[Funland] Các loại ngư lôi, tên lửa chống hạm, đạn đạo và hành trình đe dọa TSB

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
10 ưu điểm tuyệt vời của tên lửa Nirbhay
18.03.2013 19:21

Với năng lực xuyên phá mạnh, độ chính xác cao, tầm bắn xa, triển khai linh hoạt trên nhiều bệ phóng, Nirbhay sẽ trở thành một loại tên lửa tấn công mạnh nhất trong tương lai. Ngày 12/03 vừa qua, tạp chí “Uy lực tên lửa” có bài viết nhan đề: “10 điều cần biết về tên lửa hành trình Nirbhay” của Ấn Độ. Bài viết này đã trích dẫn quan điểm của Đài truyền hình Ấn Độ (NDTV) cho rằng, tuy thử nghiệm phóng lần đầu thất bại nhưng loại tên lửa hành trình thế hệ mới nhất của lục quân Ấn Độ là Nirbhay có 10 ưu điểm lớn so với các loại tên lửa khác, trong tương lai nhất định sẽ thành công và có một tương lai tươi sáng.

Về ngoại hình và chức năng, Nirbhay hoàn toàn tương đồng với loại tên lửa Tomahawk, đường kính thân đoạn lớn nhất là 0,5cm, chiều dài tên lửa 6m, sử dụng động cơ phản lực với tốc độ khoảng 0,7Mach, tầm bắn tối đa 1000km (cũng có tài liệu cho là 1500km).



Đài truyền hình NDTV cho biết, trong lần phóng thử đầu tiên, loại tên lửa hành trình Nirbhay của lục quân Ấn Độ đã thất bại, sau khi rời bệ phóng không lâu, tên lửa đã bay chệch quỹ đạo đã định.

Tuy vậy, các chuyên gia tên lửa Ấn Độ cho biết, các cường quốc tên lửa trên thế giới đa số là không thành công trong lần phóng thử đầu tiên. Ví dụ như tên lửa đạn đạo Agni của Ấn Độ cũng thất bại trong lần đầu phóng thử nhưng hiện đã phát triển thành một thế hệ tên lửa đạn đạo nổi tiếng.

Vì vậy, thất bại đầu tiên của Nirbhay không phải là một điều đáng quan ngại lắm, nhất định trong tương lai, tên lửa Nirbhay sẽ thu được những thành công rực rỡ vì nó có 10 ưu điểm sau đây:

1. Nirbhay là loại tên lửa hành trình tốc độ cận âm, áp dụng mô hình sau khi bay lên theo chế độ phóng tên lửa, nó khởi động chế độ bay kiểu máy bay, khác hẳn so với các loại tên lửa đạn đạo như Agni vì được thiết kế cánh thân tên lửa và cánh đuôi.



2. Sau khi tên lửa phóng đi, tầng động cơ đẩy tách ra, rơi xuống, các cánh của tên lửa bắt đầu hoạt động.

3. Lúc đó, một động cơ Turbin khí bắt đầu hoạt động, hoàn toàn áp dụng chế độ máy bay.

4. Nirbhay có tính năng cơ động cao, có thể men theo các rặng cây, làm giảm khả năng phát hiện của radar.

5. Khi tiếp cận mục tiêu, tên lửa có thể ngoặt, xoay tròn, đổi hướng tấn công mục tiêu từ mọi góc độ.

6. Quan trọng nhất là tên lửa có khả năng mang theo đầu đạn hạt nhân, tấn công mục tiêu phạm vi khoảng 1500km, giúp lục quân Ấn Độ có khả năng tấn công thọc sâu vào lãnh thổ của đối phương.

7. Loại tên lửa này có thể được lắp đặt trên nhiều phương tiện phóng với nhiều tầm bắn khác nhau, có khả năng bắn đồng loạt, thậm chí phóng ngay cả trong khi đang cơ động.

8. Tên lửa được tích hợp hệ thống kiểm soát kiểu bắn – quên, có khả năng chống nhiễu rất mạnh, sau khi bắn tên lửa không cần điều khiển nữa mà có khả năng tự động bay đến mục tiêu.



9. Tên lửa Nirbhay chính là đối trọng của tên lửa hành trình Tomahawk của Mỹ và tên lửa Babur của Pakistan. Trong thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ đã từng rất thành công với tên lửa hành trình Tomahawk.

10. Hiện Ấn Độ trang bị rất nhiều loại tên lửa chiến thuật nhưng mới chỉ có Nirbhay là loại tên lửa hành trình đầu tiên. Tất cả các nhà khoa học của Tổ chức nghiên cứu và phát triển quốc phòng Ấn Độ (DRDO), kể cả các nữ khoa học gia cũng đang tập trung để nhanh chóng giải quyết những khiếm khuyết còn tồn tại của Nirbhay nên chắc chắn những thiếu sót về kỹ thuật sẽ được khắc phục nhanh chóng.

Các chuyên gia quân sự cho biết, loại tên lửa này có thể tích nhỏ, trọng lượng nhẹ, khả năng tàng hình cao, tính năng cơ động tốt nên không dễ để phát hiện và đánh chặn. Với năng lực xuyên phá mạnh, độ chính xác cao, tầm bắn xa, triển khai linh hoạt trên nhiều bệ phóng, nó sẽ trở thành một loại tên lửa tấn công mạnh nhất trong tương lai.





Với khả năng tấn công đối đất và tấn công tàu chiến cỡ lớn trên biển tầm xa, khi lắp đặt đầu đạn hạt nhân thì loại tên lửa này sẽ trở thành một thành viên trong bộ 3 tấn công hạt nhân “tam vị nhất thể”của Ấn Độ. Nếu Ấn Độ triển khai loại tên lửa này trên biên giới, nó sẽ bao trùm toàn bộ dải biên cương với Pakistan và khu vực biên giới Trung Quốc, từ Thành Đô – Lan Châu đến Côn Minh.

NGUYỄN NGỌC
Missile threat


http://vndefence.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1721
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Sát thủ diệt hạm và radar của Không quân Việt Nam

Các máy bay hiện đại của không quân Việt Nam bảo vệ Trường Sa như SU-27/30 đều được trang bị loại tên lửa siêu âm KH-31 có khả năng 'chọc mù' radar và tiêu diệt chiến hạm đối phương cỡ 4.500 tấn.

Tên lửa siêu âm lắp trên máy bay KH-31P với đầu dẫn đường radar định vị thụ động được phát triển nhằm tiêu diệt các hệ thống radar điều khiển hệ thống phòng không của đối phương. KH-31P còn bao gồm nhiệm vụ bắn hạ các tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa của Phương Tây như: Patriot, Improved Hawk, Nike Hercules cùng một số loại khác.
Điểm đặc biệt của tên lửa KH-31P được phân biệt với các dòng tên lửa chống radar trước đó là: Tầm bắn xa, có tốc độ siêu âm trong suốt hành trình, ổn định quỹ đạo trong điều kiện cường độ nhiễu động cao, ngắt bức xạ radar dẫn đường trước khi đến mục tiêu. Tên lửa chống radar KH-31P được phòng thiết kế chế tạo máy "Ngôi sao" phát triển.
Trên cơ sở tên lửa chống radar KH-31P phòng thiết kế chế tạo máy "Ngôi sao" đã phát triển tên lửa chống hạm là KH-31A và tên lửa không đối không KH-31PD. Cả hai phiên bản tên lửa KH-31A và KH-31PD có tầm bắn xa với tên lửa KH-31P (110km) lần lượt là 160km và 250km.

Tên lửa siêu âm chống radar KH-31P​

Mỹ cũng 'khiếp' KH-31
Tên lửa chống hạm KH-31P sử dụng hệ thống khí động học cấu hình (X) bố cục ở cánh và bộ phận lái. tên lửa KH-31P có 3 ngăn, mỗi ngăn là 1 cấu trúc, chức năng hoàn chỉnh.Bên ngoài vỏ tên lửa bố trí 4 ống tròn ở 4 góc có mũi hình nón lấy khí , đóng, thải trong quá trình bay với tốc độ siêu âm.
Tên lửa được trang bị đầu đạn tác chiến chủng loại nổ phân mảnh. Động cơ tên lửa là động cơ phản lực không khí dòng thẳng do phòng thiết kế chế tạo máy " Liên minh" thành phố Turaevo thuộc tỉnh Moscow phát triển.
Động cơ bao gồm cửa hút gió, thùng nhiên liệu với hệ thống " dồn nén" và thiết bị pha trộn nhiên liệu. Buồng đốt phía trước với vòi phun nhiên liệu siêu âm không điều chỉnh. Điều tiết Roszhiga là hệ thống điện tử thủy lực.
Tên lửa KH-31P sử dụng nhiên liệu rắn, sau khi tên lửa tách khỏi máy phóng gắn dưới cánh máy bay, máy gia tốc phía đuôi tên lửa kích hoạt làm việc nhằm cung cấp cho tên lửa lực đẩy tối đa để tên lửa đạt tốc độ siêu âm . Lúc này động cơ phản lực không khí dòng thẳng sẽ làm việc lấy khí trực tiếp trong quá trình bay với tốc độ siêu âm. Sau khi kết thúc quá trình tăng tốc cho tên lửa, máy gia tốc sẽ tự tách khỏi tên lửa và rơi xuống.
Việc sử dụng thiết bị đẩy tích hợp trong động cơ làm tăng tầm bắn và tốc độ cho tên lửa, ngoài ra còn làm giảm kích cỡ tên lửa. Buồng đốt của động cơ phản lực không khí dòng thẳng trên tên lửa KH-31P có hệ thống làm mát không khí giúp tăng thời gian hoạt động cho động cơ và mở ra khả năng không hạn chế cho việc nâng cấp tên lửa.

Đầu dẫn đường radar thụ động trên tên lửa KH-31P​

Trên cơ sở tên lửa KH-31P phòng thiết kế chế tạo máy "Ngôi sao" còn phát triển 1 loại tên lửa mục tiêu MA-31. Năm 1994 tên lửa mục tiêu MA-31 nhận được thông báo của Bộ Hải Quân Mỹ đã chiến thắng trong cuộc đấu thầu của Bộ Hải Quân Mỹ.
Tại bãi thử Point Mugu, bang California đã phóng thử 4 tên lửa mục tiêu MA-31, cả 4 tên lửa đều vượt qua các tên lửa cùng loại đáp ứng mọi điều kiện khắt khe của Hải Quân Mỹ. Hợp đồng cung cấp tên lửa mục tiêu MA-31 được Nga-Mỹ ký kết ngay sau đó mỗi năm Nga cung cấp cho Mỹ 20-40 tên lửa mục tiêu này.
Tại sao người Mỹ lại hướng quan tâm của mình tới tên lửa KH-31? Đây là mong muốn của Hải Quân Mỹ mong muốn phát triển và hoàn thiện hệ thống phòng thủ tên lửa của mình.Trong giai đoạn thập kỷ 90 tại Nga xuất hiện 1 loại tên lửa siêu âm có cánh 3M-80E trong tổ hợp tên lửa "Moskit".
Đây là tên lửa chống hạm siêu âm có cánh, "Moskit" là nỗi kinh hoàng của các tầu chiến Mỹ đã được NATO đặt tên là SS-N-22 «Sunburn» . Tổ hợp tên lửa " Moskit" đã được Tập Đoàn xuất khẩu vũ khí Quốc gia bán cho Trung Quốc kèm theo khu trục đề án 956 lớp "Hiện đại" trước đó. Với kho vũ khí tên lửa Trung Quốc nhập từ Nga và 1 số chủng loại tên lửa Trung Quốc tự phát triển không khỏi khiến cho giới Lãnh đạo Mỹ bất an.
Các phiên bản KH-31P
- KH-31A (Mẫu sản xuất 77A) là tên lửa chống hạm với nhiệm vụ phá hủy các tầu nổi có lượng choán nước lên tới 4.500t, tên lửa KH-31A được trang bị trên máy bay Su-24М, Su-27К-2, Su-27IB với tổ hợp "МЗ" (Su-32PHN là phiên bản xuất khẩu), Su-30МК, Мig-29К, Мig-29М, Мig-29SМТ và Yak-141. Tên lửa KH-31A có tầm bắn 160km (nhưng có tài liệu khác lại nói KH-31A có tầm bắn 5-50 (10-70km) hoặc 110km).
- Tên lửa KH-31PD là tên lửa không đối không có tầm bắn 250km , trọng lượng tên lửa tăng gần 100kg so với nguyên mẫu ( có tài liệu khác nói tầm bắn KH-31PD là 160km).
- Tên lửa mục tiêu MA-31 là tên lửa mục tiêu không có đầu dẫn đường, không có đầu đạn tác chiến, một số chi tiết được sửa đổi so với tên lửa nguyên mẫu, đầu tên lửa thon hơn , tên lửa có tầm bắn 5-50(10-70)km .
Thông số kỹ thuật
Các loại máy bay có khả năng trang bị tên lửa chống radar KH-31P: Mig 29k, Mig-29SMT , Mig 29M , Su-24M, Su-25T, Su-34, Su-35 và Yak 141.
Các loại máy bay có khả năng mang tên lửa chống hạm KH-31A bao gồm: Su-24М, Su-27К-2, Su-27IB với tổ hợp "МЗ" (Su-32PHN là phiên bản xuất khẩu), Su-30МК, Мig-29К, Мig-29М, Мig-29SМТ và Yak-141
Máy bay có khả năng mang tên lửa không đối không KH-31PD: Su-30МК (МКИ, МКМ, МК2), Su-35, Мig-29К, Мig-29КUB, Мig-35 .

Tên lửa KH-31 có thể diệt hạm và cả radar.​


Chiến đấu cơ SU-30 mang tên lửa KH-31 thực sự là cơn ác mộng với các chiến hạm.​

- Tầm bắn : KH-31P :15-110km.
KH-31PD : 250km ( Có tài liệu nói 160km).
KH-31A :160km (nhưng có tài liệu nói 5-50 (10-70))km.
- Tốc độ tối đa: 1000m/s (cho cả 3 loại tên lửa KH-31/P/A/PD).
- Tốc độ trung bình :600-700m/s (cho cả 3 loại tên lửa KH-31/P/A/PD).
- Tốc độ máy bay : 600-1100km/h
- Trần phóng : KH-31P và KH-31PD là 0,1-15km còn KH-31A là 0,05-15(0,1-10)km.
- Chiều dài :4700mm (cho cả 3 loại tên lửa KH-31/P/A/PD).
- Đường kính lớn nhất :360mm (cho cả 3 loại tên lửa KH-31/P/A/PD).
- Sải cánh : 780mm (KH-31/P/PD) , 778mm( Kh-31A).
- chiều dài bộ phận lái :1005-1125mm(KH-31/P/PD) , 1005mm(Kh-31A).
- Trọng lượng trước lúc phóng : KH-31P : 599-600kg.
KH-31PD : 700kg.
KH-31A : 600-610kg.
- Trọng lượng đầu đạn : KH-31P : 87-90kg.
KH-31PD : 110kg.
KH-31A : 90-95,5kg.
- Thiết bị phóng : AKU-58 (cho cả 3 loại tên lửa KH-31/P/A/PD).
- Phát triển và chế tạo thiết bị phóng: Nhà máy "Vympel".
- Trọng lượng thiết bị phóng: 185kg
- Dài:3810mm.
- Rộng:130mm.
- Cao: 220mm.


http://soha.vn/quan-su/sat-thu-diet-ham-va-radar-cua-khong-quan-viet-nam-20130403170741195.htm
 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Sức mạnh tàu sân bay Mỹ đến Biển Đông

(ĐVO) - Theo thông tin từ Mỹ, ngày 1/4 nhóm tác chiến tàu sân
bay USS John C. Stennis đã cập cảng Changi, bắt đầu thăm Singapore theo kế hoạch trước khi trở về nước​​.

Đây là chuyến thăm cảng đầu tiên của nhóm tác chiến tàu sân bay này kể từ khi đi vào vùng đảm trách của Hạm đội 7 hôm 26/3, sau 5 tháng hoạt động trong và xung quanh Vịnh Ả-rập (Vịnh Persian). Trong khi triển khai tại vùng đảm trách của Hạm đội 5 ở vùng Vịnh, các máy bay trên tàu sân bay đã thực hiện khoảng 1.200 phi vụ xuất kích, với hơn 7.400 giờ bay để yểm trợ các hoạt động của quân đồng minh tại Afghanistan. Trước khi rời vùng đảm trách này, nhóm tác chiến tàu sân bay USS John C. Stennis đã được Nhóm tác chiến tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower (CVN 69) thay thế.
Nhóm tác tàu sân bay John C. Stennis, bao gồm tàu sân bay USS John C. Stennis (CVN 74), Liên đội không quân hạm số 9, phi đội tàu khu trục số 21 gồm 4 tàu khu trục: USS Pinckney (DDG 91), USS Kidd (DDG 100), USS Dewey (DDG 105) và USS Wayne E. Meyer (DDG-108)] và tàu tuần dương USS Mobile Bay (CG 53), được triển khai tới vùng đảm trách thuộc Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ để tiến hành các hoạt động an ninh hàng hải và hợp tác an ninh chiến trường nhằm hỗ trợ an ninh và ổn định tại khu vực Ấn Độ - châu Á -Thái Bình Dương.

USS John C. Stennis (CVN-74) là chiếc hàng không mẫu hạm thứ 7 trong lớp Nimitz chạy bằng năng lượng nguyên tử của Hải quân Mỹ, được đặt tên theo Thượng nghị sỹ John C. Stennis của bang Mississippi. Tàu được đưa vào hoạt động vào 9 tháng 12 năm 1995.
Nhiệm vụ của Stennis và Không đoàn là để tiến hành duy trì hoạt động không chiến triển khai trên toàn cầu. Không đoàn gồm 8-9 phi đội. Kèm theo là những chiếc máy bay Hải quân và Thủy quân lục chiến F/A-18 Hornet, EA-6B Prowler, MH-60R, MH-60S, và E-2C Hawkeye.
Không đoàn có thể tham gia truy đuổi máy bay địch, tàu ngầm, và mục tiêu mặt đất, hoặc đặt mìn hàng trăm dặm từ tàu. Máy bay trên Stennis được sử dụng để tiến hành tấn công, hỗ trợ mặt đất, bảo vệ hoặc vận chuyển Nhóm tác chiến hoặc hàng hóa thân thiện khác, và thực hiện phong tỏa đường biển hoặc đường hàng không.
Không đoàn cung cấp sự hiện diện rõ ràng để chứng minh sức mạnh của Mỹ và giải quyết khủng hoảng. Stennis thường hoạt động là trung tâm của một đoàn tàu chiến chỉ huy bởi một sĩ quan thủ lĩnh trên tàu Stennis và bao gồm những tàu khác.
Hai lò phản ứng hạt nhân của Stennis giúp tàu hoạt động với phạm vi và thời gian không giới hạn với tốc độ đỉnh vượt quá 30 hải lý / giờ (56 km / h, 34,5 mph).
Bốn máy phóng và hệ thống bắt giữ máy bay lo việc phóng và tiếp nhận các máy bay nhanh chóng và kịp thời. Tàu mang được khoảng ba triệu gallon (11.000 m³) nhiên liệu cho máy bay của mình và các tàu hộ tống, và đủ loại vũ khí và đồ dự trự cho các hoạt động mở rộng mà không cần tiếp tế.
Stennis cũng có khả năng tự sửa chữa, bao gồm một Trung tâm bảo trì máy bay, một khu sửa chữa thiết bị điện tử vi mô thu nhỏ, một khu sửa chữa tàu biển.
Đối với việc tự vệ, ngoài Không đoàn của mình và các tàu đi kèm, Stennis có các hệ thống tên lửa đất-đối-không của NATO RIM-7 Sea Sparrow và Rolling Air Missile, các hệ thống vũ khí phòng thủ tên lửa hành trình Phalanx, và Hệ thống chiến tranh điện tử SLQ-32.
Dự kiến, sau khi rời Singapore, nhóm tác chiến tàu sân bay USS John C. Stennis sẽ di chuyển qua biển Đông lên khu vực Đông Bắc Á hoạt động trong thời gian ngắn cùng với tàu sân bay USS George Washington, đang thường trú tại đây, sau đó sẽ cập cảng Hawaii nghỉ ngơi trước khi trở về Căn cứ hải quân Kitsap-Bremerton dự kiến vào đầu tháng 5.
Hình ảnh tàu sân bay USS John C. Stennis:


 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Mổ xẻ' tên lửa đối hạm của Trung Quốc
http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/619715/Kho%CC%89i-do%CC%81ng-chien-ham-Gepard-39-mo%CC%81i-cho-Vie%CC%A3t-Nam-tpot.html

TPO - Trung Quốc hiện đang chế tạo và cung cấp các hệ tên lửa có khả năng sử dụng trong tác chiến từ phòng thủ bờ biển, môi trường biển nông/duyên hải và tác chiến tầm xa ngoài đường chân trời.
Triển lãm hàng không Trung Quốc tháng 11/ 2006 tổ chức ở Chu Hải (Zhuhai), đánh dấu một bước ngoặt trong lộ trình phát triển tên lửa đối hạm Trung Quốc. Lần đầu tiên, Tập đoàn công nghiệp và khoa học hàng không vũ trụ Trung Quốc (CASIC) đã trưng bày bốn tên lửa khác nhau tất cả đều đã được khẳng định là qua thử nghiệm, đang trong giai đoạn chế tạo và sẵn sàng xuất khẩu. Thông lệ tiêu chuẩn của Trung Quốc là chỉ chào hàng một vũ khí khi đã có một hệ thống kế tiếp sẵn sàng đáp ứng nhu cầu trong nước.

Tại Chu Hải, CASIC đã giới thiệu một cách chi tiết một khái niệm hệ thống phòng thủ bờ biển tích hợp có khả năng giao chiến với các mục tiêu ở tầm từ 8 km đến 280 km - chưa từng thấy một hệ thống nào như vậy từ trước tới nay.
Có bốn thiết kế tên lửa cơ bản trong khái niệm phòng thủ này, ít nhất hai trong số bốn mẫu thiết kế tên lửa đó đã được xuất khẩu và tất cả các mẫu tên lửa đều sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của bất kỳ khách hàng nào đặt mua.
Trung Quốc đang ngày càng tập trung những nguồn lực vào thiết kế và chế tạo hàng loạt hệ thống vũ khí tiên tiến khác nhau. Về lĩnh vực phát triển tên lửa chiến thuật, thì chỉ có tên lửa đối hạm được đánh giá là phát triển có chiều sâu và tốc độ nhanh nhất.
Vì vậy, cơ sở công nghiệp và nghiên cứu của Trung Quốc hiện nay có nhiều trung tâm đầu tư hiện đại chuyên thiết kế tên lửa đối hạm, và những ngày mà khả năng tiến công trên biển của Trung Quốc dựa vào những thiết kế tên lửa đối hạm cổ điển của Liên Xô thập niên 60 đã đi vào dĩ vãng.
Hiện nay, Trung Quốc đã có đủ năng lực chế tạo tất cả các phân hệ then chốt cần thiết của một tổ hợp tên lửa hiện đại, bao gồm từ động cơ phản lực cỡ nhỏ, các loại đầu tìm, hệ thống đạo hàng, đến các đường truyền dữ liệu tầm xa. Kết quả là một họ họ vũ khí đa dạng chưa từng có được thiết kế để phóng từ trên bộ (mặt đất), trên không (máy bay), trên biển (tàu chiến), ít nhất về lý thuyết, có đủ khả năng tiêu diệt bất kỳ kiểu loại mục tiêu trên biển nào.
Trung Quốc hiện đang chế tạo và cung cấp các hệ tên lửa có khả năng sử dụng trong tác chiến từ phòng thủ bờ biển, môi trường biển nông/duyên hải và tác chiến tầm xa ngoài đường chân trời (ngoài khơi xa). Thành công này đạt được là nhờ một quá trình tiến hoá với sự tiến bộ theo từng giai đoạn.
Đồng thời Trung Quốc đã cho thấy rằng họ có thể đi vào những khái niệm vũ khí hoàn toàn mới đáp ứng yêu cầu tác chiến cơ bản của lục quân, hải quân và không quân Trung Quốc.
Khả năng sử dụng tên lửa đường đạn chống các mục tiêu trên biển là một minh chứng điển hình cho đánh giá này và ý đồ thúc đẩy tiến trình thể hiện khá rõ qua việc Trung Quốc đã dành nhiểu thời gian phân tích phương thức tốt nhất để có thể vô hiệu hoá lực lượng hải quân Mỹ trong vùng biển Thái Bình Dương - đặc biệt là các cụm tàu sân bay tấn công.
Hơn nữa, quân đội Trung Quốc không hề giảm tốc độ mua sắm các hệ thống vũ khí của nước ngoài nhằm lấp những khoảng trống về khả năng quốc phòng, ngược lại họ còn đẩy mạnh việc khuếch trương giới thiệu các hệ thống tên lửa phát triển trong nước ra thị trường xuất khẩu quốc tế.
Tóm lại, Trung Quốc đã cho thấy rằng họ có khả năng gia tăng các chu trình phát triển các sản phẩm truyền thống, đặc biệt khi phối hợp hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài, và việc thiết lập các chương trình hợp tác phát triển tên lửa cho các khách hàng nước ngoài sẽ là bước khởi đầu mới đối với Trung Quốc.
1, Tổ hợp tên lửa đối hạm C-701
Trưng bày công khai lần đầu tiên vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20, tên lửa C-701 (ký hiệu của Trung Quốc là YJ-7) là một tên lửa khối lượng nhẹ, kết cấu vững chắc, sử dụng trên các tàu tấn công nhỏ hoặc triển khai trên các bệ phóng cơ động trên mặt đất. Các quan chức Trung Quốc đã giới thiệu về một phiên bản phóng từ trên không sử dụng trên các máy bay lên thẳng, nhưng chưa thấy có bằng chứng cho thấy sự hiện diện của phiên bản tên lửa này.
Tên lửa C-701 nặng 100 kg, tầm bắn tối đa 15 km, đầu chiến đấu bán xuyên giáp nổ phá nặng 30 kg. Hai phiên bản đã được phát triển: C-701T với đầu tìm quang điện tử hoặc truyền hình (EO/TV) và C-701R với đầu tìm rađa chủ động.
C-701 chưa thấy xuất hiện trong trang bị của quân đội Trung Quốc nhưng đã được bán cho I-ran, để trang bị cho số lượng lớn tốc hạm tấn công và lắp trên các bệ phóng đặt trên xe vận tải.

C-701R (Kosar) trong diễn tập của quân đội Iran.
Như là một dấu hiệu về sự thay đổi chiến lược của Trung Quốc, phiên bản tên lửa tiên tiến C-701R đã được xác nhận là có trong trang bị của quân đội I-ran xuất hiện trong cuộc diễn tập mang tên Zarbet - eZolfaghar tháng 10/2006. Các phiên bản của tên lửa C-701 trong trang bị của quân đội I-ran là một phần của họ tên lửa Kosar.
2, Tên lửa đối hạm C-704:
Những tin đồn về hệ tên lửa này chỉ mới chấm dứt, sau khi CASIC lần đầu tiên trưng bày công khai tên lửa với tên gọi C-704 vào tháng 11/2006. Hiện nay, với tư cách là một bộ phận của họ sản phẩm này được quảng cáo, tên lửa C-704 còn là một phiên bản khác của các vũ khí được chế tạo theo đơn đặt hàng riêng cho I-ran và có nhiều tên gọi khác nhau. Năm 2004, Tập đoàn công nghiệp hàng không Hongdu Trung Quốc đã trưng bày hai thiết kế tên lửa được ký hiệu là TL-6 và TL-10. Những tên lửa này giống với hai tên lửa của I-ran là Nasr (TL-6) và Korsa (TL-10) - cả hai tên lửa đều được công bố là những sản phẩm chế tạo trong nước của Tổ hợp công nghiệp hàng không vũ trụ I-ran (IAIO).
Tuy nhiên, dư luận cũng nhanh chóng nhận ra rằng hai chương trình tên lửa bí mật đã được CATIC (Công ty xuất nhập không công nghệ hàng không quốc gia Trung Quốc) công khai cách đây hai năm (TL - 8 và TL - 9) chính là tên lửa TL-10 và TL- 6 dưới một tên gọi mới.
Vào năm 2006, tên lửa TL-6 và TL-10 một lần nữa lại không thấy xuất hiện (biến mất). Thực tế, tên lửa TL-10 đã được trưng bày tại Triển lãm hàng không Trung Quốc 2006, mà không được nhận biết, nó được treo dưới cánh của một máy bay tấn công hạng nhẹ hoặc máy bay huấn luyện hiện đại L-15 Hongdu.
Còn tên lửa TL-6 không thấy có một dấu hiệu nào, ngoại trừ việc CASIC trưng bày một tên lửa giống một cách cơ bản nhưng lại mang một ký hiệu khác, đó là C-704. Các quan chức CASIC phủ nhận một cách quyết liệt rằng C-704 không hệ có liên quan đến bất kỳ chương trình tên lửa nào trước đây của Trung Quốc, đồng thời khước từ đưa ra bất kỳ những chi tiết nào về tên lửa hay lịch sử phát triển của chúng.
Tuy nhiên, số liệu kỹ thuật do CPMIEC (Công ty xuất nhập khẩu máy chính xác Trung Quốc - một tổ chức của chính phủ Trung Quốc chịu trách nhiệm về xuất khẩu tên lửa ra nước ngoài) cung cấp, lại cho thấy tên lửa C-704 và TL-6 là gần như giống nhau hoàn toàn. Một vài tham số tính năng của tên lửa C-704 "thực" được cải thiện khi so với thiết kế tên lửa TL-6 vào năm 2004, còn những khía cạnh khác thì hai tên lửa hoàn toàn giống nhau (không thể phân biệt được).
Vì nhiều lý do đã bị chìm lấp trong mớ bùng nhùng của thói quan liêu trong ngành công nghiệp của Trung Quốc, chương trình C-704/TL-6 giờ đây được đặt dưới sự chỉ đạo của CASIC, và công ty này đã phát triển đến giai đoạn đưa vào chế tạo và đưa ra thị trường xuất khẩu.
Thông tin do CPMIEC công bố cho thấy rằng C-704 thực chất đang được chế tạo quy mô (số lượng lớn) và khi tên lửa TL-6 được bàn thảo với các nhà thiết kế Hongdu năm 2004, họ đã khẳng định rằng đó là một chương trình xuất khẩu cho I-ran. Từ đó đến nay, hãng Janes đã có thêm bằng chứng khẳng định rằng sự hợp tác của Trung Quốc và I-ran đã tiến thêm một bước.
3, Tên lửa đối hạm C-801 và C-802:
Loạt tên lửa C- 801 và C-802 - sản phẩm của một quá trình tiến triển lâu dài và bền bỉ - là hệ tên lửa đối hạm của Trung Quốc có ý nghĩa nhất trong kho vũ khí trang bị hiện có và đang chế tạo cho tới nay.
Phiên bản đầu tiên C-801 (YJ-8) được đưa vào trang bị cuối những năm 1980 của thế kỷ 20 và đã được xuất khẩu cho nhiều nước trên thế giới kể cả cho Thái Lan.
Tên lửa C-801 được mô tả như là “Exocet Trung Quốc” vì nó bắt chước thiết kế tên lửa MM38/MM39 Exocet của Pháp.
Phiên bản phóng từ trên không C-801 K (YJ - 8K) được trang bị cho máy bay cường kích JH -7 của không quân hải quân Trung Quốc, còn phiên bản phóng từ tàu ngầm (C-801 Q/YJ - 8Q) đã được đưa vào trang bị của hải quân Trung Quốc trên các tàu ngầm Type - 039 lớp Song, và có thể đã xuất khẩu cho I-ran.
Mẫu tên lửa tiếp sau C - 802 (YJ-82) là một cải tiến đáng kể của thiết kế cơ bản. Tên lửa C-802, dài hơn và nặng hơn, sử dụng động cơ đẩy tuabin phản lực để tầm bắn xa hơn và tầm hiệu quả đạt trên 120 km. Tính năng này đạt được có thể là nhờ lắp thêm động cơ tua bin siêu nhỏ TRI-60-2 Microturbo do Pháp chế tạo, (sau này, động cơ TRI-60-2 đã được chế tạo tại Trung Quốc).

C-802 bắn từ bệ phóng mặt đất.
Năm 2005, tên lửa C-802 đã được cải tiến theo tiêu chuẩn C-802A với tầm bắn tăng lên tới 180 km và được lắp một đường truyền dữ liệu để cập nhật số liệu chỉ điểm mục tiêu cho tên lửa trên đường bay. Tên lửa C-802A hiện nay đóng vai trò tên lửa đối hạm phòng tuyến bên trong tầm xa của Trung Quốc với khối đầu đạn bán xuyên giáp nổ phá nặng 165 kg.
Ngoài ra, đã có thông tin cho rằng một hệ thống dẫn đường qua vệ tinh đã được phát triển cho tên lửa C- 802A, đem lại khả năng tấn công mục tiêu mặt đất cho hệ tên lửa này.
Năm 2006, CASIC đã trưng bày một phiên bản tên lửa C-802 phóng từ trên không lần đầu tiên với tên gọi C-802KD, mặc dù sự tồn tại của một phiên bản tên lửa phóng từ trên không đã được nhắc đến một đôi lần và người ta cho rằng nó đã được xuất khẩu cho I-ran và được lắp trên các máy bay Su-24 của không quân.
Sự xuất hiện của phiên bản C-802KD đã được một số nhà phân tích coi đó là bằng chứng khẳng định về một phiên bản mới có điều khiển chính xác của tên lửa C-802 hiện đã tồn tại và được sử dụng để chống các mục tiêu mặt đất và trên biển.
Trung Quốc có thể đang phát triển một phiên bản tên lửa bay với vận tốc siêu âm thế hệ kế tiếp của họ tên lửa này, được mang ký hiệu C-803 (YJ -83), mặc dù có những bằng chứng ban đầu và thông báo liên tục về hệ vũ khí này, nhưng chắc chắn hệ tên lửa này chưa có trong trang bị và không được khẳng định.
4, Tên lửa đối hạm C - 602:
Tên lửa C - 602 được xem là một đột phá về tên lửa đối hạm của Trung Quốc bởi vì đây là một sự khởi đầu quan trọng về độ chính xác và tầm bắn. Thực chất đây là một tên lửa hành trình, được thiết kế lại để dùng cho vai trò tấn công mục tiêu trên biển. Thiết kế cơ bản của tên lửa rõ ràng là một bước tiến và tính năng của C- 602 hiện nay có thể mới đạt ở mức thấp trong những khả năng theo lý thuyết của cấu hình này tên lửa. Kể từ năm 2005 tên lửa C- 602 đã được tiếp thị trên thị trường xuất khẩu.
Về hình dáng, tên lửa xuất khẩu C- 602 khá giống với tên lửa cổ điển C- 601 (họ tên lửa YJ -6/YJ-61), một thiết kế của Trung Quốc vào thập kỷ 60 dựa trên mẫu tên lửa SS-N-2 Styx của Liên Xô. Tuy nhiên, C- 602 lắp động cơ tuabin phản lực lại là một thiết kế hoàn toàn mới, rất hiện đại với tầm bắn tới 280 km.

Tên lửa C-602.
Được phát triển tại Trung Quốc với tên gọi YJ -62, tên lửa hiện nay đang được đưa vào trang bị cho các tàu khu trục lớp Lan Châu Type 052C của hải quân Trung Quốc, được hạ thuỷ đầu tiên vào năm 2004. Khi triển khai trên biển, hệ thống tên lửa sử dụng các bệ phóng 4 tên lửa được bố trí thành từng cặp. Khi triển khai trên bờ một đơn vị chiến đấu gồm 4 xe bệ phóng, mỗi xe ba tên lửa, cùng với các xe chỉ huy và bảo đảm khác.
Động cơ đẩy thuốc phóng rắn sẽ phóng tên lửa C-602 từ ống phóng hình trụ, trước khi động cơ tua bin phản lực (với một cửa hút khí bố trí dưới thân tên lửa) khởi động để duy trì đường bay. Tên lửa được thiết kế để bay hành trình ở độ cao 30 m trước khi hạ thấp xuống độ cao tấn công nằm trong khoảng từ 7 m đến 10 m. Vận tốc bay thay đổi trong khoảng 0,6 và 0,8 Mach.
Tên lửa có thể tác chiến trong điều kiện biển động cấp 6 để chống các mục tiêu di chuyển với vận tốc 30 hải lý /giờ, tiết diện phản xạ rađa hiệu dụng 3000 m2. Đầu tìm rađa xung đơn, linh hoạt tần số của C- 602 có tầm hiệu quả 40 km và góc quan sát (+ -) 40 độ.
Để dẫn đường giai đoạn giữa, tên lửa được lắp một hệ thống đạo hàng quán tính hướng xuống dưới và một máy thu GPS kết hợp. Đầu chiến đấu nửa xuyên giáp nổ phá nặng 300 kg sử dụng ngòi tiếp xúc giữ chậm cơ điện tử.
Phần lớn những gì Trung Quốc đạt được trong phát triển những khả năng của tên lửa đối hạm đều ngang tầm với những phát triển của Mỹ, Tây Âu và các quốc gia khác. Nhưng một thành tố trong chiến lược diệt tàu chiến của Trung Quốc nổi bật lên đó là việc ứng dụng công nghệ một cách hoàn hảo, và đó là một mối đe doạ không lường trước được.
Theo cách nói của người Trung Quốc, đây là vũ khí tấn công - vũ khí vạn năng (viên đạn bạc) - mà hiểu theo nghĩa đen nó sẽ rơi từ trên trời rơi xuống.
Theo một báo cáo của Cơ quan tình báo hải quân Mỹ năm 2004 cho thấy Trung Quốc đang phát triển khả năng sử dụng các tên lửa đường đạn chiến thuật DF -21 để chống các mục tiêu trên biển. Tên lửa DF-21 mang một đầu đạn nặng khoàng 500/1000 kg, tầm bắn 1500 km đến 2000 km hoặc xa hơn.

DF-21 của TQ.
Được thiết kế để mang đầu đạn hạt nhân, song tên lửa DF -21 cũng có thể lắp đầu đạn thông thường. Nếu đây là sự thực, thì hệ tên lửa này sẽ là một vũ khí diệt tàu sân bay mà không một vũ khí nào có thể sánh được.
Đầu năm 2002 các kỹ sư Trung Quốc công bố tên lửa DF-21 sử dụng một đầu tìm radar giai đoạn cuối cho phép tác chiến chính xác với các mục tiêu tương đối nhỏ, nhưng kể từ đó, Trung Quốc đi vào phát triển các đầu đạn cỡ khả năng vận động sử dụng cho tên lửa đường đạn chiến thuật có khả năng thích ứng với cả nhiệm vụ phòng thủ tên lửa đột nhập hoặc có thể sử dụng để đánh tàu chiến.
Sự khác biệt về vận tốc tương đối giữa các đầu đạn đang bay đến và mục tiêu sẽ khiến cho mọi sự vận động nhằm tẩu thoát của tàu trở thành vô nghĩa.
Để làm cho hệ tên lửa này tác chiến hiệu quả, Trung Quốc không chỉ cần một tên lửa hiện đại mà còn cần một hệ thống phát hiện và chỉ thị mục tiêu tầm xa tinh vi tương xứng. Vì vậy, quân đội Trung Quốc đang có những nỗ lực quan trọng nhằm triển khai các vệ tinh trinh sát radar và giám sát quang điện tử vào cuối thập kỷ này.
Mạng lưới chỉ điểm mục tiêu đặt trên vũ trụ của Trung Quốc dựa trên họ vệ tinh Kondor, được chế tạo tại Nga bởi NPO Mash. Loạt vệ tinh radar và quang điện tử đầu tiên này được Trung Quốc đặt tên là KJ-1, dự kiến sẽ được phóng lên quỹ đạo vào năm 2007, số lượng theo kế hoạch là mỗi loại bốn quả sẽ đưa vào hoạt động trong những năm tiếp theo.
Radar đặt trên vũ trụ của hãng NPO Mash (Nga), theo công bố có khả năng cung cấp ảnh độ phân giải 1 m, quá đủ để tìm và định vị một cụm tàu sân bay chiến đấu, nhưng Trung Quốc còn đưa ra những khái niệm tác chiến tinh vi hơn như: các vệ tinh mang radar bay thành từng cặp trong đội hình đảm bảo cung cấp dữ liệu chỉ thị mục tiêu cực kỳ chính xác.
Vệ tinh sẽ là một phần của hệ thống giám sát và điều khiển lớn hơn gồm các loại máy bay và tàu mặt nước, được thiết kế với mục đích duy nhất đem lại thời cơ chiến đấu cho các tên lửa của Trung Quốc.
Nguồn tin của hãng Jane’s cho rằng nhiều lần thử kiểm chứng DF-21 trong vai trò đối hạm đã được tiến hành. Ngoài ra, một đầu đạn chứa đạn con mới đã được phát triển cho tên lửa DF- 21, sử dụng chuyên cho vai trò đối hạm.
Để thực hiện vai trò này, đầu đạn tiêu chuẩn được thay bằng một chùm các thanh xuyên hình tên không phát nổ, được thiết kế để tung ra một trận mưa đạn bắn vào tàu với vận tốc cao. Các thanh xuyên hình tên không tiêu diệt kíp thuỷ thủ không được bảo vệ, và điều quan trọng hơn là phá huỷ radar, thiết bị thông tin và các mạng xenxơ khác của tàu. Nếu hệ vũ khí này có đủ độ chính xác, thì chỉ với số lượng tên lửa khiêm tốn (tương đối ít) Trung Quốc cũng có thể loại khỏi vòng chiến những tàu chủ lực của đối phương chỉ bằng một chiến thuật “diệt mềm” không cần đánh đắm chúng nhưng làm cho chúng trở thành vô dụng.
Cũng có một đánh giá không được công bố của Trung Quốc rằng việc ngăn chặn lực lượng đối phương (đặc biệt là lực lượng Mỹ) mà không đánh chìm hoặc tiêu diệt nhiều sinh lực sẽ là thay đổi cục diện chính trị của cuộc xung đột, và có thể làm chậm hoặc đánh đòn phủ đầu tất cả các đổi thủ.
Mặc dù những thành đạt của Trung Quốc trong phát triển tên lửa trong nước là không thể phủ nhận, song Nga vẫn là đối tác cung cấp trang bị quân sự quan trọng nhất cho Trung Quốc, ngược lại Trung Quốc được quyền lựa chọn những vũ khí và công nghệ quân sự tốt nhất mà Nga chào hàng.
Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực tên lửa đối hạm, một lĩnh vực mà những mua sắm từ phía Nga đã được sử dụng để lấp vào những khoảng trống về khả năng trong kho vũ khí trang bị của quân đội Trung Quốc. Ba loại tên lửa đứng đầu danh mục mua sắm của Trung Quốc là: tên lửa 3M80 Moskit của Raduga (SS-N-22 "Sunburn"), Kh-59 MK (AS-18 "Kazoo") và Kh-31 Zvezd Strela (AS-17 "Krypton").
Tên lửa 3M80 là một tổ hợp vũ khí lớn phóng từ tàu dùng động cơ đẩỷ phản lực dòng khí thẳng (ramjet) vận tốc cao, có tầm bắn 250 km. Tên lửa có khối lượng phóng gần 4 tấn, với một đầu đạn nổ phá/ nổ mảnh nặng 300 kg. Kích thước tương đối nhỏ của đầu đạn tên lửa Moskit được thiết kế với ý đồ khai thác hiệu ứng động năng được tạo bởi vận tốc đâm vào mục tiêu đạt trên 2 Mach.
Vận tốc bay giai đoạn cuối rất cao của các tên lửa như Moskit (Nga hiện tại đã có những vũ khí lớn, vận tốc bay rất cao khác trong trang bị) có nghĩa là nếu bị các vũ khí tầm gần trên tàu bắn chặn thành công, thì tàu mục tiêu vẫn có thể có nguy cơ bị các mảnh đầu đạn tên lửa bay với vận tốc siêu âm đánh trúng.
Hiện nay, hải quân Trung Quốc có bốn tàu khu trục lớp Soveremenny Project 956 được trang bị tổ hợp tên lửa 3M80 Moskit và hai tàu mới đóng (số hiệu 138 và 139) có thể đã được chuyển giao trang bị một phiên bản cải tiến, tầm xa mới của hệ Moskit (tầm bắn tới 250 km); Trung Quốc có ý định mua thêm hai tàu lớp Sovremenny nữa.
Gần giống như tên lửa 3M80 nhưng nhỏ hơn, tên lửa Kh - 31 theo công bố có tính năng vận tốc bay tương tự (trên 2 Mach), cấu hình nhỏ gọn để phóng từ trên không (máy bay). Giống như Moskit, Kh - 31 là tên lửa bay là là mặt biển, dùng động cơ phản lực dòng khí thẳng, phương Tây không có hệ vũ khí nào tương tự.
Trung Quốc đã đặt mua cả hai mẫu tên lửa: Kh-31A lắp đầu tìm radar chủ động; Kh-31P lắp đầu tự dẫn radar thụ động.
Tên lửa Kh-31 P là một tên lửa chống radar vận tốc bay lớn được thiết kế để tiến công các hệ thống radar của phương Tây, kể cả hệ radar hải quân SPY-1 của Mỹ. Do đây là hệ vũ khí thụ động, tự dẫn theo nguồn phát radar của tàu mục tiêu, nên Kh-31 không bị các hệ thống trinh sát điện tử phát hiện.
Những phiên bản đầu tiên của Kh-31được đặt hàng với các đầu tìm tách riêng bao quát các dải tần của nguồn phát đặc biệt, nhưng trong các phiên bản nâng cấp của tên lửa Kh-31PM/PMK mới nhất, đầu tìm nhiều băng tần đã được tích hợp, tầm hiệu quả mở rộng tới khoảng 200 km.
Trung Quốc đã tiếp nhận tên lửa Kh-31 để trang bị cho các máy bay tiêm cường kích hạng nặng Su-30MK2, được phân công đảm nhận vai trò tiến công mục tiêu trên biển đặc thù trong lực lượng không quân hải quân Trung Quốc. Tên lửa Kh-31 có thể còn được trang bị cho máy bay JH-7 Xian.
Trong trang bị của không quân Trung Quốc, Kh-31 được biết đến với tên gọi YJ-91 và hiện nay Trung Quốc đã chế tạo trong nước mẫu tên lửa này. Các chiến thuật tiến công hạm tàu của Nga áp dụng cho tên lửa Kh-31 đòi hỏi nhiều tên lửa cùng đánh (một tập hợp các tên lửa đầu tìm chủ động và thụ động), tất cả tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau và thời gian tiếp cận mục tiêu gần như đồng thời để phá vỡ các hệ thống phòng thủ.
Hai loại tên lửa 3M80 Moskit và Kh-31 đều không có gì độc đáo đối với Trung Quốc, chỉ có tên lửa đối hạm thứ 3 của Nga: Kh-59MK là đáng chú ý hơn cả. Đây là một phiên bản tầm xa, dẫn bằng radar của mẫu tên lửa cơ bản Kh-59 (AS-13 "Kingbolt") được phát triển dành riêng cho máy bay Su -30 MK2 của Trung Quốc. Trong năm 2005, đại diện của công ty chế tạo tên lửa cho biết sẽ đưa vào sản xuất hệ tên lửa này vào năm 2006 và truyền hình Trung Quốc cũng đã phát đi những hình ảnh về các đợt bắn thử tên lửa Kh-59MK từ máy bay Su-30 MK.

Tên lửa đối hạm X-59MK.
Điều đáng chú ý của phiên bản tên lửa Kh-59MK là hiện nay tầm bắn của tên lửa đã đạt được từ 250 km đến 300 km nhờ một động cơ tua bin phản lực mới và một đầu tìm rađa được kết nối dữ liệu.
Trung Quốc và Iran
Trung Quốc và Iran đã có sự hợp tác mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ tên lửa. Cả hai quốc gia đã chuyển thẳng từ quan hệ bên mua - bên bán sang mối quan hệ chuyển giao công nghệ, và cùng phối hợp phát triển vũ khí.
Iran bắt đầu các mối quan hệ với Trung Quốc trong những năm giữa thập kỷ 80 khi nước này bắt đầu mua các hệ thống tên lửa đối hạm lạc hậu, nhưng vẫn hiệu quả như tên lửa đối hạm CSS-C-2 ‘Silkworm’ (HY-1) và CSS-C-3 ‘Seersucker’ (HY-2).
Năm 1990, Trung Quốc và Iran theo thông báo đã ký một hiệp định hợp tác trong lĩnh vực công nghệ quân sự trong 10 năm. Ý nghĩa nhất trong hiệp định này là việc Iran mua các tên lửa đối hạm C-801 và C-802 do Trung Quốc chế tạo.
Ngành công nghiệp hàng không vũ trụ Iran (IAIO) sau đó bắt đầu chế tạo tên lửa C-802 trong một dự án mang tên Project Noor.
Hiện nay, Iran không chỉ đơn thuần lắp ráp các tên lửa C-802 từ các cấu kiện do Trung Quốc chế tạo mà còn đang chế tạo tất cả các cấu kiện cần thiết trong nước, kể cả động cơ turbin phản lực nhỏ quan trọng của tên lửa. Hệ thống đẩy này - chính bản thân Trung Quốc sao chép từ thiết kế động cơ Tri - 60 -2 Microturbo của Nga - giờ đây được Tổ hợp công nghiệp chế tạo động cơ turbin (TEM) đặt tại Tehran chế tạo tại Iran, với một tên gọi mới Toloo 4 (Sunrise 4).
Iran đã vận dụng kinh nghiệm rút ra được thông qua chương trình hợp tác này để phát triển động cơ tiên tiến tốc độ cao có thể dùng làm động cơ cho tên lửa siêu âm. Sự tồn tại của chương trình này, giờ đây đang trong giai đoạn thiết kế chi tiết, đã được công khai vào tháng 1/2005 và đã được tổ hợp công nghiệp TEM khẳng định lại một lần nữa vào cuối năm 2006. Có thể là Iran có kế hoạch phát triển một tên lửa mới vận tốc bay cao có liên quan đến dự án tên lửa C-803 của Trung Quốc.
Iran cũng đã đưa vào trang bị tên lửa đối hạm tầm xa Ra’ad. Mẫu tên lửa này dường như là sự cải tiến của tên lửa CSS-C -3 Seersucker, mà Iran đã đặt mua hàng trăm quả.
Tên lửa Ra’ad đã được lắp một động cơ đẩy turbin phản lực và có thể được tích hợp một khối dẫn đường cải tiến gồm một đầu tìm radar chủ động để dẫn giai đoạn cuối.

CSS-C-3 (HY-2) của Iran.
Báo chí Iran đưa tin tên lửa có tầm bắn 150 km - một sự cải thiện chút ít so với tên lửa HY-2 dùng động cơ đẩy rocket - nhưng thiết kế cơ bản của tên lửa Ra’ad rõ ràng tối ưu hơn ở tầm xa hơn. Tên lửa có thể được phóng từ tàu hoặc phóng từ bờ, có thể có cả phiên bản phóng từ trên không được chế tạo, tương tự như Trung Quốc đã làm với tên lửa YJ-6 ( một tên lửa đối hạm phóng từ trên không dựa trên tên lửa HY-2).
Một hướng phát triển khác trong mối quan hệ hợp tác chế tạo tên lửa giữa Iran và Trung Quốc, hai nước đang nghiên cứu một họ tên lửa hải quân chiến thuật mới, có thể đã được chính phủ Iran ký hợp đồng, sau khi hoàn thành thiết kế và phát triển tại Trung Quốc.
Tên lửa đầu tiên trong họ tên lửa này là C-701, được chào hàng bởi công ty CASIC Trung Quốc, nhưng cũng được IAIO trưng bày tại Iran, và công bố đây là một chương trình phát triển hoàn toàn trong nước. Tên lửa C-701T được dẫn đường bằng đầu tìm quang điện tử đã được chuyển giao cho Iran với tên gọi mới Kosar 1, còn C-701R dẫn đường bằng đầu tìm rađa được biết đến với tên gọi Kosar 3.
Một điều khá phức tạp là, thiết kế tên lửa TL-10 mới của Trung Quốc cũng được gán tên gọi là Kasar ở Iran (mà không có bất kỳ kí hiệu phía sau). Thông tin do Tập đoàn công nghiệp hàng không Iran (IAIO) tiết lộ cho ta những bằng chứng và những chỉ tiêu kỹ thuật cho ba loại tên lửa Kosar nói trên, tất cả đều rất giống với những tên lửa cùng loại của Trung Quốc.
Trong số hai tên lửa mới cung cấp cho Iran xuất hiện trong khoảng thời gian từ năm 2004 và 2006 là TL-6/C-704 và TL-10 - thiết kế TL-10 của Hongdu hiện đại hơn. Quá trình nghiên cứu phát triển bắt đầu vào giữa thập kỷ 90 và tài liệu công khai của Hongdu (năm 2004) cho thấy tên lửa TL-10 đã được phóng thử từ một tàu hải quân không công bố số hiệu.
Cũng năm đó, đại diện của công ty Hongdu tiết lộ rằng việc chuyển giao phiên bản tên lửa TL-10A đầu tìm quang điện tử (EO) cho một khách hàng nước ngoài đã được tiến hành.
Năm 2004, Hongdu còn lưu ý rằng phiên bản tên lửa lắp đầu tìm radar của cả TL-10 và TL-6 (C-704) cũng sẽ được chuyển giao sau hai năm, và năm 2006 tên lửa C-704 đã xuất hiện. Tên lửa C-704 của Trung Quốc rất giống với tên lửa Nasr của Iran và là một phần trong chương trình phát triển song song (với tên lửa TL-10/Kosar) dường như đã kết thúc thành công. Tên lửa C-704/Nasr hiện nay đang đưa vào sản xuất cùng với tên lửa TL-10/Kosar.
Tên lửa C-701/Kosar 1 và 3, C-704/Nasr và TL-10/Kosar cho thấy Trung Quốc đã thiết lập vị thế của mình như thế nào để trở thành một nhà cung cấp tên lửa đối hạm cho những nước có nhu cầu để tránh lệ thuộc vào vũ khí của phương Tây. Những tên lửa này cũng chứng minh khả năng làm chủ công nghệ tên lửa một cách hiệu quả của Trung Quốc nhằm đáp ứng với mối đe doạ trên biển mà Trung Quốc dự kiến sẽ phải đối phó.


http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/619844/mo-xe-cac-loai-ten-lua-doi-ham-cua-trung-quoc-tpol.html
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Báo Nga: Vũ khí tối tân của Mỹ có thể tạo nên một cuộc cánh mạng

Thứ ba 09/04/2013 15:09
(GDVN) - Trong cuộc thử nghiệm được thực hiện vào tháng 4/2012, hệ thống vũ khí laser đánh chặn trên boong tàu USS Dewey đã tiêu diệt thành công một máy bay không người lái...

Báo chí Nga đưa tin cho biết nhiều khả năng Hải quân Mỹ sẽ tiến hành điều động chiến hạm mang hệ thống vũ khí đánh chặn sử dụng công nghệ chiếu sáng laser của nước này tới khu vực Vùng Vịnh để tiến hành "điều trị" với những mối đe dọa đến từ Iran tại khu vực.

Theo trang RT của Nga, hệ thống vũ khí laser được Hải quân Mỹ thử nghiệm thành công trên thực địa vào tháng 4/2012 có thể được xem là khởi đầu của một cuộc cách mạng vũ khí có thể thay đổi ưu thế sức mạnh quân sự toàn cầu.

Chiếc UAV mục tiêu bị vũ khí Laser của Mỹ bố trí trên tàu chiến phát hiện, tiêu diệt
Theo những gì được website của Hải quân Mỹ mới đây công bố, hệ thống vũ khí laser được quân đội nước này bố trí trên chiến hạm USS Dewey thuộc lớp tàu chiến mang tên lửa điều khiển lớp Arleigh Burk được xem là một trong những thẻ bài đánh dấu sự tự tin hàng đầu về mặt công nghệ quân sự của Hoa Kỳ.

Trong cuộc thử nghiệm được thực hiện vào tháng 4/2012, hệ thống vũ khí laser đánh chặn trên boong tàu USS Dewey đã tiêu diệt thành công một máy bay không người lái giả định là mục tiêu tên lửa hành trình của đối phương.

Hệ thống chiếu laser năng lượng cao trên tàu chiến Mỹ được thử nghiệm vào tháng 4/2012

Sức mạnh từ các chùm tia laser siêu năng lượng đã đốt cháy chiếc UAV giả định với sức mạnh không kém các tên lửa đánh chặn hiện đại và uy lực nhất của nước này.

Một yếu tố khác có thể tạo ra cuộc cách mạng đó là chi phí thực cho một lần bắn laser đánh chặn rẻ hơn rất nhiều so với việc phóng một quả tên lửa chiến thuật hành trình Tomahawk.

Theo tính toán của Hải quân Mỹ mỗi quả tên lửa Tomahawk có chi phí khoảng 1,4 triệu USD, trong khi đó mỗi lần bắn vũ khí laser chỉ mất có 1 USD. Điều này có thể tạo nên một cuộc cách mạng thực sự.

Mục tiêu bị laser năng lượng cao đốt cháy
Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pin sản sinh năng lượng cho các hệ thống vũ khí laser trên tàu chiến Mỹ cũng đang được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện thêm.

Nevin Carr - một tướng hải quân 2 sao đã nghỉ hưu của Mỹ khi nói truyện với tạp chí Wire đa tiết lộ rằng hệ thống vũ khí laser giống như loại được bố trí trên tàu chiến Dewey có thể tiêu diệt rất hiệu quả các loại UAV và thuyền cao tốc cỡ nhỏ.



Ốnh chiếu laser năng lượng cao trên tàu chiến Mỹ

 

nokia87

Xe hơi
Biển số
OF-120625
Ngày cấp bằng
15/11/11
Số km
116
Động cơ
383,630 Mã lực
Cái món này mà đánh nhau thì khủng khiếp các cụ nhỉ:)) cuộc chiến của khoa học
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Sức mạnh của tàu sân bay là vô đối?
Giới chuyên gia quân sự Mỹ nghi ngờ về tính hiệu quả chiến lược của các nhóm tàu sân bay. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có bất cứ phương tiện chiến tranh nào ưu việt hơn "căn cứ không quân trên biển".



Lực lượng hạm đội hải quân hùng mạnh nhất thế giới của Mỹ hiện nay gồm 11 tàu sân bay hạt nhân siêu nặng. Kinh nghiệm áp dụng rộng rãi thành công của người Mỹ trong lĩnh vực này đã được hải quân đế chế Nhật Bản tiếp thu và thực hành trong Đại chiến thế giới thứ II và tiếp tục phát triển trong những thập niên sau đó.
Tuy nhiên, năm 2010, một số chiến lược gia quân sự và chuyên viên phân tích Mỹ đã nêu câu hỏi rằng, liệu có phù hợp chăng khi phải “nuôi” số lượng lớn các tàu sân bay như thế. Số tiền chi ra để xây dựng và vận hành những con tàu khổng lồ này thực sự là “cuốn theo chiều gió”, - như cựu chủ nhân Lầu Năm Góc Robert Gates từng nhận định.
Các tàu ngầm đề án "670" của Nga với biệt hiệu “sát thủ tàu sân bay" đủ sức khẳng định điều đó bất cứ lúc nào. Ngoài ra, các tàu sân bay Mỹ còn luôn phải chịu mối đe dọa từ tên lửa chống tàu của Nga "Oniks" và “Đông phong” của Trung Quốc.
Cách đây chưa lâu, tại Mỹ công bố bản báo cáo của chuyên viên Henry Hendrix, biện minh cho chiến lược lỗi thời nhanh chóng và không tránh khỏi dựa trên cơ sở sử dụng rộng rãi tàu sân bay.
Đáng ngạc nhiên là không phải tất cả các nhà phân tích của Nga chia sẻ mối lo ngại này của vị đồng nghiệp Mỹ. Chẳng hạn, trong cuộc đàm đạo cùng phóng viên Đài "Tiếng nói nước Nga", chuyên viên quân sự nổi tiếng Aleksandr Goltz nêu ý kiến như sau: “Tàu sân bay là phương tiện rõ ràng để thúc đẩy và phô trương sức mạnh một cách cụ thể. Khi tiến hành chiến dịch ở Afghanistan, người Mỹ không có khả năng sử dụng căn cứ trên mặt đất, và hầu như tất cả lực lượng máy bay hoạt động ở Afghanistan đều đậu trên hàng không mẫu hạm.
Tàu sân bay cũng đóng vai trò nổi bật cả ở Iraq. Trong tất cả các cuộc xung đột quân sự hiện đại tàu sân bay đóng vai trò quan trọng then chốt. Nếu xuất phát từ vị trí địa lý của Mỹ, tôi không thể hình dung một chiến lược quân sự hiện đại của người Mỹ mà lại thiếu vắng hiện diện của tàu sân bay”.


Cần lưu ý rằng ở đây nói về các nhóm tàu sân bay mà trong đội hình còn gồm cả tàu ngầm hạt nhân và tàu nổi hộ tống. Không loại trừ rằng, trong điều kiện dự kiến cắt giảm ngân sách của Lầu Năm Góc, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel sẽ đồng ý giảm bớt một nhóm tàu sân bay.
Khó có khả năng Washington đi tới quyết định nào khác nhạy cảm hơn là hạn chế hạm đội, trong chừng mực đang cần củng cố thêm sức mạnh của đội quân Mỹ trên bán đảo Triều Tiên. Chỉ trông vào tàu sân bay.
Sự ngờ vực về giá trị chiến lược của tàu sân bay đã phát sinh bởi mấy lý do. Đó là chi phí cao của những thiết bị này, và trong Lầu Năm Góc đang diễn ra cuộc đấu đá nội bộ về vấn đề tài trợ cho các loại hình khác nhau của lực lượng vũ trang.
Cuối cùng, nhiều nhiệm vụ mà hiện giờ do nhóm tàu sân bay đảm trách, được dự kiến chuyển giao cho lực lượng đỡ tốn phí hơn là tên lửa hành trình và máy bay không người lái, - như nhận xét của chuyên viên Andrey Frolov, Tổng biên tập tập chí "Xuất khẩu vũ khí".
Tuy nhiên, ông Frolov cũng đồng ý rằng người Mỹ sẽ không bao giờ nói lời giã biệt hoàn toàn đối với tàu sân bay: “Tôi cho rằng hạm đội sẽ duy trì đến cùng 11 tàu sân bay, còn nếu có cắt giảm, theo tôi cũng không phải là sự hạn chế mạnh tay tổng thể nào đó.
Có lẽ giảm bớt một tàu, bởi nếu không thì khác nào phải công bố rằng Hoa Kỳ đơn giản là không có khả năng duy trì sức mạnh cần thiết trong những vùng biển mà người Mỹ vẫn thừa nhận là quan trọng chủ chốt đối với họ”.
Nghiêng về chứng minh lợi thế của tàu sân bay còn có sự kiện hiện thực là Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đang cố gắng phát triển những chương trình riêng của nước mình để tạo lập nhóm hàng không mẫu hạm.
Cách đây chưa lâu, Tư lệnh trưởng Hải quân Nga, Đô đốc Viktor Chirkov tuyên bố rằng trong triển vọng ngắn hạn, cốt lõi của Hải quân Nga sẽ gồm tàu ngầm hạt nhân và tàu sân bay thế hệ mới về nguyên tắc.
Theo quan điểm của các chuyên viên, trong khuôn khổ học thuyết quân sự Nga, tàu sân bay cần đến trước hết để đảm bảo yểm trợ cho tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân, sẽ có mặt tại vị trí trong trường hợp chiến sự cần kíp.
Nói chung, mỗi quốc gia hàng hải đều có ý tưởng riêng của mình về tàu sân bay, và so sánh những khái niệm chiến lược và chiến thuật của các nước khác nhau không những là chuyện khập khiễng mà còn vô nghĩa.

http://soha.vn/quan-su/suc-manh-cua-tau-san-bay-la-vo-doi-20130410172548543.htm
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Uy lực tên lửa diệt hạm shaddock Việt Nam
http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/622786/Uy-luc-ten-lua-diet-ham-shaddock-Viet-Nam-tpol.html
TPO - Tổ hợp tên lửa chiến dịch-chiến thuật chống tàu bờ biển thế hệ thứ hai "Redut" với uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, một tên lửa có thể diệt gọn một tàu chiến thuộc bất cứ lớp tàu nào.
Tên lửa Shaddock được phát triển dưới sự chỉ đạo của Trung tướng V.M. Chelomeya tại Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-52 theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô № 903-378 ngày 16 tháng 8 năm 1960 trên cơ sở của tên lửa chống hạm cấp chiến dịch – chiến thuật R-35.
Tổ hợp được thiết kế nhằm tiêu diệt tất cả các loại chiến hạm nổi. Tổ hợp tên lửa bờ biển nhận được mã hiệu P-35B. Khối quân sự NATO đặt mã hiệu là SS-N-3 "Shaddock".
Tổ hợp tên lửa Shaddock từ lâu đã nằm trong trang bị của quân chủng hải quân Việt Nam. Đã có thông tin về việc Việt Nam tiến hành cải tiến, nâng tầm bắn tên lửa Shaddock lên tới 900 km, tầm tiến công có thể bao phủ hầu hết diện tích Biển Đông.



Tổ hợp tên lửa được lắp đặt ra trên khung gầm thân xe cơ bản bốn cầu ZIL-135K (sau khi chuyển giao sản xuất hàng loạt thân xe cho nhà máy Bryansk – được mang mã hiệu là: BAZ-135MB). Nhà phát triển chính của hệ thống điều khiển tổ hợp "Redut" là trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm NII-10 (Viện Nghiên cứu "Altair"). Động cơ phản lực của tên lửa được phát triển bởi Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-300.

Tên lửa chống tầu Redut.
Các thử nghiệm tổ hợp tên lửa F-35B được tiến hành vào mùa thu năm 1963. Theo Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô viết № 631-202 vào ngày 11/8/1966. Tổ hợp tên lửa "Redut" được biên chế vào lực lượng vũ trang Liên xô. Trung đoàn tên lửa phòng thủ độc lập số 10 thuộc lực lượng hải quân vùng Baltic được tiếp nhận các tổ hợp tên lửa "Redut" vào năm 1972. Trung đoàn được biên chế lại và hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển độc lập tăng cường số 1216 (OBRD). Ngày 01/11/1974 Tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 1216 đã được tăng cường biên chế thành trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (OBRP) số 844. Trong Hạm đội Biển Bắc, trung đoàn tên lửa bờ biển độc lập số 501, đóng quân trên bán đảo Rybachiy đã được biên chế chuyển loại tên lửa "Redut" trong 1971-1974.
Ngày 16/7/1961 Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô Viết đã ban hành nghị định để tái cơ cấu lực lượng phòng thủ bờ biển các tổ hợp tên lửa cố định “Utes” sử dụng tên lửa “Sopka” được thay thế hoàn toàn bằng các tổ hợp tên lửa P-35B. Lần phóng tên lửa P-35B đầu tiên của trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 362 (OBRP) được thực hiện vào ngày 30/5/1971. Chính thức, hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển tại Balaklava được trang bị tên lửa P-35B, theo Nghị quyết của hội đồng bộ trưởng Liên bang ngày 28/4/1973. Hiện nay hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển này tại Balaklava được chuyển cho Ukraine, có thông tin cho rằng, để đáp ứng yêu cầu của Mỹ, các tên lửa Redut đã bị phá hủy. Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển trên đảo Kil'din được nhận tên lửa Redut thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu tiên chuyển loại tên lửa P-35B vào năm 1976, và giai đoạn thứ hai - năm 1983.
Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, được trang bị tên lửa Redut thuộc Hạm đội Biển Đen đã nhiều lần cơ động di chuyển từ Crimea đến Bulgaria bằng chính các phương tiện được biên chế. Ở Bulgaria, trung đoàn chiếm lĩnh vị trí mà từ đó có thể quản lý toàn bộ vùng Dardanelles và biển Aegean.
Năm 1974, trên cơ sở của tổ hợp P-35 các viện nghiên cứu và trung tâm thiết kế thử nghiệm đã phát triển tổ hợp 3M44 "Progress". Sự thay đổi chính trong tên lửa là hệ thống dẫn đường và chỉ thị mục tiêu trên tên lửa được nâng cấp và tăng cường khả năng chống nhiễu cũng như chọn lọc hình ảnh. Các nhà sản xuất đã phát triển hệ thống mạng điện tử trên tên lửa hoàn toàn mới và động cơ phóng tên lửa mới, nâng cao hiệu suất phóng đạn. Tăng cường khả năng tấn công bí mật bất ngờ và khó bị bắn hạ bằng lực lượng phòng không đối phương được thực hiện bằng giải pháp kéo dài đường bay giai đoạn cuối của tên lửa ở độ cao thấp so với mặt nước biển.
Tổ hợp "Progress", so với P-35, đã áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới như sau:
Lắp đặt đài radar tự tìm mục tiêu trên tên lửa có khả năng chống nhiễu cao;
Lắp đặt hệ thống tự động chuyển chế độ tự tìm kiếm mục tiêu và lựa chọn mục tiêu trong trường hợp mất thông tin liên lạc từ đài chỉ huy phóng tên lửa;
Giảm độ cao quỹ đạo bay của tên lửa ở giai đoạn cuối từ 100-120 m xuống đến 20-40 m;
Tăng chiều dài của giai đoạn cuối cùng từ 20 km đến 50 km;
Đưa vào đầu đạn tên lửa bộ phận logic tự lựa chọn mục tiêu;
Tăng cường số lượng tên lửa trong một loạt phóng đạn đến 16 tên lửa khi bắn với nhiều phương tiện mang (xe phóng tên lửa, tầu phóng tên lửa).
Sau những thử nghiệm cấp nhà nước trong năm 1976-1977 Tổ hợp "Progress" đã được đề xuất lắp đặt trên các tàu thuộc dự án 58 và 1134, cũng như các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển "Redut" và "Utes". Chính thức, tên lửa "progress" đã được đưa vào biên chế từ năm 1982. Sản xuất tên lửa cho các tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển được tiến hành trong những năm từ 1982-1987.
Trên các phiên bản Redut xuất khẩu ra nước ngoài hoặc được cấp giấy phép sản xuất chưa được biết có được xuất khẩu hoặc cung cấp giấy phép sản xuất hay không?. Khả năng xuất khẩu tên lửa Progress có lẽ rất hạn chế, và giấy phép sản xuất nó không thể được chuyển giao cho bất cứ nước nào.
Bộ Quốc phòng Mỹ đặt mã hiệu cho tên lửa này là - SSC-1B (Surface-to-Surface Cruise Type 1 Lớp thứ hai), mã hiệu của NATO - Sepal.
Toàn bộ tổ hợp tác chiến bao gồm:
Xe phóng tên lửa tự hành SPU-35B (STC-35B)
Tên lửa chống tầu P-35B (3M44)
Xe chỉ huy lắp hệ thống điều khiển bắn "Skala" (4R45) và radar.
Tên lửa P- 35 có thể thu nhận thông tin chỉ thị mục tiêu từ các máy bay tác chiến trên biển như TU-95D, TU-16D, trực thăng Ka-25C (radar "Uspeh")
Biên chế tổ chức phóng trong một khẩu đội tên lửa có ba xe tự hành phóng tên lửa, 5-6 khẩu đội (15-18 xe tự hành phóng tên lửa) hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, 3 tiểu đoàn cùng với các lực lượng và phương tiện đảm bảo công tác tham mưu, kỹ thuật, hậu cần được biên chế thành lữ đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (45 - 54 xe phóng tên lửa tự hành).


Theo các thông số tên lửa biên chế cho các hạm đội năm 1988 :
Hạm đội Baltic - 6 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Đen - 5 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Bắc - Tiểu đoàn 3
Hạm đội Thái Bình Dương - 5 tiểu đoàn
Triển khai sẵn sàng chiến đấu của tổ hợp tên lửa P-35 Redut

Hoạt động của tổ hợp tên lửa Redut P-35.

Tên lửa được đưa vào ống phóng dạng container trên xe phóng đạn tự hành đồng thời các công tác chuẩn bị khí tài tác chiến được thực hiện tại khu kỹ thuật. Thời gian chuyển trạng thái từ hành quân cơ động sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu khoảng 1,5 giờ. Các xe phóng tên lửa tự hành và các xe chỉ huy, tham mưu điều hành tác chiến, trinh sát mục tiêu đồng thời tiến vào chiếm lĩnh tuyến bắn trong trận địa phòng thủ bờ biển. Xe phóng tên lửa khi đã chiếm lĩnh trận địa nâng ống phóng đạn (container) vào góc phóng – 20o.
Đài radar trinh sát lữ đoàn rà quét phát hiện mục tiêu, xác định tọa độ mục tiêu và truyền thông số tọa độ mục tiêu xuống xe chỉ huy tiểu đoàn, trạm radar chỉ huy cấp tiểu đoàn theo dõi và bám mục tiêu, xác định mục tiêu ( địch – ta) bằng thiết bị nhận biết địch – ta. Khi đã xác định mục tiêu địch cần tiêu diệt. Hệ thống điều hành tác chiến lựa chọn xe phóng đạn và phóng tên lửa.

Phóng tên lửa.
Khi phóng tên lửa P-35, động cơ turbin phản lực hành trình được khởi động, tên lửa được phóng ra khỏi ống phóng nhờ lực đẩy của động cơ tăng tốc phản lực sử dụng nhiên liệu rắn. Sau khi được phóng ra khỏi ống phóng (container), tên lửa mở cánh ổn định. Nhờ lực đẩy của động cơ phản lực tăng tốc, tên lửa P-35 lấy độ cao và tốc độ hành trình. Sau khi động cơ tên lửa đốt cháy hết nhiên liệu, tên lửa sẽ cắt các động cơ tăng tốc đồng thời sử dụng chủ yếu là động cơ turbin phản lực. Tên lửa hạ độ cao xuống độ cao hành trình. Hệ thống đạo hàng quán tính sẽ điều khiển tên lửa giữ tốc độ, độ cao và hướng bay tên lửa.
Khi tên lửa bay đến khu vực mục tiêu, đầu dẫn tên lửa bật radar quang ảnh chủ động, phát hiện mục tiêu, tên lửa chụp ảnh mục tiêu và gửi ảnh mục tiêu lên màn hình của trắc thủ tên lửa. Trắc thủ xác định mục tiêu cần tiêu diệt, đầu dẫn tự động của tên lửa khóa mục tiêu và dẫn đường tên lửa tấn công tiêu diệt. Đầu đạn tên lửa P-35 được lắp đặt khối thuốc nổ phá lớn, bộ phận gây nổ kích nổ khối thuốc nổ mạnh phá hủy mục tiêu khi tên lửa lao vào và va chạm vào mục tiêu.


Điểm mạnh của tên lửa P-35 Redut
Tên lửa chống tầu Redut có đầu đạn mang khối thuốc nổ ủy lực rất lớn, tên lửa cơ động với tốc độ rất cao (tốc độ siêu âm), điều đó làm tăng khả năng đột phá tuyến phòng không của đối phương, tăng xác suất tiêu diệt mục tiêu , bằng một đạn hoặc bằng nhiều đạn cùng phóng từ nhiều bệ phóng (trường hợp tầu đối phương có hỏa lực phòng không rất mạnh).
Dù được chế tạo đã lâu và đã ngừng sản xuất, nhưng các tổ hợp tên lửa nâng cấp 3M44 “Progress” với các tính năng kỹ chiến thuật mạnh mẽ vẫn được sử dụng trong lực lượng hải quân Liên bang Nga. Nhờ có tầm tác chiến rất xa nên một khẩu đội tên lửa Redut dưới sự hỗ trợ thông tin mục tiêu từ các cấp có khả năng phòng thủ hàng trăm km bờ biển. Uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, một tên lửa có thể tiêu diệt một tầu chiến thuộc bất cứ lớp tầu nào.

Sức công phá dữ dội của tên lửa P-35 Redut trên mạn tầu mục tiêu.
Nhược điểm:
Tên lửa đã quá thời hạn sử dụng lâu, có khối lượng và kích thước quá lớn, chính vì vậy nên các xe phóng tên lửa chỉ mang được một đạn. Xe phóng tên lửa hoàn toàn thụ động, do đó không có khả năng tự phát hiện mục tiêu và tiêu diệt mục tiêu. Thời gian triển khai sẵn sàng chiến đấu quá lớn. Tầm bay xa của tên lửa cũng gây những khó khăn nhất định trong chỉ thị mục tiêu.
Tính năng kỹ chiến thuật tổ hợp tên lửa.
Tên lửa
Tầm bắn, km
25 - 270 - 460
Tầm bay hành trình của tên lửa, m
400 / 4000 / 7000
Trần bay tên lửa giai đoạn cuối, m
100
Tốc độ bay hành trình của tên lửa, chỉ số М
1,5
Góc tìm kiếm xác định mục tiêu, độ
80
Thời gian triển khai chiến đấu khi hành tiến, phút.
trên 30 phút.
Kích thước tên lửa, m:
- chiều dài
9,45 (9,75; 9,88; 10)
- sải cánh
2,6
- chiều rộng tên lửa khi gập cánh
1,544
- đường kính tên lửa max
1,0
- chiều cao tên lửa
1,5
Khối lượng tên lửa rỗng, kg
2330
Khối lượng cất cánh , kg.
4 500
Đầu đạn
Nổ phá hoặc hạt nhân
Khối lượng thuốc nổ, kg
~ 1000
Đương lượng nổ hạt nhân, kТ
350
Phương pháp phóng
Phóng góc nghiêng, góc phóng 20o
Các bộ phận điều khiển bay
Cánh cản khí động học
Hệ thống dẫn đường bay tên lửa
Đạo hàng quán tính + radar quang học chủ động.
Đông cơ hành trình
Тurbin phản lực
Nhiên liệu
Dầu hỏa
Động cơ phóng phản lực
Hai động cơ tên lửa phản lực nhiên liệu rắn
Lực đẩy, kgf
2 х 30 000
Thời gian động cơ phóng phản lực, s
2
Xe phóng tên lửa tự hành
Loại
Tự hành bánh hơi
Khung gầm cầu xe
8 х 8
Chủng loại xe
ZIL-135K (BAZ-135MB)
Trọng lượng xe phóng tên lửa, kg
21 000 (không có tên lửa. 18 000)
Kích thước toàn xe khi hành quân, m:
- chiều dài
13,5 (11,5)
- chiều rộng
2,86 (2,8)
- chiều cao
3,53 (3,0)
Tốc độ hành trình trên đường, km/h
40
Dự trữ hành trình, km
500
Kíp trắc thủ, người.
5
Thiết kế của Redut (4K44) cho thấy, tên lửa mặc dù có những khiếm khuyết nhất định, nhưng khả năng nâng cấp, cải tiến rất lớn. Các hướng nâng cấp, tăng cường khả năng tác chiến của tên lửa Redut là:
- Là tên lửa hành trình có tầm bắn xa, có thể nâng cấp trang bị hệ thống điểu khiển bay, dẫn đường và chỉ thị mục tiêu của tên lửa theo hướng tự động hóa, đồng bộ hóa đồng thời lập trình hóa nhiều tên lửa tấn công cho một mục tiêu. Hoặc một tên lửa có thể tự động lựa chọn tấn công mục tiêu khi mất liên lạc với đài chỉ huy theo nhiệm vụ được giao
- Tác chiến liên kết phối hợp giữa các loại tên lửa khác nhau trên các phương tiện mang khác nhau dựa trên cơ sở đồng bộ điều hành tác chiến C4IRS.
- Tăng khả năng cơ động của tên lửa theo hướng 2 tên lửa có thể bay theo hai quỹ đạo khác nhau, đặc biệt là giai đoạn cuối theo phương pháp ngẫu nhiên, trần bay thấp từ 20 m – 40 m so với mặt nước biển.
- Ứng dụng công nghệ stealth (sơn phủ tên lửa bằng các lớp sơn chống bức xạ radar, tránh khả năng phát hiện sớm tên lửa) công nghệ sơn này đã nghiên cứu thành công tại Việt Nam.
Những cải tiến, nâng cấp tên lửa Redut hoàn toàn nằm trong khả năng của các nước đang có P-35 trong biên chế, như Việt Nam. Do quá trình nâng cao hiệu suất tác chiến của tên lửa hoàn toàn không phụ thuộc vào phần cứng (động cơ, cấu hình) mà chỉ thay đổi các trang thiết bị điều khiển học, các thiết bị điện tử, máy tính trên đầu tự dẫn và hệ thống truyền thông.
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Tìm hiểu tên lửa DF-15 của Trung Quốc
Tổ hợp tên lửa chiến thuật - chiến dịch DF-15 (Đông Phong-15) dùng để tấn công các mục tiêu có kích thước nhỏ đặc biệt quan trọng như các phương tiện hoả lực, máy bay, trực thăng tại các sân bay, sở chỉ huy, các đầu mối liên lạc, các cơ sở hạ tầng dân sự trọng điểm.
Đông Phong -15 (phương án xuất khẩu: M-9, phân loại của NATO: CSS-6) do Học viện Công nghệ Động cơ Tên lửa của Trung Quốc (Academy of Rocket Motor Technology – ARMT) chế tạo vào đầu năm 1985. Vụ thử nghiệm tên lửa đầu tiên được thực hiện vào tháng 6/1987. Lần đầu tiên tổ hợp tên lửa Đông Phong – 15 xuất hiện tại Triển lãm các hệ thống quốc phòng tại Bắc Kinh năm 1988. Sau đó vào năm 1989, Đông Phong – 15 được đưa vào trang bị cho Quân đoàn Pháo binh Thứ hai của Quân giải Phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA).
Tổ hợp DF- 15 nổi tiếng trong hàng loạt các vụ thử nghiệm do PLA tiến hành nhằm phô diễn sức mạnh trong giai đoạn 1995 – 1996 tại khu mặt nước eo biển Đài Loan. Vụ thử nghiệm đầu tiên trong seri trên diễn ra từ ngày 21-23 tháng 6/1995. Trong quá trình thử nghiệm tại khu trận địa tại tỉnh Phúc Kiến, PLA đã phóng 6 tên lửa DF-15 với 5 lần thành công, tiêu diệt các mục tiêu tại vùng hải phận trung lập cách Đài Loan về phía Tây - Bắc.
Vụ thử nghiệm thứ hai được thực hiện vào năm 1996 – hai tên lửa được phóng đồng thời vào sáng sớm ngày 8/3/1996, tiêu diệt mục tiêu tại vùng hải phận cách Đài Loan về phía Đông và Tây – Nam. Để cho thấy khả năng của tổ hợp với thời gian gián đoạn không lớn, bệ phóng của tổ hợp DF-15 sau khi phóng lại tiếp tục nạp tên lửa và phóng lại. Vụ thử nghiệm thứ 4 diễn ra ngày 12/3 và đã tiêu diệt mục tiêu thành công. Trong quá trình thử nghiệm PLA đã triển khai 20-30 bệ phóng với các phương tiện bảo đảm và hỗ trợ.
Vào năm 2007, trong bản báo cáo quốc phòng của Quốc hội Hoa Kỳ tiết lộ những thông tin về 70-80 bệ phóng được triển khai và 300-350 tên lửa DF-15. Tuy nhiên, nguồn tin chính thức của Trung Quốc khẳng định về sự tồn tại của 2 lữ đoàn tên lửa, trang bị gần 100 bệ phóng với 360 tên lửa huấn luyện và chiến đấu. Hiện nay, DF-15 đã được tiến hành cải tiến: hiện đại hoá hệ thống điều khiển có khả năng tiêu diệt mục tiêu chính xác hơn, nghiên cứu các phương án mới trang bị tên lửa chiến đấu.
Để thay cho phương án đầu tiên DF-15A hiện đã có DF-15B và DF-15C. Các thông tin về việc xuất khẩu DF-15 (M-9) khá mâu thuẫn. Theo một số nguồn tin, tổ hợp DF-15 bị hạn chế bởi chế độ kiểm soát không phổ biến công nghệ tên lửa nên không bao giờ DF-15 được xuất khẩu sang các nước khác. Cũng có nguồn tin khác cho hay, số lượng lớn các lô hàng DF-15 đã được xuất khẩu sang Pakisstan, Iran, Ai Cập, Serya. Có thể đây là sự hiểu lầm vì nhìn bề ngoài DF-15 (M-9) tương tự như thế hệ trước DF-11 (M-11).
Bệ phóng của tổ hợp DF-15 được bố trí trên khung gầm xe có khả năng vượt địa hình cao TAS5450 hoặc WS2400, dùng để vận chuyển tên lửa, tiến hành chuẩn bị trước khi phóng, ngắm và phóng tên lửa. Bệ phóng được lắp đặt trên khung gầm TAS5450 (8x8, tải 25T) mái che kín có thể mở khi phóng tên lửa. Còn phương án trên cơ sở WS2400 (8x8, tải 22T) không có mái che. Để bảo vệ tên lửa trước mưa, bụi, bẩn sử dụng thiết bị chuyên dụng bao bọc. Bệ phóng bảo đảm tự động xác định các toạ độ với sự hỗ trợ của máy thu GPS và trao đổi các dữ liệu với các trung tâm điều khiển. Khi tiến hành phóng tên lửa không cần phải chuẩn bị kỹ thuật và đo trắc địa.
Trên khung gầm xe, quá trình bắn được thực hiện với cơ chế nâng và cố định tên lửa, dẫn động mở và đóng mái che, bệ phóng với cơ cấu dẫn đường và thiết bị phản xạ khí. Tại vị trí chiến đấu, việc lắp đặt dựa vào 4 kích dẫn động từ hệ thống thuỷ lực. Cặp đầu tiên được bố trí giữa trục thứ nhất và thứ hai, trục thứ hai được bố trí sau trục thứ 4 ủa khung gầm. Trước khi phóng, tên lửa được bố trí thẳng đứng. Thời gian chuẩn bị phóng 30 phút. Quá trình kiểm tra khả năng làm việc và bảo dưỡng các hệ thống tên lửa và bệ phóng được tiến hành tự động.
Tên lửa DF-15 là loại tên lửa 1 tầng sử dụng nhiên liệu rắn, có khả năng mang đầu đạn nặng đến 500kg. DF-15 có thể mang đầu đạn hạt nhân công suất 50 – 350Kt hoặc được trang bị các loại đầu đạn phi hạt nhân. Ngoài ra, còn có thông tin DF-15 có thể mang đàu đạn casset, nổ và áp nhiệt. Đầu đạn có thể được trang bị thiết bị bức xạ điện từ để gây nhiễu liên lạc vô tuyến nhằm vô hiệu hoá các hệ thống liên lạc và chỉ huy của đối phương.
Để điều khiển tên lửa trong giai đoạn đầu của quỹ đạo sử dụng bánh lái khí bố ttrí tại vòi phun ra của động cơ tên lửa. Ở giai đoạn hướng vào mục tiêu sau khi tách đầu đạn, vận tốc bay đầu đạn đạt 6M. Việc điều khiển trong giai đoạn này được tiến hành bởi hệ thống điều chỉnh phản lực khí. Tên lửa DF-15 được trang bị hệ thống điều khiển kỹ thuật số quán tính liên kết với máy tính điện tử trên khoang.
Các phương án đầu tiên DF-15A có độ lệch ngẫu nhiên 300-600m, sau khi cải tiến hệ thống điều khiển độ lệch ngẫu nhiên còn từ 150-500m. Theo nguồn tin từ nhà sản xuất, hiện nay nhà sản xuất đang tiến hành trang bị hệ thống dẫn đường vệ tinh và hệ thống điều khiển quán tính mới trên con quay vòng lase cho tên lửa DF-15. Điều này sẽ nâng cao độ chính xác dẫn đường với độ lệch ngẫu nhiên còn từ 35-50m.
Một số hình ảnh về "Đông Phong - 15":

http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/620910/Tim-hieu-ten-lua-DF-15-cua-Trung-Quoc-tpol.html
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
TQ trang bị “sát thủ diệt mắt thần” cho JH-7



(Kienthuc.net.vn) - Các trang mạng Trung Quốc đang lan truyền hình ảnh về cường kích cơ JH-7 Flying Leopard (báo bay) mang tên lửa chống radar YJ-91.

Đây được cho là lần đầu tiên xuất hiện hình ảnh JH-7 mang tên lửa YJ-91. Trước đây, loại tên lửa này thường chỉ xuất hiện trên tiêm kích đa năng Su-30MKK.


Tên lửa chống radar YJ-91 do Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Hồng Du (HAIC) chế tạo dựa trên công nghệ tên lửa Kh-31P của Nga. Nó được dùng để tấn công tiêu diệt đài radar điều khiển tên lửa, trinh sát của đối phương.


YJ-91 có chiều dài 4,7m, đường kính thân 0,36m, nặng 600kg. Tên lửa lắp động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và động cơ ramjet cho hành trình bay cho phép đạt tốc độ vượt âm Mach 4,5, tầm bắn 5-120km.

Hình ảnh cường kích JH-7 trang bị 2 đạn tên lửa YJ-91 trên cánh.​
Với việc trang bị YJ-91, cường kích JH-7 có thể đảm đương được nhiệm vụ áp chế hệ thống phòng không đối phương (SEAD). Nghĩa là, nó thực hiện vai trò khống chế hệ thống tên lửa đối không tạo điều kiện cho đội hình máy bay ném bom xâm nhập vào mục tiêu.


Cường kích JH-7 do Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Tây An thiết kế từ cuối những năm 1980 để thay thế cho dòng máy bay H-5 và Q-5 lỗi thời. JH-7 có khả năng mang 9 tấn vũ khí trên 9 giá treo ở thân và cánh gồm: tên lửa không đối không PL-5/8/9; tên lửa chống tàu YJ-8K/82K, KD-88; tên lửa chống radar YJ-91 và bom có điều khiển.






Mổ xẻ máy bay ném bom chiến thuật JH-7 "made in China"

Cập nhật lúc 08:53 01/05/2011 (GMT+7)

JH-7 là máy bay ném bom chiến thuật của không quân và không quân thuộc hải quân Trung Quốc.



- JH-7 là máy bay ném bom chiến thuật của không quân và không quân thuộc hải quân Trung Quốc. Đây là một trong những thiết kế của Trung Quốc có tỉ lệ nội địa hóa rất cao kể từ khâu thiết kế tới chế tạo.


Lịch sử phát triển


Năm 1973, Bộ công nghiệp hàng không Trung Quốc bắt đầu đưa ra lý thuyết máy bay ném bom chiến thuật siêu âm nhằm thay thế vai trò máy bay ném bom hạng nhẹ H-5 và Q-5 đang phục vụ trong Không quân Trung Quốc. Nhiệm vụ phát triển được giao cho viện 603 (viện thiết kế máy bay Tây An).

Đầu năm 1977, Hội đồng Nhà nước và Ủy ban quân sự Trung Ương quyết định phê chuẩn chương trình phát triển máy bay ném bom mới. Viện 603 chịu trách nhiệm là nhà thiết kế máy bay chính, nhà máy chế tạo máy bay Tây An làm nhiệm vụ sản xuất. Việc phát triển động cơ được giao cho nhà máy 403 (Nhà máy chế tạo động cơ hàng không Tây An). Ban đầu, tên hiệu máy bay được gọi là Hong-7 (H-7).

Những năm 1980, giống như hầu hết các chương trình quốc phòng khác thì dự án H-7 gần như dừng lại để dành cho ưu tiên phát triển kinh tế Trung Quốc thời điểm đó. Tuy vậy, do quân đội đang rất cần thay thế máy bay ném bom quá lạc hậu H-5. Nên năm 1982, lãnh đạo Trung Quốc đã nhất chí ưu tiên kinh phí phát triển H-7.

Năm 1985, dự án H-7 một lần nữa phải đối mặt với việc bị hủy bỏ, nhưng rất may sau đó nó đã được “hồi sinh”.

Nguyên mẫu H-7 hoàn thiện tháng 8/1988 và tiết lộ lần đầu tháng 12/1988 ở triển lãm hàng không quốc tế Farnborough. Cũng năm đó, H-7 thử nghiệm cất cánh thành công và để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới thì nó chính thức đổi tên thành JH-7. Chữ “JH” phiên âm tiếng Trung là Jianjiji Hongzhaji (tiêm kích – bom).
Máy bay tiêm kích bom chiến thuật JH-7.

Đầu những năm 1990, JH-7 lại một lần nữa đứng trước nguy cơ “loại bỏ” khi Trung Quốc tiến hành nhập khẩu máy bay chiến đấu tiên tiến Sukhoi Su-27 và Su-30 từ Nga. Nhưng một lần nữa, JH-7 lại “gặp may” nó vẫn được phát triển và đưa vào trang bị trong lực lượng Không quân của Hải quân Trung Quốc năm 1992.

Không quân Trung Quốc ban đầu đã không đồng ý tiếp nhận JH-7 vì họ cho rằng loại máy bay này sử dụng công nghệ cũ và trang bị động cơ không đáng tin cậy. Phải tới năm 2004, không quân mới chấp thuận biên chế JH-7 sau một số cải tiến hệ thống điện tử và vũ khí với công nghệ hiện đại.

Thiết kế của JH-7

JH-7 là máy bay tiêm kích – bom thiết kế và trang bị cho không quân thuộc Hải quân Trung Quốc với vai trò chủ yếu là chống hạm.

Phiên bản JH-7 trang bị radar điều khiển hỏa lực Type 232 H Eagle Eye (mắt đại bàng) để thực nhiệm vụ không đối không và không đối hải. “Mắt đại bàng” tồn tại điểm thiếu sót lớn nhất là không thể hỗ trợ các cuộc tấn công bằng vũ khí chính xác cao trên đất liền.

JH-7 còn lắp thiết bị nhận diện bạn - thù, thiết bị đối phó điện tử, radar cảnh báo sớm, thiết bị gây nhiễu chủ động/bị động.

JH-7 vũ trang pháo hai nòng tự động GSh-23L cỡ 23mm có tốc độ bắn 300 viên/phút. Nó có 9 giá treo (6 giá dưới cánh, 2 giá ở đầu mút cánh và 1 ở dưới thân) mang tổng cộng 9.000kg vũ khí các loại.
JH-7 được thiết kế để thực hiện tốt vai trò chống hạm cho hải quân.

Trong nhiệm vụ không đối hải, JH-7 mang 4 tên lửa đối hạm cận âm YJ-81 và 2 tên lửa không đối không tầm ngắn PL-5C/E cùng 1.400 lít nhiên liệu phụ. Máy bay khi đó sẽ bay ở độ cao thấp nhằm tránh sự phát hiện của radar đối phương và phóng YJ-81 khi cách tàu mục tiêu khoảng 30-40km.

Ngoài ra, JH-7 có khả năng mang 20 quả bom không điều khiển loại 250kg cho nhiệm vụ đối đất. Để mang số bom lớn như vậy, trên các giá treo JH-7 lắp hệ thống giá phụ (mỗi giá mang 4 quả bom).

Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy WS-9.

Máy bay trang bị hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Roll – Royce Spey Mk202 cho phép đạt tốc độ tối đa 1.808km/h, tầm hoạt động gần 4.000km, trần bay 16.000m.

Cải tiến nổi bật của JH-7A

Lực lượng Không quân Trung Quốc “không chịu tiếp nhận” JH-7 do nó không đáp ứng yêu cầu mà không quân đặt ra. Đặc biệt, đó là nó không có khả năng thực hiện nhiệm vụ tấn công bằng vũ khí chính xác cao mà đây lại là yêu cầu không thể thiếu của chiến tranh hiện đại.

Vì vậy, cơ quan thiết kế Tây An đã cải tiến JH-7 với công nghệ mới, tiên tiến hơn.

Cấu trúc thân JH-7A sử dụng vật liệu composite và hợp kim làm giảm trọng lượng rỗng của máy bay (khoảng 400kg) trong khi trọng lượng cất cánh tối đa tăng thêm 10%.

Máy bay tiêm kích – bom chiến thuật JH-7A dành cho không quân.

JH-7A trang bị radar điều khiển hỏa lực đa chức năng JL-10A với 11 chế độ làm việc gồm: đánh chặn tầm trung, không chiến tầm ngắn, tấn công mục tiêu mặt biển/mặt đất, định vị… . Radar có tầm phát hiện mục tiêu tới 80km và cự ly theo dõi 40km.

Buồng lái cải thiện hơn về sự “tiện nghi” với màn hình HUD và hai màn hình LCD đa năng hiển thị thông tin liên quan đến chuyến bay, tình trạng vũ khí.

JH-7A có tới 11 giá treo vũ khí (6 dưới cánh, 2 ở đầu mút cánh, 1 dưới thân và 2 dưới thân gần vị trí cửa hút khí).
JH-7A chuẩn bị lắp tên lửa hành trình không đối đất KD-88.

Cấu hình vũ khí của JH-7A cũng tương tự JH-7 nhưng bổ sung khả năng mang vũ khí tấn công chính xác cao như: tên lửa chống radar YJ-91, tên lửa không đối đất dẫn đường TV KD-88 và bom dẫn đường bằng laze loại 250kg.

Phiên bản cải tiến JH-7A trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy WS-9 (mẫu sao chép từ động cơ Mk202).

JH-7 còn có một phiên bản dành cho mục đích xuất khẩu là FBC-1 Flying Leopard. Nhưng hiện tại không có bất kỳ khách hàng quốc tế nào ngó ngàng tới FBC-1.

 
Chỉnh sửa cuối:

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Su-30MK2 Việt Nam trang bị vũ khí 'chọc mù mắt thần'


Tiêm kích hiện đại nhất Việt Nam Su-30MK2 được trang bị loại tên lửa tối tân có khả năng tiêu diệt các loại radar đối phương trên bộ, trên biển.


Tiêm kích Su-30MK2 trang bị cho Không quân nhân dân Việt Nam thiết kế với hệ thống điện tử hiện đại, vũ khí đa năng có thể thực hiện mọi nhiệm vụ tiến công mục tiêu trên không, trên bộ, trên biển bằng vũ khí chính xác cao.
Ngoài các nhiệm vụ đó, Su-30MK2 còn có khả năng thực hiện nhiệm vụ chế áp phòng không đối phương (SEAD). Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong bất kỳ lực lượng không quân nào trên thế giới.
Tên lửa chống radar Kh-31P trang bị trên tiêm kích Su-30. Ảnh minh họa.​
Hiện nay, tên lửa đất đối không ngày càng được cải tiến mạnh mẽ hơn, tầm bắn xa hơn, độ chính xác cao, khả năng kháng nhiễu mạnh. Để khống chế các loại tên lửa đối không, cần phải loại bỏ, tiêu diệt trạm radar trinh sát, radar điều khiển hỏa lực tên lửa. Mất đi những “mắt thần” này, tên lửa dù tối tân đến đâu cũng hoàn toàn vô dụng.
Công nghiệp quốc phòng thế giới đã sáng chế ra loại vũ khí “chọc mù mắt thần” – tên lửa chống radar. Loại vũ khí này từng được sử dụng rất rộng rãi trên chiến trường Việt Nam, khi đó Mỹ đã sử dụng tên lửa loại này để đối phó với hệ thống SAM-2 phòng không miền Bắc Việt Nam. Bộ đội ta đã rất vất vả tìm cách hạn chế thiệt hại tới mức nhỏ nhất mà tên lửa chống radar gây ra.
Ngày nay, Không quân nhân dân Việt Nam cũng sở hữu một số loại tên lửa chống radar. Trong đó, Kh-31P là loại hiện đại nhất mà chúng ta có hiện nay, trang bị trên tiêm kích đa năng Su-30MK2.
Theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockhom, năm 2009 Việt Nam đã ký với Nga mua một số lượng nhỏ tên lửa chống radar Kh-31P cho Su-30MK2.
Tên lửa chống radar tầm trung tốc độ cao Kh-31P do tập đoàn Tên lửa Chiến dịch – Chiến thuật sản xuất. Nó được dùng để tiêu diệt mọi hệ thống radar của tên lửa phòng không tầm trung – xa (hoặc radar dẫn bắn pháo phòng không) đặt trên mặt đất hoặc trên chiến hạm.
Kh-31P sử dụng hệ dẫn quán tính ở pha giữa và đầu tự dẫn radar chủ động pha cuối. Nguyên lý chung của loại vũ khí này là, bám theo cánh sóng radar để đánh vào đài anten máy phát.
Tiêm kích Su-30 Không quân Nga phóng tên lửa Kh-31P.​
Đạn tên lửa Kh-31P dài 4,7 m, đường kính thân 360mm, nặng 600 kg. Đạn được kết cấu 2 tầng động cơ đẩy gồm: động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và động cơ tĩnh phản lực trong hành trình bay.
Khi phóng, phi công sẽ ấn nút thả tên lửa ra khỏi giá treo, cách máy bay một khoảng an toàn, động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn ở đuôi được kích hoạt đưa tên lửa đạt tốc độ Mach 1,8. Cháy hết nhiên liệu, động cơ này sẽ tách ra khỏi thân tên lửa. Khi đó, 4 cửa hút khí mở ra và vỏ tên lửa rỗng trở thành buồng đốt động cơ tĩnh phản lực dùng nhiên liệu lỏng giúp tên lửa tăng tốc tới Mach 2,9 (gần gấp 3 lần vận tốc âm thanh).
Với tốc độ cực cao, kích thước nhỏ, Kh-31P là “bài toán khó” đối với hệ thống đánh chặn đối phương. Dù radar địch có phát hiện được sự có mặt của Kh-31P cũng khó lòng đối phó kịp.
Tên lửa chống radar tốc độ siêu thanh Kh-31P có khả năng tấn công mục tiêu ở tầm bắn tối đa tới 110 km. Với đầu đạn nặng 87 kg, nó đủ sức phá hủy làm ngừng hoạt động mọi đài radar đối phương.
Trong chiến đấu, Su-30MK2 sẽ mang Kh-31P phá hủy trạm radar trên bộ (hoặc tàu chiến), qua đó khống chế hệ thống phòng không đối phương. Tiếp đó, đơn vị bạn sẽ vượt qua được lưới phòng không tầm xa, áp sát tiêu diệt mục tiêu bằng vũ khí thông thường hoặc vũ khí chính xác cao.
Theo Kiến Thức
 

tranhuyphong89

Xe tăng
Biển số
OF-158761
Ngày cấp bằng
30/9/12
Số km
1,528
Động cơ
365,525 Mã lực
Khà khà , đúng là nổ như tàu tưởng . Đại Ngố còn bám váy mãi không xong chớ chú này thì phòng không nó bắn cháy jh7 trước khi nó phóng rác ấy chớ .
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Trung Quốc "đấu" hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương cách nào?



Một đòn tấn công tập trung, hiệu quả vào tàu sân bay Mỹ có thể tiêu diệt 5.000 sĩ quan và binh sĩ hải quân, lớn hơn tất cả các tổn thất sinh mạng trên chiến trường Iraq cộng lại.



Sẽ có thể nhận định rằng, tầu sân bay của hải quân Hoa kỳ "Gerald R. Ford" có thể đảm bảo được uy thế vượt trội của Mỹ trước các đối thủ tiềm năng trong khoảng nửa đầu thế kỷ 21. Một con tàu khổng lồ nặng nề kém cơ động đang được hình thành trên cầu đóng tầu của thành phố Newport News, bang Virginia, có thể mang trên boong tầu 4.660 sĩ quan và binh sĩ Hải quân với một khối lượng rất lớn máy bay chiến đấu và vũ khí trang bị.
Nhưng có một vấn đề đang chặn giữa việc đóng 1 tầu sân bay hiện đại và những điều đang đợi ở phía trước vào năm 2015, khi tầu sân bay lớp USN CVN-78 được hạ thủy. Trung Quốc đã chế tạo được các tên lửa đạn đạo, có khả năng vẽ được 1 đường cong trong không gian phóng đạn và nổ tung trên boong tầu sân bay của Hoa Kỳ, tiêu diệt lực lượng trên boong và biến tầu sân bay trở thành một hòn đảo lửa vô ích.
Từ những năm 1945, người Mỹ đã kiểm soát được vùng nước Thái bình dương nhờ vào những con tầu khổng lồ với lượng giãn nước lên đến 97.000 tấn, mỗi một con tầu tượng trưng cho 4,5 mẫu Anh lãnh thổ nước Mỹ cơ động trên đại dương, như lời phát biểu đầy tự hào của lính thủy Mỹ. Trong những năm ấy, người Trung Quốc không có cách nào khác, ngoài việc lẳng lặng ngắm nhìn những con tầu Mỹ, bơi lội thoải mái mà không bị trừng phạt trên vùng nước ven biển của Trung Quốc.
Trong giai đoạn ngày nay, Trung Quốc đang tăng cường và hiện đại hóa sức mạnh quân sự của họ, mà điển hình là vũ khí trang bị và năng lực tác chiến. Theo phát biểu của những chuyên gia quân sự Trung Quốc, một trong những kế hoạch của họ là buộc các tầu sân bay của Mỹ phải rời xa hơn nữa trong khu vực hải dương lợi ích của Trung Quốc tính từ bờ biển. Phản ứng trước những phát biểu cứng rắn trên, nước Mỹ buộc phải điều chỉnh lại các kế hoạch hoạt động tác chiến. Không một lời nói nào được phát biểu, nhưng cả hai bên đều thực hiện những kế hoạch hoành động, mà bản chất của nó thực tế là cuộc chạy đua vũ trang trong lĩnh vực công nghệ quân sự.

Lính thủy đánh bộ Trung Quốc tập trận trong khu vực biển Đông.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các đại diện của Lầu Năm Góc không có hứng thú bình luận về khả năng xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và Mỹ, đồng thời bài toán lập lờ cũng khác hoàn toàn so với quan hệ với Liên bang Xô Viết trước đây, hoàn toàn không có gì là kẻ thù cụ thể. Năm 2010, trong thời gian thăm chính thức Trung quốc, thứ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Michele Flournoy về vấn đề đối ngoại quân sự, đã khẳng định với một vị tướng cao cấp của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa rằng "Mỹ không cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc” và "Mỹ không coi Trung Quốc như một kẻ thù tiềm năng” như lời bà thứ trưởng đã nói trong các cuộc họp.
Đồng thời, các sĩ quan quân đội Mỹ hay nói về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cho các cuộc xung đột có thể xảy ra trên Thái Bình Dương, nhưng lại không hề nhắc tới đối thủ mà họ chuẩn bị chiến đấu là ai. Tình huống giống như một cuốn tiểu thuyết của Harry Porter, mà trong đó, các nhân vật chính từ chối không nhắc đến tên kẻ thù của mình, Andrew Krepinevich , giám đốc Trung tâm đánh giá Chiến lược và Ngân sách, một trung tâm gắn chặt với Lầu Năm Góc phát biểu: "Không thể gọi Trung Quốc là mối đe dọa tiềm năng – không thể coi Trung quốc như một kẻ thù”.
Các phương tiện truyền thông của Trung Quốc khẳng định tên lửa đạn đạo Đông Phong 21D (DF-21D) có khả năng tấn công chính xác một tầu nổi đang hoạt động trên khoảng cách đến 1.700 hải lý. Các chuyên gia quân sự Mỹ khẳng định rằng góc quỹ đạo tên lửa của Trung Quốc quá cao so với các phương tiện đánh chặn tên lửa hành trình, vốn có đặc điểm là lướt trên mặt nước biển, nhưng lại quá thấp đối với các phương tiện đánh chặn các tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân. Hiên nay, DF-21 đang nằm ngoài tầm phòng thủ của tất cả các phương tiện phòng không của Mỹ trên tầu.
Ngay cả trong trường hợp các hệ thống phòng thủ của Mỹ trên tầu có khả năng tiêu diệt được 1 hoặc 2 đầu đạn DF-21, theo nhận xét của các chuyên gia, thì Trung quốc vẫn có khả năng chọc thủng hệ thống phòng thủ tầu sân bay của Mỹ bằng một loạt nhiều tên lửa phóng cùng lúc.
Trên thực tế, tên lửa chống tầu mới của Trung Quốc, theo nhiều nguồn tin chưa được triển khai có thể buộc các tầu sân bay của Mỹ phải hoạt động xa so với bờ biển Trung Quốc, làm phức tạp và khó khăn hơn đối với các máy bay chiến đấu của không quân hải quân Mỹ trên bầu trời của Trung Quốc, và máy bay của Mỹ cũng không thể chiếm ưu thế thống trị bầu trời, nếu như xảy ra tranh chấp, xung đột với Trung Quốc trên đường biên giới hoặc khu vực lợi ích cốt lõi của họ.
Tầm bắn tên lửa Đông Phong DF-15 đến DF-21 của Trung Quốc.
Để đáp trả hành động của Trung Quốc, Hải quân Mỹ phát triển các máy bay chiến đấu không người lái tầm xa, loại máy bay robot này có khả năng cất cánh từ tầu sân bay Mỹ, đang cơ động trên vùng biển xa và hoạt động trong không trung lâu hơn so với khả năng của một phi công. Như vậy, lực lượng không quân Hoa kỳ sẽ cần tới cả hạm đội máy bay ném bom robot, có khả năng cơ động tác chiến trên không gian không giới hạn của Thái Bình Dương.
Thủ pháp trò chơi gamesmanship còn được diễn ra ngay trong không gian điện toán. Các chuyên gia an ninh mạng của Mỹ lo lắng rằng, khi xảy ra xung đột lợi ích (bao gồm các có vũ trang và phi vũ trang) Trung Quốc sẽ tấn công mạng lưới thông tin truyền thông của các vệ tinh, các vệ tinh viễn thông, trinh sát và định vị kiểm soát tất các các phương tiện bay không người lái, đồng thời cả hệ thống thông tin liên lạc của quân đội Mỹ. Các chuyên gia khẳng định, kết quả của một cuộc xung đột sẽ phụ thuộc vào phía bên nào có thế gây nhiễu hệ thống truyền thông và thông tin liên lạc trong hệ thống mạng của đối phương, hoặc phá hủy hệ thống truyền thông và công nghệ thông tin của đối phương nhanh chóng và hiệu quả.
Trong suốt chiều dài lịch sử kiểm soát được vùng biển là điều kiện tiên quyết cho tất cả các nước, có mong muốn trở thành một đất nước hùng mạnh và phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang Trung Quốc trong đó, phần lớn là sự phát triển tiềm lực quân sự hải quân. Theo thông tin của Viện nghiên cứu RAND Corporation, có quan hệ rất gần gũi với các lĩnh vực nghiên cứu quân sự, cho thấy: Theo biên chế hiện nay, Trung Quốc có 29 tầu ngầm, được trang bị tên lửa hành trình chống tầu, nhưng năm 2002 Trung Quốc chỉ có 8 chiếc, đồng thời vào tháng 8/2011, Trung Quốc đã thử nghiệm hoạt động của tầu sân bay Liêu Ninh..
Thời gian trước đây, các nhà chiến lược quân sự coi vấn đề Đài Loan như một vấn đề chủ chốt trong mối quan hệ đối nghịch giữa Trung Quốc và Mỹ. Hiện nay trong khu vực châu Á Thái Bình Dương xuất hiện nhiều điểm nóng bỏng hơn, đó là mối quan hệ căng thẳng giữa Nhật bản và Trung Quốc xung quanh vấn đề chủ quyền các hòn đảo trên biển Hoa Đông - Trung Quốc. Trên Biển Đông, như đã dự đoán, là khu vực tập trung nhiều dầu và khí gas, có những tranh chấp căng thẳng giữa Trung Quốc với Việt Nam, Philippinnes và các nước khác trên khu vực lãnh hải, thềm lục địa và những khu vực chồng lấn.
Các điểm nóng trên vùng biển châu Á - Thái Bình Dương.
Những năm trước, giới quân sự Mỹ có lẽ sẽ phản ứng khác hơn khi xảy ra những vấn đề xung đột nóng lên bằng cách, gửi một hoặc một nhóm tầu sân bay trong đội hình 11 tầu sân bay của Mỹ, để giữ vững tinh thần cho đồng minh và kiềm chế Trung quốc. Nhưng hiện nay, điều đó trở nên nguy hiểm. Quân đội PLA không những có tên lửa chống tầu sân bay tầm xa, mà còn có cả những tầu ngầm mang tên lửa hành trình chống tầu, có khả năng phá hủy một trong những công cụ chiến tranh hiệu quả của tiềm lực quốc phòng Hoa Kỳ.
«Tình huống diễn ra rất nhanh chóng - Eric Hedzhinbotem, một trong những chuyên gia của RAND Corporation, chuyên viên nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á phát biểu – nếu vào năm 1995 hoặc 2000, bằng tầu sân bay, các nguy cơ xung đột có khả năng được hóa giải – nhưng hiện nay, các nguy cơ xung đột ngày càng tăng, xuất hiện cả một hệ thống các nguy cơ xung đột trên toàn tuyến. ».
Sự quyết tâm của Bắc Kinh đối với nội dung phát triển tên lửa chống tầu, có khả năng tấn công các tầu sân bay, được hình thành trong cuộc khủng hoảng năm 1996 ở vịnh Đài Loan. Chính phủ Trung Quốc không muốn người dân Đài Loan bỏ phiếu ủng hộ cho tổng thống Đài loan, phát biểu ủng hộ sự độc lập của Đài Loan, đã tiến hành hàng loạt vụ thử tên lửa trong vùng nước của Đài Loan. Tổng thống Mỹ đương nhiệm Bill Clinton gửi 2 cụm tầu sân bay đến biển Đài Loan, bằng cách đó thông báo cho Trung Quốc biết, Washington sẵn sàng bảo vệ Đài Loan – và cũng là một trong những thất bại chính trị có tính chiến lược của Trung Quốc.
Các nhà quân sự Trung Quốc đã tập trung nghiên cứu nâng cấp vũ khí trang bị, năng lực tác chiến cũng như khả năng điều hành quân đội với mục đích ngăn chặn tầm ảnh hưởng của tiềm lực quân sự Mỹ trên biển Thái Bình Dương, phát triển công nghệ quân sự, như các chuyên gia quân sự Mỹ gọi là anti-access (chống tiếp cận). Ngăn chặn khả năng tiếp cận và hoạt động của lực lượng quân sự Mỹ vào khu vực lợi ích của Trung Quốc.
«Sự phát triển của lực lượng quân sự Trung Quốc nhằm mục tiêu ngăn cản sự thâm nhập vào khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông – Đô đốc Hải quân Mỹ đã nghỉ hưu, nguyên Tổng tham mưu trưởng lực lượng Hải quân Mỹ Gary Rouhed nhận xét – Có thể nhìn lại lịch sử và nghiên cứu chiến cuộc Đại chiến thế giới lần thứ II, khi người Nhật cố gắng ngăn chặn người Mỹ thâm nhập vào khu vực vùng nước lợi ích của Thái Bình dương ».
Vào năm 2004, chủ tịch Hồ Cẩm Đào khi công báo Học thuyết quân sự mới, đã yêu cầu các lực lượng vũ trang Trung Quốc đảm bảo thực hiện sứ mệnh lịch sử, bảo vệ những lợi ích quốc gia của Trung Quốc, các cán bộ quân sự cao cấp Trung Quốc đã tuyên bố những lợi ích quốc gia đó bao gồm đảm bảo tuyến vận tải đường biển quốc tế, cho phép tiếp cận các nguồn dầu mỏ nước ngoài và bảo vệ người Trung Quốc, lao động và hoạt động ở nước ngoài. Điều này cũng phù hợp với những yêu cầu đòi được bảo đảm những lợi ích mà Trung Quốc yêu cầu ở Liên Hiệp Quốc trên vùng biển Thái Bình Dương.
Thời gian đầu tiên, Trung Quốc phát triển trong im lặng, sự tập trung nguồn lực chậm. Sau đó một thời gian, những đầu đề trên một số tờ báo đã đưa lên những thông tin đầu tiên đến Washington. Vào năm 2007, trong khi thử nghiệm tên lửa Trung Quốc đã bắn hạ 1 trong những vệ tinh khí tượng đã cũ của mình, giới thiệu khả năng bắn hạ các vệ tinh quân sự của Mỹ, những vệ tinh tạo thành hệ thống thông tin liên lạc, định vị vị trí và đưa những mục tiêu quân sự quan trọng của Trung Quốc vào trong tầm ngắm của vũ khí Mỹ.
Người Mỹ đáp trả bằng một trong những công nghệ hoàn toàn bí mật, có khả năng bảo vệ các vệ tinh của Mỹ trước những vũ khí tấn công mới như tên lửa và hoặc vũ khí laser. Sau một năm vụ thử tên lửa của Trung quốc, người Mỹ giới thiệu hệ thống tên lửa đánh chắn bằng cách tiêu hủy một vệ tinh do thám đã cũ của mình băng tên lửa đạn đạo đánh chặn chống tên lửa.
Năm 2010 cuộc chạy đua vũ trang tăng tốc độ. Vào tháng 3, chính xác là vài giờ trước cuộc gặp giữa Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Robert Gates với chủ tịch Hồ Cẩm Đào, mục tiêu của cuộc viếng thăm chính thức là nối lại những quan hệ Mỹ với Trung Quốc, Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 sử dụng công nghệ stealth. Máy bay tàng hình mang tên gọi là J-20, cho phép Trung Quốc có thế ra những đòn tấn công rất xa từ lãnh thổ của họ, có thể, đó là các căn cứ quân sự nằm sâu trong đất liền hoặc ở rất xa, như căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Lan, Nhật Bản và quần đảo Guam.
Cán cân lực lượng Trung - Mỹ theo đơn vị tác chiến trên biển.
Tầu sân bay Liêu Ninh, được hạ thủy vào tháng 8, được đóng và trang bị lại trên cơ sở tầu sân bay "Varyag" Liên bang Xô Viết, mua lại của Ukraina. Tầu sân bay Liêu Ninh đã được biên chế vào lực lượng hải quân Trung Quốc, khi tầu sân bay chủ lực hiện đại Gerald R. Ford được biên chế vào lực lượng tầu sân bay Hải quân Mỹ. Và việc xây dựng các tầu sân bay của Trung Quốc sẽ bắt đầu khi có đủ căn cứ về khoa học, trình độ công nghệ của nền công nghiệp đóng tầu quân sự Trung Quốc.
Một vấn đề quan trọng nữa làm các nhà xây dựng chiến lược quân sự Mỹ cảm thấy bất an, đó là sự phát triển và nâng cấp của tầu ngầm Trung Quốc. Các tầu ngầm Trung quốc giai đoạn gần đây có khả năng lặn lâu hơn và cơ động rất im lặng, khác hẳn các tầu ngầm thế hệ trước. vào năm 2006, tầu ngầm Trung Quốc đã xuất hiện giữa cụm tầu chiến đấu của hải quân Mỹ và cơ động trong im lặng, nó chỉ bị phát hiện khi đã nổi lên mặt nước.
Đánh giá chính xác khả năng tác chiến điện tử của Trung Quốc càng khó hơn. Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều nguồn tài chính và nhân lực vào phát triển công nghệ thông tin, công nghệ mạng và tác chiến không gian ảo. Các chuyên gia công nghệ của Bộ quốc phòng Mỹ khẳng định, các hacker Trung Quốc, theo những thông tin nhận biết được tương đối chính xác, hoạt động dưới sự hỗ trợ của chính phủ, đã nhiều lần tấn công vào mạng thông tin Bộ quốc phòng Mỹ. Trung Quốc đã không dưới 1 lần phủ nhận sự hỗ trợ của chính phủ về vấn đề này.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật quân sự đã làm thay đổi cách phát biểu của một phần các cán bộ quân sự cao cấp Trung Quốc. Nhưng sĩ quan quân sự hăng hái và các nhà phân tích quân sự cực đoan từ lâu đã buộc tội Mỹ vào âm mưu bao vây và giữ Trung Quốc trong vòng vây của những hòn đảo, bao gồm Nhật Bản, Phillippines, có hiệp ước phòng thủ chung cùng với Mỹ, đồng thời cả Đài Loan, gắn kết với Mỹ bởi hiệp ước hỗ trợ phòng thủ. Bây giờ các nhà quân sự cực đoan bàn nhiều về nội dung đẩy Mỹ ra khỏi khu vực ảnh hưởng và dồn Mỹ đến quần đảo Hawaii, tạo điều kiện thuận lợi cho hải quân Trung Quốc tự do hoạt động trong vùng nước ven biển, khu vực phía Tây Thái Bình Dương, Đại Tây dương và các vùng nước khác.
«Trong giới hạn của những hòn đảo tiền tiêu, Mỹ có 4 đồng minh lớn, với các đồng minh này Mỹ muốn bóp nghẹn sự phát triển của con rồng Trung Hoa, biến nó thành con rồng đất» – Phát biểu trong một cuộc hội thảo vào tháng 9.2011, Thiếu tướng Luo Yuan (Lưu Nguyên) một trong những chuyên gia quan sát và nghiên cứu chiến lược của Quân đội Trung Quốc phân tích.
Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự đến thời điểm này rõ ràng chưa đủ để có thể đánh thắng được lực lượng hải quân Mỹ trong một cuộc chiến tranh đối đầu trực tiếp. Nhưng chiến lược của Trung quốc là đẩy lùi từng bước lực lượng Hải quân Mỹ ra khỏi vùng ảnh hưởng, giữ cho lực lượng hải quân Mỹ không thể phản ứng trước những sự kiện đã rồi, cho đến khi hải quân Trung Quốc nắm được quyền kiểm soát những hòn đảo hoặc quần đảo đang tranh chấp, hoặc nắm quyền kiểm soát được các vùng nước đang tranh chấp. Phát biểu nhận xét của các quan chức quân sự lực lượng hải quân Mỹ.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các sĩ quan cao cấp của Lầu Năm Góc như bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Gates và Đô đốc Mike Mullen, nguyên chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân, đều công bố là Mỹ muốn phát triển mỗi quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ với Trung Quốc.
Không phải tự nhiên lực lượng quân sự Trung quốc chiếm vị trí trung tâm trong kế hoạch toàn cầu của Mỹ. Vào năm 2008, quân đội Mỹ tiến hành một loạt các cuộc tập trận với tên gọi «Pacific Vision», trong các cuộc tập trận đó, lực lượng quân đội Mỹ thử nghiệm chiến đấu với một lực lượng quân sự có tiềm lực tương đương trên Thái Bình Dương. Tên tạm gọi của kẻ thù tiềm năng đó, như mọi người đều biết, trong các lực lượng vũ trang có nghĩa là Trung Quốc.
«Nhiệm vụ chung của tôi là đánh giá tình hình chung và khu vực phía Tây Thái Bình Dương về tổng thể - Phát biểu của tướng đã nghỉ hưu Carrol "Howie" Chandler, người tham gia giúp đỡ tiến trình cuộc tập trận- và đối với tôi tình hình phía Tây Thái Bình Dương không phải là bí mật, khi chúng tôi biết người Trung Quốc đang cố gắng phong tỏa vùng biển lợi ích, để thắng được lợi thế của chúng ta trên Thái Bình Dương».
Trong thời gian tiến hành các cuộc tập trận, Hội đồng liên quân đã kiểm tra khả năng của Hải quân Mỹ nói riêng và lực lượng quân đội Mỹ nói chung về khả năng sử dụng sức mạnh quân sự trong khu vực, từ các căn cứ trên mặt đất và từ các tầu sân bay. Những gương mặt tướng lĩnh quen thuộc trong tiến trình diễn tập đã thông báo không chính thức về những ý đồ chiến lược gắn kết với khả năng xảy ra xung đột với Trung Quốc. Các chuyên viên cao cấp của Lầu Năm góc khẳng định, kế hoạch diễn tập với các hoạt động tác chiến của «Air-Sea Battle» (tác chiến không biển), là cơ sở để phát triển các giải pháp đấu tranh hiệu quả chống lại các loại vũ khí trang bị mới của Trung Quốc, trong giai đoạn hiện nay đang được phát triển.
Lực lượng hải quân Mỹ đang phát triển các loại vũ khí trang bị mới, trang bị cho các tầu sân bay của Mỹ, đồng thời phát triển các loại máy bay mới, có thể cất cánh từ trên tầu sân bay. Trên tầu sân bay Ford, máy phóng máy bay phản lực sẽ là điện từ trường, chứ không phải là hơi nước, điều đó cho phép máy bay cất cánh nhanh hơn.
Phát triển các máy bay không người lái tương thích với tầu sân bay, những máy bay không người lái thế hệ mới có thể giúp cho tầu sân bay Mỹ tác chiến hiệu quả với khoảng cách rất lớn trên biển – đại dương có thể được coi như một thành tựu khoa học quân sự to lớn, giúp giảm đi phần nào sự bất an của các tướng lĩnh Lầu Năm góc. Chuẩn Đô đốc William Shannon, người lãnh đạo cơ quan phát triển máy bay không người lái và vũ khí trang bị chủ lực của hải quân, so sánh kết quả chuyến hạ cánh thành công của máy bay không người lái xuống tầu sân bay tương tự như kết quả của chuyến hạ cánh đầu tiên của phi công Eugene B. Ely xuống chiến hạm " Tôi cho rằng thành tựu đạt được của chuyến bay thử nghiệm máy bay không người lái xuống tầu sân bay ..như bước khởi đầu sự phát triển của 100 năm tiếp theo lịch sử của không quân hải quân” - Ông ta nói.
Lực lượng không quân cũng cần những máy bay ném bom chiến lược tác chiến tầm xa để sử dụng trên Thái Bình Dương. Máy bay chiến thuật của hải quân và không quân có bán kích tác chiến không lớn, nếu không có lực lượng tiếp dầu trên không, hệ thống các máy bay chiến đấu ngày nay chỉ tác chiến có hiệu quả trong phạm vị bán kính 575 dặm.
Theo nhận xét có tính khẳng định của các nhà chiến lược quân sự, tầu ngầm của Trung Quốc, máy bay tiêm kích và tên lửa chống tầu có điều khiến sẽ ép buộc các tầu sân bay của Mỹ phải hoạt động ở tầm xa cách bờ biển của Trung Quốc. Khả năng tác chiến tầm xa sẽ là cơ sở căn bản cho tư tưởng chiến lược của quân đội Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương - «AndrewHoyen, phó chủ tịch, "Rand Corporation" phát biểu - cần phải có những máy bay ném bom tầm xa. Từ quan điểm ưu tiên hàng đầu của lực lượng không quân, trong đầu tôi không có điều gì quan trọng hơn thế.
Người Mỹ cũng quan tâm đặc biệt đến vấn đề căn cứ quân sự trên các nước đồng minh, các căn cứ trên đất liền sẽ phát triển lực lượng và vũ khí trang bi ra toàn bộ khu vực châu Á Thái Bình Dương. Tổng thống Mỹ Barack Obama cách đây không lâu đã tuyên bố, nước Mỹ sẽ sử dụng các căn cứ mới ở Australia, bao gồm cả hải cảng quân sự lớn nhất ở Darvin. Hoàn toàn có khả năng, trên nhiều căn cứ quân sự, lực lượng của Mỹ sẽ không đóng quân một cách cố định, nhưng khi có xung đột xảy ra, quân đội Mỹ có thể sử dụng các căn cứ đó cho máy bay không quân Mỹ.
Trong những thành tựu quân sự mà Trung Quốc đạt được cũng như ngân sách dành cho quân sự của Mỹ ngày càng eo hẹp, một số sĩ quan cao cấp bắt đầu suy nghĩ, có lẽ đã đến thời điểm suy nghĩ lại về chiến lược quân sự của một cường quốc số 1 thế giới được đặt lên những con tầu sân bay khổng lồ như Ford. Tất cả những giải pháp công nghệ tầu sân bay cũng chưa giải quyết dứt điểm được vấn đề thực lực quân sự của Trung Quốc. Một đòn tấn công tập trung, hiệu quả sẽ đặt dưới sự nguy hiểm cuộc sống của nhiều người – 5.000 sĩ quan và binh sĩ hải quân- lớn hơn tất cả các tổn thất sinh mạng trong chiến trường Iraq cộng lại.
Tầu sân bay tấn công Gerald R. Ford trên ụ tầu, tầu sẽ phải phục vụ 50 năm, hiện đang được đóng tại Newport News – Bang Virginia.
« Gerald R. Ford » là chiếc tầu sân bay hiện đại thế hệ mới – Đại úy hải quân Henry Hendricks và trung tá Thủy quân lục chiến đã nghỉ hưu Noel Williams viết vào năm 2011 trong bài viết trên tạp chí Viện Hải quân (USNI) «Proceedings» - nó có thể là chiếc tầu đầu tiên và cũng là cuối cùng khi phương thức tiến hành chiến tranh đang thay đổi. Tuy nhiên, một số chuyên gia quân sự Mỹ lại cho rằng tên lửa sát thủ tàu sân bay của Trung Quốc chẳng qua chỉ để 'nhát ma' vì Liên Xô trước đây đã từng thất bại trong một nỗ lực tương tự. Hơn nữa, giờ đây Mỹ đã có trong tay một số vũ khí phòng thủ mới siêu mạnh, có thể vô hiệu hóa đòn tấn công tàu sân bay bằng tên lửa như DF-21.

Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Khà khà , đúng là nổ như tàu tưởng . Đại Ngố còn bám váy mãi không xong chớ chú này thì phòng không nó bắn cháy jh7 trước khi nó phóng rác ấy chớ .
Con YJ-91 nhái Kh-31P, nhưng mà theo mình đọc thì cả VN và TQ ko có loại Kh-31P thì phải ?!
 

tranhuyphong89

Xe tăng
Biển số
OF-158761
Ngày cấp bằng
30/9/12
Số km
1,528
Động cơ
365,525 Mã lực
Con YJ-91 nhái Kh-31P, nhưng mà theo mình đọc thì cả VN và TQ ko có loại Kh-31P thì phải ?!
KR-1 - phiên bản xuất khẩu của Kh-31P cho Trung Quốc vào năm 1997.[7] Nó được xem như thuộc lô KR-1 đầu tiên Zvezda bán cho Trung Quốc, trước khi KR-1 được sản xuất ở Trung Quốc.[7] So với phiên bản gốc có 3 modunle đầu dò, KR-1 có 1 đầu dò K-112E phát hiện mục tiêu trong dải sóng D, F và S; và cụ thể là các radar của Đài Loan.[3] đây gửi cụ .
 

tranhuyphong89

Xe tăng
Biển số
OF-158761
Ngày cấp bằng
30/9/12
Số km
1,528
Động cơ
365,525 Mã lực
3 ship xủng xẻng ăn cắp như ranh thì cái gì nó cần là nhái .
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
Trung Quốc đưa vào hoạt động "Sát thủ tàu sân bay Mỹ"?

Thứ năm 25/04/2013 16:55
ANTĐ - Hải quân Mỹ hiện tin rằng Trung Quốc đã bắt đầu triển khai các tên lửa đạn đạo DF-21D, được thiết kế để sử dụng chống lại Hải quân Mỹ, đặc biệt là các tàu sân bay.

Đáp lại, Mỹ đang phát triển hệ thống bảo vệ và các biện pháp đối phó chống lại các tên lửa DF-21D. Thông tin chi tiết về các nỗ lực này vẫn được giữ trong vòng bí mật.


Tên lửa DF-21 cơ sở có trọng lượng 15 tấn, hai tầng, với nhiên liệu rắn, có chiều dài 10,7m (35 feet) và đường kính 140cm (4.6 feet). Phạm vi hoạt động hiệu quả khác nhau (từ 1.700-3.000 km) tùy thuộc vào chủng loại. DF-21D được cho là có phạm vi hoạt động hiệu quả từ 1.500-2.000km. Trong khi đầu đạn nặng 500-2.000kg (0,5-2 tấn) thường có vũ khí hạt nhân, cũng có một số loại đầu đạn thông thường, trong đó có một phiên bản sử dụng để chống chiến hạm. Một số đầu đạn thông thường được sử dụng nhằm vào các mục tiêu ở Đài Loan. Do DF-21, tên lửa đạn đạo với tầm hoạt động rộng hơn, có thể tấn công các mục tiêu nhanh hơn so với khoảng 1.200 tên lửa đạn đạo tầm ngắn nhắm vào Đài Loan. Điều này có nghĩa các DF-21 hoạt động quá nhanh, so với các tên lửa chống tên lửa Pac-3 mà Đài Loan đang thiết lập cho các khu vực trọng yếu.


Tên lửa DF-21D của Trung Quốc - Sát thủ của tàu sân bay Mỹ?


Cho đến gần đây, không có bằng chứng nào cho thấy hệ thống tên lửa DF-21D hoàn chỉnh đã được thử nghiệm. Tuy nhiên, các ảnh vệ tinh gần đây cho thấy một mảng hình chữ nhật màu trắng dài 200m trong sa mạc Gobi (ở phía tây Trung Quốc) với hai hố lớn ở đó. Giới quân sự nhận định đó có thể là “mục tiêu” để thử nghiệm các tên lửa DF-21D, và hai trong số các đầu đạn thử nghiệm bằng thép dường như đã bắn trúng mục tiêu.

Tàu sân bay Mỹ dài trên 300m, mặc dù vậy các tàu sân bay nhỏ hơn (tàu đổ bộ với máy bay trực thăng trên khoang) rất gần với chiều dài 200m. Có vẻ như Trung Quốc đang có kế hoạch sử dụng DF-21D chống lại các tàu chiến nhỏ hơn, hoặc có lẽ họ chỉ muốn xem độ chính xác mà tên lửa có thể đạt được.


Trong ba năm qua, các thành phần khác nhau của DF-21D đã được thử nghiệm, nhưng ảnh vệ tinh không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy, có sự thử nghiệm của hệ thống hoàn chỉnh chống lại một mục tiêu cỡ tàu sân bay. Hai năm trở lại đây xuất hiện một số bức ảnh của DF-21D trên các bệ phóng cơ động (các phương tiện vận chuyển bệ phóng trên xe), và việc thông báo các đơn vị đầu tiên đã đi vào hoạt động ba năm về trước. Và bây giờ là các cuộc thử nghiệm với một con tàu lớn (một tàu chở dầu hoặc tàu container cũ) và đang di chuyển trên biển. Tuy nhiên, cho đến giờ, điều đó vẫn chưa xảy ra.


Trong khi đó, Trung Quốc có ba vệ tinh “viễn thám” trên quỹ đạo, hoạt động ở độ cao 600km trên Thái Bình Dương. Chúng được trang bị radar (radar mạng pha tổng hợp SAR hoặc radar góc mở tổng hợp) hoặc camera kỹ thuật số. Ba vệ tinh này có thể quét trên đại dương để tìm kiếm các tàu, mặc dù Trung Quốc nói rằng chúng có mục đích thuần túy khoa học.

SAR đặc thù có thể tạo ra các ảnh chụp có chất lượng với độ phân giải khác nhau. Với độ phân giải trung bình (3m) radar có vùng bao phủ là 40x40km. Với độ phân giải thấp (20m) có vùng bao phủ là 100x100km. Ba vệ tinh Trung Quốc này được xem là một hệ thống giám sát quân sự trên đại dương. Đây là đường liên kết còn thiếu cho hệ thống tên lửa đạn đạo của Trung Quốc được thiết kế để tấn công các tàu sân bay Mỹ.


Tàu sân bay của Mỹ liệu có trở thành miếng mồi ngon cho tên lửa DF-21D?


Trung Quốc đã phát triển các tên lửa DF-21D trong khoảng một thập kỷ qua. Hầu hết các nỗ lực phát triển tập trung vào hệ thống xác định mục tiêu để cho phép họ tìm kiếm và phát hiện được tàu sân bay. Trên các đầu đạn hạt nhân của DF-21D, các bộ cảm biến sẽ sử dụng công nghệ hồng ngoại (tìm kiếm nhiệt) cho giai đoạn tiếp cận mục tiêu cuối cùng.

Việc bố trí sắp xếp đã được tranh luận trong nhiều thập kỷ, nhưng Trung Quốc dường như đã kết hợp được tất cả các yếu tố chiến thuật, các bộ cảm biến và hệ thống tên lửa để có thể làm cho điều đó xảy ra. Điều quan trọng là việc có được hệ thống đa cảm biến bao gồm các vệ tinh, tàu ngầm, hoặc máy bay tuần tra trên biển để giúp cho việc tìm thấy vị trí tổng quan của tàu sân bay trước khi phóng các tên lửa đạn đạo. Các bộ cảm biến xem ra đã đi vào hoạt động, cũng như là chính các tên lửa DF-21D.


Lực lượng Pháo binh hai của Trung Quốc (có khi được gọi là Quân đoàn) điều hành tất cả các tên lửa đạn đạo tầm xa đặt trên đất liền. Các đơn vị của họ được đặt tại nhiều tỉnh và đã được mở rộng trong vài năm gần đấy. Điều này bao gồm cả việc bổ sung hai lữ đoàn được trang bị tên lửa DF-21D. Do đó Lực lượng Pháo binh hai hiện có 10 lữ đoàn DF-21D cộng thêm các lữ đoàn được trang bị một số loại tên lửa khác. Mỗi lữ đoàn tên lửa DF-21 có sáu tiểu đoàn tên lửa (với hai bệ phóng di động cho mỗi tiểu đoàn), hai tiểu đoàn sửa chữa và bảo trì, một tiểu đoàn quản lý khu vực, một tiểu đoàn thông tin, và một tiểu đoàn tác chiến điện tử (ECM). Tám lữ đoàn DF-21 khác thuộc Lực lượng pháo binh hai có các tên lửa theo mô-đen cũ.

Xem ra cuộc chạy đua giành ưu thế quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc còn khốc liệt trong thời gian tới!

Sức mạnh tên lửa diệt hạm Rubezh 'gác' Biển Đông

Theo TPO

Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển cấp chiến dịch – chiến thuật “Rubezh” là tổ hợp hoàn toàn độc lập, có thể tự phát hiện mục tiêu mặt nước và tấn công tiêu diệt.

Vào cuối những năm 1960, vũ khí khí tài chủ lực trong biên chế của lực lượng phòng thủ bờ biển Hải quân Xô Viết là tổ hợp tên lửa chiến dịch – chiến thuật chống tàu Redut, có tầm bắn rất xa và đầu đạn có uy lực lớn, trên mỗi xe bệ phóng tên lửa chỉ có một đạn và phải có các phương tiện mang khí tài chiến đấu đi cùng. Lực lượng phòng thủ bờ biển cần một tổ hợp năng động hơn đồng thời tầm bắn cũng gần hơn.
Vào năm 1970, tập đoàn chế tạo tên lửa cấp chiến thuật MKB “Raduga” được giao nhiệm vụ phát triển tổ hợp tên lửa cấp chiến thuật mới. Để phát triển tổ hợp tên lửa bờ biển này, các nhà phát triển vũ khí đã lựa chọn tên lửa chiến thuật chống tầu P-15M “Termit”, phát triển từ lớp tên lửa P-15 chống tàu. Các tổ hợp tên lửa hạng nhẹ nhỏ gọn với ống phóng dạng container KT-161 với rãnh phóng bằng 0 sẽ thay thế các tổ hợp nặng nề kiểu Redut ở tầm gần. Hai ống phóng container cùng với cabin điều khiển hỏa lực và radar dẫn bắn "Harpoon" được bố trí trên khung gầm xe MAZ – 543.


Tổ hợp tên lửa Rubezh với tên lửa nâng cấp Termit – P được biên chế vào lực lượng Hải quân Xô Viết ngày 22/10/1978. Vào khoảng nửa đầu thập niên 80, tổ hợp được nâng cấp – các ống phóng kép 3P51M được lắp đặt lên thân xe MAZ – 543M. Tổ hợp tên lửa Rubezh được xuất khẩu vào nhiều nước khác nhau Ukraine, Nam Tư, Bulgaria, Đức, Cuba, Algeria, Libya, Syria, Yemen, Romania, Việt Nam. Mã hiệu của tên lửa định danh theo NATO là SS-N-2C (Surface-to-Surface hải quân Loại 2 phương án 3).

Xe tên lửa.
Trang thiết bị khí tài tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Rubezh:
Xe tên lửa phóng đạn tự hành 3P51 (3P51М)
Tên lửa chống tầu P-15М (P-21 / PP-22)
Xe vận tải tên lửa
Để có thể quan sát tầm xa trên biển, tổ hợp có thể được trang bị radar trinh sát, cảnh báo sớm tầm xa, được lắp đặt trên khí tài có trục nâng thủy lực tầm cao 40V6 (được sử dụng từ hệ thống tên lửa phòng không S-300P.
Hệ thống phóng tên lửa được lắp đặt trên khung gầm xe bánh hơi có khả năng cơ động cao loại МАZ-543 (МАZ-543М) với sát xi tám cầu và tám bánh lốp. Trên xe phóng tên lửa có lắp đặt cabin điều khiển phóng tên lửa với đài radar quan sát, dẫn bắn Harpoon, động cơ phát điện gas turbin, sàn quay bệ phóng tên lửa và hai thùng phóng tên lửa container KT-161.
Trong các thùng phóng tên lửa có 2 tên lửa chống tầu loại P-15M (P-21/P-22) – một tên lửa lắp đầu tự dẫn bằng radar chủ động, một tên lửa lắp đầu tự dẫn hồng ngoại. Xe phóng tên lửa hoạt động hoàn toàn độc lập và có thể chủ động giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu độc lập như tìm kiếm và tiêu diệt các mục tiêu chiến hạm nổi trên mặt nước.
Trang thiết bị gồm có: thiết bị điều khiển bắn, hệ thống nhận biết địch – ta, trang thiết bị thông tin liên lạc nội bộ và đài thông tin liên lạc vô tuyến. Radar "Harpoon" được sử dụng để phát hiện mục tiêu trên biển và điều khiển bắn và là một biến thể của các radar trinh sát chủ động gắn trên tàu tên lửa. Ăng-ten của radar nhờ hệ thống thủy lực trong trạng thái chiến đấu có thể nâng đến độ cao 7,3 m, khi cơ động, cần anten thu lại trong các ống thủy lực ở phía trước của cabin điều khiển. Thời gian chuyển trạng thái từ cơ động sang sẵn sàng chiến đấu là 5 phút.


Các ống phóng đạn container КТ-161 trong trạng thái cơ động cửa ống phóng quay về phía sau (ngược hướng cơ động) khi chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu, giá đỡ quay một góc về hướng bắn (bất kỳ hướng nào) đến 110 độ và đưa vào góc nâng phóng đạn là 20 độ. Ống phóng đạn có các rãnh phóng đạn bằng không so với độ dài của đạn và máng trượt dành cho động cơ đẩy phản lực nhiên liệu rắn. Cabin công tác được lắp đặt các trang thiết bị điện tử, trang thiết bị radar và vị trí công tác của trắc thủ. Động cơ phát điện turbin khí dùng để cấp điện cho trang thiết bị thân xe và hệ thống phóng tên lửa.

Tên lửa P-15М (P-21 / P-22) "Теrmit" là tên lửa tăng tầm bắn được nâng cấp và hoàn thiện từ tên lửa P-15U. Tên lửa P-15M có cánh ổn định không dài được gấp lại khi ở trạng thái cơ động.
Trong ống phóng container, khí ra khỏi ống phóng, tên lửa sẽ mở cánh gập ra để ổn định đường bay. Ba cánh đuôi hình tam giác với góc mở 120 độ lắp các cánh lái điều khiển. Các cánh đuôi là cánh cứng liền với thân tên lửa. Động cơ hành trình tên lửa là động cơ phản lực sử dụng nhiên liệu lỏng. Động cơ khởi động tăng tốc của tên lửa được gắn vào phía đuôi của tên lửa ở phía dưới.
Tên lửa có hệ thống điều khiển đạo hàng quán tính trong giai đoạn bay hành trình trên biển và hai phương án đầu đạn tự dẫn tên lửa ở giai đoạn cuối – giai đoạn tự dẫn: tự dẫn bằng radar chủ động hoặc đầu đạn tự dẫn hồng ngoại loại "Snegir-M". Đầu đạn tên lửa có thể nạp khối nổ thuốc nổ thường 513 kg hoặc đầu đạn hạt nhân có đương lượng nổ 15 Kt. Trần bay hành trình tên lửa so với mặt nước biển có thể là 25–50–250 m được quyết định và nạp vào máy tính trên tên lửa trước khi phóng.
Tại khu kỹ thuật của đơn vị, tiến hành công tác chuẩn bị tên lửa và nạp đạn vào ống phóng. Các xe phóng tên khi có lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu sẽ cơ động ra tuyến phòng thủ bờ biển chiếm lĩnh trận địa phòng ngự ven biển. Tại trận địa các xe tên lửa sẽ sử dụng hệ thống thủy lực nâng cần an ten lên độ cao cần thiết, quay giá đỡ ống phóng tên lửa về hướng phóng đạn và đưa các ống phóng tên lửa về tư thế chuẩn bị phóng đạn với góc nâng 20 độ. Trắc thủ qua màn hình radar phát hiện mục tiêu cần tiêu diệt, xác định tọa độ mục tiêu và nạp tọa độ mục tiêu vào bộ nhớ máy tính tên lửa, sau đó theo mệnh lệnh người chỉ huy phóng đạn diệt mục tiêu.
Tên lửa được phóng đi nhờ lực đẩy của động cơ tăng tốc phản lực về hướng mục tiêu, sau khi ra khỏi ống phóng đạn, động cơ hành trình phản lực nhiên liệu lỏng khởi động. Đồng thời cánh gấp tên lửa mở ra, cải bằng cho tên lửa. Với động cơ tăng tốc phản lực, tên lửa lấy độ cao và tốc độ hành trình. Sau khi động cơ phản lực tăng tốc đốt cháy hết nhiên liệu sẽ tự động rơi khỏi tên lửa. Tên lửa bay với động cơ nhiên liệu lỏng và hạ xuống độ cao hành trình. Hệ thống đạo hàng quán tính duy trì độ cao, tốc độ và quỹ đạo đường bay của tên lửa.


Khi tên lửa tiếp cận khu vực mục tiêu, đầu đạn khởi động hệ thống dẫn đường tự động. Đầu dẫn sẽ khóa mục tiêu và điều khiển tên lửa bay về hướng mục tiêu. Trước khi tiếp cận, tên lửa cơ động lên cao theo mô hình “leo dốc” và tấn công mục tiêu từ trên xuống. Bộ phận gây nổ sẽ kích hoạt khối nổ khi va chạm với mục tiêu.
Nạp đạn cho xe phóng tên lửa được thực hiễn với những thang ray nạp. Được mang theo xe trên các ống phóng đạn container. Khi nạp đạn, xe cẩu sẽ cẩu đạn lên thang nạp và đạn được đẩy vào ống phóng tên lửa container.
Trong biên chế của một khẩu đội tên lửa Rubezh có 4 xe phóng đạn tên lửa và 4 xe vận tải nạp đạn. Cơ số đạn trong một khẩu đội là 16 tên lửa.
Tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển cấp chiến dịch – chiến thuật “Rubezh” là tổ hợp hoàn toàn độc lập, có thể tự phát hiện mục tiêu mặt nước và tấn công tiêu diệt. Tên lửa được lắp loại đầu dẫn radar chủ động và đầu dẫn hồng ngoại, đồng thời với khối nổ mạnh làm tăng cường xác xuất tiêu diệt mục tiêu (chọc thủng hệ thống phòng không của đối phương) bằng loạt đạn 2 tên lửa từ một xe bệ phóng, hoặc nhiều tên lửa (hàng loạt) từ nhiều xe bệ phóng của đơn vị tên lửa trong điều kiện địch sử dụng nhiễu tích cực và nhiễu thụ động.
Điểm hạn chế của tổ hợp là sử dụng các tên lửa có công nghệ đã lỗi thời, tên lửa có khối lượng lớn, kích thước cũng lớn. Do đó xe tên lửa có khối lượng đến 40 tấn, gây khó khăn cho cơ động nhưng chỉ mang được 2 tên lửa. Tên lửa có tốc độ không cao, do đó khả năng đột phá hệ thống phòng không của đối phương tương đối thấp. Động cơ tên lửa là phản lực nhiên liệu lỏng, gây khó khăn phức tạp khi bảo dưỡng, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu.
 

vietminh9x

Xe điện
Biển số
OF-138332
Ngày cấp bằng
13/4/12
Số km
2,343
Động cơ
389,627 Mã lực
KR-1 - phiên bản xuất khẩu của Kh-31P cho Trung Quốc vào năm 1997.[7] Nó được xem như thuộc lô KR-1 đầu tiên Zvezda bán cho Trung Quốc, trước khi KR-1 được sản xuất ở Trung Quốc.[7] So với phiên bản gốc có 3 modunle đầu dò, KR-1 có 1 đầu dò K-112E phát hiện mục tiêu trong dải sóng D, F và S; và cụ thể là các radar của Đài Loan.[3] đây gửi cụ .
Cám ơn bác, như vậy là VN ko có rồi :|
 

tranhuyphong89

Xe tăng
Biển số
OF-158761
Ngày cấp bằng
30/9/12
Số km
1,528
Động cơ
365,525 Mã lực
Cám ơn bác, như vậy là VN ko có rồi :|[/
Ngày nay, Không quân Nhân dân Việt Nam cũng sở hữu một số loại tên lửa chống radar. Trong đó, Kh-31P là loại hiện đại nhất mà chúng ta có hiện nay, trang bị trên tiêm kích đa năng Su-30MK2.

Theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockhom, năm 2009 Việt Nam đã ký với Nga mua một số lượng nhỏ tên lửa chống radar Kh-31P cho Su-30MK2. Đây cụ
 
Chỉnh sửa cuối:
Thông tin thớt
Đang tải
Top