Đúng như bác nói, em cũng vừa tìm hiểu về kỵ húy thời Nguyễn thì đúng là Đang đổi thành Đương.
Chữ Hoàng là tên chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nên họ Hoàng phải đổi thành họ Huỳnh, Chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (như lưu huỳnh).
Nguyễn Phúc Khoát là Vũ Vương, nên người họ Vũ đổi thành họ Võ.
Chữ "Phúc" là tên đệm trong họ Nguyễn Phúc của vua chúa Nguyễn, vì vậy "phúc" phải đọc thành "phước".
Chữ "Cảnh" là tên con cả Nguyễn Ánh (Nguyễn Phúc Cảnh, người được Nguyễn Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) nên "cảnh" phải đổi đọc là "kiểng".
Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh), người khai lập Sài Gòn, nên "kính" phải đọc chệch là "kiếng" vì vậy "tấm kính" gọi là "tấm kiếng".
Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), nên "tông" phải đọc là "tôn". Chính vì lý do này, một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến mãi sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng, chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền Nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên lại đọc thành "Tôn Thất".
Chữ "Thì" là tên thủa nhỏ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ "thì" đọc thành "thời".
Chữ "Nhậm" là tên chữ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) nên "nhậm" đọc thành "nhiệm"...