có độ chính xác rất kém, R-11FM lại càng tồi tệ, bán kính lệch mục tiêu CEP tăng hơn gấp đôi, tới 7.000m. Cuối cùng, việc triển khai phóng R-11FM mất rất nhiều thời gian.

Hải quân Liên Xô hoàn toàn không muốn chấp nhận một loại vũ khí thiếu tin cậy, kém chính xác trong biên chế. Nhưng, lãnh đạo Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng quyết tâm ủng hộ Project Volna. Cuối cùng, Hải quân phải chấp nhận đưa vào R-11FM trang bị.

Có tất cả 7 tàu ngầm project 611AV Zulu V được trang bị tên lửa R-11FM biên chế vào Hạm đội biển Bắc và Thái Bình Dương. Trong thời gian triển khai, có 77 tên lửa đạn đạo R-11FM được phóng trên biển, tỉ lệ thành công đạt 86%.

Dù không được đánh giá cao nhưng, R-11FM đã đặt nền móng cho quá trình phát triển tên lửa đạn đạo trên tàu ngầm sau này của Hải quân Liên Xô và Nga ngày nay.

Tên gọi các loại vũ khí của Liên Xô luôn làm đau đầu người đọc, ngoài định danh do nhà sản xuất đặt, nó còn có tên định danh của Mỹ và NATO. Điều đó, làm cho các loại vũ khí của Liên Xô có quá nhiều tên gọi, tên lửa đạn đạo này là một trong những loại vũ khí như thế.

Đối với R-11, người Nga định danh cho nó là R-11 Zemlya, Mỹ gọi riêng với tên SS-1B (SS-1A dành để chỉ R-1 và R-2) còn NATO gọi là Scud-A. Tương tự, thế hệ sau R-17 là cách người Nga gọi, Mỹ gọi riêng là SS-1C và NATO gọi là Scud-B.

Dù có cái tên chính thức, nhưng có lẽ ngoài Nga thì nhiều quốc gia trên thế giới hầu hết quen gọi loại tên lửa này là Scud – một cách đơn giản nhất.

Lịch sử thăng trầm của họ tên lửa huyền thoại Scud (kỳ 2)
Cập nhật lúc :8:24 AM, 16/10/2012
R-11M còn chưa "ngồi" ấm chỗ, năm 1962, R-17 cải tiến được đưa vào biên chế. Đây là thiết kế tên lửa đạn đạo trên thế giới được xuất khẩu rộng rãi, sử dụng phổ biến nhất kể từ sau Thế chiến thứ 2.

(ĐVO) Kỳ 2: R-17 - niềm hi vọng sức mạnh Quân đội Liên Xô

Tên lửa - đầu đạn hạt nhân - Tương lai của Quân đội Liên Xô

Khi tên lửa đạn đạo R-11M lần đầu triển khai cuối những năm 1950, việc sử dụng chỉ hạn chế số lượng nhỏ ở các lữ đoàn đặc biệt, nằm dưới sự chỉ huy của Bộ Tổng Tham mưu, không nằm dưới điều khiển lực lượng Lục quân. R-11M vẫn còn khá đắt tiền và được coi là tài sản cho cuộc chiến tranh hạt nhân nói chung, không dành riêng để hỗ trợ chiến dịch chiến thuật. (>> xem thêm)

Nhưng mọi chuyện dần thay đổi, Tổng bí thư Nikita Khruschev lên năm quyền, ông này coi tên lửa mang đầu đạn hạt nhân làm điểm tựa cho lực lượng vũ trang tương lai.

Thay vì duy trì lực lượng lớn binh lính (tới hàng triệu người) cùng hàng trăm nghìn binh khí kỹ thuật, Khruschev hình dung ra tương lai Quân đội Liên Xô phải là đội quân quy mô nhỏ và trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân với sức công phá mạnh.

Tổng Bí thư Khruschev quyết định chuyển đổi lữ đoàn tên lửa RVGK (Dự bị cho Bộ Tổng tư lệnh tối cao) thành lực lượng tên lửa chiến lược (RVSN) chịu trách nhiệm lực lượng hạt nhân chiến lược (thuộc Lục quân). Kết quả, lữ đoàn tên lửa tầm ngắn, gồm các đơn vị R-11M được đổi tên thành Lữ đoàn tên lửa chiến dịch – chiến thuật và nằm dưới sự điều hành của Lục quân.

Quá trình phát triển từ R-11 tới R-17 gắn liền với quan điểm nhà lãnh đạo Liên Xô Khruschev.
Binh chủng Pháo binh Lục quân Liên Xô đổi tên thành “Lực lượng Pháo binh và Tên lửa” cho phù hợp với thay đổi.

Mỗi lữ đoàn R-11M biên chế 9 xe phóng, 200 xe vận tải hỗ trợ cùng 1.200 lính. Năm 1962, Lữ đoàn R-11M đầu tiên triển khai cho Lực lượng Lục quân Liên Xô đóng tại Cộng hòa Dân Chủ Đức.

Sau một thời gian có kinh nghiệm hoạt động với R-11M, các tướng lĩnh quân đội Liên Xô thấy rằng tên lửa nhiên liệu lỏng khó bảo quản trên thực địa khi được điều hành bởi đội ngũ binh lính nghĩa vụ ít đào tạo. Vì vậy, họ cần thế hệ tên lửa mới khắc phục yếu kém của R-11M.

Đáp ứng yêu cầu đó, năm 1958-1959, các nhà khoa học Liên Xô phát triển tên lửa nhiên liệu rắn Onega (tầm 70km) cho nhiệm vụ chiến thuật và tên lửa tầm xa PR-2 (tầm 250km) cho nhiệm vụ chiến thuật – chiến dịch và Ladoga (tầm 300km) cho nhiệm vụ chiến dịch.

Dù các nhà phát triển vũ khí Liên Xô hy vọng thiết kế này sẽ cung cấp một thế hệ mới vũ khí linh hoạt và hiệu quả hơn nhưng cũng phải công nhận rằng, công nghệ nhiên liệu rắn rất phiền hà, buộc Liên Xô quay lại lối đi cũ, thiết kế tên lửa nhiên liệu lỏng cải tiến dựa trên R-11M, R-11MU.


Tên lửa đạn đạo R-17

Chương trình phát triển R-11MU thực hiện từ 4/1958 bởi Cục thiết kế SKB-385 Makeyev. Trong quá trình phát triển, tên lửa R-11MU được đổi tên thành R-17 (Mỹ gọi là SS-1C, NATO gọi là Scud B), nó gần như là thiết kế hoàn toàn mới, ít điểm chung với “người tiền nhiệm” R-11.

Toàn bộ hệ thống tên lửa đạn đạo chiến dịch – chiến thuật dùng tên lửa R-17 được Tổng cục Pháo binh – Tên lửa (GRAU) định danh 9K72 Elbrus.

Tháng 12/1959, tại trường bắn Kasputin Yar, Liên Xô bắn thử thành công tên lửa đạn đạo R-17. Ngày 7/11/1961, R-17 lần đầu xuất hiện trước công chúng trong cuộc duyệt binh trên Quảng trường Đỏ. Năm 1962, chính phủ Liên Xô ra nghị quyết chấp nhận R-17 đưa vào biên chế.

R-17 có chiều dài 11,25m, đường kính thân 0,88m, khối lượng phóng 5,9 tấn. Tên lửa trang bị động cơ Isayev RD-21 nhiên liệu lỏng (thành phần nhiên liệu gồm chất cháy TM-185, chất oxy hóa AK-27I và nhiên liệu phóng TG-02).

Hệ thống dẫn đường sử dụng 3 con quay hồi chuyển cho phép đạt độ chính xác cao hơn nhiều, bán kính lệch mục tiêu CEP đạt 450m (phương Tây cho rằng con số vào khoảng 900m). R-17 thiết kế mang đầu đạn thông thường nặng 1 tấn hoặc đầu đạn hạt nhân 5-70 kiloton, đầu đạn hóa học.
Xe phóng 9P117 mang tên lửa đạn đạo chiến thuật R-17.​
Với công nghệ kỹ thuật mới áp dụng giải bài toán động cơ, cho phép R-17 tăng tầm bắn lên 270km.

Sau này, Liên Xô tiếp tục cải tiến đưa ra biến thể mới R-17M tăng tầm lên 300km và biến thể khác thử nghiệm vào năm 1965 tăng tầm tới 500-600km. Nhìn chung việc tăng tầm bắn chủ yếu dựa vào thay đổi động cơ, thành phần nhiên liệu phóng tên lửa hoặc giảm tải trọng tăng chỗ chứa nhiên liệu.

Đặc biệt hơn cả, việc bảo quản nhiên liệu trong điều kiện chiến trường kéo dài tới 6 tháng, trong thời bình tới 19 năm, thỏa mãn yêu cầu quân đội. Trước đó, việc bảo quản nhiên liệu phóng là một trong những vấn đề mà các tướng lĩnh quân đội kêu ca với R-11.

Về phương tiện mang phóng, ban đầu R-17 dùng xe phóng 8U218 (khung gầm cơ sở xe bánh kích AT-T) của R-11M. Năm 1961, Liên Xô chuyển sang xe phóng bánh xích 2P19 (khung gầm cơ sở pháo tự hành ISU-152K) cho R-17. Tuy nhiên, phương tiện bánh xích gây ra độ rung lớn ảnh hưởng tới thiết bị điện tử tinh vi trong tên lửa. Bên cạnh đó, năm 1962, Tổng bí thư Khruschev hủy bỏ việc sản xuất xe tăng hạng nặng. Vì vậy, Liên Xô gấp rút tìm phương án phương tiện phóng tự hành mới.

Cục thiết kế Trung ương Titan (Volgograd) được giao nhiệm nhiệm vụ phát triển phương tiện mang phóng tự hành bánh lốp mới. Họ chọn khung gầm cơ sở xe vận tải hạng nặng MAZ-543 làm xe mang phóng đạn R-17, định danh 9P117 Uragan.

Tên lửa đạn đạo chính xác cao

Trong suốt quá trình phát triển, cụm từ "chính xác cao" là một điều gì đó xa xỉ với tên lửa đạn đạo R-11/R-17, có lẽ là giấc mơ khó có thực. Thế nhưng, với sự phát triển mạnh mẽ công nghệ kỹ thuật, từ giữa những năm 1960, các nhà khoa học Liên Xô nghiên cứu cải tiến R-17 để đạt độ chính xác mục tiêu lớn hơn.

Năm 1967, Viện Nghiên cứu Khoa học về tự động hóa Trung ương thực hiện chương trình phát triển biến thể chính xác cao mang tên R-17 Aerofon áp dụng công nghệ so sánh quang học, tức là so sánh hình ảnh mục tiêu tấn công.

Do giới hạn công nghệ, mãi tới năm 1974, chương trình mới tái khởi động. Theo đó, đạn tên lửa R-17 Aerofon thiết kế đầu đạn nằm tách biệt với khoang thân. Đầu đạn lắp thêm hệ thống dẫn đường pha cuối của riêng nó. Đầu mũi tên lửa trang bị TV Camera, hệ thống so sánh khu vực mục tiêu với dữ liệu ảnh kỹ thuật số lưu giữ trong kho máy tính để tấn công.

Trong 2 lần bắn thử vào tháng 9-10/1984, R-17 Aerofon đều thất bại. Sau này, nguyên nhân được xác định là do có đám bụi bám ở ống kính quang học, mũi tên lửa. Vấn đề được khắc phục và cuộc thử vào năm 1985 thành công, R-17 Aerofon có bán kính lệch mục tiêu CEP chỉ khoảng 50m – con số cực kỳ ấn tương.

Năm 1989, sau khi hoàn tất mọi thử nghiệm, R-17 Aerofon sẵn sàng chờ tiếp nhận vào lực lượng. Tuy nhiên, nó không bao giờ sản xuất hàng loạt, vì những năm 1980, hệ thống tên lửa đạn đạo chiến dịch – chiến thuật Touhka (SS-21 Scarab) và Oka (SS-23) hiện đại hơn đã xuất hiện.

Theo một số nguồn tin, sau 1990, nước Nga có xuất khẩu một số lượng không xác định R-17 Aerofon.


Hệ thống tên lửa đạn đạo chiến dịch – chiến thuật 9K72 Elbrus được xuất khẩu rộng rãi cho một số nước thuộc khối Warsaw và các nước nằm ở Trung Đông – Đông Nam Á.

Biến thể xuất khẩu được gọi là 9K72E Elbrus dùng tên lửa đạn đạo R-17E mang đầu đạn thuốc nổ thông thường.

Theo tính toán lý thuyết, với tầm bắn 300km, tốc độ va chạm 1,4km/s, đầu đạn tạo ra một hố sâu 1,5-4m, rộng 12m.

Theo thống kê của Nga, tính tới năm 1989, Liên Xô đã xuất khẩu 2.300 tên lửa R-17E cho 11 quốc gia. Theo một số nguồn khác, số tên lửa R-17E xuất khẩu cho khối Warsaw vào khoảng 1.000 tên lửa và bán cho các nước Trung Đông – Đông Nam Á trên 3.000 tên lửa.

Ở Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực trang bị tên lửa R-17E. Năm 1979, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 12 xe phóng cùng số lượng tên lửa không xác định biên chế đủ 1 lữ đoàn.



R-17 lập kỷ lục trở thành tên lửa đạn đạo đầu tiên sử dụng rộng rãi sau Thế chiến Thứ 2. Ví dụ, trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq (1980-1988), Quân đội Iraq phóng hàng trăm quả R-17E vào đất Iran, các cuộc tấn công này ghi nhận làm hàng nghìn người Iran thiệt mạng và bị thương.

Trong cuộc nội chiến Afghanistan, Quân đội Liên Xô cũng phóng nhiều quả R-17E tấn công mục tiêu quân Mujahideen.

Ngoài vai trò là vũ khí tấn công trên chiến trường, R-17 còn là nền tảng phát triển chương trình tên lửa đạn đạo Triều Tiên và Iran. Ngày nay, trong kho tên lửa Triều Tiên, tên lửa đạn đạo tầm ngắn Hwangsong 5/6, tầm trung Nodong đều là thiết kế cải tiến từ R-17.

Không dừng lại ở đó, R-17 còn được dùng để phát triển các phương tiện phóng vệ tinh Iran, Iraq và Triều Tiên. Dù mọi dự án đều không đi đến thành công cuối cùng.


Kho tên lửa đạn đạo Triều Tiên có gì?


Những quả tên lửa đạn đạo đầu tiên xuất hiện trong Quân đội Triều Tiên từ cuối những năm 1960. Đầu những năm 1970, Triều Tiên đã nỗ lực tìm kiếm một loại tên lửa từ Liên Xô có tầm bắn xa hơn nhằm tấn công mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Hàn Quốc. Tuy nhiên do mối quan hệ hai nước rơi vào tình trạng căng thẳng nên Triều Tiên không có được loại tên lửa mới. Họ đã quay sang hợp tác với Trung Quốc phát triển tên lửa đạn đạo Đông Phong 61 đạt tầm bắn 600km nhưng dự án cũng hủy bỏ giữa chừng năm 1978.
Vận may tới với chương trình tên lửa Triều Tiên cuối những năm 1980 khi họ nhập khẩu được một số tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud-B từ Ai Cập. Nó đã trở thành “nền tảng quan trọng” trong việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm ngắn, tầm trung sau này của Triều Tiên.
Tên lửa đạn đạo tầm ngắn
Sau khi “mổ xẻ” công nghệ Scud-B, các chuyên gia Triều Tiên đã sản xuất biến thể nội địa mang tên Hwasong 5 với một vài cải tiến nhỏ.
Tên lửa đạn đạo tầm ngắn Hwasong 5 có tầm bắn tăng lên 320km, trọng tải 1 tấn (lắp đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học, đầu đạn thường).
Năm 1988, Triều Tiên bắt đầu chương trình cải tiến tăng tầm bắn Hwasong-5, kết quả là tên lửa đạn đạo mới Hwasong 6 ra đời.
Tên lửa đạn đạo tầm ngắn Hwasong 6 đặt xe mang bệ phóng trong một cuộc duyệt binh của Quân đội Triều Triên. Hwasong 6 dài 12m, đường kính thân 0,88m, tải trọng 800kg (mang đầu đạn nổ thường hoặc đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học). Tên lửa Hwasong 6 tăng tầm bắn lên 700km đủ khả năng vươn tới các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Hàn Quốc.
Hwasong 6 bắn thử lần đầu tháng 6/1990 và chính thức đưa vào phục vụ năm 1991. Theo các báo cáo quốc tế, tính tới năm 1999 Triều Tiên đã sản xuất khoảng 600-1.000 tên lửa loại này.
Sau sự kiện Ai Cập cung cấp Scud-B cho Triều Tiên để quốc gia này “sản sinh” ra Hwasong 5/6, theo báo cáo quốc tế năm 1997 Syria xuất khẩu cho Triều Tiên một số tên lửa OTR-21 Tochka của Liên Xô. Và tất nhiên, nước này đã không bỏ lỡ “cơ hội trời cho” sao chép cải tiến cho ra đời tên lửa đạn đạo tầm ngắn KN-02.
KN-02 dài 6,4m, đường kính thân 0,65m, trọng lượng phóng 2,01 tấn. Tên lửa lắp đầu đạn nổ thường nặng 485kg, tầm bắn tối đa 160km. Tên lửa đã trải qua ít nhất 17 cuộc bắn thử trước khi đưa vào sản xuất từ năm 2006 và chính thức đưa vào phục vụ năm 2008.
Tên lửa đạn đạo tầm trung
Song song với chương trình phát triển tên lửa đạn đạo chiến thuật Hwasong 5/6, ngay từ giữa những năm 1980 Triều Tiên xúc tiến nghiên cứu sản xuất tên lửa đạn đạo tầm trung No Dong 1.
Tên lửa đạn đạo No Dong 1 có chiều dài 16,2m, đường kính thân 1,36m, trọng lượng phóng 16,5 tấn, tải trọng 1,2 tấn (lắp đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân). No Dong 1 đạt tầm bắn tối đa 1.300km nhưng độ sai lệch mục tiêu rất lớn chỉ phù hợp để tấn công các thành phố lớn, sân bay, kho tàng bến bãi.
Tên lửa đạn đạo No Dong 1. No Dong 1 chính thức đưa vào phục vụ năm 1995. Theo cơ quan tình báo Mỹ, tính tới năm 2006 Triều Tiên đã triển khai 200 quả Nodong 1 trong khi phía Hàn Quốc cho rằng con số vào khoảng 450 quả.
Có thể nói, tốc độ phát triển tên lửa Triều Tiên như vũ bão, ngay sau sự xuất hiện của No Dong 1 tới lượt No Dong 2. Thông số kỹ thuật No Dong 2 tương tự No Dong 1 được cải tiến tăng tầm bắn lên 1.500km nhưng tải trọng giảm xuống còn 700kg.
Theo một số nguồn tin, Triều Tiên phát triển No Dong 2 với sự hỗ trợ từ các chuyên gia Trung Quốc. Nhiều khả năng, nước này đã cung cấp cho Triều Tiên các công nghệ và linh kiện tên lửa.
Năm 2003 đã có thông tin Triều Tiên đang phát triển loại tên lửa mới dựa trên tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm R-27 của Nga mang tên BM25 Musudan (hoặc có tên gọi khác là No Dong B, Mirim, Taepodong X).
Tên lửa đạn đạo tầm trung BM25 Musudan có chiều dài khoảng 12-19m, đường kính thân 1,5-2m, trọng lượng phóng 19-26 tấn, trọng tải 1,2 tấn. Tên lửa có khả năng đạt tầm bắn từ 2.500-4.000km.
Tên lửa đạn đạo BM25 Musudan. BM25 Musudan xuất hiện công khai lần đầu trong cuộc duyệt binh kỷ niệm 65 năm ngày thành lập **** Lao động Triều Tiên tháng 10/2010. Theo một số nguồn tin, Triều Tiên đã sản xuất và triển khai 200 quả BM25 Musudan.
Loại tên lửa tầm trung thứ 4 mà Triều Tiên sở hữu là Taepo Dong 1 đạt tầm bắn 2.000km. Đây là loại tên lửa đạn đạo 3 tầng động cơ dài tới 25,5m, đường kính thân 1,25m, tải trọng 750kg. Cũng theo báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ, năm 2006 Triều Tiên đã có chừng 25-30 quả Taepo Dong 1 nhưng không rõ tình trạng phục vụ.
Tên lửa đạn đạo liên lục địa
Theo các nguồn tin quốc tế, trong kho tên lửa Triều Tiên chưa có loại tên lửa đạn đạo liên lục địa chính thức đi vào phục vụ.
Triều Tiên đang trong quá trình thử nghiệm tên lửa đạn đạo Taepo Dong 2 có tầm bắn từ 6.000km.
Taepo Dong 2 được cải tiến từ Taepo Dong 1 thiết kế với 3 tầng động cơ dài 16,3m, đường kính thân 2,4m, trọng lượng phóng 53 tấn. Tên lửa đạn đạo có tải trọng nặng 1-1,5 tấn mang nhiều loại đầu đạn, kể cả đầu đạn hạt nhân.
Quá trình bắn thử nghiệm tên lửa Taepodong 2 có liên quan chặt chẽ tới chương trình chinh phục không gian của Triều Tiên. Trong 5 lần phóng vệ tinh trong các năm 2006-2012, Triều Tiên đã sử dụng tên lửa đẩy Unha-2/3 phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo Taepodong 2.
Chính vì lý do này mà mỗi lần tuyên bố phóng vệ tinh, Triều Tiên gặp phải sự phản đối quyết liệt từ Mỹ và đồng minh. Các quốc gia này luôn cáo buộc Triều Tiên thử nghiệm tên lửa đạn đạo liên lục địa trá hình.




Trình độ tên lửa Triều Tiên với cường quốc Nga, Mỹ

(ĐVO) - Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự, hiện nay CHDCND Triều Tiên đang có trên một nghìn quả tên lửa đạn đạo. Trong đó bao gồm cả tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tầm xa. Các chuyên gia cho rằng về lý thuyết với một số lượng các tên lửa như vậy CHDCND Triều Tiên có thể tấn công nước Mỹ, có khả năng hủy diệt Hàn Quốc, Nhật Bản và uy hiếp Nga.

Tên lửa Triều Tiên Sau sự kiện phóng thành công tên lửa tầm xa đưa vệ tinh lên quỹ đạo ngày 12/12/2012, nhiều người đã cảm thấy ngỡ ngàng trước công nghệ tên lửa ngày càng tiến bộ vượt bậc của Triều Tiên. Triều Tiên bắt đầu bắt tay vào phát triển tên lửa từ những năm 60, 70.
Mặc dù được cho là có trong tay tên lửa tầm ngắn đầu tiên từ Liên Xô hồi đầu năm 1969 nhưng chương trình tên lửa của nước này lại chủ yếu được phát triển từ tên lửa Scud do Ai Cập cung cấp. Năm 1976, Ai Cập đã cung cấp cho Triều Tiên những tên lửa Scud-B của Liên Xô, có thể mang đầu đạn nặng tới 200kg và có tầm bắn 300 km, kèm theo thiết kế của loại tên lửa này.
Từ tên lửa do Ai Cập cung cấp, các chuyên gia quân sự của Triều Tiên đã nâng cấp thành hai phiên bản mới Scud-C (Hwasong-5) và Scud-D (Hwasong-6) với tầm bắn lần lượt là 500km và 700km. Với hai loại tên lửa này, Triều Tiên có thể tấn công vào bất kỳ khu vực nào trên lãnh thổ Hàn Quốc. Vì vậy, tên lửa Scud trở thành cơn ác mộng đối với nước láng giềng sát nách của Triều Tiên.
Cũng từ tên lửa Scud, các nhà khoa học của Triều Tiên còn phát triển thêm nhiều lại tên lửa khác, trong đó có tên lửa tầm trung Nodong. Tên lửa Nodong có tầm bắn ấn tượng lên tới 1.300km và có thể mang theo một đầu đạn hạt nhân nặng từ 1.000 đến 1.200kg.
Trình độ khoa học phát triển tên lửa của Triều Tiên ngày càng tiến bộ Với tầm bắn như trên, tên lửa Nodong trở thành mối đe dọa thực sự đối với Nhật Bản vì nó có thể phá hủy bất cứ mục tiêu nào của Nhật Bản cũng như bất cứ căn cứ quân sự nào của Mỹ trên lãnh thổ Nhật. Sau Scud và Nodong, Bình Nhưỡng đã tiến tới phát triển tên lửa tầm xa.
Vào tháng 8/1998, Triều Tiên đã khiến cả thế giới phải sửng sốt khi lần đầu tiên phóng thử tên lửa Taepodong-1. Đây chính là thế hệ tên lửa tầm xa đầu tiên của Triều Tiên. Loại tên lửa này đã khẳng định sự phát triển vượt bậc của Bình Nhưỡng trong công nghệ phát triển tên lửa.
Taepodong-1 nặng khoảng 33 tấn, đường kính 1,8m và dài 25,8m. Với tầm bắn từ 2.200km đến 2.500km, Taepodong-1 có thể vươn tới các căn cứ quân sự của Mỹ ở Okinawa. Triều Tiên hiện có hàng chục tên lửa Taepodong-1 và đều đang được triển khai để sẵn sàng chiến đấu.

Trong kho vũ khí tên lửa của Bình Nhưỡng hiện tại, tên lửa Taepodong-2 được xem là loại tên lửa đáng sợ nhất. Là tên lửa đạn đạo hiện đại nhất của Triều Tiên cho tới thời điểm này, Taepodong-2 nặng gần 80 tấn, chiều dài khoảng 35,8m, đường kính từ 2,0 - 2,2m. Taepodong-2 có thể mang đầu đạn thông thường, hạt nhân nặng tới 500kg với tầm bắn lên tới 6.700km. Với tầm bắn như trên, Taepodong-2 có thể đe dọa Australia và các khu vực miền Trung, miền Tây nước Mỹ. Thế nhưng trình độ tên lửa của Triều Tiên không dừng lại tại đó.

Theo giới tình báo Mỹ nhận định thì Triều Tiên đã phát triển được loại siêu tên lửa có tầm bắn lên tới 10.000km và thậm chí là 15.000km, đồng nghĩa với việc tên lửa của Triều Tiên có thể bắn tới Los Angeles của Mỹ thay vì chỉ lượn tới vùng Alaska. Và trên thực tế những vụ phóng tên lửa mang vệ tinh chính là một cách “hợp thức hóa” việc thử nghiệm tên lửa đạn đạo tầm xa của Triều Tiên.
Theo nhận định thì loại tên lửa mới của Triều Tiên có kích thước lớn hơn hẳn Taepodong-2 và nhiều khả năng sẽ được phóng đi từ bệ phóng di động. Có thể nhiều nước vẫn còn hoài nghi về khả năng tên lửa của Triều Tiên.
Tuy nhiên, với đội ngũ khoảng 10.000 chuyên gia về lĩnh vực tên lửa, nhiều hơn gấp 3 lần so với Hàn Quốc, và sự đầu tư mạnh vào quân sự, Triều Tiên hoàn toàn có thể phát triển được những loại tên lửa đáng sợ, đủ sức đe dọa các nước lớn.
Tên lửa Mỹ, Nga vẫn vượt trội hơn
Mặc dù sở hữu kho tên lửa hàng khủng và ngày càng được hiện đại hóa nhưng theo giới chuyên gia phân tích thì tên lửa Triều Tiên chỉ đạt được mục tiêu về số lượng, còn chất lượng thì chỉ nâng tầm bắn (theo lý thuyết) còn tính xác suất trúng đích thì lại rất thấp.
Giới quân sự Mỹ nhận định: Dù có tầm bắn khá ấn tượng và có thể mang được đầu đạn hạt nhân nhưng độ chính xác của tên lửa Nodong được cho là thấp. Đối với tên lửa Taepodong tuy có tầm bắn xa hàng nghìn km nhưng xét về độ chính xác lại còn thấp hơn cả tên lửa Nodong.
Hơn nữa, tên lửa Taepodong-1 đòi hỏi phải được phóng đi từ một vị trí cố định và cần có một thời gian chuẩn bị lâu dài. Điều này đồng nghĩa với việc các vụ phóng tên lửa Taepodong-1 rất dễ bị vệ tinh do thám của đối phương phát hiện trước.
Cũng giống như người “anh, em” Taepodong-1, Taepodong-2 (dù được thiết kế để khắc phục những khiếm khuyết của các thế hệ tên lửa trước đó) vẫn đòi hỏi phải được bắn đi từ một vị trí cố định và độ chính xác của tên lửa này cũng bị các chuyên gia quân sự hoài nghi.
Một điểm yếu nữa của Taepodong-2 là chỉ có thể mang một lượng chất nổ nhỏ khi bắn tới tầm xa nhất, điều này đồng nghĩa với việc nếu với được tới Mỹ thì tên lửa của Triều Tiên cùng lắm cũng chỉ phá hủy được... một ngôi nhà.
Thực lực Triều Tiên là vậy trong khi “hàng Mỹ” và “hàng Nga” lại hết sức đa dạng, phong phú gồm cả “địa” tên lửa (tên lửa được phóng đi từ đất liền) và “thủy” tên lửa (tên lửa được phóng đi từ tầu hải quân, tầu ngầm chiến lược), đó còn chưa kể những loại tên lửa đạn đạo được phóng đi từ máy bay, trong khi Triều Tiên mới chỉ sở hữu “địa” tên lửa.
Đối với những loại tên lửa đạn đạo tầm xa đang có trong kho vũ khí của Mỹ thì với tầm bắn trên 10.000km đến 15.000km là điều rất dễ dàng đạt được với độ chính xác gần như tuyệt đối như dòng tên lửa Atlas, tên lửa LGM-30G Minuteman III, Minuteman II, tên lửa LGM-118 Peacekeeper, “thủy” tên lửa UGM-133 Trident II D-5...
Trong thời gian tới quân đội Mỹ sẽ còn được sở hữu tiếp loại tên lửa hành trình tầm xa mới, có khả năng tàng hình và tốc độ cao có tên gọi là LRSO. Theo đó, tên lửa mới có khả năng thay thế hầu hết các loại tên lửa đang lỗi thời, các loại vũ khí hạt nhân và tên lửa hành trình phóng từ trên không AGM-86 trang bị đầu đạn thông thường.
Theo dự kiến loại tên lửa hành trình này có thể được phóng đi từ tầu hải quân, tầu ngầm, máy bay của không quân Mỹ. Cùng với việc sở hữu kho vũ khí tên lửa hùng mạnh Mỹ còn đang nỗ lực xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa “phức hợp” nhằm phòng ngừa những nguy cơ “mới” tới từ các quốc gia thù địch trong đó có Triều Tiên.
“Mỹ sẽ có hệ thống phòng thủ tên lửa bậc cao và phức tạp nhất trong lịch sử, đặc biệt tại các khu vực có nguy cơ quân sự, chúng ta cần bảo đảm nước Mỹ được an toàn trong mọi trường hợp và sẵn sàng đáp trả kẻ địch một cách thích đáng nhất…”, Brad Roberts, Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng cho biết.
Giữa Mỹ và Nga đã từng có cuộc “chiến tranh lạnh” trong quá khứ, vậy nên trình độ tên lửa của 2 cường quốc này có tính năng gần như tương đương, nên không lạ khi Nga vẫn được xếp “chiếu trên” trong lĩnh vực phát triển tên lửa tầm xa.
Là quốc gia thứ 2 trên thế giới có đủ bộ tên lửa hành trình tầm xa địa, thủy, không, trong kho tên lửa của Nga vẫn có một lực lượng tên lửa chiến lược hiện đại được đánh giá có khả năng xuyên thủng lá chắn tên lửa của Mỹ.
Theo đó, Nga có 682 hệ thống tên lửa chiến lược có khả năng mang 3.100 đầu đạn hạt nhân. Tiêu biểu nhất là tên lửa R-36MUTTH (RS-20B) và R-36M2 (RS-20V), theo cách gọi của NATO là SS-18 “Satan”, đây là tổ hợp tên lửa cố định, phóng từ hầm phóng, có tầm bắn tối đa là 11.000 km và lượng chất nổ lên đến 8,8 tấn.
Tổ hợp tên lửa di dộng trên đường RT-2PM Topol, còn được NATO gọi là tên lửa SS-25 “Sickle”, loại tên lửa này có 3 tầng đẩy nhiên liệu rắn với tầm bắn 10.000 km và có thể mang một đầu đạn hạt nhân có sức công phá 550 kiloton.
RT-2UTTH Topol-M hay SS-27 (theo cách gọi của NATO) là tổ hợp tên lửa tối tân nhất của Nga hiện nay. SS-27 là phiên bản cải tiến từ tổ hợp tên lửa đạn đạo xuyên lục địa SS-25 (RT-2PM Topol) trước đó.

SS-27 gồm 2 phiên bản: Loại thứ nhất bắn từ hầm phóng. Loại thứ hai được bắn từ xe cơ động chuyên dụng. Tên lửa SS-27 có 3 tầng đẩy nhiên liệu rắn, đang được phát triển như một tên lửa mang đầu đạn hạt nhân riêng rẽ với tầm bắn lên tới 10.000 km với sức công phá tương đương 500.000 tấn thuốc nổ TNT.
So với các loại tên lửa mà Nga đã nghiên cứu trước đây, SS-27 có những đặc điểm hết sức ưu việt là thời gian tác chiến ngắn, độ chính xác cao và có thể bảo quản, sử dụng trong thời gian dài. Dự kiến đến năm 2015, đây sẽ là loại tên lửa chủ lực trong hệ thống tên lửa chiến lược trên bộ của Nga.
Từ những phân tích và thực tế trên có thể nhận thấy rằng dù trình độ tên lửa của Triều Tiên đã có nhiều tiến bộ, nhưng so với những cường quốc như Nga, Mỹ thì rõ ràng tên lửa Triều Tiên vẫn còn thua kém rất nhiều.


Iran giúp Triều Tiên phóng thành công tên lửa Unha-3


(Kienthuc.net.vn) - Việc Triều Tiên phóng thành công tên lửa tầm xa đã biến một giả thuyết thành thực tế đáng sợ đối với phương Tây và cả Israel.


Hợp tác với Iran là yếu tố quan trọng đối với việc Triều Tiên phóng thành công tên lửa Unha-3
Gần đây tình báo Mỹ cảnh báo rằng tên lửa Triều Tiên có thể bắn tới Alaska và Hawaii. Đáng sợ là Triều Tiên và Iran đang chia sẻ với nhau công nghệ tên lửa đạn đạo tầm xa và cái gọi là chương trình phát triển tên lửa đạn đạo độc lập của hai nước chỉ là hai mặt của một tấm huy chương. Cái mà nước này có ngày hôm nay, thì nó cũng dược chia sẻ với nước kia trong tương lai gần.

Sau nhiều lần thử tên lửa tầm xa bất thành từ năm 1998, nhiều nhà quan sát đã cho rằng chương trình tên lửa liên lục địa của Triều Tiên chỉ là một con ngáo ộp “hữu danh vô thực”, một con bài để mặc cả với Mỹ. Thế nhưng, với vụ phóng thành công tên lửa Unha-3 mang vệ tinh vào quĩ đạo ngày 12/12/2012, Triều Tiên dưới sự nhà lãnh đạo trẻ Kim Jong-un đã tiến bộ vượt bậc, nâng cấp đáng kể sức mạnh tên lửa đạn đạo tầm xa.


Làm thế nào mà Bình Nhưỡng đã tạo ra được bước đột phá trong việc thử nghiệm tên lửa đẩy ba tầng đưa vệ tinh vào quỹ đạo?


Câu trả lời ở đây là rõ ràng: Iran đã đóng một vai trò rất, rất quan trọng.


Hợp tác với Iran là yếu tố quan trọng đối với việc Triều Tiên phóng thành công tên lửa Unha-3 đưa vệ tinh lên quĩ đạo. Sự hợp tác này được bắt đầu bằng một mối quan hệ giao dịch: Iran cung cấp số tiền mặt tối cần thiết cho Triều Tiên để đổi lấy các bộ phận và công nghệ tên lửa. Qua thời gian, mối quan hệ giao dịch này đã phát triển thành một mối quan hệ đối tác ngày càng hiệu quả. Trên thực tế, chương trình phát triển tên lửa đạn đạo độc lập của hai nước chỉ là hai mặt của một tấm huy chương.


Mặc dù ghi nhận sự hợp tác gián đoạn Triều Tiên-Iran về phát triển tên lửa, nhưng giới phân tích vẫn cho rằng sự thành công đột phá của Triều Tiên trong vụ phóng tên lửa đạn đạo tầm xa ngày 12/12 chính là thành quả của sự hợp tác ngày càng gia tăng về thể chế giữa hai nước. Hồi tháng 10/2012, Triều Tiên và Iran đã ký kết một hiệp định hợp tác khoa học và kỹ thuật. Hiệp định này cung cấp một khuôn khổ cho việc thiết lập các phòng thí nghiệm chung cũng như chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ, chế tạo, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo và môi trường. Thỏa thuận song phương này chính thức hóa cơ chế chia sẻ kinh nghiệm và dữ liệu. Nếu một bên làm chủ hoặc thu thập được công nghệ chủ chốt liên quan đến tên lửa đạn đạo, bên kia cũng sẽ được chia sẻ thông qua hiệp định này.


Phân tích chi tiết cho thấy thành công gần đây của Triều Tiên được bắt nguồn từ vụ Iran phóng thành công vệ tinh Omid bằng tên lửa đẩy Safir hồi tháng 2 năm 2009. Thành công quan trọng này có thể là kết quả của chương trình hợp tác tên lửa Nga-Iran trong năm 2005. Dưới chiêu bài “hợp tác khoa học và công nghệ dân dụng”, hiệp định Triều Tiên-Iran đã giúp cho Bình Nhưỡng tiếp cận công nghệ tên lửa đã được kiểm nghiệm của Nga, đặc biệt là công nghệ đạn đạo tầm xa. Việc tên lửa Unha-3 của Triều Tiên sử dụng acid nitric bốc khói đỏ chính là một bằng chứng lý giải cho nhận định trên.


Đối với Tehran, Triều Tiên là một nhà cung cấp quan trọng các loại vũ khí thông thường trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq. Còn đối với Bắc Triều Tiên, Iran chính là một cửa ngõ để nước này tiến hành các hoạt động mua sắm, thu thập công nghệ của Bình Nhưỡng ở Trung Đông và Đông Âu.


Source: DVO & Kienthuc
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Các "kình ngư dưới đáy biển" của Mỹ bị… “mù” ?
http://laodong.com.vn/Vu-khi/Cac-kin...i-mu/99521.bld

Quote:
Tính từ tháng 5-2012 đến nay, tàu ngầm Mỹ đã 6 lần va chạm với các tàu khác. Đây là một con số cao bất thường đối với những tàu ngầm được Mỹ coi là hiện đại nhất trên thế giới. Vậy điều gì đang xảy ra với những “kình ngư dưới đáy biển” của Mỹ ? Phải chăng chúng đã bị “mù” ?

Theo tin của “Navy Times”, vừa qua Hạm đội 5 của hải quân Mỹ thông báo, tàu ngầm tấn công USS Jacksonville thuộc lớp Los Angeles của Mỹ đã va chạm với một tàu nổi ở khu vực vịnh Ba Tư, tàu ngầm chỉ bị hư hỏng kính tiềm vọng, không có thiệt hại gì về con người. Tuy chưa xác định rõ chiếc tàu kia, nhưng hải quân Mỹ xác định đó là một tàu dân sự, vì trong thời điểm đó không có tàu chiến nào hoạt động ở khu vực này.

Vào khoảng 5h sáng ngày 10.1, tàu ngầm Jacksonville đang di chuyển ở tầng nước nông thì xảy ra va chạm với 1 tàu dân sự nhỏ. Người phát ngôn của Hạm đội 5 Mỹ thông báo “tàu chỉ bị hư hỏng kính tiềm vọng, lò phản ứng hạt nhân vẫn an toàn, hệ thống động lực cũng không bị hư hại, tàu cũng không có hiện tượng rạn nứt hay rò rỉ nước”. Vì vậy, tàu mặt nước đã va chạm với Jacksonville có thể là một con tàu nhỏ, nếu không thiệt hại đã có thể lớn hơn.


Tàu ngầm hạt nhân USS Jacksonville thuộc lớp Los Angeles.

Sau khi trở về cảng mẹ trong khu vực vịnh Ba Tư, Hạm đội 5 đã tiến hành đánh giá thiệt hại của tàu ngầm này. Căn cứ vào báo cáo sơ bộ, vụ va chạm đã làm kính tiềm vọng bị uốn cong, hiện tàu chỉ có thể giữ kính tiềm vọng ở trạng thái nâng lên chứ không thu vào được. Sự việc vẫn đang tiếp tục được làm rõ, các nhân viên điều tra của hải quân Mỹ đang sử dụng hệ thống giám sát quỹ đạo tàu thuyền để xác định con tàu đã va chạm với tàu ngầm Jacksonville.

Mới đây- vào tháng 12.2012, Tạp chí “Popular Mechanics” của Mỹ đã có bài viết, trong đó lớn tiếng chê bai các tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo lớp 094 của Trung Quốc và khẳng định, các tàu ngầm tiên tiến nhất thế giới của Mỹ dễ dàng “làm gỏi” các con tàu “phát ra tiếng kêu ầm ĩ” này. Có thể nhận định của tạp chí này về tàu ngầm lớp 094 là đúng, vì các chuyên gia quân sự Nga cũng có những nhận định tương tự, nhưng phải chăng người Mỹ đã quá tự kiêu về các tàu ngầm của mình?

Thông thường, khi tàu ngầm di chuyển dưới đáy biển thì chúng sử dụng hệ thống định vị vệ tinh và bản đồ số để xác định vị trí và phương hướng, các thiết bị quan sát và nhận biết là sonar và kính tiềm vọng của tàu. Ngoài ra, các tàu ngầm còn được hỗ trợ bởi hàng loạt các hệ thống thiết bị trinh sát, phát hiện khác.


Tàu khu trục Aegis USS San Jacinto đã va chạm với tàu ngầm USS Montpelier- cũng thuộc lớp Los Angles (ngày 14.10.2012).

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hải quân Mỹ đã từng triển khai rộng khắp một mạng lưới các thiết bị cảm biến dưới nước thuộc “hệ thống giám sát âm thanh” - chuyên theo dõi các tàu ngầm Liên Xô. Hiện nay, tuy số lượng các thiết bị cảm biến đã giảm xuống, nhưng chúng đang được nâng lên về chất khi Bộ Quốc phòng Mỹ phát triển công nghệ theo dõi, giám sát mới, có khả năng nhận biết và theo dõi tất cả các tàu nổi và tàu ngầm.

Các hệ thống sonar hiện đại có thể phát hiện được tất cả những dao động sóng âm do cả tàu nổi và tàu ngầm gây ra khi chúng rẽ nước di chuyển hoặc chân vịt chuyển động… Tuy chủ yếu sử dụng để theo dõi các tàu ngầm, nhưng khi Jacksonville nổi lên gần mặt nước, tiếng động cơ, sự cuộn xoáy của chân vịt, độ xé nước của con tàu dân sự không có các biện pháp giảm âm chắc chắn sẽ lớn hơn rất nhiều so với tàu ngầm, thế mà với cả kính tiềm vọng hồng ngoại quan sát đêm, nó vẫn không hề phát hiện được con tàu dân sự, sau khi va chạm xong cũng không biết tàu này đi về hướng nào thì thật là không thể hiểu nổi.

Những con số thống kê không gây ra tiếng vang như trên mặt báo, nhưng nó đã chỉ ra sự thật trần trụi về sự yếu kém của lực lượng tàu ngầm Mỹ. Tính cả vụ của Jacksonville thì từ tháng 5.2012 đến nay, tàu ngầm Mỹ đã 6 lần va chạm với các tàu mặt nước, bình quân cứ hơn 1 tháng lại xảy ra một vụ (vụ gần đây nhất là tàu ngầm USS Montpelier cũng thuộc lớp Los Angeles va chạm với tàu khu trục Aegis USS San Jacinto ở bờ biển phía đông nước Mỹ ngày 14.10.2012). Đây là con số cao bất thường đối với những tàu ngầm được Mỹ coi là hiện đại nhất trên thế giới và nó cũng đứng đầu thế giới về các sự cố kiểu này.


Tàu ngầm hạt nhân lớp Akula của Nga đã nhiều lần áp sát bờ biển nước Mỹ.

Trong kế hoạch phát triển các hệ thống tác chiến dưới nước của Cục Quản lý các dự án nghiên cứu cao cấp thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ, có một dự án phát triển vệ tinh giám sát hải dương phiên bản mới, các thiết bị nghe trộm dạng robot sẽ được triển khai tại tất cả các vùng nước nông và nước sâu trên đại dương, có khả năng phát hiện và theo dõi toàn bộ các loại tàu ngầm và tàu nổi, là hệ thống “mắt thần” giúp các tàu ngầm Mỹ xưng hùng xưng bá trên các đại dương.

Thế nhưng, qua vụ việc này, không biết người Mỹ đã nhận ra là mình quá may mắn hay không? Họ mới chỉ va chạm với các tàu dân sự, chứ nếu đó là những tàu ngầm hoặc tàu săn ngầm mặt nước của đối phương thì chắc chắn tàu ngầm Mỹ không chỉ hỏng mỗi kính tiềm vọng. Năm 2009 và 2012, không dưới 2 lần tàu ngầm Akula của Nga đã áp sát bờ biển nước Mỹ mà các lực lượng trinh sát chống ngầm trên không, trên mặt biển và tàu ngầm Mỹ không hề phát hiện ra. Điều này chứng tỏ chính tàu ngầm Nga mới là lực lượng đáng gờm nhất dưới đáy biển; còn tàu ngầm Mỹ, phải chăng chúng đã bị “mù” ?
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực


Officials said the submarine was probably conducting anti-submarine warfare efforts against U.S. ballistic and cruise missile submarines at Kings Bay, Georgia

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2228487/Russian-attack-sub-discovered-just-200-miles-East-Coast-given-safe-harbor-Hurricane-Sandy.html

Cách 200 hải lý, nhưng Mỹ không kí công ước luật biển Unclos, nên coi như Nga đã "xâm phạm lãnh hải"/ "sân sau" của Mỹ

http://www.baomoi.com/Thuong-vien-My-xem-xet-kha-nang-phe-chuan-UNCLOS/119/8525938.epi
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Đài Loan phát triển tên lửa “đe dọa” miền Trung - Nam TQ


(Kienthuc.net.vn) - Đài Loan đang phát triển tên lửa đối đất có tầm bắn tới 1.200km đủ sức đe dọa đến các tình, thành phố miền Trung - Nam Trung Quốc.

Theo nguồn tin từ Chính phủ Đài Loan, quân đội nước này đang phát triển một loại tên lửa đất đối đất mới với phạm vi hoạt động 1.200km có thể đe dọa đến các khu vực miền trung và miền nam Trung Quốc trong đó có Thượng Hải.


Loại tên lửa mới này có tên là Cloud Peak (tạm dịch: Đỉnh Mây), được trang bị động cơ ramjet có khả năng đạt tới tốc độ Mach 3 hoặc cao hơn.


Trong thời gian tới Đài Loan sẽ cải tiến phạm vi hoạt động của loại tên lửa này nhằm đạt tới tầm 2.000km. Dự kiến, năm 2014 sẽ bắt đầu chế tạo hàng loạt.


Hiện, Đài Loan đã triển khai hệ thống tên lửa hành trình tấn công đối đất Hùng Phong 2E (LACM), gồm 3 đơn vị đóng ở các hòn đảo phía bắc Đài Loan có thể đe dọa nội địa Trung Quốc.


Tên lửa Hùng Phong 2E có phạm vi hoạt động 600km, phụ trách Hùng Phong 2E là đơn vị đặc biệt mang bí danh 601.
Tên lửa hành trình Hùng Phong của quân đội Đài Loan.

Đơn vị đầu tiên đóng ở Đài Sơn thuộc thành phố Đài Bắc, trước đây là căn cứ của Tiểu đoàn tên lửa số 2 Quân đội Mỹ. Theo các hình ảnh từ Google Earth, đơn vị này gồm: 4 xe phóng tên lửa, 2 xe chỉ huy, 5 xe truyền tín hiệu vệ tinh và 2 xe nạp đạn.


Đơn vị thứ 2 đóng ở Trung tâm chế tạo hệ thống thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Chung Sơn (CSIST) tại Tam Hiệp (thành phố Đài Bắc).


Đơn vị thứ 3 có trụ sở tại Dương Mai (thành phố Đào Viên). Năm 2003, hình ảnh từ Google Earth cho thấy cơ sở này đã bị bỏ. Tuy nhiên đến năm 2010, tại cơ sở này đã xuất hiện nhiều tòa nhà được xây mới và đã triển khai 3 xe phóng tên lửa, 1 xe chỉ huy và 1 xe truyền tín hiệu vệ tinh được ngụy trang bằng lưới, ngoài ra còn có 1 bãi đỗ trực thăng.


“Gia đình” tên lửa Hùng Phong của Đài Loan còn gồm: tên lửa hành trình chống tàu Hùng Phong 1-2-3 do Viện Khoa học và Công nghệ quân đội Chung Sơn (CSIST) chế tạo.


Hiện, việc Đài Loan chế tạo tên lửa Hùng Phong 2E và Đỉnh Mây nhằm đối phó với sự đe dọa từ 1.500 tên lửa đạn đạo Đông Phong 11/15 mà Trung Quốc đã triển khai để bao vây Đài Loan.


Chính phủ Đài Loan cho rằng, Mỹ đã không có hành động gây áp lực với Trung Quốc buộc quân đội nước này cắt giảm số lượng tên lửa đang chĩa vào Đài Loan. Do đó, việc chế tạo những tên lửa này được coi như một biện pháp bảo đảm an ninh cho Đài Loan.

http://kienthuc.net.vn/tin-tuc-quan-su/201301/dai-Loan-phat-trien-ten-lua-de-doa-mien-Trung-Nam-TQ-892388/
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,606 Mã lực
Nga phát triển chương trình tên lửa siêu vượt âm
Russian-Web 19/1
Nga đang thúc đẩy chương trình chương trình tên lửa siêu vượt âm của mình có thể đạt Mach 5 , đây là lĩnh vực hứa hẹn cho ngành hàng không vũ trụ và có thể là cuộc cách mạng cho cho máy bay và tên lửa vận chuyển không gian
Trong năm 2009 , Bộ quốc phòng Nga quyết định tài trợ cho các dự án nghiên cứu , tuy nhiên để cạnh tranh với chương trình HTV-2 của Mỹ . Phó Thủ tướng Dmitry Rogozin trong chuyến thăm phòng thiết kế MKB Raduga (chuyên ngành tên lửa chiến thuật ) đã kêu gọi thúc đẩy chương trình phát triển siêu đến mức độ ưu tiên cao nhất.

Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 885x291.

Mẫu thử siêu vượt âm của phòng thí nghiệm TsIAM và LII
Các vụ thử đầu tiên của tên lửa đã diễn ra ở trường thử tại Akhtubinsk vào năm 2012, nhưng không thể coi đó là các vụ thử thực sự.

Trong quá trình kiểm tra, tên lửa đã tách khỏi giá treo trên máy bay, động cơ tên lửa khởi động, tên lửa bay được mấy km ở tốc độ dưới âm rồi tiếp đất
Các vụ thử hoàn chỉnh được ấn định vào tháng 7-8/2013 và được tiến hành tại trường thử ở Akhtubinsk, tỉnh Astrakhan.
Rắc rối lớn của chương trình siêu thanh là khi đạt vận tốc Mach 4 trở lên , nhiệt độ gia tăng rất lớn ở phần vỏ , quỹ đạo bay dần phức tạp và khó kiểm soát , ngoài ra phải giữ tốc độ ở thời gian dài

Nhìn lại chương trình siêu thanh của Nga trong quá khứ

Chương trình siêu thanh của Nga đã phát triển mạnh đi kèm với sự phát triển của kỹ thuật tên lửa đạn đạo từ thập niên 60's . Để thử nghiệm chương trình siêu thanh , phòng thiết kế TsAGI (Central Aviation and Hydro-dynamics Institute ) đã tạo ra 1 đường hầm khổng lồ ở Zhukovsky , nam Moscow
Thành quả đạt được ở kỹ thuật tên lửa , TsAGI tiếp tục chương trình máy bay không gian . 1966 cùng với MiG OKB đã tham gia phát triển máy bay Mig và tàu vũ trụ Spiral

Mẫu thử nghiệm ER-3 phát triển 1954 và đạt được tốc độ Mach 3
Trong những năm 1970, TsAGI tập trung nghiên cứu máy bay siêu thanh và tên lửa hành trình và đạt 1 số thành quả khi khống chế quỹ đạo bay và khí động học của tên lửa siêu thanh . Ngoài ra còn kết hợp với phòng thiết kế Nga TsIAM phát triển động cơ hỗn hợp ( hybrid engines ) có thể thay đổi lực đẩy và vượt qua khí quyển

Mẫu ER-8 phát triễn vào 1960 và đạt tốc độ Mach 8
Sau thời Liên Xô , thì các phòng thiết kế và viện nghiên cứu như TsAGI , TsIAM hay LII bắt đầu thử nghiệm các mẫu thử mới siêu thanh
1998 , 1 tên lửa phòng không sửa đổi đã đạt Mach 6 ( scramjet vehicle ) . Động cơ tên lửa vũ trụ 58L sử dụng nhiên liệu hydro lỏng là 1 thành quả của Viện nghiên cứu tên lửa KB Khimmash (KBKhA)

Thực tế phát triển hiện tại và tương lai
Các chương trình phát triển sau này của Nga đều là dự án nghiên cứu lẻ tẻ và chậm trễ so với chương trình siêu vượt âm của DARPA ( Cơ quan nghiên cứu quân sự Mỹ ) vì khó khăn công nghệ hoặc lý do tài chính , do vậy nhà nước bắt đầu tài trợ các nghiên cứu mới
Một phòng thí nghiệm của Vladimir Chelomei đã nghiên cứu phương tiện siêu vượt âm dựa trên tên lửa đạn đạo UR-200 . Một phương tiện đã được thử nghiệm đến khi chương trình dừng lại vào 1965 . Đến nay phòng thí nghiệm đã đổi tên thành NPO Mashinostroenia và phát triển dự án siêu thanh 4202
Năm 1997 , phòng nghiên cứu MKB Raduga , tại Dudna đã nghiên cứu tên lửa siêu vượt âm GELA Kh-90 , phương Tây được biết đến là tên lửa AS-19 Koala . Tên lửa siêu thanh này được nghiên cứu để thả từ 1 chiếc máy bay ném bom chiến lược Tu-160M và có thể bay siêu thanh 1 quãng đường 3000km . Nó có thể mang 2 đầu đạn hạt nhân đánh 2 mục tiêu riêng từ điểm tách " tên lửa mẹ " khoảng cách 100km . Với nhiệm vụ thay thế tên lửa hành trình Kh-555 nhưng do vấn đề tài chính nên dự án dừng lại 1992
Hiện nay, NPO Mashinostroenia tham gia cùng Ấn Độ phát triển tên lửa hành trình siêu vượt âm BrahMos, có khả năng đạt tốc độ 5M. Ngoài ra, hãng Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga cũng đang phát triển một tên lửa có khả năng đạt tốc độ nhanh hơn 12-13 lần tốc độ âm thanh.
Tháng 9/2012, Phó Thủ tướng Nga Dmitri Rogozin đã tuyên bố rằng, Nga đang dự định chế tạo một siêu tập đoàn để phát triển các công nghệ siêu vượt âm. Dự kiến, tập đoàn này sẽ bao gồm cả KTRV và NPO Mashinostroenia.

Nguồn tham khảo :
http://www.russianspaceweb.com/gla.html
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top